Tải bản đầy đủ (.pdf) (471 trang)

Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.16 MB, 471 trang )

Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối
hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật

5


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Tên viết tắt sử dụng trong báo cáo

11

Phần I
đặt vấn đề

12

Phần II
Đánh giá thực trạng những quy định pháp luật hiện hành về quản
lý hoạt động hợp tác
với nước ngoài về pháp luật

15

I. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt
động hợp tác với nước ngoài về pháp luật


15

II. Những ưu điểm của hệ thống văn bản quy phạm pháp
luật điều chỉnh hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật
18
1. Xác định rõ phạm vi áp dụng và nguyên tắc hợp tác với nước
ngoài về pháp luật

18

2. Quy định khá rõ ràng, chặt chẽ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
từ khâu vận động, hình thành, xin phép và thực hiện chương trình, kế
hoạch, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật

19

2.1 Khâu vận động

19

2.2 Khâu hình thành

19

2.3 Khâu xin phép, thẩm định

19

3. Xác định rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp
tác với nước ngoài về pháp luật

4. Nhận xét chung
III. Những điểm bất cập của hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp
luật
1. Phạm vi áp dụng còn hẹp
2. Trình tự, thủ tục hình thành dự án, chương trình hợp tác quốc

6

20
20

21
21


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật
tế về pháp luật còn có điểm chưa hài hòa thống nhất

22

3. Chưa quy định cơ chế cụ thể để Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm
vụ hỗ trợ tìm kiếm đối tác

22

4. Chưa quy định cụ thể về cơ chế điều phối chung giữa các nhà
tài trợ


23
5. Biện pháp xử lý vi phạm còn thiếu

23

Phần III
Đánh giá tình hình hợp tác với nước ngoài về
pháp luật từ khi ban hành Nghị định 103(năm 1998)
đến nay

24

I. Đánh giá những thành tựu của các dự án, chương trình,
hoạt động hợp tác

24

1. Điểm qua tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật
2. Những thành tựu do hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật
mang lại
2.1. Hỗ trợ tích cực công tác xây dựng thể chế

24

26
26

2.2. Hỗ trợ tăng cường năng lực các thiết chế thi hành pháp
luật


29
2.3. Hỗ trợ công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ pháp luật

2.4. Hỗ trợ công tác thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp
luật, trợ giúp pháp lý
2.5. Nhận xét chung
II. Đánh giá những mặt làm được của công tác quản lý nhà
nước trong hợp tác quốc tế về pháp luật
1. Những nỗ lực của Bộ Tư pháp
1.1. Thẩm định về nội dung các, dự án chương trình hợp tác với
nước ngoài về pháp luật

30

33
35
36
36
36

7


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật
1.2. Theo dõi, kiểm tra, đánh giá các dự án, chương trình hợp
tác

37


1.3. Tăng cường năng lực cho thiết chế giúp Bộ trưởng thực hiện
chức năng quản lý nhà nước

37

2. Những nỗ lực của các bộ, ngành khác có liên quan

38

III. Những tồn tại, bất cập và nguyên nhân

38

1. Những hạn chế, bất cập trong hoạt động hợp tác quốc tế về
pháp luật

38

1.1. Nhận thức chưa đầy đủ về mục đích, ý nghĩa của hợp tác
quốc tế về pháp luật

38

1.2. Thiếu tính chủ động trong quá trình hợp tác

38

1.3. Nội dung hợp tác còn chưa cân đối

39


1.4. Phạm vi hợp tác chỉ tập trung ở trung ương

39

1.5. Tình trạng trùng lặp trong hoạt động hợp tác

39

2. Nguyên nhân

40
Phần IV

Tổng hợp kết quả điều tra, khảo sát

41

I. Kết quả điều tra

41

1. Phạm vi điều tra

41

2. Kết quả điều tra và phân tích sơ bộ

42


2.1. Về vấn đề có hay không có hoạt động hợp tác

42

2.2. Vấn đề đồng ý hay không đồng ý việc mở rộng phạm vi điều
chỉnh của Nghị định 103 xuống địa phương

42

2.3. Vấn đề đồng ý hay không đồng ý việc mở rộng phạm vi điều
chỉnh của Nghị định 103 đối với các cơ quan ngoài Chính phủ

43

2.4. Vấn đề giao cho Uỷ ban nhân dân tỉnh hay Sở Tư pháp làm
đầu mối

43

8


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật
2.5. Về vấn đề các nội dung cần ưu tiên hợp tác về pháp luật

44

2.6. Về những khó khăn, vướng mắc thường gặp trong quá trình
triển khai các dự án, chương trình, hoạt động hợp tác


45

2.7. Về các biện pháp xử lý vi phạm theo quy định của Nghị
định 103

46

2.8. Về các biện pháp xử lý đối với hành vi không chấp hành chế
độ báo cáo

46

II. Tổng hợp kết quả khảo sát thực tế tại 09 tỉnh

46

1. Giới thiệu sơ bộ

46

2. Kết quả khảo sát và phân tích

47

2.1. Tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật tại các tỉnh được
chọn khảo sát

47


2.2. Về vấn đề mở rộng phạm vi áp dụng của Nghị định 103

49

2.3. Về khả năng tiếp nhận dự án, chương trình hợp tác

49

2.4. Về khả năng tìm kiếm đối tác

50

2.5. Về phạm vi các lĩnh vực cần ưu tiên hợp tác ở địa phương

50

2.6. Về các lĩnh vực cần Bộ Tư pháp hỗ trợ nếu được tiếp nhận
dự án, chương trình hợp tác

51

Phần V
một số Khuyến nghị sửa đổi, bổ sung Nghị định 103 và các văn bản
có liên quan

53

I. Khuyến nghị sửa đổi thể chế

53


1.Về vấn đề mở rộng phạm vi áp dụng của Nghị định 103

53

2. Về cơ quan có nhiệm vụ chủ trì, điều phối hoạt động hợp tác
quốc tế về pháp luật

54

3. Về thẩm quyền phê duyệt, dự án chương trình hợp tác với

9


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật
nước ngoài về pháp luật

54

4. Về thủ tục thẩm định của Bộ Tư pháp

55

5. Về các biện pháp chế tài

55

II. Khuyến nghị tổ chức thực hiện thể chế


56

1. Về lộ trình thực hiện mở rộng phạm vi áp dụng xuống địa
phương

56

2. Về cơ chế đảm bảo thực hiện những kiến nghị sửa đổi, bổ
sung nêu trên

56

2.1. Sớm thông qua Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010

56

2.2. Nâng cao hiệu quả công tác điều phối, quản lý chung hoạt
động hợp tác quốc tế về pháp luật

57

2.3. Tăng cường công tác phổ biến, tuyên truyền

57

2.4. Hỗ trợ nâng cao kỹ năng thực hiện, quản lý các dự án hợp
tác với nước ngoài về pháp luật
2.5. Tăng cường cơ chế trao đổi thông tin


57
57

Phần Phụ lục
Phụ lục I
Các
thể chế

dự

án,

chương

trình

hỗ

trợ

xây

dựng

61

Phụ lục II
Các dự án, chương trình hỗ trợ thiết chế


70

Phụ lục III
Các dự án, chương trình hợp tác về đào tạo pháp luật

73
Phụ lục IV
các dự án, chương trình hỗ trợ thông tin pháp luật, phổ biến, giáo
dục pháp luật, trợ giúp pháp lý

10

75


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật
Phụ lục V
Bảng tổng hợp kết quả rà soát, đối chiếu Nghị định số 103/1998/NĐCP với Nghị định số 17/2001/NĐ-CP, Quyết định số 64/2001/Qđ-TTg, Quyết
định số 122/2001/QĐ-TTg

77

Phụ lục VI
Bảng tổng hợp phiếu điều tra các sở Tư pháp

111

Phụ lục VII
Tổng hợp phiếu điều tra Uỷ ban nhân dân các tỉnh


115

Phụ lục VIII
Tổng hợp Phiếu điều tra dành cho các cơ quan, tổ chức việt nam ở

118

cấp trung ương

Phụ lục IX
Bảng tổng hợp trả lời của các nhà tài trợ

125

Phụ lục X
Tổng hợp ý kiến của các đại biểu tại hội thảo góp ý sửa đổi Nghị định số
103/1998/NĐ-CP tại Đồ Sơn, Hải Phòng

132

Tên viết tắt sử dụng trong Báo cáo

11


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Tên

viết tắt
ADB
AusAID

Tên đầy đủ
bằng tiếng Việt
Ngân hàng phát triển châu á
Cơ quan phát triển quốc tế
Ôxtrâylia

Cơ quan phát triển quốc tế
Canada
Cơ quan phát triển quốc tế Đan
DANIDA
Mạch
EU
Liên minh châu Âu
FES
Viện FES
CIDA

IMF
JICA
Novib
NZAID

Cơ quan Hợp tác quốc tế Nhật
Bản
Tổ chức Oxfam Hà Lan
Cơ quan phát triển quốc tế New

Zealand

ODA

Hỗ trợ phát triển chính thức

SCS

Tổ chức cứu trợ trẻ em Thụy Điển
Cơ quan hợp tác và phát triển
Thuỵ Sỹ
Cơ quan phát triển quốc tế Thuỵ
Điển

SDC
Sida
UNDP

12

Quỹ tiền tệ quốc tế

Chương trình phát triển của Liên
hợp quốc

Tên đầy đủ
bằng tiếng Anh
Asian Development
Bank
Australian Agency for

International
Development
Canadian International
Development Agency
Danish International
Development Agency
European Union
Frederich Ebert Stiftung
International Monetary
Funds
Japanese International
Cooperation Agency
Oxfam Netherlands
New Zealand Agency for
International
Development
Official Development
Assistance
Save Children Swiden
Swiss Development and
Cooperation Agency
Swidish International
Development Agency
United Nation
Development
Programme


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật


Tên
viết tắt
WB

Tên đầy đủ
bằng tiếng Việt
Ngân hàng thế giới

Tên đầy đủ
bằng tiếng Anh
World Bank

13


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Phần I
đặt vấn đề
Sau gần 20 năm thực hiện chính sách đổi mới toàn diện trên các lĩnh
vực của đời sống xã hội, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu đáng ghi
nhận về mọi mặt: kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng và hoàn
thiện bộ máy nhà nước.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) lần đầu tiên đã
chính thức thể chế hoá chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nhà nước pháp
quyền - một khái niệm vốn thiên nhiều về phạm trù luật học - đã chính
thức trở thành một nguyên tắc mang tính hiến định. Đây không chỉ thuần

túy là vấn đề thuộc về kỹ thuật lập pháp mà nó thể hiện một sự thay đổi về
chất trong tư duy, trong nhận thức về vai trò của pháp luật trong đời sống
xã hội.
Thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật là nếu so sánh với quãng thời gian 40 năm (1945-1985), thì trong
gần 20 năm qua, số văn bản luật, pháp lệnh được ban hành nhiều gấp hơn 2
lần so với cả 40 năm trước đó cộng lại1. Hệ thống pháp luật thực định đã
được hình thành tương đối đồng bộ, toàn diện, về cơ bản đáp ứng được
những đòi hỏi của tình hình thực tế; công tác tổ chức thực hiện pháp luật
ngày càng phát huy hiệu quả, người dân ngày càng có nhiều cơ hội tiếp cận
hệ thống pháp luật; ý thức pháp luật, văn hóa pháp lý ngày càng được nâng
cao. Hoạt động của các cơ quan nhà nước ngày càng đảm bảo tính công
khai, các quyền tự do dân chủ của công dân ngày càng được tôn trọng và
đảm bảo thực thi. Những thành tựu đáng ghi nhận đó không chỉ là sự đánh
1

Báo cáo về đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010.

14


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

giá một chiều của phía Việt Nam mà còn được cộng đồng quốc tế thừa
nhận2.
Đóng góp vào những thành tựu bước đầu đó là do yếu tố phát huy nội
lực, tự thân vận động là chính. Bên cạnh đó, có sự đóng góp tích cực rất
đáng ghi nhận của cộng đồng quốc tế thông qua các dự án, chương trình hợp

tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật với các cơ quan, tổ chức của Việt Nam.
Song song với việc thực hiện nhiều biện pháp nhằm đổi mới, phát triển và tổ
chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp luật và tư pháp bằng các nguồn
lực trong nước, Chính phủ Việt Nam đã luôn cố gắng trong việc vận động,
khai thác các nguồn tài trợ của nước ngoài trên cơ sở đảm bảo độc lập, chủ
quyền, an ninh quốc gia và với phương châm: ‘‘Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước’’.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, yêu cầu đặt ra cho
công cuộc phát triển hệ thống pháp luật và tư pháp nói chung cũng như việc
hợp tác quốc tế về pháp luật nói riêng ngày một cao, thách thức ngày càng
lớn. Lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế trong khuôn khổ AFTA, các hiệp
định thương mại, hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, đặc biệt là Hiệp
định thương mại Việt - Mỹ, cũng như quá trình chuẩn bị các điều kiện pháp
lý để trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới (WTO) đã và
đang tạo cho Việt Nam những cơ hội mới trong việc xây dựng và hoàn thiện
hệ thống pháp luật Việt Nam, đồng thời cũng đặt ra những nhiệm vụ, những
thách thức to lớn về mặt pháp lý.
Việc tăng cường hiệu quả hợp tác quốc tế nhằm giúp Việt Nam nhanh
chóng hài hoà được khung pháp luật của mình với các chuẩn mực pháp lý quốc
tế và khu vực là công việc vừa để đáp ứng yêu cầu cấp bách trước mắt, vừa có ý
nghĩa chiến lược bền vững và lâu dài.
2

Trong quá trình xây dựng Báo cáo về đánh giá nhu cầu phát
triển toàn diện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 có
sự tham gia tích cực của các chuyên gia quốc tế. Hội nghị
các nhà tài trợ về pháp luật đã được tổ chức 02 lần để góp ý
cho Báo cáo này.

15



Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Bên cạnh những thành tựu to lớn trong hợp tác quốc tế về pháp luật và tư
pháp trong thời gian vừa qua, cũng đã bộc lộ một số tồn tại, bất cập làm hạn
chế đáng kể hiệu quả và tác dụng của việc hợp tác, đặc biệt là xét theo yêu
cầu đổi mới về chất của quá trình hợp tác cũng như yêu cầu ngày càng cao
của tiến trình hội nhập quốc tế và khu vực. Việc phân tích và đánh giá một
cách khách quan, có cơ sở khoa học những thành tựu, đóng góp của hoạt
động hợp tác và sử dụng nguồn hỗ trợ của nước ngoài trong lĩnh vực pháp
luật, cũng như rút ra những kinh nghiệm từ những tồn tại trong thời gian vừa
qua, trên cơ sở đó vạch ra phương hướng và biện pháp để củng cố và hoàn
thiện thể chế, thiết chế quản lý hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật
là một việc làm rất cần thiết. Đó cũng chính là mục đích và nội dung của Báo
cáo này.
Trong phạm vi báo cáo này, chúng tôi cố gắng phân tích, đánh giá một
cách khách quan, khoa học khung pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động
hợp tác với nước ngoài về pháp luật; đánh giá những thành tựu cũng như
những điểm bất cập của hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trong thời
gian qua, đồng thời lý giải những nguyên nhân tồn tại nhằm đưa ra những
khuyến nghị sửa đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành
điều chỉnh hoạt động này (như Nghị định số 103/1998/NĐ-CP ngày
26/12/1998 về quản lý hợp tác với nước ngoài về pháp luật, Nghị định số
17/2001/NĐ-CP ngày 04/5/2001 về việc ban hành Quy chế quản lý và sử
dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức, Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg
ngày 26/4/2001 về việc ban hành Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi
chính phủ nước ngoài...), cũng như các kiến nghị nhằm tăng cường năng lực
của các thiết chế quản lý và thực hiện các dự án, chương trình hợp tác, nhằm

góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực
pháp luật, phục vụ đắc lực công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam
trong giai đoạn hiện nay.
Trước mắt, Báo cáo này có thể làm cơ sở cho việc thảo luận giữa các cơ
quan, tổ chức của Việt Nam với các nhà tài trợ trong khuôn khổ một hội thảo
dự kiến được tổ chức vào cuối tháng 7/2004.

16


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Báo cáo này tập trung chủ yếu vào:
- Đánh giá thực trạng những quy định hiện hành về quản lý hoạt động
hợp tác với nước ngoài về pháp luật, rà soát, phát hiện những quy định
chồng chéo, bất cập;
- Đánh giá một cách khách quan, toàn diện những đóng góp của hoạt
động hợp tác quốc tế và sử dụng hỗ trợ quốc tế trong lĩnh vực pháp luật
cũng như những tồn tại, bất cập của công tác quản lý nhà nước trong lĩnh
vực này;
- Phân tích nguyên nhân của những tồn tại, bất cập;
- Đưa ra các khuyến nghị sửa đổi, bổ sung hệ thống các văn bản quy
phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh
vực pháp luật cũng như các khuyến nghị về cơ chế thực thi các quy định đó
trong thực tế.

Phần II
Đánh giá thực trạng những quy định
pháp luật hiện hành về quản lý hoạt động

hợp tác với nước ngoài về pháp luật
I. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp tác
3
với nước ngoài về pháp luật

Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành điều chỉnh hoạt
động hợp tác với nước ngoài về pháp luật chủ yếu gồm có các văn bản sau:
- Nghị định số 103/1998/NĐ-CP ngày 26/12/1998 về quản lý hợp
tác với nước ngoài về pháp luật (sau đây gọi tắt là Nghị định 103);
- Thông tư số 10/1999/TT-BTP ngày 10/4/1999 của Bộ Tư pháp hướng
3

Về chi tiết đề nghị xem Bảng rà soát Nghị định 103 ở Phần
Phụ lục V của Báo cáo này.

17


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

dẫn thi hành Nghị định số 103/1998/NĐ-CP ngày 26/12/1998 về quản lý
hợp tác với nước ngoài về pháp luật (sau đây gọi tắt là Thông tư 10);
- Nghị định số 17/2001/NĐ-CP ngày 04/5/2001 về việc ban hành Quy
chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (sau đây gọi tắt là
Nghị định 17);
- Quyết định số 64/2001/QĐ-TTg ngày 26/4/2001 về việc ban hành
Quy chế quản lý và sử dụng viện trợ phi chính phủ nước ngoài (sau đây gọi
tắt là Quyết định 64);
- Quyết định số 122/2001/QĐ-TTg ngày 21/8/2001 của Thủ tướng

Chính phủ về tổ chức và quản lý hội nghị, hội thảo quốc tế (sau đây gọi tắt
là Quyết định 122).
- Nghị định số 20/2002/NĐ-CP ngày 20/02/2002 của Chính phủ về ký
kết và thực hiện thỏa thuận quốc tế của các tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ương, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và tổ chức xã hội - nghề
nghiệp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (sau đây gọi tắt là
Nghị định 20).
Trong đó có 03 văn bản chủ yếu là Nghị định 103, Nghị định 17 và
Quyết định 64.
- Mối quan hệ giữa Nghị định 103, Nghị định 17 và Quyết định 64:
+ Cả ba văn bản đều có nội dung cơ bản điều chỉnh vấn đề thu hút
nguồn tài trợ của nước ngoài. Do đó, về mặt lý thuyết, có thể dẫn đến tình
trạng chồng chéo nhau, đặc biệt là giữa Nghị định 103 và Nghị định 17 (là
văn bản ngang cấp, nếu mâu thuẫn nhau sẽ rất khó áp dụng).
+ Về phạm vi áp dụng: Nghị định 17 điều chỉnh vấn đề thu hút, quản lý
và sử dụng vốn ODA; Quyết định 64 điều chỉnh vấn đề thu hút, quản lý và
sử dụng nguồn tài trợ phi chính phủ nước ngoài; còn Nghị định 103 điều
chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật (cả ODA và phi
chính phủ). Như vậy, có thể thấy ba văn bản này có những điểm giao nhau.
Để hình thành một chương trình, dự án trong lĩnh vực pháp luật trước hết
18


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

phải tuân thủ quy định của Nghị định 103, sau đó nếu chương trình, dự án
đó có sử dụng vốn ODA thì phải đồng thời tuân thủ Nghị định 17; nếu sử
dụng nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ thì phải đồng thời tuân thủ
Quyết định 64. Như vậy, rất khó có thể nói văn bản nào trùm lên văn bản

nào. Tuy nhiên, cũng cần nhấn mạnh là Nghị định 103 chỉ điều chỉnh khía
cạnh pháp lý của chương trình, dự án (chủ yếu thể hiện qua khâu thẩm định
của Bộ Tư pháp), còn các vấn đề về vốn, kỹ thuật, quy trình giải ngân… thì
do Nghị định 17 và Quyết định 64 điều chỉnh.
+ Về đối tượng điều chỉnh: Nghị định 103 chưa điều chỉnh hoạt động
hợp tác quốc tế về pháp luật của các địa phương, trong khi đó Nghị định 17
và Quyết định 64 điều chỉnh tất cả các cơ quan từ trung ương tới địa
phương. Vì vậy, có thể khẳng định đối tượng của Nghị định 17 rộng hơn
Nghị định 103.
+ Nhận xét chung: về cơ bản nội dung của các văn bản trên là hài hòa,
tương thích với nhau. Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan
cũng được phân định khá rõ ràng: Bộ Kế hoạch và Đầu tư là đầu mối chung
về ODA và phi chính phủ, còn Bộ Tư pháp chủ yếu đảm nhiệm vai trò thẩm
định khía cạnh pháp lý của dự án, chương trình hợp tác.
Cũng cần phải nói thêm rằng Nghị định 103 ra đời vào năm 1998, chủ
yếu căn cứ vào Nghị định 87 về ODA (ban hành năm 1997). Hiện nay, Nghị
định 87 đã bị thay thế bởi Nghị định 17 và bản thân Nghị định 17 cũng đang
sắp được sửa đổi, bổ sung. Do vậy, nhiều nội dung trong Nghị định 103
không còn phù hợp với tình hình thực tế.
II. Những ưu điểm của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật

Nhìn một cách tổng thể, hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật theo chúng tôi là tương đối
đồng bộ, chi tiết, điều chỉnh khá chặt chẽ toàn bộ các khâu của quá trình hợp
tác từ vận động, hình thành, xin phép, thẩm định, phê duyệt, thực hiện... đến
công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật. Nhờ
19



Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

vậy, trong những năm qua, hoạt động này đã dần dần được đưa vào nền nếp,
có định hướng tập trung vào những lĩnh vực ưu tiên nhằm góp phần tích cực
phục vụ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam.
Những ưu điểm của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật, đặc biệt là Nghị định 103 và Thông tư
10 thể hiện ở những điểm chính như sau:
1. Xác định rõ phạm vi áp dụng và nguyên tắc hợp tác với nước
ngoài về pháp luật
- Nghị định 103 và Thông tư 10 đã xác định rõ phạm vi hợp tác với
nước ngoài về pháp luật dừng ở các cơ quan, tổ chức ở cấp trung ương, bao
gồm các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và cơ quan trung
ương của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội. Như vậy, Nghị định
không điều chỉnh hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật của các ban
của Đảng, Văn phòng Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát
nhân dân tối cao và chưa cho phép các chính quyền địa phương được quyền
chủ động đàm phán, hình thành các dự án, chương trình, hoạt động hợp tác
với nước ngoài về pháp luật.
- Nghị định 103 và Thông tư 10 đã đề ra các nguyên tắc hợp tác với
nước ngoài về pháp luật như: đảm bảo độc lập, chủ quyền, an ninh quốc gia,
tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, phong tục tập quán của dân tộc, đảm bảo tính
hiệu quả, thiết thực và tránh trùng lặp... Các nguyên tắc này cũng đã được
tái thể hiện trong Nghị định 17, Quyết định 64 được ban hành sau này.
2. Quy định khá rõ ràng, chặt chẽ về thẩm quyền, trình tự, thủ tục
từ khâu vận động, hình thành, xin phép và thực hiện chương trình, kế
hoạch, dự án hợp tác với nước ngoài về pháp luật

2.1 Khâu vận động

Quá trình vận động nguồn tài trợ (cả ODA và phi chính phủ) phải căn
cứ vào đường lối, chính sách, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đảng
và Nhà nước, chương trình xây dựng pháp luật của Quốc hội, mức độ ưu
tiên của vấn đề hợp tác và khả năng hợp tác của phía Việt Nam (Điều 2
20


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Nghị định 103, Điều 6 và 7 Nghị định 17, Điều 4 Quyết định 64). Cơ quan
đầu mối vận động ODA là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, còn cơ quan đầu mối
vận động tài trợ trong lĩnh vực pháp luật là Bộ Tư pháp.

2.2 Khâu hình thành
Cơ quan nào có nhu cầu hình thành dự án, chương trình, hoạt động hợp
tác về pháp luật và đã có đối tác phải phối hợp chặt chẽ với Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Tư pháp để hình thành nội dung hợp tác.

2.3 Khâu xin phép, thẩm định
Cơ quan đầu mối có trách nhiệm thẩm định chung đối với các dự án
ODA và phi chính phủ là Bộ Kế hoạch và Đầu tư, còn cơ quan đầu mối
thẩm định các dự án, chương trình hợp tác về pháp luật là Bộ Tư pháp. Có
một điểm đáng lưu ý là trong lĩnh vực pháp luật, thì mọi dự án, chương
trình, không phụ thuộc vào quy mô vốn, đều phải trình Thủ tướng Chính
phủ phê duyệt.
3. Xác định rõ cơ chế quản lý nhà nước đối với hoạt động hợp tác
với nước ngoài về pháp luật
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã xác định rõ nội dung quản
lý nhà nước, cơ quan làm đầu mối quản lý hoạt động hợp tác quốc tế về

pháp luật là Bộ Tư pháp (thẩm định dự án, hỗ trợ tìm kiếm đối tác, tổng hợp
báo cáo, thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm) cũng như các cơ quan phối hợp
trong công tác này như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Ngoại giao, Bộ Công
an, Bộ Tài chính và các bộ, ngành hữu quan khác.
4. Nhận xét chung
Theo đánh giá sơ bộ của chúng tôi, nhìn chung các quy định của
Nghị định 103, Thông tư 10 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan điều chỉnh hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật là tương đối
đồng bộ. Mối quan hệ giữa các văn bản trên (chủ yếu là giữa Nghị định
103 với Nghị định 17 và Quyết định 64) là mối quan hệ tương hỗ, văn

21


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

bản này bổ sung cho văn bản kia, không có văn bản nào bao trùm lên văn
bản nào. Các quy định trong các văn bản đó có tính khả thi tương đối
cao, chính vì vậy nó đã phát huy tác dụng nhất định trong thực tế. Cụ thể
là:
- Về cơ bản, hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật này đã dần dần đi
vào nền nếp. Nhìn chung, các hoạt động được triển khai đều tuân thủ
nguyên tắc hợp tác với nước ngoài về pháp luật, bảo đảm yêu cầu về trình
tự, thủ tục, bám sát các mục tiêu đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và
đạt được nhiều hiệu quả thiết thực.
- Vai trò quản lý nhà nước nói chung, vai trò của Bộ Tư pháp nói riêng
trong lĩnh vực này ngày càng được khẳng định.
III. Những điểm bất cập của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp luật


Bên cạnh những ưu điểm như vừa nêu trên, qua rà soát, chúng tôi nhận
thấy hệ thống văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hoạt động hợp tác với
nước ngoài về pháp luật cũng đã tỏ ra có nhiều điểm bất cập:
1. Phạm vi áp dụng còn hẹp
Phạm vi áp dụng của Nghị định 103 mới chỉ dừng lại ở các cơ quan
trung ương mà chưa điều chỉnh hoạt động hợp tác với nước ngoài về pháp
luật của chính quyền địa phương, đặc biệt là cấp tỉnh. Chính quyền địa
phương cũng có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức
thực hiện pháp luật, trong điều kiện nguồn lực trong nước còn nhiều hạn chế
thì sự hỗ trợ của các đối tác nước ngoài là rất cần thiết để giúp chính quyền
địa phương thực hiện tốt các nhiệm vụ này.
Ngay trong các cơ quan trung ương thì Nghị định 103 cũng chưa quy
định phạm vi áp dụng đối với các cơ quan ngoài Chính phủ (như các Ban
của Đảng, Văn phòng Quốc hội và các Uỷ ban của Quốc hội, Văn phòng
Chủ tịch nước, Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao...).
Trên thực tế trong số các cơ quan này đã có cơ quan đang chủ trì hoặc phối
hợp thực hiện một hoặc một số dự án, chương trình hoặc hoạt động hợp tác
22


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

quốc tế về pháp luật. Mặc dù Nghị định 103 chưa quy định nhưng trên thực
tế Bộ Tư pháp vẫn đang phải làm nhiệm vụ điều phối, tổng hợp các dự án,
chương trình hợp tác quốc tế về pháp luật do các cơ quan này thực hiện4 Do
vậy, cần thiết phải ‘‘chính thức hóa’’ hoạt động quản lý này giống như
trong Nghị định 17 đã có quy định5.
2. Trình tự, thủ tục hình thành dự án, chương trình hợp tác quốc tế về

pháp luật còn có điểm chưa hài hòa thống nhất
- Theo Nghị định 103 thì cơ quan, tổ chức Việt Nam sau khi có dự án
hợp tác phải gửi Công văn yêu cầu Bộ Tư pháp thẩm định. Thủ tục trình
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt dự án, chương trình hợp tác với nước ngoài
về pháp luật (dù có sử dụng ODA hay không) đều nhất thiết phải có ý kiến
thẩm định của Bộ Tư pháp.
- Tuy nhiên, theo Nghị định 17 (ban hành sau Nghị định 103) thì Bộ Kế
hoạch và Đầu tư lại là cơ quan chủ trì thẩm định dự án ODA về pháp luật và
cũng chính là cơ quan đề nghị Bộ Tư pháp thẩm định về mặt pháp luật. Nghị
định 17 chưa có quy định nào nêu rõ trước khi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổ
chức thẩm định chung đối với các dự án ODA nhất thiết phải thông qua thủ
tục thẩm định của Bộ Tư pháp đối với các dự án pháp luật có sử dụng ODA.
Như vậy, có thể thấy rằng trình tự thủ tục giữa hai văn bản này chưa
4

Mặc dù Nghị định 103 chưa quy định cụ thể nhưng một số cơ
quan như Văn phòng Quốc hội, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao vẫn thực hiện nghiêm chỉnh chế độ
báo cáo định kỳ 6 tháng và hàng năm (gửi Bộ Tư pháp).
5
Điều 46 của Quy chế quản lý và sử dụng nguồn hỗ trợ phát
triển chính thức ban hành kèm theo Nghị định số 17/2001/NĐ-CP
ngày 04/5/2001:
Quy định áp dụng đối với các cơ quan thuộc Quốc hội, Toà án
nhân dân tối cao, các tổ chức chính trị, chính trị-xã hội có
tiếp nhận ODA.
Quy chế này cũng được áp dụng chung cho các cơ quan
thuộc Quốc hội, Toà án nhân dân tối cao, các tổ chức chính
trị, chính trị-xã hội có tiếp nhận ODA.


23


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

thống nhất với nhau. Chính vì vậy mà trên thực tế hoàn toàn có thể xảy ra
khả năng là có thể có dự án, chương trình hợp tác quốc tế về pháp luật được
hình thành, phê duyệt nhưng chưa qua khâu thẩm định của Bộ Tư pháp.
3. Chưa quy định cơ chế cụ thể để Bộ Tư pháp thực hiện nhiệm vụ
hỗ trợ tìm kiếm đối tác
Nghị định 103 quy định Bộ Tư pháp có trách nhiệm hỗ trợ cơ quan, tổ
chức Việt Nam trong việc tìm kiếm đối tác, song chưa có quy định cụ thể
về cơ chế thực hiện quy định này (như thường xuyên tiến hành đánh giá
nhu cầu hợp tác quốc tế về pháp luật, tổ chức hội nghị thường niên với các
nhà tài trợ...), nên trên thực tế Bộ Tư pháp chưa có đầy đủ điều kiện để
thực hiện tốt nhiệm vụ này.
4. Chưa quy định cụ thể về cơ chế điều phối chung giữa các nhà tài
trợ
Mục đích của cơ chế này là nhằm tổng hợp, phân bổ các nguồn tài trợ
sao cho có hiệu quả nhất, tránh tình trạng cùng một hoạt động thì có nhiều
nguồn tài trợ trong khi có hoạt động cần tài trợ thì lại không có. Hiện nay,
Dự án VIE/02/015 ‘‘Hỗ trợ thực hiện chiến lược xây dựng pháp luật Việt
Nam đến năm 2010’’ đang cố gắng hỗ trợ để giải quyết phần nào vấn đề
này. Tuy nhiên, từ góc độ quản lý nhà nước nên chăng cũng cần phải quy
định về cơ chế tổng hợp, điều phối nhằm tạo cơ sở pháp lý cần thiết để các
cơ quan quản lý phối hợp hoạt động.
5. Biện pháp xử lý vi phạm còn thiếu
Cụ thể, qua rà soát, chúng tôi nhận thấy Nghị định 103 chưa có quy
định biện pháp chế tài áp dụng đối với trường hợp:

- Chương trình, dự án được hình thành mà không thông qua khâu thẩm
định của Bộ Tư pháp;
- Cơ quan, tổ chức không tuân thủ đầy đủ trình tự, thủ tục hình thành,
xin phép, triển khai dự án, chương trình hợp tác;
- Cơ quan, tổ chức không chấp hành nghiêm chỉnh chế độ báo cáo...

24


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

Những bất cập trên cho thấy sự cần thiết phải sửa đổi Nghị định 103,
Thông tư 10 và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như Nghị
định 17, Quyết định 64, Quyết định 122 nhằm tăng cường hiệu quả trong
việc thu hút các chương trình, kế hoạch, dự án hợp tác; đưa công tác hợp tác
với nước ngoài về pháp luật đi vào nền nếp và tăng cường hiệu quả của
quản lý nhà nước đối với công tác này. Việc sửa đổi, bổ sung các quy định
trên chắc chắn sẽ có tác dụng nâng cao hiệu quả thu hút và sử dụng các
nguồn tài trợ của nước ngoài trong lĩnh vực pháp luật, nhằm góp phần tích
cực thực hiện một cách hiệu quả mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Phần III
Đánh giá tình hình hợp tác với nước ngoài
về pháp luật từ khi ban hành Nghị định 103
(năm 1998) đến nay
I. Đánh giá những thành tựu của các dự án, chương trình, hoạt động hợp
tác


1. Điểm qua tình hình hợp tác quốc tế về pháp luật
Ngay từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XX đã bắt đầu có
những hoạt động xúc tiến, vận động để hình thành các dự án, chương trình
hợp tác quốc tế cụ thể trong lĩnh vực pháp luật. Cụ thể, theo thống kê sơ bộ
thì trong thời gian này đã có khoảng 15 nhà tài trợ, kể cả các tổ chức phi
chính phủ đã hỗ trợ cho khoảng gần 100 hoạt động, từ những hoạt động rất
nhỏ mang tính thử nghiệm cho đến những hoạt động tư vấn dài hạn trong
một số lĩnh vực pháp luật và tư pháp và chủ yếu tập trung vào các nội dung
tương trợ tư pháp và dưới hình thức quan hệ song phương.
Từ năm 1992 trở lại đây, ý thức được mục đích, ý nghĩa của hoạt động
hợp tác quốc tế trong lĩnh vực pháp luật, Chính phủ Việt Nam đã có những

25


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

chính sách điều chỉnh kịp thời nhằm hướng các hoạt động này tập trung vào
những lĩnh vực và nội dung mang tính chủ yếu, nhằm phục vụ công cuộc
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và tư pháp. Đó là việc hoàn thiện
khung pháp luật (thể chế), tăng cường năng lực các cơ quan thi hành pháp
luật (thiết chế), đào tạo và bồi dưỡng cán bộ pháp luật, thông tin pháp luật,
phổ biến, giáo dục pháp luật và trợ giúp pháp lý. Tính đến nay, đã có
khoảng 30 cơ quan6 có sự hợp tác pháp luật với nước ngoài trong lĩnh vực
xây dựng pháp luật và thi hành pháp luật như Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Văn phòng Quốc hội, Văn phòng Chính phủ, Viện kiểm sát nhân
dân tối cao, Toà án nhân dân tối cao, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Thương mại, Bộ Y tế, Bộ
Tài chính, Tổng cục Du lịch, Ngân hàng nhà nước, Bộ Ngoại giao, Bộ Bưu

chính Viễn thông, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Uỷ ban Dân số, Gia đình
và Trẻ em, Bộ Thủy sản... Các đối tác nước ngoài cũng rất đa dạng, bao
gồm các chính phủ nước ngoài (Pháp, Đức, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Đan Mạch,
Thụy Điển, Hà Lan, Tây Ban Nha, Bỉ, Hàn Quốc...), các tổ chức liên chính
phủ (Liên hợp quốc, EU), các tổ chức phi chính phủ (KAS, FES...) đến các
tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế và khu vực (WB, IMF, ADB)...
Các hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật trên thực tế rất đa dạng và
phong phú. Trong phạm vi nghiên cứu này, chúng tôi tạm thời khái quát
thành 04 nhóm7 hoạt động lớn sau:
- Hỗ trợ xây dựng thể chế pháp luật (khung pháp luật);
- Hỗ trợ tăng cường năng lực các thiết chế thi hành pháp luật;
- Hỗ trợ công tác đào tạo pháp luật;

6

Báo cáo về đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện hệ thống
pháp luật Việt Nam đến năm 2010.
7
Chúng tôi sử dụng cách phân loại hệ thống pháp luật
trong Báo cáo về đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010.

26


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

- Hỗ trợ công tác thông tin pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp luật, trợ
giúp pháp lý.

2. Những thành tựu do hoạt động hợp tác quốc tế về pháp luật
mang lại
Trong Báo cáo tổng thể về đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện hệ
thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 đã khẳng định rõ: “Trải qua hơn
15 năm đổi mới, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật, góp
phần quan trọng vào việc thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng về
xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa và Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam”8.
Góp phần vào những thành tựu đó có một phần không nhỏ của hoạt
động hợp tác quốc tế. Chính thông qua sự giúp đỡ, tài trợ của cộng đồng
quốc tế mà Việt Nam đã có thêm kiến thức, kinh nghiệm và nguồn lực tài
chính để thực hiện tốt hơn công tác xây dựng, hoàn thiện và tổ chức thực
hiện pháp luật, góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa.
Báo cáo này tập trung đánh giá thành tựu do hoạt động hợp tác
quốc tế về pháp luật mang lại thể hiện trên 04 phương diện sau:

2.1 Hỗ trợ tích cực công tác xây dựng thể chế
Kể từ năm 1986 đến nay, chủ trương hoàn thiện hệ thống pháp luật
nhằm kịp thời thể chế hóa đường lối đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam luôn được khẳng định một cách rõ ràng
và nhất quán trong các văn kiện của Đảng và Nhà nước Việt Nam, đặc biệt
là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 (khóa VII), Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ VIII, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII),
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, Nghị quyết số 08/NQ-TW
8

Báo cáo tổng thể về Đánh giá nhu cầu phát triển toàn diện
hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010.


27


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác
tư pháp trong thời gian tới, Chỉ thị số 10/2002/CT-TTg ngày 19/3/2002
của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện Nghị quyết số
08/NQ-TW ngày 02/01/2002 của Bộ Chính trị...
Tuy nhiên, xây dựng khung pháp luật đáp ứng được những yêu cầu của
nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa từ xuất phát điểm
mô hình pháp luật trong thời kỳ kế hoạch hóa tập trung là một điều không
đơn giản, đòi hỏi phải có những thay đổi ngay từ trong tư duy, trong nhận
thức của đội ngũ cán bộ hoạch định chính sách, pháp luật. Muốn xây dựng
được những văn bản pháp luật có chất lượng tốt, đáp ứng được những đòi
hỏi của tình hình thực tế, đặc biệt là những văn bản pháp luật điều chỉnh
lĩnh vực kinh tế thị trường và pháp luật hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các
cán bộ pháp luật, mà trước hết là đội ngũ cán bộ làm công tác xây dựng,
thẩm định, kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (bao gồm cả điều ước quốc
tế) phải không ngừng học hỏi, trau dồi kiến thức, kinh nghiệm. Các hoạt
động hợp tác quốc tế đóng vai trò là cầu nối một cách rất thiết thực và hiệu
quả, không chỉ dừng lại ở sự chuyển giao kiến thức, kinh nghiệm mà còn
giúp bạn bè quốc tế hiểu rõ hơn về hệ thống pháp luật Việt Nam, từ đó có
thêm thiện cảm với đất nước và con người Việt Nam, không có những cái
nhìn sai lệch về chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Ngay từ năm 1994 (trước khi ban hành Nghị định 103), UNDP đã có
những hoạt động hợp tác với Chính phủ Việt Nam để hỗ trợ các nỗ lực của
Chính phủ Việt Nam trong việc củng cố và tăng cường pháp chế xã hội chủ
nghĩa. Thông qua dự án hợp tác với Bộ Tư pháp Việt Nam, UNDP đã hỗ trợ

công tác đánh giá khung pháp luật của Việt Nam đối với các hoạt động kinh
tế và bảo vệ môi trường, cùng với các khuyến nghị nhằm hoàn thiện khung
pháp luật thông qua việc sửa đổi các luật, các văn bản quy phạm, các thiết
chế thi hành pháp luật hiện hành, và ban hành văn bản quy phạm pháp luật
mới. Việc đánh giá khung pháp luật về kinh tế và môi trường đã tập trung
vào 11 lĩnh vực pháp luật quan trọng và do các cơ quan nghiên cứu pháp
luật khác nhau của Việt Nam thực hiện: (1) các loại hình tổ chức doanh
nghiệp; (2) luật dân sự; (3) luật thương mại; (4) pháp luật về thị trường
28


Đánh giá thực trạng công tác quản lý và điều phối hoạt động hợp tác
với nước ngoàI về pháp luật

chứng khoán; (5) pháp luật về phá sản và giải quyết tranh chấp; (6) cạnh
tranh và bảo vệ người tiêu dùng; (7) luật đất đai, luật tài nguyên và môi
trường; (8) luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng; (9) quản lý tài sản công,
thuế và tài chính, ngân sách nhà nước; (10) thông tin pháp luật; và (11) các
điều ước quốc tế. Liên quan đến các lĩnh vực này, trong quá trình nghiên
cứu, nhiều chuyên gia luật pháp quốc tế đã cung cấp kinh nghiệm về luật so
sánh và luật quốc tế có liên quan đến những vấn đề mà Việt Nam đang
nghiên cứu cũng như cung cấp kỹ năng soạn thảo hoặc sửa đổi, bổ sung các
văn bản pháp luật này. Tới nay, nhiều khuyến nghị cụ thể về xây dựng thể
chế được nêu trong các nghiên cứu trên đã được các cơ quan có thẩm quyền
của Việt Nam áp dụng trong thực tế và đã phát huy tác dụng nhất định.
Số lượng hoạt động hợp tác và số lượng các nhà tài trợ tham gia hỗ
trợ trong lĩnh vực thể chế chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tất cả hoạt động
hợp tác pháp luật. Có khoảng 60 hoạt động khác nhau với sự hỗ trợ của
gần 30 nhà tài trợ như các tổ chức hợp tác phát triển quốc tế của một số
chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế đa phương và các tổ chức phi

chính phủ. (Về chi tiết các dự án, chương trình hỗ trợ thể chế đề nghị xem
ở Phụ lục I của Báo cáo này).
Tóm lại, trong khoảng 5 năm trở lại đây, có khoảng ít nhất 50 văn bản
quy phạm pháp luật (từ bộ luật, luật, pháp lệnh đến nghị định, thông tư...)
đã được các nhà tài trợ hỗ trợ về tư vấn chuyên môn cũng như kỹ thuật xây
dựng văn bản. Chúng tôi cho rằng cái được lớn nhất ở đây là các chuyên gia
pháp luật Việt Nam đã được chuyển giao kiến thức và kinh nghiệm - điều
hết sức quan trọng đối với các nước có nền kinh tế chuyển đổi nói chung
muốn đi tắt đón đầu để nhanh chóng đạt mục tiêu trở thành nước công
nghiệp phát triển.

2.2. Hỗ trợ tăng cường năng lực các thiết chế thi hành pháp
luật
Chúng ta đều biết rằng một hệ thống pháp luật tốt mà không phát huy
tác dụng trong thực tế thì cũng trở thành vô nghĩa. ý thức được tầm quan

29


×