Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn trong những năm 2003 2008

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.55 KB, 28 trang )

Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn trong những năm 2003 2008
I - KHÁI QUÁT KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH
CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG GIAI ĐOẠN
2003 – 2008:
Trong thời gian vừa qua, công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn đã thu được
những kết quả tốt về mọi mặt hoạt động sản xuất kinh doanh, là một trong
những đơn vị sản xuất và tiêu thụ xi măng lớn trong Tổng Công ty công nghiệp
xi măng Việt Nam, xứng đáng là đơn vị Anh hùng trong thời kỳ đổi mới. Sản
lượng sản xuất và tiêu thụ tăng đều hàng năm, các chỉ tiêu tài chính luôn luôn
ổn định và có hiệu quả, đặc biệt chỉ tiêu lợi nhuận hàng năm đều tăng từ 15%
đến 50% so với các năm trước đó. Thu nhập bình quân của người lao động tăng
cao và ổn định. Hơn nữa, Xi măng Bỉm Sơn luôn chú trọng đầu tư đổi mới máy
móc thiết bị hiện đại, tăng cường công tác đào tạo để nâng cao trình độ, tay
nghề của công nhân với mục tiêu tăng năng suất lao động và chất lượng sản
phẩm. Với đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm và công nhân kỹ thuật lành nghề,
năng lực thiết bị ngày càng hiện đại. Xi măng Bỉm Sơn đã và đang tham gia
cung cấp cho xây dựng dân dụng vào rất nhiều những công trình trọng điểm
của đất nước như: Thuỷ điện Hoà Bình, Bảo tàng Hồ Chí Minh, đường dây
500kw Bắc- Nam,…
1. Đánh giá về doanh thu, lợi nhuận, nộp ngân sách và thu nhập bình quân
đầu người/ tháng:
Bảng 2.1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của CTCP xi măng Bỉm
Sơn từ 2003 – 2008
Chỉ tiêu Đơn vị
Năm
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Doanh thu Tỷ đồng 1.307,1
1.560,
2
1.553,2 1.602,8 1.547,0 1.936,1


Tốc độ tăng doanh
thu
% 16,22 - 0,44 3,16 -3,43 25,15
Nộp ngân sách Tỷ đồng 83,664 89,129 99,821 88,152 88,920 84,327
Lợi nhuận trước
thuế
Tỷ đồng 65,016 84,513
107,60
2
117,27
2
139,04
4
216,01
1
TNBQ 1người/ tháng
Nghìn
đồng
3.519 3.754 4.152 4.287 4.896 4.571
(Nguồn: phòng kế toán thống kê tài chính và phòng kinh tế kế hoạch )
Từ bảng trên ta có một số nhận xét như sau:
- Tổng doanh thu tăng giảm, biến động không đều qua các năm:
Biểu đồ 2.1: Biểu đồ doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn qua các
năm 2003 – 2008
(Nguồn: phòng kinh tế kế hoạch và kế toán thống kê tài chính)
Doanh thu của CTCP xi măng Bỉm Sơn có biến động rất lớn qua các năm,
doanh thu tăng đều từ năm 2003 đến 2006, giảm ở năm 2007 và tăng mạnh vào
năm 2008. Có kết quả như vậy là do trong giai đoạn những năm 2003 – 2005,
doanh thu của Công ty phần lớn là do sự ảnh hưởng của sản lượng, còn giá
trong những năm đó không có sự biến động mạnh, giữ chủ yếu ở mức giá

khoảng 600.000đồng/tấn. Bắt đầu từ năm 2006, Công ty tiến hành đi vào cổ
phần hóa, được tự chủ hơn về việc tìm kiếm thị trường nên khả năng tiêu thụ có
tăng lên. Năm 2007, Công ty đã áp dụng một số chính sách thuế, đồng thời cải
cách hệ thống bán hàng nên hầu hết các đại lý bán hàng vẫn chưa thích nghi
được với hình thức bán hàng mới. Đến năm 2008, mọi sự thay đổi đã đi vào
khuôn khổ, các đại lý đã quen dần với cung cách bán hàng mới nên kết quả kinh
doanh đã có sự cải thiện đáng kể.
Phần lớn doanh thu của Công ty là từ xi măng bao còn các sản phẩm khác
như xi măng bột, clinker chiếm tỷ lệ rất ít trong cơ cấu doanh thu.
- Cùng với sự tăng lên của tổng doanh thu, lợi nhuận trước thuế tăng đều
qua các năm và không có những biến động đáng kể. Mặc dù công tác tiêu thụ
gặp rất nhiều khó khăn do giá bán giảm nhưng do việc quản lý sản xuất kinh
doanh có hiệu quả nên lợi nhuận ngày càng cao.
- Tỷ lệ nộp ngân sách của Công ty tăng giảm thất tjhường:
Tỷ lệ nộp ngân sách Nhà nước của Xi măng Bỉm Sơn có mức biến động
đáng kể, như tỷ lệ nộp ngân sách cao nhất trong giai đoạn này là năm 2005 với
mức tăng là 12% còn năm 2006 lại giảm đột ngột là 11.69%, tuy nhiên sự biến
động đó hoàn toàn phù hợp với sự tăng giảm, biến động của lợi nhuận qua các
năm trong giai đoạn này.
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nộp ngân sách của CTCP xi măng Bỉm Sơn giai đoạn
2003 – 2008
(Nguồn: Phòng kinh tế kế hoạch và kế toán thống kê tài chính)
- Thu nhập bình quân 1 tháng của các cán bộ công nhân viên trong Công ty
có xu hướng tăng lên, nhưng mức tăng trung bình, không cao. Cao nhất là năm
2007 tăng được 609 nghìn đồng/ người, còn thấp nhất là năm 2006 chỉ tăng
được 135 nghìn đồng/ người.
Năm 2007 là năm Công ty có những thay đổi cơ bản về công tác tổ chức và
nhân sự. Chuyển đổi chi nhánh thành Văn phòng đại diện; bổ nhiệm, sắp xếp lại
lao động cho phù hợp với tình hình thực tế của Công ty; giải quyết chế độ chính
sách cho 143 người (chủ yếu là lao động dôi dư ở các chi nhánh) và tiếp nhận

62 lao động (trong đó có 61 trường hợp là đổi hạt bố mẹ về con vào). Chính vì
vậy đã cắt giảm được một số khoản chi phí cùng với đó là sự thuận lợi trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ, thu được nhiều lợi nhuận nên mức lương của các cán
bộ trong năm 2007 đã được cải thiện đáng kể. Tạo động lực, khuyến khích
người lao động hăng say hơn, yêu công việc của mình hơn, giúp cho tình hình
sản xuất kinh doanh của Công ty ngày một đi lên.
Biêu đồ 2.3: Mức tăng thu nhập bình quân/ tháng của CBCNV CTCP xi
măng Bỉm Sơn giai đoạn 2003 – 2008
( Nguồn: Phòng kế toán thống kê tài chính)
Năm 2007 là năm Công ty có những thay đổi cơ bản về công tác tổ chức và
nhân sự. Chuyển đổi chi nhánh thành Văn phòng đại diện; bổ nhiệm, sắp xếp lại
lao động cho phù hợp với tình hình thực tế của Công ty; giải quyết chế độ chính
sách cho 143 người (chủ yếu là lao động dôi dư ở các chi nhánh) và tiếp nhận
62 lao động (trong đó có 61 trường hợp là đổi hạt bố mẹ về con vào). Chính vì
vậy đã cắt giảm được một số khoản chi phí cùng với đó là sự thuận lợi trong quá
trình sản xuất và tiêu thụ, thu được nhiều lợi nhuận nên mức lương của các cán
bộ trong năm 2007 đã được cải thiện đáng kể. Tạo động lực, khuyến khích
người lao động hăng say hơn, yêu công việc của mình hơn, giúp cho tình hình
sản xuất kinh doanh của Công ty ngày một đi lên.
Tuy mức thu nhập của cán bộ công nhân viên của Công ty có tăng chứng tỏ
đời sống của họ có tăng lên song vẫn không đáng kể. Năm 2007 có tăng nhưng
trong điều kiện giá cả lương thực, thực phẩm và tất cả các mặt hàng đều tăng thì
mức tăng đó cũng không thể bù đắp được. Do đó, mục tiêu những năm sắp tới
của Công ty cần phải đạt được là nâng cao hơn nữa thu nhập của cán bộ công
nhân viên. Từ đó nâng cao đời sống lao động của Công ty nó riêng và của xã
hội nói chung.
2. Đánh giá về sản lượng sản xuất và tiêu thụ:
Bảng 2.2: Sản lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của công ty cổ phần xi
măng Bỉm Sơn từ 2003 – 2008
Diễn giải Đơn vị 2003 2004 2005 2006 2007 2008

1.SL sản xuất
Clinker Nghìn tấn 1.443,08 1.682,19 1.635,32 1.564,30 1.688,48 1.731,57
Xi măng Nghìn tấn 1.817,02 2.247,85 2.233,43 2.315,37 2.255,75 2.427,42
2.SL tiêu thụ:
Clinker Nghìn tấn 152,40 235,99 105,70 46,44 20,98 71,214
Xi măng Nghìn tấn 1.825,46 2.188,18 2.266,06 2.365,29 2.287,67 2.565,13
(Nguồn: phòng kinh tế kế hoạch và phòng kế toán thống kê tài chính)
Từ bảng số liệu trên có thể thấy, trong những năm gần đây sản lượng sản
xuất và tiêu thụ của công ty tương đối ổn định, mặc dù công tác tiêu thụ gặp rất
nhiều khó khăn và giá bán giảm dần. Sản lượng sản xuất tăng dần theo các năm,
điều đó phù hợp với sự phát triển cũng như nhu cầu tiêu dùng của xã hội, và do
đó cũng kéo theo sự gia tăng của tổng doanh thu. Clinker cũng có sản lượng sản
xuất tăng dần theo các năm, nhưng khả năng tiêu thụ lại tăng giảm thất thường
và đóng góp vào sản lượng tiêu thụ là rất ít mặc dù vẫn sản xuất nhiều, điều đó
chứng tỏ Công ty đã tự cung tự cấp được cho sản xuất, có đủ cliker để dùng cho
sản xuất xi măng, không phải mua từ các công ty khác. Bên cạnh đó, do thị
trường xi măng biến động lớn, mức sản xuất trong phạm vi toàn quốc tăng lên
rất nhanh do đã có nhiều nhà máy lớn đi vào hoạt động và sản xuất ổn định. Xi
măng liên doanh có lượng tương đối lớn, là những công ty liên doanh vốn chủ
yếu của nước ngoài do đầu tư mới nên được miễn giảm thuế. Vì vậy công tác xử
lý giá cả đến từng thị trường rất linh hoạt, không bị ràng buộc bởi cơ chế quản
lý của nhà nước. Cho nên việc tăng giảm thị phần trên thị trường đối với những
công ty này hoàn toàn là do chủ quan, vì một lượng không nhỏ xi măng lò đứng
là do địa phương quản lý cho nên việc xây dựng các công trình dân dụng, cơ sở
hạ tầng trong địa phương luôn được các địa phương ưu tiên cho loại xi măng
của mình. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Tổng công ty xi măng Việt
Nam cũng như việc tổ chức và đề ra những biện pháp linh động, có hiệu quả của
lãnh đạo công ty như chính sách khuyến mại hoa hồng đã thực sự tạo được động
lực thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm, góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
của Công ty.

3. Đánh giá sản phẩm chủ yếu:
Gần 30 năm xây dựng và trưởng thành, Công ty cổ phần Xi măng Bỉm
Sơn đã cung cấp cho thị trường gần 30 triệu tấn sản phẩm chất lượng cao. Hiện
sản phẩm của Công ty rất đa dạng và đảm bảo chất lượng như: Xi măng Pooc
Lăng hỗn hợp PCB 30, PCB 40 được sản xuất theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN
6260:1997; Xi măng Pooc Lăng PC 40, PC 50 được sản xuất theo tiêu chuẩn
Việt Nam TCVN 2682:1999; Clinker thương phẩm Ppc40 được sản xuất theo
tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 7024:2002. Các sản phẩm của Công ty cổ phần Xi
măng Bỉm Sơn đều có chất lượng ổn định, độ dư mác cao, có lợi cho người tiêu
dùng, an toàn trong quá trình lưu kho, vận chuyển, sử dụng và giá cả hợp lý
nhất. Trước sự tín nhiệm của người tiêu dùng, hiện các nhà máy luôn phải hoạt
động hết công suất để cố gắng cung cấp sản phẩm cho thị trường.
II – PHÂN TÍCH CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN NĂNG LỰC
CẠNH TRANH CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN XI MĂNG BỈM SƠN TRONG
NHỮNG NĂM 2003 – 2008:
1. Phân tích môi trường vĩ mô:
1.1. Yếu tố kinh tế:
Trong những năm vừa qua, các yếu tố kinh tế đã tác động mạnh mẽ tới
hoạt động của các doanh nghiệp nói chung, hay hoạt động của Tổng công ty xi
măng Việt Nam nói riêng mà cụ thể là công ty cổ phần xi măng Việt Nam.
Bảng 2.3: Tốc độ tăng trưởng kinh tế Việt Nam từ năm 2003 – 2008
(Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam 2008 – 2009)
Trong giai đoạn 2003 – 2008, kinh tế Việt Nam tăng trưởng ở mức cao và
tương đối ổn định. Đời sống nhân sân được cải thiện. Điều này đã tác động tích
cực đến sự phát triển của ngành xây dựng nói chung, Tổng công ty xi măng Việt
Nam nói riêng và cụ thể hơn nữa là CTCP xi măng Bỉm Sơn. Tốc độ kinh tế
tăng cao làm phát sinh thêm nhiều nhu cầu mới. Đây là cơ hội cho Công ty mở
rộng sản xuất và phát triển. Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội dó là mối đe dọa
của sự xuất hiện thêm nhiều đối thủ mới, chi phí và tiền lương của Công ty cũng
tăng lên làm giảm khả năng cạnh tranh của Công ty.

Tốc độ tăng tưởng kinh tế tăng , tỷ lệ lạm phát cũng tăng mạnh làm xáo
Năm 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tốc độ tăng (%) 7.34 7.79 8.44 8.17 8.5 11
trộn nền kinh tế, lãi suất tăng và sự biến động của đồng tiền trỏe nên khó lường
hơn trước. Đặc biệt trong năm 2008, cuộc khủng hoảng nền kinh tế Mỹ đã
nhanh chóng lan ra toàn cầu và nước ta cũng đã chịu ảnh hưởng rất lớn, lãi suất
ngân hàng tăng cao, biến động khôn lường, các hoạt động đầu tư, sản xuất của
Công ty trở thành hoạt động măng tính may rủi nhiều hơn, làm cho tương lai
kinh doanh trở nên khó đoán hơn.
Bảng 2.4: Tỷ lệ lạm phát của Việt Nam từ năm 2003 – 2008
( Nguồn: Tạp chí kinh tế Việt Nam 2008 - 2009)
Lạm phát tăng cao làm tăng giá nguyên vật liệu và chi phí nhân công.
Tỷ giá hối đoái là nhân tố tác động trực tiếp đến hiệu qiả sản xuất kinh
doanh của các công ty, đặc biệt là những công ty có tỷ lệ hàng hóa nhập khẩu
lớn. Trong giai đoạn này, CTCP xi măng Bỉm Sơn đang được đầu tư, nâng cấp
và xây dựng các dự án dây chuyền mới, thường xuyên phải nhập khẩu máy móc
thiết bị, nguyên vật liệu hàng hóa từ nước ngoài với giá trị lớn. Vì vậy, mọi sự
thay đổi, dù nhỏ của tỷ giá hối đoái cũng tác động không nhỏ đến hiệu quả kinh
doanh của Công ty. Nếu không dự đoán được sự thay đổi của đồng ngoại tệ thì
Công ty sẽ bị thiệt hại rất lớn. Chính vì vậy, đây là một chướng ngại lớn đối với
CTCP xi măng Bỉm Sơn.
1.2. Yếu tố chính trị - pháp luật:
Việt Nam là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định nhất trên
thế giới. Hiện nay, nước ta đang tạo điều kiện tốt để thu hút các nhà đầu tư
trong nước cũng như nước ngoài đầu tư và kinh doanh. Sự ổn định về chính trị
là nền tảng quan trọng để các doanh nghiệp an tâm kinh doanh, đạt được hiệu
quả tốt. Ngoài ra, để các hoạt động kinh doanh có hiệu quả và đúng hướng thì
mỗi quốc gia quản lý bằng các văn bản pháp luật, các chế tài chính sách có liên
quan. Để quản lý tốt các hoạt động của nền kinh tế, Nhà nước quy định và công
bố các chính sách cụ thể đối với từng thị trường , từng khu vực. Các quy định

Năm
2003 2004 2005 2006 2007 2008
Tỷ lệ lạm phát (%)
3.1 9.5 8.4 6.6 12.36 22
của Nhà nước buộc các doanh ngihiệp phải tuận theo như là các chính sách
thuế, quy định về lao động, tiền lương, quy định về bảo vệ môi trường, xử lý
chất thải,… Những quy định đó có ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực cạnh tranh
của CTCP xi măng Bỉm Sơn, nó chính là cơ hội đồng thời cũng là mối đe dọa
của Công ty.
1.3. Yếu tố công nghệ:
Trong tất cả các ngành đều đòi hỏi máy móc, thiết bị kỹ thuật cao mới đảm
bảo về chất lượng và số lượng sản phẩm, dịch vụ. Ở nước ta hiện nay, thực tế
chưa có đủ trình độ, công nghệ kỹ thuật đáp ứng những loại máy móc, thiết bị có
công nghệ cao. Chính vì vậy, mà phải thường xuyên nhập ở các nước khác. Đôi
khi, do không có trình độ và thiếu hiểu biết đã dẫn đến việc nhập khẩu những loaị
máy móc, kỹ thuật lạc hậu, gây lãng phí tiền của. Do đó, việc nhập khẩu đòi hỏi
phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cẩn thẩn bởi những chuyên gia có trình độ và
hiểu biết cao. CTCP xi măng Bỉm Sơn đã có đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực
kỹ thuật từng được đi học tập và nghiên cứu ở những nước có trình độ khoa học
kỹ thuật cao. Tuy nhiên, đội ngũ đó vẫn chưa được đầu tư đúng mức, chưa được
đào tạo lai để cập nhật những công nghệ mới nhất. Do đó vẫn còn xảy ra hiện
tượng mua những máy móc, thiết bị cũ ở nước ngoài với giá cao. Điều này đã ảnh
hưởng tới năng lực cạnh tranh của CTCP xi măng Bỉm Sơn trên thị trường. Vì
vậy, yêu cầu cần thiết trong thời gian tới của Công ty là cần phải quan tâm đầu tư
tới việc đào tạo cán bộ chuyên trách về công nghệ cho Công ty.
Bên cạnh đó, cùng với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế
đất nước và xu thế hội nhập quốc tế việc mở rộng quy mô sản xuất, xây dựng thêm
nhà xưởng, đầu tư mua sắm máy móc thiết bị, cải tiến công nghệ từng bước hiện
đại nâng cao năng xuất thiết bị, năng xuất lao động, bố trí lao động phù hợp với tay
nghề, nghiệp vụ của người lao động, nhằm mục đích nâng cao năng lực sản xuất và

hiệu quả kinh tế. Để đáp ứng kịp thời yêu cầu của thị trường cả về số lượng và chất
lượng, Công ty luôn tìm nguồn nguyên vật liệu thuận lợi, khai thác triệt để nguồn
nguyên vật liệu sản xuất trong nước đảm bảo chất lượng, giá thành hạ.
1.4. Yếu tố văn hóa, xã hội:
Các yếu tố về văn hóa - xã hội cũng tác động rất lớn tới hoạt động của
CTCP xi măng Bỉm Sơn, như thị hiếu, nhu cầu, dân số, phong tục tập quán,…
của vùng, địa phương thuộc thị phần của mình. Công ty cần phải có những tìm
hiểu, phân tích kịp thời những thay đổi của các yếu tố này để có những chiến
lược phù hợp, toàn diện hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh.
2. Phân tích môi trường ngành:
2.1. Áp lực từ đối thủ tiềm ẩn:
Trong giai đoạn này có rất nhiều công ty sản xuất xi măng đã dần hoàn
thành và đi vào sản xuất ngay trong địa bàn hoạt động của Công ty. Bên cạnh đó
là một số các Công ty xi măng tư nhân đã được cấp phép xây dựng và hoạt động
như Công ty xi măng Duyên Hà, Công ty xi măng Tam Điệp,... đây đều là
những Công ty có địa bàn ngay cạnh Công ty cổ phần xi măng Bỉm Sơn, điều
đó đã tạo cho xi măng Bỉm Sơn một áp lực cạnh tranh rất mạnh mẽ. Hơn nữa,
việc Việt Nam gia nhập vào WTO đã tạo điều kiện cho các công ty xi măng
trong nước cũng như nước ngoài được tự do thương mại, thị trường được mở
rộng tạo nhiều cơ hội cho các công ty mở rộng thị phần của mình, điều đó cũng
có nghĩa là sẽ có rất nhiều thách thức đối với sự sống còn của CTCP xi măng
Bỉm Sơn. Mặc dù đã hoạt động lâu năm, là những Công ty đầu tiên của ngành
và rất có uy tín trên thị trường trong nước cũng như với nước bạn – Lào, nhưng
áp lực cạnh tranh từ phía đối thủ tiềm ẩn là rất cao. Chính vì vậy, Công ty cần
phải luôn nghiên cứu, tìm hiểu về các đối thủ tiềm ẩn trong thị trường, tìm biện
pháp để khống chế các đối thủ này, và nhất là không được tự hài lòng với những
kết quả đã đạt được mà phải luôn phấn đấu tìm cách tự đổi mới mình để vượt
lên trên các đối thủ cạnh tranh.
2.2. Áp lực sản phẩm thay thế:
Sự cạnh tranh của sản phẩm thay thế là nguy cơ đe dọa làm giảm lợi

nhuận của các Công ty đang hoạt động trong ngành. Tuy nhiên, sản phẩm của
CTCP xi măng Bỉm Sơn chủ yếu là xi măng – là sản phẩm mà mặc dù có rất
nhiều công nghệ sản xuất khác nhau, nhưng hầu hết đặc tính và chất lượng của
chúng là như nhau (trừ trường hợp làm giả), nó mang tính đặc thù khá riêng biệt
và không có khả năng thay thế được. Hơn nữa do yêu cầu sử dụng, sản phẩm xi
măng cần đạt được sự ổn định cao về chất lượng sản phẩm mà không đòi hỏi
các sản phẩm mới một cách thường xuyên. Hầu hết sản phẩm xi măng mới chỉ
là kết quả của sự thay đổi một số chỉ tiêu kỹ thuật và đặc tính sản phẩm. Xi
măng mới hoàn toàn ít xuất hiện. Điều này do hai yếu tố chủ yếu sau đây chi
phối. Một là, nhu cầu sử dụng xi măng khá ổn định về chủng loại, tuyệt đại bộ
phận là xi măng thông dụng. Trong khi đó, nhu cầu về một số loại xi măng đặc
biệt không cao và không thường xuyên. Khách hàng có thể nhập khẩu các loại
xi măng này. Hai là, để nghiên cứu và phát triển sản phẩm mới, các doanh
nghiệp sản xuất xi măng cần phải hội đủ nhiều điều kiện quan trọng như tiền
vốn, đội ngũ kỹ sư, phòng thí nghiệm, thiết bị và công nghệ. Hơn thế nữa, việc
phát triển sản phẩm mới thường đòi hỏi thời gian nhất định kể từ khi thiết kế,
chế thử đến đưa sản phẩm mới vào thị trường. Quá trình này luôn chứa đựng rủi
ro.
Do đó, sức ép từ sản phẩm thay thế với Công ty là rất ít và đó chính là
một thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty.
2.3. Sức ép từ khách hàng:
CTCP xi măng Bỉm Sơn hoạt động cung cấp và phân phối sản phẩm dưới
sự chỉ đạo của Tổng công ty xi măng Việt Nam, địa bàn cung cấp của Công ty
đã không thay đổi suốt những thời gian dài qua, nên hầu hết khách hàng của
Công ty là những khách hàng truyền thống. Công ty đã có hình ảnh và uy tín rất
tốt trong lòng khách hàng, và họ tiêu dùng sản phẩm của Công ty như một thói
quen. Chính vì vậy, sức ép từ khách hàng đối với Công ty là không lớn. Hiện
nay, do nhu cầu và yêu cầu đổi mới phát triển cũng như nhằm quảng bá hình
ảnh của mình mạnh hơn nữa, được sự cho phép của Tổng công ty xi măng Việt
Nam, Công ty đang tìm kiếm mở rộng thị trường mới, chủ yếu là ở phía Nam.

×