Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

thực trạng quản lí hoạt động hướng nghiệp cho học sinh lớp 12 trên địa bàn huyện bến cát tỉnh bình dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.06 MB, 173 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Thanh Thủy

THỰC TRẠNG QUẢN LÍ
HOẠT ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BẾN CÁT - TỈNH BÌNH DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Lê Thị Thanh Thủy

THỰC TRẠNG QUẢN LÍ
HOẠT ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN BẾN CÁT - TỈNH BÌNH DƯƠNG
Chuyên ngành :

Quản lý Giáo dục

Mã số

60 14 01 14



:

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. VÕ VĂN NAM

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tôi tên: Lê Thị Thanh Thủy
Là học viên cao học khóa 22 - chuyên ngành Quản lý Giáo dục của Khoa Tâm lý
Giáo dục - Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
Tôi xin cam đoan đây là phần nghiên cứu do tôi thực hiện. Các số liệu, kết luận
nghiên cứu trình bày trong luận văn này là trung thực và chưa được công bố ở các nghiên
cứu khác.
Tôi xin chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.

Học viên

Lê Thị Thanh Thủy

1


LỜI CẢM ƠN
Trong suốt thời gian tham gia khóa đào tạo tại trường Đại học Sư phạm Thành phố

Hồ Chí Minh, tôi đã nhận được sự hỗ trợ quý báu từ quý Lãnh đạo, Thầy, Cô và các bạn
đồng nghiệp. Với tình cảm chân thành, tôi xin trân trọng cảm ơn:
-

Quý Thầy, Cô lãnh đạo Trường ĐH Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh;

-

Quý Thầy, Cô lãnh đạo Phòng KHCN và Sau đại học;

-

Quý Thầy, Cô Khoa Tâm lý giáo dục;

-

Ban Giám hiệu và các Thầy, Cô tại các trường THPT thuộc huyện Bến Cát, tỉnh
Bình Dương;

-

Các em học sinh lớp 12 (năm học 2012 - 2013) trên địa bàn huyện Bến Cát, tỉnh Bình
Dương;
Đặc biệt, xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Võ Văn Nam, người đã tận tình

hướng dẫn và động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này.
Mặc dù tôi đã cố gắng đầu tư nhiều công sức vào việc thực hiện luận văn, nhưng
chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót đáng tiếc. Tôi rất mong nhận được
những ý kiến đóng góp, chỉ dẫn thêm của quý Thầy, Cô và các anh chị đồng nghiệp để
luận văn được hoàn thiện hơn.


Tác giả

Lê Thị Thanh Thủy

2


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1
LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2
MỤC LỤC .................................................................................................................... 3
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5
MỞ ĐẦU....................................................................................................................... 6
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................................. 6
2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................................................... 8
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ...................................................................................................... 8
4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 8
5. Giả thuyết nghiên cứu .................................................................................................... 8
6. Giới hạn nghiên cứu........................................................................................................ 8
7. Phương pháp luận nghiên cứu ....................................................................................... 9

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG THPT .................................................................. 12
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu .............................................................................. 12
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới .................................................................................12
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam ..................................................................................15
1.2. Một số khái niệm công cụ .......................................................................................... 18
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục (QLGD), quản lý nhà trường ......................................18
1.2.2. Hướng nghiệp (HN), giáo dục hướng nghiệp (GDHN) ........................................19

1.2.3. QL HĐHN trong nhà trường THPT ......................................................................22
1.3. Hoạt động hướng nghiệp ở trường THPT ............................................................... 23
1.3.1. Vai trò, ý nghĩa của HĐHN ở nhà trường THPT ..................................................23
1.3.2. Cấu trúc, mục tiêu, nhiệm vụ HN ở nhà trường THPT .........................................24
1.3.3. Nội dung HN ở trường THPT ...............................................................................26
1.3.4. Hình thức tổ chức HĐHN ở nhà trường THPT .....................................................29
1.4. Quản lý hoạt động hướng nghiệp ở trường THPT ................................................. 32
1.4.1. Mục tiêu QL HĐHN trong trường THPT .............................................................33
1.4.2. Nội dung QL HĐHN trong trường THPT .............................................................33
1.4.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác QL HĐHN cho HS THPT.......................39

3


CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG HƯỚNG NGHIỆP
CHO HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BẾN CÁT - TỈNH BÌNH
DƯƠNG ...................................................................................................................... 43
2.1. Sơ lược về địa bàn nghiên cứu .................................................................................. 43
2.1.1. Đặc điểm tình hình KT - XH của huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương ....................43
2.1.2. Tình hình phát triển GD&ĐT của địa phương ......................................................44
2.1.3. Sơ lược các trường THPT trên địa bàn huyện Bến Cát.........................................44
2.2. Thực trạng QL HĐHN cho HS lớp 12 trên địa bàn huyện Bến Cát, tỉnh Bình
Dương hiện nay ................................................................................................................. 46
2.2.1. Nhận thức, thái độ của GV, CBQL và HS lớp 12 về HĐHN................................46
2.2.2. Mục đích, nội dung QL HĐHN .............................................................................60
2.2.3. Công tác quản lý, tổ chức thực hiện các hình thức HN cho HS............................69
2.2.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác QL HĐHN cho HS THPT............................76
2.2.5. Đánh giá của CB, GV và HS về hiệu quả của HĐHN cho HS lớp 12 ở các trường
hiện nay ...........................................................................................................................78


CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG
HƯỚNG NGHIỆP CHO HỌC SINH LỚP 12 TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN BẾN
CÁT - TỈNH BÌNH DƯƠNG.................................................................................... 98
3.1. Cơ sở đề xuất các biện pháp ..................................................................................... 98
3.2. Các nguyên tắc xây dựng biện pháp QL HĐHN..................................................... 98
3.3. Một số biện pháp QL HĐHN .................................................................................... 99
3.4. Khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các biện pháp đề xuất ..................... 110

KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 114
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 120
PHỤ LỤC ................................................................................................................. 125

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BGH

Ban Giám hiệu

CB, GV, HS

Cán bộ, Giáo viên, Học sinh

CNH - HĐH

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

CSVC


Cơ sở vật chất

CTHN

Công tác hướng nghiệp

GD&ĐT

Giáo dục và đào tạo

GD

Giáo dục

GDHN

Giáo dục hướng nghiệp

GDPT

Giáo dục phổ thông

ĐH, CĐ

Đại học, Cao đẳng

HĐHN

Hoạt động hướng nghiệp


HN

Hướng nghiệp

KTTH - HN

Kỹ thuật tổng hợp - Hướng nghiệp

KT-XH

Kinh tế - xã hội

PHHS

Phụ huynh học sinh

QLGD

Quản lý giáo dục

TB, ĐLC, XH

Trung bình, Độ lệch chuẩn, Xếp hạng

THCN

Trung học chuyên nghiệp

THCS


Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TVHN

Tư vấn hướng nghiệp

5


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. GD hướng nghiệp (GDHN) chiếm một vị trí quan trọng trong việc định hướng
phân công lao động xã hội và phát triển nguồn nhân lực của đất nước. GDHN có vai trò
quan trọng không chỉ đối với xã hội mà nó còn ảnh hưởng đến từng cá nhân, từng gia đình.
Khi cả nước đang trên con đường công nghiệp hóa - hiện đại hóa (CNH - HĐH) cùng với sự
phát triển của nền kinh tế tri thức, sự chuyên môn hóa trong sản xuất ngày càng ở trình độ
cao thì rất cần nguồn lao động có trình độ, có năng lực, đáp ứng yêu cầu của toàn xã hội. Để
đáp ứng yêu cầu đó thì hệ thống GD (GD), đặc biệt là GD ở bậc trung học phổ thông
(THPT) cần giúp học sinh (HS) có định hướng nghề nghiệp rõ ràng, phù hợp với khả năng,
sở thích của bản thân và nhu cầu của xã hội nhằm tránh tình trạng đào tạo lệch lạc gây lãng
phí trong đào tạo, đồng thời nâng cao năng suất lao động.
Hoạt động hướng nghiệp (HĐHN) cho HS hiện nay được thực hiện ở các trường phổ
thông, các Trung tâm Kỹ thuật tổng hợp - hướng nghiệp (KTTH-HN), các trường đào tạo,
các cơ sở sản xuất và các doanh nghiệp. Nhưng trong trường phổ thông, HĐHN đa dạng
hơn, toàn diện và sâu sắc hơn như: giảng dạy KTTH-HN; tổ chức dạy nghề phổ thông;
HĐHN; tư vấn hướng nghiệp (TVHN) và GDHN trong dạy học các môn khoa học… Tất cả

điều đó cho thấy vai trò và vị trí quan trọng của nhà trường phổ thông trong HĐHN, đặc biệt
là trường THPT, nơi mà các em HS, đặc biệt là HS lớp 12 sắp sửa ra trường, phải lựa chọn
cho mình một trường đào tạo, một nghề nghiệp trong tương lai.
1.2. Một trong những thực trạng khá phổ biến hiện nay là HS phổ thông ra trường
thường chọn nghề một cách ngẫu nhiên, theo cảm tính, không có hiểu biết cần thiết về nghề
mà mình định lựa chọn, thiếu ý thức đúng đắn về ngành nghề; do đó, thiếu ý thức phấn đấu
vươn lên trong nghiệp vụ, thậm chí có HS bỏ nghề, ảnh hưởng đến hiệu quả đào tạo, phát
triển nguồn nhân lực, vừa lãng phí công lao đào tạo của nhà nước, vừa có hại cho sự phát
triển của cá nhân.
Trước thực trạng đó, công tác hướng nghiệp (CTHN) cho HS THPT luôn là vấn đề
được Đảng và Nhà nước cũng như toàn xã hội quan tâm. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ IX nêu rõ: “Coi trọng CTHN và phân luồng HS trung học, chuẩn bị cho thanh niên,
thiếu niên đi vào lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong cả
6


nước và từng địa phương” [20]. Tại Đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ X, Đảng ta
tiếp tục xác định đổi mới toàn diện GD - đào tạo trên cơ sở làm tốt CTHN và phân luồng
từ cấp THCS [21]. Hiện nay, đứng trước yêu cầu về thực hiện 3 đột phá chiến lược và
nhiệm vụ “Đổi mới căn bản và toàn diện nền GD quốc dân” [22] theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực
nói chung và chất lượng, hiệu quả GDHN nói riêng càng trở nên cấp thiết. Chiến lược phát
triển GD giai đoạn 2011 - 2020 và chủ trương đổi mới chương trình GD phổ thông (GDPT)
hiện nay đều nhấn mạnh đến yêu cầu tăng cường GDHN nhằm góp phần tích cực và có hiệu
quả vào việc phân luồng HS, chuẩn bị cho HS đi vào cuộc sống lao động hoặc được tiếp tục
đào tạo phù hợp với năng lực bản thân và nhu cầu của xã hội.
1.3. Trong hơn 30 năm qua, công tác GDHN ở trường phổ thông đã có nhiều đổi
mới, đạt được nhiều thành tựu quan trọng qua thực hiện đổi mới chương trình, giảm tải nội
dung, giảm lý thuyết tăng thực hành và GDHN cho HS theo hướng “Học để biết, học để
làm, học để sống chung và học để tự khẳng định mình”[29]. Tuy vậy, chất lượng của công

tác này chưa cao và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn, CTHN và phân luồng HS sau
trung học đang đứng trước những yếu kém kéo dài. Một trong những lý do quan trọng của
thực trạng này là công tác tổ chức và quản lý hoạt động hướng nghiệp (QL HĐHN) ở trường
THPT chưa phù hợp, kém hiệu quả, đặc biệt là chưa khai thác được tiềm năng, ưu thế của
hoạt động GDHN trong nhà trường.
1.4. Là một trong những huyện có tốc độ đô thị hóa nhanh và công nghiệp hóa mạnh
nhất của tỉnh Bình Dương hiện nay, huyện Bến Cát đang chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh
tế, phát triển công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ xây dựng nông thôn mới, nhu cầu đào tạo
nhân lực tăng cao. Những năm qua, công tác GDHN cũng đã được quan tâm và đã thu được
một số kết quả nhất định, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều hạn chế, vì vậy công tác GDHN
cho HS THPT của các trường trên địa bàn chưa đạt kết quả cao, chưa đáp ứng được nhu cầu
phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) của địa phương. Bên cạnh đó, chưa có những nghiên
cứu một cách bài bản về thực trạng QL HĐHN cho HS lớp 12 trên địa bàn huyện Bến Cát,
tỉnh Bình Dương.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, tôi quyết định thực hiện đề tài nghiên cứu “Thực
trạng QL HĐHN cho HS lớp 12 trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương” nhằm
tìm ra các giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả công tác GDHN cho HS lớp 12 tại địa
7


phương, đồng thời làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và đánh giá thực trạng công tác QL HĐHN cho HS lớp 12 trên địa bàn
huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác
GDHN cho HS lớp 12 THPT trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đặt ra,đề tài sẽ tập trung vào các nhiệm vụ sau:
-


Nghiên cứu lí luận về QL HĐHN cho HS THPT.

-

Khảo sát thực trạng công tác QL HĐHN cho HS lớp 12 tại các trường THPT trên
địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương.

-

Đề xuất một số biện pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả CTHN cho HS lớp
12 tại các trường THPT trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương hiện nay.

4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
4.1. Khách thể nghiên cứu: Công tác QL HĐHN cho HS THPT.
4.2. Đối tượng nghiên cứu : Thực trạng công tác QL HĐHN cho HS lớp 12 tại các
trường THPT trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương.

5. Giả thuyết nghiên cứu
-

Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả công tác QL HĐHN cho HS lớp 12 tại các
trường THPT trên địa bàn.

-

CTHN cho HS lớp 12 trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương đã đạt được
những thành quả nhất định, song còn nhiều hạn chế. Có biện pháp khắc phục được
các hạn chế đó sẽ giúp cho CTHN cho HS lớp 12 đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế.


6. Giới hạn nghiên cứu
6.1. Về nội dung nghiên cứu
Đề tài chỉ đi sâu nghiên cứu thực trạng QL hoạt động GDHN cho HS lớp 12 tại
các trường THPT trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương.
6.2. Về phạm vi khảo sát
8


Đề tài chỉ khảo sát thực trạng công tác QL HĐHN cho HS lớp 12 trong năm học
2012 - 2013 tại các trường THPT trên địa bàn huyện Bến Cát - tỉnh Bình Dương.

7. Phương pháp luận nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
7.1.1. Quan điểm hệ thống - cấu trúc
Vận dụng quan điểm hệ thống - cấu trúc trong công tác quản lý hoạt động GDHN
cho HS lớp 12 ở các trường THPT huyện Bến Cát, tỉnh Bình Dương gồm những yếu tố:
mục tiêu quản lý, nội dung quản lý, chủ thể quản lý, khách thể và đối tượng quản lý, hiệu
quả quản lý.
7.1.2. Quan điểm lịch sử - logic
GDHN đã được vận dụng đưa vào trong ngành GD Việt Nam từ hơn 30 năm qua.
Do vậy, trong nghiên cứu này, tác giả sẽ tiếp thu, sử dụng những đánh giá về GDHN và
hoạt động quản lý GDHN ở trường THPT của Bộ GD&ĐT, của các cơ quan nghiên cứu về
GD từ trước đến nay trong logic phát triển của nó.
7.1.3. Quan điểm thực tiễn
Từ thực trạng công tác QL HĐHN cho HS lớp 12 ở các trường THPT huyện Bến
Cát, tỉnh Bình Dương còn nhiều bất cập đề ra những biện pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu
quả hoạt động GDHN cho HS lớp 12 ở các trường THPT huyện Bến Cát, tỉnh Bình
Dương.
Các nhận xét, đánh giá và đề xuất, kiến nghị của đề tài phải trên cơ sở khách quan,
các yêu cầu cần thiết qua nghiên cứu thực tiễn.

7.2. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng kết hợp một số phương pháp trong quá trình nghiên cứu: phương pháp
nghiên cứu tài liệu, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, phương pháp phỏng vấn sâu cá
nhân, phương pháp quan sát, phương pháp lấy ý kiến chuyên gia và phương pháp xử lý dữ
liệu. Trong đó, phương pháp điều tra bằng bảng hỏi là phương pháp nghiên cứu chủ yếu
của đề tài.
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
-

Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết về công tác QL HĐHN; lý luận về

quản lý nói chung và QL HĐHN nói riêng.
9


- Tổng hợp, nghiên cứu và khai thác tri thức khoa học đã có trong các công trình

khoa học, chính sách, chiến lược, chỉ thị của ngành GD, sách, tạp chí chuyên ngành để xác
lập cơ sở pháp lý và cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát: quan sát có ghi chép các hoạt động của nhà trường (các tiết

dạy HN, hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa...)
- Phương pháp điều tra xã hội học bằng bảng hỏi: Bảng hỏi được đưa ra dưới dạng

Phiếu khảo sát. Có hai loại phiếu khảo sát chính: phiếu khảo sát dành cho giáo viên (GV) và
cán bộ quản lý (CBQL) và phiếu khảo sát dành cho HS.
Nội dung chính của phiếu khảo sát tập trung vào tìm hiểu:
+ Nhận thức của GV, CBQL và HS về vai trò, mục đích của HĐHN đối với HS THPT;
+ Thái độ của GV, CBQL và HS đối với việc thực hiện HĐHN cho HS THPT;

+ Việc thực hiện các chức năng, mục tiêu và nội dung và các biện pháp QL HĐHN
của lãnh đạo nhà trường;
+ Đánh giá của GV, CBQL và HS về hiệu quả quản lý và các yếu tố ảnh hưởng đến
công tác QL HĐHN cho HS;
+ Ý kiến của CB, GV về các biện pháp đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả công tác QL
HĐHN cho HS THPT nói chung và HS lớp 12 tại các trường THPT trên địa bàn hiện nay.
Phiếu khảo sát được thu từ 149 CB, GV và 298 HS lớp 12 năm học 2012 - 2013 với
những đặc điểm mẫu cụ thể như sau:
+Đối với HS lớp 12: có 298 HS tham gia khảo sát, trong đó có 117 nam (39.3%), 181
nữ (60.7%).
+Đối với CB, GV: Phiếu khảo sát được thu từ 149 CB, GV, trong đó có 52 nam
(39.1%), 81 nữ (60.9%) (16 trường hợp không cho biết thông tin giới tính).
- Phương pháp phỏng vấn: phỏng vấn sâu cá nhân được sử dụng sau khi có kết quả

khảo sát. Phỏng vấn sâu cá nhân thực hiện trên cả 3 đối tượng GV, CBQL và HS nhằm thu
thập những thông tin để làm sáng tỏ kết quả điều tra bằng bảng hỏi và kết quả quan sát.
Những thông tin định tính thu được từ phương pháp phỏng vấn sâu cá nhân được sử dụng
phối hợp với các dữ liệu định lượng khi tiến hành phân tích các vấn đề nghiên cứu.
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn sâu 3 thành phần GV gồm có: GV chủ nhiệm và GV
hướng nghiệp; CBQL thuộc BGH của mỗi trường. Phỏng vấn 4 loại HS bao gồm HS có học
10


lực yếu, HS có học lực trung bình, HS có học lực khá và HS có học lực giỏi. Bên cạnh đó,
kết hợp cân đối trong thành phần phỏng vấn sâu có cả nam và nữ, các loại GV có thâm niên
công tác khác nhau.
- Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: được sử dụng trong tất cả các khâu của quá trình

nghiên cứu để có được những thông tin đầy đủ, cơ bản nhất của vấn đề nghiên cứu. Các ý
kiến của chuyên gia được tác giả ghi nhận từ các phát biểu chính thức, các bài viết, nghiên

cứu đã được công bố. Cụ thể là các chuyên gia sâu:
+ Tiến sĩ Vũ Thị Phương Anh - Trung tâm Khảo thí và đánh giá chất lượng đào tạo Đại học Quốc Gia thành phố Hồ Chí Minh.
+ Thạc sĩ Lê Thị Thu Thủy - Trung tâm Hỗ trợ đào tạo và cung ứng nhân lực.
- Tổng kết kinh nghiệm quản lý GDHN của các trường THPT trên địa bàn.

7.2.3. Phương pháp thống kê toán học: Các thông tin định tính thu được từ câu hỏi
mở và phỏng vấn sâu được lọc ra theo các chủ đề dưới dạng trích dẫn dùng kết hợp số liệu
thống kê định lượng. Thông tin định lượng được xử lí bằng phần mềm SPSS. Dữ liệu được
tính tần số, phần trăm (%); tính trung bình (TB), độ lệch chuẩn (ĐLC), xếp hạng (XH) và
kiểm định ý nghĩa của sự khác biệt giữa hai trung bình điểm số (T-Test); kiểm định ý nghĩa
của sự khác biệt giữa các trung bình điểm số bằng phương pháp phân tích phương sai/ biến
lượng ANOVA đơn biến (One-way ANOVA).

11


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG
HƯỚNG NGHIỆP Ở TRƯỜNG THPT

1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu trên thế giới
1.1.1.1. Sơ lược lịch sử phát triển các tư tưởng hướng nghiệp (HN)
Những tư tưởng về định hướng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ đã có từ thời cổ đại, tuy nhiên
ở dưới dạng rất sơ khai, thể hiện rõ tính áp đặt của giai cấp thống trị và sự bất bình đẳng trong
phân công lao động xã hội biểu hiện thông qua việc phân chia, phân cấp lao động tuỳ thuộc vào
địa vị và nguồn gốc xuất thân của mỗi người trong xã hội. Việc chọn “nghề” và thực hành nghề
của giới trẻ chỉ là ngẫu nhiên, may rủi và là định mệnh “do tạo hóa sắp đặt”. Platon - một triết
gia Hy Lạp thời cổ đại đã cổ động dân chúng rằng: “Khi tạo ra con người, ông trời đã nhào nặn
họ với vàng, hoặc bạc, hoặc đồng. Người “vàng” là những người làm khoa học, nghệ thuật, làm
quản lý. Người “bạc” là những chiến binh. Người “đồng” là thợ thủ công, nông dân và nô lệ”

[40].
Xã hội dần phát triển, chủ nghĩa tư bản xuất hiện cùng với sự ra đời của đại công trường
thủ công và tiếp theo là nền công nghiệp có thị trường lao động rộng lớn với những đòi hỏi ngày
càng cao về học vấn, tay nghề của người lao động. Theo mô tả của K.Mác, có rất nhiều người
lao động làm những việc không phù hợp với năng lực và đặc điểm tâm lý của mình. Việc phân
hóa ngành nghề, phân hóa người lao động đã âm thầm diễn ra nhưng ngày càng mạnh mẽ [33].
Cùng với quá trình phát triển khoa học kỹ thuật và những ứng dụng khoa học trong tổ
chức lao động sản xuất ở các nhà máy, các nhà tư bản đã nhận thấy yêu cầu ngày càng bức xúc
về việc chọn lựa và đào tạo những người lao động có năng lực đáp ứng yêu cầu cần thiết. Đào
tạo chuyên sâu cho những nhóm người lao động khác nhau và hợp lý hóa thao tác lao động theo
dây chuyền sản xuất trong nhà máy dần dần được sử dụng rộng rãi nhằm gia tăng năng suất lao
động, cạnh tranh, chạy theo lợi nhuận… đã dẫn đến việc phải nghiên cứu về quá trình định
hướng cho con người tham gia vào một lĩnh vực sản xuất trong một nghề xác định.
Đến thế kỷ XIX, khi nền sản xuất xã hội phát triển cùng với những tư tưởng tích cực về
giải phóng con người trên khắp thế giới thì khoa học HN mới thực sự trở thành một khoa học
12


độc lập. Cuốn sách “Hướng dẫn chọn nghề” xuất bản năm 1849 ở Pháp được xem là cuốn sách
đầu tiên nói về HN, đã đề cập đến sự phát triển đa dạng của các ngành nghề trong xã hội do sự
phát triển của công nghiệp từ đó đã rút ra những kết luận coi GDHN là một vấn đề quan trọng
không thể thiếu khi xã hội ngày càng phát triển và cũng là nhân tố thúc đẩy xã hội phát triển
[27].
Năm 1883 ở Mỹ, nhà tâm lý học Ph. Galton đã trình bày công trình trắc nghiệm (Test)
với mục đích lựa chọn nghề. Vào đầu thế kỷ XX, ở Mỹ, Anh, Pháp, Thụy Điển đã xuất hiện các
cơ sở dịch vụ HN. Ở Nga, sau Cách mạng tháng Mười và những năm 20, 30 của thế kỷ XX,
CTHN đã được triển khai nhằm phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá thông qua việc
đào tạo nguồn nhân lực và đội ngũ cán bộ, đặc biệt là vấn đề lựa chọn nghề cho mỗi công nhân
dân của đất nước.
Vào những năm 1940, nhà tâm lý học Mỹ J.L. Holland đã nghiên cứu và thừa nhận sự

tồn tại của các loại nhân cách và sở thích nghề nghiệp, tác giả đã chỉ ra tương ứng với mỗi kiểu
nhân cách nghề nghiệp đó là một số những nghề nghiệp mà cá nhân có thể chọn để có được kết
quả làm việc cao nhất. Lý thuyết này của J.L Holland đã được sử dụng rộng rãi nhất trong thực
tiễn HN trên thế giới.
Trên cơ sở các luận điểm về HN của K.Mác và V.I Lênin, các nhà GD Liên xô như B.F
Kapêep; X.Ia Batưsep; X.A Sapôrinxki; V.A Pôliacôp trong các tác phẩm và công trình nghiên
cứu của mình đã chỉ ra mối quan hệ giữa HN và các hoạt động sản xuất xã hội, đồng thời trình
bày những nguyên tắc, phương pháp thực hành lao động nghề nghiệp cho HS PT tại các cơ sở
học tập - lao động liên trường [27].
Nhìn chung, các nhà khoa học và GD khi xem xét vấn đề HN đối với sự hình thành nhân
cách và ảnh hưởng của nó tới các hoạt động sản xuất xã hội cho rằng nếu sớm thực hiện GDHN
cho thế hệ trẻ trong trường học thì đó sẽ là cơ sở để giúp cho họ lựa chọn nghề đúng đắn, có sự
phù hợp giữa năng lực, sở thích cá nhân với nhu cầu xã hội. GDHN vì vậy không chỉ được thực
hiện trong các trường đào tạo mà dần trở nên phổ biến và áp dụng rộng rãi trong các trường phổ
thông.
1.1.1.2. GDHN và quản lý GDHN của một số nước trên thế giới
GD KTTH-HN ở nước Nga hậu Xô-Viết:
Chương trình GD công nghệ học ở trường phổ thông Liên bang Nga hiện nay bao gồm
những nội dung có tính chất GD kỹ thuật tổng hợp không nhằm đào tạo một nghề cụ thể mà theo
13


nhóm công nghệ học, gắn sản xuất với kinh doanh, mang tính HN. Nhờ thông qua GD công
nghệ học cụ thể, HS được làm quen, thử sức với từng loại hình sản xuất, đồng thời chú ý vai trò
của công nghệ thông tin được sử dụng trong nền kinh tế hiện đại.
Xu thế cải cách các trường học ở Châu Âu cuối thế kỷ XX gắn với HN và đào tạo
nghề:
Vào những năm 70 - 80 thế kỷ trước, các nước Châu Âu lần lượt tiến hành cải cách GD
từ cấu trúc tổ chức đến nội dung, phương pháp GD và giảng dạy, đáp ứng các yêu cầu phát triển
của xã hội công nghiệp dựa vào sự tiến bộ vượt bậc của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ

thông tin, kinh tế để đạt tới một số chuẩn mực chung về trình độ GDPT và GD nghề với HN tại
trường phổ thông như giảm bớt tính hàn lâm, tăng cường tỷ trọng kiến thức có ý nghĩa thực
dụng, ý nghĩa HN trong nhà trường Pháp. Hiện đại hóa quá trình học tập của nhà trường Đức
theo hướng tạo điều kiện cho HS có thể học nghề ngay khi đang học phổ thông, cung cấp hệ
thống và kiến thức khoa học gắn với đào tạo nghề một cách linh hoạt, giảm bớt tính hàn lâm của
bậc trung học hoàn chỉnh.
GDHN - lập nghiệp ở các trường học Úc:
GDHN - lập nghiệp (Career Education) ở những trường học Úc nhằm phát triển những
kỹ năng, kiến thức và thái độ thông qua một chương trình học tập được kế hoạch hóa. Việc GD
này giúp cho HS biết đưa ra những quyết định về việc lựa chọn có tính HN - lập nghiệp trong và
sau khi học ở trường và tham gia có hiệu quả vào đời sống lao động xã hội.
GDHN - lập nghiệp ở các nhà trường Úc có 4 nhiệm vụ quan hệ mật thiết với nhau: Học
về bản thân trong mối quan hệ với lao động; Học về thế giới nghề nghiệp; Học về lập kế hoạch
và ra quyết định HN - lập nghiệp; Phát triển khả năng triển khai các quyết định về HN và tiến
hành thay đổi công việc [6].
Chuẩn bị nguồn nhân lực và tinh thần HN ở nhà trường Nhật Bản:
Chương trình cải cách GD được xây dựng trên cơ sở hai luận điểm quan trọng: Tăng
cường tính linh hoạt và đa dạng trong đánh giá hệ thống GD và thực hiện cải cách GD không chỉ
đóng khung trong phạm vi nhà trường, trong hệ thống GD mà còn phải mở rộng tầm nhìn ra
phạm vi toàn xã hội theo quan điểm mở cửa, giao lưu, hội nhập quốc tế. Nhà trường phổ thông
Nhật Bản tiến hành rèn luyện khả năng thích ứngcủa HS qua một số hoạt động như: Hoạt động
nhóm nhỏ và “tinh thần doanh nghiệp Nhật Bản”; GD lòng trung thành của người lao động Nhật
Bản tương lai trong trường phổ thông; GD quan hệ lãnh đạo trong trường phổ thông; Hình thành
14


thói quen cần cù, tự giác của người lao động.
1.1.2. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, GDHN tuy được xếp ngang tầm quan trọng với các mặt GD khác như đức
dục, trí dục, thể dục, mỹ dục nhưng bản thân nó lại rất non trẻ, mới mẻ cả về nhận thức, lý luận

và thực tiễn, rất thiếu về lực lượng, không mang tính chuyên nghiệp... Vì vậy, việc thực hiện
không mang lại nhiều hiệu quả. Vấn đề HN chỉ thực sự nóng lên và được xã hội quan tâm khi
nền kinh tế đất nước bước sang cơ chế thị trường với sự đa dạng của các ngành nghề và nhu cầu
rất lớn về chất lượng nguồn nhân lực.
Nhìn chung, CTHN nói chung và QL HĐHN ở nhà trường phổ thông nói riêng còn khá
mới mẻ cả về mặt lý luận lẫn hoạt động thực tiễn. Phải đến những năm 1970, 1980 thì khoa học
HN ở Việt Nam mới có những bước phát triển mạnh mẽ với những nghiên cứu chủ yếu về
CTHN. Đặc biệt phải kể tới sự đóng góp của các tác giả như: Phạm Tất Dong, Đặng Danh Ánh,
Nguyễn Minh Đường, Nguyễn Văn Hộ đã nêu ra một số cơ sở tâm lý, nội dung của CTHN. Đặc
biệt, với luận văn Phó Tiến sĩ của mình, tác giả Phạm Tất Dong là người đầu tiên đặt nền móng
cho việc thiết lập những cơ sở lý thuyết về HN.
GS. Phạm Tất Dong là người có những đóng góp rất lớn cho GDHN Việt Nam, ông đã
dày công nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn cho GDHN như xác định mục đích, ý nghĩa,
vai trò của HN; hứng thú, nhu cầu và động cơ nghề nghiệp; hệ thống các quan điểm, nguyên tắc
HN, các nội dung, phương pháp, biện pháp GDHN... Trong nghiên cứu về “Đổi mới CTHN phục
vụ sự nghiệp CNH-HĐH đất nước”(2005) của mình, tác giả đã chỉ ra rằng: CTHN góp phần điều
chỉnh việc chọn nghề của thanh niên theo hướng chuyển đổi cơ cấu kinh tế. Bởi vì theo tác giả,
đất nước đang trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp CNH-HĐH, trong quá trình CNH-HĐH, cơ
cấu kinh tế sẽ chuyển theo hướng giảm tỉ trọng nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp, dịch vụ.
Xu hướng chọn nghề của thanh niên phù hợp với xu hướng chuyển cơ cấu kinh tế là một yêu cầu
của công nghiệp hóa.
GS. Nguyễn Văn Hộ cũng là một trong những người rất tâm đắc và nghiên cứu chuyên
sâu về GDHN. Trong luận án Tiến sĩ của mình, tác giả đã đề cập đến vấn đề: “Thiết lập và phát
triển hệ thống HN cho HS Việt Nam”. Tác giả đã xây dựng được luận chứng cho hệ thống
GDHN trong điều kiện phát triển KT-XH của đất nước. Tác phẩm “Hoạt động GDHN và giảng
dạy kỹ thuật trong trường THPT” của tác giả và Nguyễn Thị Thanh Huyền [27] năm 2006 đã hệ
15


thống hóa các cơ sở lý luận nền tảng về HN và GDHN, xây dựng hệ thống nguyên tắc, phương

pháp và những hình thức GD kỹ thuật trong trường THPT.
Công trình nghiên cứu “GDHN ở trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay” năm
2008 của tác giả Nguyễn Phúc Chỉnh đã đi sâu nghiên cứu về việc cần thiết phải đổi mới
GDHN trong trường phổ thông và đã đưa ra các định hướng đổi mới như đổi mới mục tiêu
GDHN, đổi mới phương thức GDHN, đổi mới nội dung GDHN trong đó nhấn mạnh GDHN
là quá trình dạy học có chủ đích, phục vụ mục tiêu làm thay đổi một cách lâu bền vị thế của
người học để họ có thể hoàn thành các yêu cầu nghề nghiệp [11]. Do đó, trong đào tạo nghề
hay trong dạy học các môn học ở trường phổ thông, GV đều có nhiệm vụ phải thực hiện chủ
đích này.
Trên thực tế, trong khoảng thời gian 10 năm từ 1980 đến 1990, CTHN đã được triển khai
đối với hệ thống GDPT theo kế hoạch, theo chương trình và nội dung của Bộ GD&ĐT hoạch
định nhằm làm tốt việc phân luồng HS tốt nghiệp các cấp THCS và THPT sau khi tốt nghiệp ra
trường. Từ đó đến nay, các nghiên cứu cả về lý luận và thực tiễn cũng như hoạt động thực
nghiệm trong lĩnh vực HN cũng như TVHN đã không ngừng được phát triển. Tuy nhiên, các
nghiên cứu về hoạt động quản lý GDHN trong nhà trường THPT thì lại khá khiêm tốn.
Trong những thập niên gần đây, nhằm hiện thực hoá những phương hướng, mục tiêu mà
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã đề ra về GDHN và phân luồng HS phổ thông, đã có rất
nhiều những nghiên cứu về HN ở nhiều cách tiếp cận khác nhau tạo nên một giai đoạn mới với
sự đa dạng trong nghiên cứu khoa học HN ở Việt Nam. Đặc biệt, cùng với xu hướng đổi mới
công tác QLGD thì công tác QL HĐHN cũng được quan tâm hơn. Một số công trình nghiên cứu
đã cụ thể hóa về lĩnh vực này như GS.TS Phạm Tất Dong với đề tài “Đổi mới CTHN phục vụ
sự nghiệp CNH-HĐH đất nước” [15]; tác giả Nguyễn Trọng Bảo với đề tài “Tìm hiểu thực
trạng công tác QL HĐHN cho HS THPT tại thành phố Hồ Chí Minh” [3]; tác giả Nguyễn
Thị Ánh Tuyết với đề tài “Thực trạng quản lý hoạt động G DHN ở các trường THPT quận
12, thành phố Hồ Chí Minh” [49]…
Bên cạnh đó, các tác giả Nguyễn Văn Lê, Phan Văn Kha, Hà Thế Truyền cũng có những
công trình nghiên cứu, bài viết về GDHN. Các công trình nghiên cứu, bài viết của các tác giả đã
cho chúng ta những khái niệm, số liệu, kinh nghiệm GD kỹ thuật - dạy nghề cho HS phổ thông
và đề cập đến các vấn đề như: Tổ chức lao động sản xuất, tư vấn nghề cho HS phổ thông, đề
16



xuất những hình thức phối hợp giữa nhà trường, các cơ sở đào tạo nghề, cơ sở sản xuất trong HN
- dạy nghề cho HS phổ thông.
Trong những năm gần đây, trước nhu cầu đổi mới CTHN trong nhà trường phổ thông
phục vụ mục đích phát triển KT-XH tại các địa phương. Nhiều nghiên cứu về công tác QL
HĐHN đồng thời cũng là luận án Tiến sĩ hoặc luận văn Thạc sĩ GD học, QLGD đã được thực
hiện. Chẳng hạn như các đề tài luận văn Thạc sĩ “Biện pháp quản lý hoạt động GDHN của Hiệu
trưởng các trườngTHPT tỉnh Quảng Ngãi” của tác giả Hồ Tấn Yên ở Đại học Đà nẵng [54], đề
tài “Thực trạng và một số biện pháp quản lý hoạt động GDHN ở các trường THCS tại quận Tân
Phú, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Phạm Ngọc Trân (2012) [50], công trình “Biện pháp
tổ chức hoạt động GDHN cho HS THPT miền núi Tây Bắc” của tác giả Nguyễn Thị Nhung ở
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2009) [34]; công trình “Quản lý GDHN THPT tạo nguồn
nhân lực cho các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020” của tác giả Hồ Văn Thống ở
trường Đại học Sư phạm Hà Nội [42].
Đặc biệt, cuối năm 2012, Tổ chức Hợp tác phát triển và Hỗ trợ kĩ thuật vùng Flamăng Vương quốc Bỉ (VVOB) đã xuất bản tài liệu “QLHN ở cấp trung học” [47], tài liệu được biên
soạn trong khuôn khổ Chương trình HN mà tổ chức VVOB Việt Nam và hai tỉnh Quảng Nam và
Nghệ An đang hợp tác thực hiện nhằm góp phần nâng cao kiến thức, kĩ năng về HN và QLHN
cho đội ngũ cán bộ QLHN của hai tỉnh. Ngoài việc cung cấp những kiến thức và kĩ năng cần
thiết trong CTHN, tài liệu lần đầu tiên đã trình bày một cách hệ thống lý luận về những kiến
thức, kĩ năng cần thiết về lãnh đạo và QLHN ở cấp trung học. Bên cạnh đó, đầu năm 2013, tổ
chức VVOB Việt Nam cũng cho ra đời “Tài liệu bổ sung sách GV hoạt động GDHN lớp 10, 11,
12” [48]. Tài liệu nhằm cập nhật, bổ sung các thông tin liên quan tới HĐHN và có hướng dẫn cụ
thể nhằm giúp cho các GV không được đào tạo chuyên môn về HN có thể thực hiện tốt các giờ
HĐHN theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT đồng thời thực hiện được các mục tiêu trong “Tầm
nhìn HN” của hai tỉnh đã xây dựng trong dự án. Các tài liệu trên cùng với toàn bộ dự án Chương
trình HN mà tổ chức VVOB - Việt Nam và hai tỉnh Quảng Nam và Nghệ An thực sự đã có tác
động tốt đến tư duy và phương pháp tổ chức, QL HĐHN hiện nay của các địa phương.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đã góp phần khái quát được thực trạng CTHN nói
chung và công tác QL HĐHN nói riêng của các địa phương, vùng miền khác nhau, góp phần

tích cực trong việc cải tiến HĐHN của các địa phương trong bối cảnh công tác GDHN của cả
nước nói chung còn nhiều yếu kém và chậm đổi mới. Tuy vậy, hiện nay chưa có công trình
17


nghiên cứu nào đề cập đến thực trạng QL HĐHN cho HS lớp 12 trên địa bàn huyện Bến Cát,
tỉnh Bình Dương.

1.2. Một số khái niệm công cụ
1.2.1. Quản lý, quản lý giáo dục (QLGD), quản lý nhà trường
Quản lý là sự tác động liên tục, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức của chủ thể quản lý
đến tập thể những người lao động (nói chung là khách thể quản lý có liên quan) nhằm thực hiện
được những mục tiêu quản lý dự kiến [31].
Đối với cấp vĩ mô: QLGD được hiểu là những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích,
có kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tất cả các mắt xích của hệ thống
(từ cấp cao nhất đến các cơ sở GD là nhà trường) nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục
tiêu phát triển GD, đào tạo thế hệ trẻ mà xã hội đặt ra cho ngành GD. QLGD là sự tác động liên
tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý lên hệ thống GD; sử dụng một cách tối ưu các
tiềm năng, các cơ hội của hệ thống, nhằm đưa hệ thống đến mục tiêu một cách tốt nhất trong
điều kiện bảo đảm sự cân bằng với môi trường bên ngoài luôn luôn biến động [31].
Đối với cấp vi mô: QLGD được hiểu một cách cụ thể là quản lý một hệ thống GD, đó có
thể là một trường học, một trung tâm KTTH - HN, một tập hợp các cơ sở GD phân bố trên một
địa bàn dân cư... Khi đó QLGD là hệ thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có
kế hoạch, có hệ thống, hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể GV, công nhân viên, tập thể
HS, cha mẹ HS và các lực lượng xã hội trong và ngoài nhà trường nhằm thực hiện có chất lượng
và hiệu quả mục tiêu GD của nhà trường. QLGD thực chất là những tác động của chủ thể quản
lý vào quá trình GD (được tiến hành bởi tập thể GV và HS, với sự hỗ trợ đắc lực của các lực
lượng xã hội) nhằm hình thành và phát triển toàn diện nhân cách HS theo mục tiêu đào tạo của
nhà trường. [31]. Muốn quản lý một cách khoa học (hoặc tối ưu) thì chủ thể quản lý phải nắm
được các quy luật khách quan đang chi phối vận hành của đối tượng quản lý.

Tóm lại: QLGD là một chuỗi tác động hợp lý của chủ thể quản lý đến tập thể GV và HS,
đến những lực lượng GD trong và ngoài nhà trường nhằm huy động họ cùng cộng tác, phối hợp,
tham gia vào mọi hoạt động. Đó là hoạt động có tính mục đích, được tổ chức một cách khoa học
của Hiệu trưởng nhằm tổ chức - chỉ đạo một cách khoa học các hoạt động GD&ĐT trong nhà
trường, hướng tới những mục tiêu đã định.
18


1.2.2. Hướng nghiệp (HN), giáo dục hướng nghiệp (GDHN)
1.2.2.1. Hướng nghiệp
Thuật ngữ “hướng nghiệp” là do Giáo sư F.Parson đề xướng vào năm 1908 khi lần đầu
tiên tổ chức ra “Hội đồng nghề nghiệp” tại Boston (Mỹ) giúp đỡ việc chọn nghề cho người lao
động. Theo đó, HN được hiểu như một quá trình giúp cho cá nhân tìm hiểu nghề, đối chiếu với
phẩm chất của mình rồi chọn lấy một nghề phù hợp [26]. Trong thực tế có nhiều cách hiểu khác
nhau về khái niệm HN tùy theo cách tiếp cận.
Theo các nhà kinh tế học, HN là những mối quan hệ kinh tế giúp cho từng thành viên xã
hội phát triển năng lực lao động và đưa họ vào một lĩnh vực hoạt động cụ thể phù hợp với sự
phân bổ lực lượng lao động xã hội Các nhà tâm lý học cho rằng HN là một hệ thống các biện
pháp tâm lý, sư phạm và y học giúp cho thế hệ trẻ chọn nghề có tính đến nhu cầu của xã hội và
năng lực của bản thân. Theo quan điểm của các nhà GD học thì HN là một hoạt động của các tập
thể sư phạm, của các cán bộ thuộc các cơ quan, xí nghiệp khác nhau được tiến hành với mục
đích giúp HS chọn nghề đúng đắn phù hợp với năng lực, thể lực và tâm lý của cá nhân với nhu
cầu KT-XH. HN là một bộ phận cấu thành của quá trình GD - học tập trong nhà trường [27].
Tại Hội nghị lần thứ IX những người đứng đầu cơ quan GD nghề nghiệp các nước xã hội
chủ nghĩa họp tại La Habana thủ đô Cu-Ba vào tháng 10/1980 đã thống nhất về khái niệm HN
như sau: “HN là hệ thống những biện pháp dựa trên cơ sở tâm lý học, sinh lý học, y học và
nhiều khoa học khác để giúp đỡ HS chọn nghề phù hợp với nhu cầu xã hội, đồng thời thoả
mãn tối đa nguyện vọng thích hợp với những năng lực, sở trường và điều kiện tâm sinh lý cá
nhân, nhằm mục đích phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả nhất lực lượng dự trữ có sẵn
của đất nước” [38, tr.76.].

Ở Việt Nam cũng có nhiều quan điểm khác nhau về HN, chẳng hạn coi “HN là thi hành
những biện pháp nhằm đảm bảo sự phân bổ tối ưu (có chú ý tới năng lực, thể lực) nhân dân theo
ngành và loại lao động” [37, tr.458].
Từ điển GD học định nghĩa “HN là hệ thống các biện pháp giúp đỡ HS làm quen tìm hiểu
nghề, lựa chọn, cân nhắc nghề nghiệp với nguyện vọng, năng lực, sở trường của mỗi người, với
nhu cầu và điều kiện thực tế khách quan của xã hội” [25, tr.209].
Theo GS. Phạm Tất Dong thì HN là một hệ thống tác động của xã hội về GD, về y học,
kinh tế học nhằm giúp thế hệ trẻ chọn được nghề vừa phù hợp với hứng thú, năng lực, nguyện
19


vọng, sở trường của cá nhân, vừa đáp ứng nhu cầu nhân lực của các lĩnh vực sản xuất trong nền
kinh tế quốc dân [14].
GS. Nguyễn Văn Hộ thì xem “HN là sự tác động của một tổ hợp các lực lượng xã hội,
lấy sự chỉ đạo của một hệ thống sư phạm làm trung tâm vào thế hệ trẻ, giúp cho các em quen biết
với một số ngành nghề phổ biến để khi tốt nghiệp ra trường, các em có thể lựa chọn cho mình
một cách có ý thức nghề nghiệp tương lai” [27, tr.12].
Nhìn chung, có thể xem xét khái niệm HN dưới các góc độ khoa học lao động, góc độ xã
hội và dưới góc độ GDPT.
Xét ở bình diện khoa học lao động, HN là hình thức giám định lao động có tính chất
chuẩn đoán. Đó là quá trình xác lập sự phù hợp nghề của từng người cụ thể dựa trên cơ sở xác
định sự tương ứng giữa những đặc điểm tâm - sinh lý của họ với những yêu cầu của một nghề
nào đó đối với người lao động [14].
Trên bình diện xã hội, có thể nói rằng HN là công việc mà toàn xã hội có trách nhiệm
tham gia. Trong những điều kiện lý tưởng, trẻ em cần được HN liên tục và thường xuyên bằng
nhiều hình thức, bằng nhiều con đường. Nếu xã hội biết tận dụng câu lạc bộ, nhà văn hoá, rạp
chiếu phim, đài phát thanh, truyền hình, nhà xuất bản, thư viện… vào CTHN, tác dụng hướng
dẫn chọn nghề đối với trẻ em sẽ rất lớn.
Toàn bộ các nhà máy, xí nghiệp, công trường, nông trường, các cơ quan quản lý kinh tế
và quản lý nhà nước, các cơ quan của những đoàn thể chính trị và xã hội,… đều cần đến những

người có năng lực và những phẩm chất nhân cách phù hợp. Để chọn được người theo đúng
những tiêu chuẩn đã định bao gồm những chỉ số khách quan. Những cơ quan, những tổ chức nói
trên có nhiệm vụ làm cho thế hệ trẻ hiểu được nội dung, tính chất, đặc điểm, điều kiện công tác
của mình, giúp cho họ tìm hiểu những nghề nghiệp, chuyên môn mà mình cần tuyển chọn. Cuối
cùng những cơ quan, những cơ sở sản xuất phải tiến hành tuyển chọn người trên cơ sở nguyện
vọng và dự định nghề nghiệp của họ.
Chúng ta đang phấn đấu để cho trẻ em được chọn nghề theo hứng thú, sở thích và cũng
mong muốn chúng ngày càng nhận thức sâu sắc nghĩa vụ lao động, nhu cầu nhân lực mà xã hội
đặt ra. Do đó, HN phải là công việc được xã hội quan tâm đặc biệt. Không nên để cho trẻ em
chọn nghề một cách tự phát, cũng không nên để cho số phận nghề nghiệp của mỗi HS, mỗi
thanh thiếu niên phụ thuộc vào những gì hết sức ngẫu nhiên. HN là quá trình dẫn dắt thế hệ trẻ đi
vào thế giới nghề nghiệp, giúp cho họ phát huy được hết năng lực lao động trong thế giới đó, có
20


được cuộc sống thoả mãn với lao động nghề nghiệp.
Ở góc độ GDPT: Trong trường phổ thông , HN là một hình thức hoạt động dạy của thầy
và hoạt động học của trò. Với tư cách là hoạt động dạy của thầy, HN được coi như là công việc
của tập thể GV, tập thể sư phạm, có mục đích GD HS trong việc chọn nghề, giúp các em tự
quyết định nghề nghiệp tương lai trên cơ sở phân tích khoa học về năng lực, hứng thú của bản
thân và nhu cầu nhân lực của các ngành sản xuất trong xã hội. Với cách hiểu này, HN là sự tác
động của một hệ thống những biện pháp tác động của nhà trường, gia đình và xã hội, trong đó
nhà trường đóng vai trò chủ đạo nhằm hướng dẫn và chuẩn bị cho thế hệ trẻ sẵn sàng đi vào lao
động ở các ngành nghề, tại những nơi xã hội đang cần phát triển, đồng thời phù hợp với hứng
thú, năng lực cá nhân [26].
Điều 3 Nghị định số 75/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật GD 2005 cũng khẳng
định: “HN trong GD là hệ thống các biện pháp tiến hành trong và ngoài nhà trường để giúp HS
có kiến thức về nghề nghiệp và có khả năng lựa chọn nghề nghiệp trên cơ sở kết hợp nguyện
vọng, sở trường của cá nhân với nhu cầu sử dụng lao động của xã hội”[45].
Như vậy, tuỳ thuộc vào đặc trưng của từng lĩnh vực hoạt động khoa học mà có những

quan điểm khác nhau khi xem xét về khái niệm HN. Trong nghiên cứu này, HN được tiếp cận
dưới góc độ GDPT là sự tác động vào thế hệ trẻ của một tổ hợp các lực lượng xã hội, lấy sự chỉ
đạo của hệ thống sư phạm làm trung tâm, giúp các em có những hiểu biết cơ bản về một số
ngành nghề phổ biến để khi ra trường, các em có thể lựa chọn nghề nghiệp tương lai cho mình
một cách có ý thức.
1.2.2.2. Khái niệm GDHN
Theo quan điểm truyền thống, GDHN gắn với khâu chọn nghề. Về phạm vi, HN chỉ diễn
ra ở trường phổ thông. Về đối tượng, là HS phổ thông nhưng chủ yếu là HS từ THCS đến hết
cấp THPT. Theo quan điểm mới, GDHN gắn với quá trình phát triển nghề nghiệp gồm có chọn
nghề và thích ứng nghề. Về phạm vi, CTHN diễn ra không chỉ ở trường phổ thông mà ở cả
trường dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp (TCCN), cao đẳng (CĐ), đại học (ĐH) và cả ở
những cơ sở sản xuất kinh doanh. Về đối tượng, bao gồm cả HS phổ thông, HS học các trường
nghề và THCN, sinh viên ĐH, CĐ và người lớn tuổi học thêm nghề hoặc chuyển đổi nghề do
thay đổi công nghệ, cổ phần hoá doanh nghiệp, môi trường sống, ...
Trong trường phổ thông, GDHN là một bộ phận của GD toàn diện. GDHN là hoạt động
được thực hiện bởi GV và HS và được tiến hành qua nhiều hình thức GDHN khác nhau nhưng
21


tập trung vào thực hiện mục đích giúp cho HS lựa chọn nghề vừa đáp ứng nhu cầu phát triển
KT-XH vừa phù hợp với nguyện vọng, năng lực, thể lực của HS để các em phát huy được khả
năng bản thân trong cuộc sống nghề nghiệp. Do vậy, GDHN trong trường phổ thông không phải
là nhằm quyết định nghề cho mỗi cá nhân mà là điều chỉnh động cơ, hứng thú nghề nghiệp của
thế hệ trẻ, giúp các em giải quyết việc chọn nghề cho tương lai một cách có ý thức ngay khi còn
ngồi trên ghế nhà trường.
1.2.3. QL HĐHN trong nhà trường THPT
1.2.6.1. Khái niệm quản lý hướng nghiệp
Theo Tổ chức hợp tác phát triển và Hỗ trợ kỹ thuật vùng Fla-măng - Bỉ (VVOB -Việt
Nam): “quản lý HN (hay QL HĐHN) là một bộ phận của QLGD, là hệ thống những tác
động có định hướng, có chủ đích, có kế hoạch và hợp quy luật của chủ thể quản lý đến đối

tượng quản lý của CTHN nhằm thực hiện có chất lượng và hiệu quả mục tiêu HN cho HS
phổ thông”. [46, tr.72].
QL HĐHN gồm những yếu tố cơ bản như ở sơ đồ 1.2.
Phương pháp
quản lí

MỤC
Đối tượng
quản lí

Chủ thể
quản lí

TIÊU
HƯỚNG
NGHIỆP

Công cụ
quản lí
Sơ đồ 1.1. Các yếu tố của quản lý HĐHN

Chủ thể quản lý là một cá nhân hay nhóm người được giao quyền hạn quản lý và chịu
trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo, sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả các nguồn lực cho CTHN tại
địa bàn, đơn vị đang quản lý. Trong QL HĐHN, chủ thể quản lý là lãnh đạo và hoặc chuyên viên
phụ trách HN của Bộ GD&ĐT, Sở GD&ĐT, Phòng GD&ĐT, Ban Giám hiệu (BGH) nhà
trường và Giám đốc Trung tâm GD thường xuyên ở địa phương có chức năng HN cho HS phổ
thông cấp trung học trên địa bàn. Trên cơ sở quyền hạn, trách nhiệm và năng lực của mình, chủ
thể quản lý tác động lên đối tượng quản lý bằng các phương pháp và công cụ nhất định thông
qua việc thực hiện các chức năng quản lý để đạt được mục tiêu HN.
22



Đối tượng quản lý là tất cả những người thực hiện và nhận nhiệm vụ HN, bao gồm: các
cán bộ (CB), GV phụ trách HN; tập thể HS ở các trường THCS, THPT; CB, GV và HS các
trung tâm GD thường xuyên, trung tâm KTTH - HN; các tổ chức, đoàn thể xã hội (như Hội cha
mẹ HS, Hội Liên hiệp Phụ nữ, các doanh nghiệp…). Đối tượng quản lý còn bao gồm các hình
thức HN, ngân sách, CSVC và thiết bị GD và hệ thống thông tin phục vụ cho CTHN.
Công cụ quản lý là những phương tiện mà CB QL HĐHN sử dụng trong quá trình quản
lý nhằm định hướng, dẫn dắt, khích lệ và phối hợp hoạt động của các tác nhân HN và HS phổ
thông cấp trung học trong việc thực hiện mục tiêu CTHN. Công cụ chủ yếu để QL HĐHN là các
quy định của Nhà nước và Bộ GD&ĐT đối với CTHN, là các cơ chế và chính sách cho CTHN.
Phương pháp quản lý là cách thức tác động bằng những phương tiện khác nhau của CB
QL HĐHN đến hệ thống bị quản lý nhằm đạt được mục tiêu quản lý. Phương pháp quản lý bao
gồm việc lựa chọn công cụ, phương tiện quản lý (như quyền lực, quyết định, cơ chế chính sách,
tài chính, kĩ thuật - công nghệ…) và lựa chọn cách thức tác động (tác động bằng quyền lực; tác
động bằng kinh tế; tác động bằng tư tưởng chính trị…) của CB QL HĐHN tới đối tượng quản lý.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này, QL HĐHN (hay là quản lý công tác
GDHN) trong trường THPT được tiếp cận dưới góc độ là một hoạt động tác động hợp lý có
kế hoạch, nội dung, phương pháp, chương trình, mục đích của nhà quản lý (Hiệu trưởng,
GV chủ nhiệm lớp - người thay mặt Hiệu trưởng quản lý lớp) đến từng HS, nhằm điều
khiển, điều chỉnh, định hướng, quá trình tự GD của HS giúp các em lựa chọn ngành nghề
phù hợp với hứng thú, năng lực, sở thích cá nhân và nhu cầu của xã hội.

1.3. Hoạt động hướng nghiệp ở trường THPT
1.3.1. Vai trò, ý nghĩa của HĐHN ở nhà trường THPT
HN là một bộ phận hữu cơ quan trọng của chương trinh GDPT. Vai trò của HN luôn
được khẳng định trong các văn bản quan trọng của Đảng và nhà nước. Bộ GD&ĐT, Ủy ban
nhân dân các tỉnh/ thành phố cũng đã có những văn bản quy phạm pháp luật chỉ đạo, hướng dẫn
các cấp QLGD, các trường học thực hiện GDHN cho HS phổ thông. Đồng thời hiện nay theo
quan điểm mới, GDHN mở rộng đối tượng và tiến hành liên tục nhằm giúp HS, sinh viên, người

lao động có thêm kiến thức, kỹ năng lựa chọn nghề phù hợp với bản thân và nhu cầu nhân lực
của xã hội.
CTHN chiếm một vị trí quan trọng trong việc định hướng phân công lao động xã hội
23


×