Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

SKKN Một số biện pháp nâng cao vốn từ ngữ trong môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.95 KB, 14 trang )

ĐỀ TÀI
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO VỐN TỪ NGỮ TRONG MÔN
LUYỆN TỪ VÀ CÂU CHO HỌC SINH LỚP 4
I. PHẦN MỞ ĐẦU
I.1. Lý do chọn đề tài :
Vai trò của Từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc dạy Từ
ngữ ở tiểu học. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ như một
phương tiện giao tiếp. Việc học Từ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh năng lực từ ngữ,
giúp học sinh nắm tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập những cấp học tiếp theo và
phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì khả năng lựa chọn
từ càng lớn, càng chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình cảm càng rõ ràng, sâu sắc bấy
nhiêu. Vì vậy số lượng từ, tính đa dạng, tính năng động của từ được xem là điều kiện
quan trọng hàng đầu để phát triển ngôn ngữ. Cũng chính vì vậy, ở tiểu học, từ ngữ
không chỉ được dạy trong tất cả các phân môn Tiếng Việt mà nó còn được dạy trong
tất cả các tiết học của các môn khác như Toán, Tự nhiên xã hội,…. Ở đâu có dạy
nghĩa từ, dạy sử dụng từ, thì ở đó dạy Từ ngữ.
Việc đổi mới phương pháp dạy học, thay sách giáo khoa của môn học Tiếng Việt
hiện nay là một bước tiến quan trọng của nền giáo dục nước nhà nhằm thực hiện mục
tiêu hình thành và phát triển ở học sinh các kỹ năng sử dụng Tiếng Việt (nghe, đọc,
nói, viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông
qua dạy và học Tiếng Việt còn góp phần rèn luyện cho các em các thao tác của tư
duy, cung cấp cho học sinh những kiến thức sơ giản về Tiếng Việt, về xã hội, tự
nhiên và con người, về văn hoá, văn học của Việt Nam và nước ngoài. Qua đó còn
bồi dưỡng tình yêu Tiếng Việt cho các em và hình thành thói quen giữ gìn sự trong
sáng, giàu đẹp của Tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Từ những mục đích giáo dục trên, việc dạy học phân môn “Luyện từ và câu” trong
môn Tiếng Việt đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Đây là sự
kết hợp của hai phân môn riêng biệt đó là Từ ngữ, Ngữ pháp trong chương trình tiểu
học trước đây. Nó phù hợp với yêu cầu giáo dục trong giai đoạn mới, thể hiện được
quan điểm dạy học mới là gắn liền những kiến thức về lý thuyết ngôn ngữ với việc


đưa chúng vào hiện thực sử dụng gắn lý thuyết với thực hành.
Xuất phát từ những suy nghĩ trên đồng thời bản thân tôi cũng đang tập trung tìm
hiểu vấn đề dạy cho học sinh sử dụng từ, phát triển kỹ năng sử dụng từ trong lời nói
và viết của học sinh tiểu học nên tôi đã chọn đề tài : “Một số biện pháp nâng cao
vốn từ ngữ trong môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4” để nghiên cứu.
I.2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài :
* Mục tiêu
Nâng cao vốn từ nghĩa là dạy học sinh sử dụng từ, phát triển kỹ năng sử dụng từ
trong lời nói và cách viết của học sinh, đưa từ vào trong vốn từ tích cực được học
sinh dùng thường xuyên. Nâng cao vốn từ tức là dạy học sinh biết dùng từ ngữ trong
nói năng của mình. Biện pháp giúp học sinh nâng cao vốn từ là cung cấp thêm cho
học sinh về từ vựng học cơ bản như một số vấn đề cấu tạo từ và các lớp từ. Những
khái niệm này sẽ giúp học sinh nắm nghĩa từ một cách sâu sắc và biết hệ thống hoá
vốn từ một cách có ý thức. Nâng cao vốn từ cho học sinh không chỉ là cung cấp vốn
1


từ hay phát triển kỹ năng vốn từ mà điều quan trọng là dạy cho học sinh thực hành từ
ngữ. Dạy thực hành từ ngữ chính là dạy từ theo quan điểm giao tiếp, dạy từ trên bình
diện phát triển lời nói. Đó chính là công việc làm giàu vốn từ cho học sinh.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu lý thuyết về từ ngữ, cách dùng từ và một số vấn đề liên quan đến vốn
từ.
- Tìm hiểu thực trạng về việc học sinh sử dụng từ và vốn từ có sẵn của các em trong
quá trình học tập.
- Tìm hiểu và tiến hành xây dựng các biện pháp giúp học sinh tích cực hóa vốn từ...
- Đề xuất một số ý kiến về nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh trong giao tiếp ngôn
ngữ cũng như trong trình bày văn bản.
I.3. Đối tượng, pham vi nghiên cứu :
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các em học sinh tiểu học lớp 4B, Trường Tiểu

học Thanh Tân.
I. 4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
Với thời gian và kiến thức của bản thân còn hạn chế nên đề tài chỉ nghiên cứu
trong phạm vi Trường Tiểu học Thanh Tân.Nội dung chủ yếu là tìm hiểu về thực
trạng hiện nay việc dạy học và mở rộng từ ngữ trong phân môn “Luyện từ và câu”
của học sinh lớp 4B, từ đó đề xuất một số biện pháp tổ chức giúp học sinh nâng cao
vốn từ.
I. 5. Phương pháp nghiên cứu:
a.Phương pháp điều tra.
Đây là phương pháp điều tra nghiên cứu từ thực tế hình thức tổ chức dạy học và
mở rộng vốn từ cho học sinh lớp 4 đối với phân môn “Luyện từ và câu” trong môn
Tiếng Việt ở trường tiểu học.
b. Phương pháp lý thuyết :
Là phương pháp nghiên cứu các tài liệu có liên quan đến vốn từ và cách cung cấp
vốn từ cho học sinh tiểu học.
c. Phương pháp phân tích, tổng hợp :
Sau khi nghiên cứu nội dung từ thực tế và tham khảo sách, tài liệu, tôi tiến hành
phân tích tổng hợp việc dạy học sinh sử dụng từ và phát triển kỹ năng sử dụng từ
trong học tập của môn “Luyện từ và câu” của học sinh tiểu học ở đơn vị mình. Từ đó
có cơ sở để đề xuất ý kiến về việc tổ chức một số biện pháp nâng cao vốn từ trong
phân môn “Luyện từ và câu” ở trường tiểu học hiện nay.
Ngoài ra tôi còn sử dụng thêm một số phương pháp khác để bổ sung cho quá trình
nghiên cứu của đề tài.
II. PHẦN NỘI DUNG
II.1. Cơ sở lí luận :
Nâng cao vốn từ có vai trò đặc biệt quan trọng trong hệ thống ngôn ngữ. Việc
giúp học sinh nâng cao vốn từ là giúp cho các em nắm ngôn ngữ làm phương tiện
giao tiếp. Để học sinh nâng cao vốn từ thì trước hết phải dạy cho các em nắm được từ
ngữ, tạo cho các em năng lực từ ngữ, giúp các em nắm được tiếng mẹ đẻ, nắm được
các từ ngữ thông dụng tối thiểu về thế giới xung quanh công việc của học sinh ở

trường, ở nhà, tình cảm gia đình và vẻ đẹp thiên nhiên, đất nước con người… những
từ ngữ đó gắn với việc giáo dục học sinh tình yêu gia đình, nhà trường, yêu tổ quốc,
2


yêu nhân dân, yêu lao động…chúng làm giàu nhận thức, mở rộng tầm mắt của học
sinh, giúp các em nhận thấy vẻ đẹp của quê hương đất nước, con người, dạy các em
biết yêu và ghét. Việc dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ được tiến hành trên những mẫu
mực tiếng Việt hiện đại. Vốn từ của học sinh được làm giàu dựa trên những ngữ liệu
chủ yếu là những bài tập đọc, những câu chuyện kể, các bài Tập làm văn. Từ lớp 2 tất
cả các nội dung có liên quan đến từ ngữ đều được sắp xếp theo chủ đề. Nói cách khác
cung cấp từ theo chủ đề là cơ sở của tính tuần tự trong dạy từ ngữ và nâng cao vốn từ
ở tiểu học.
II.2. Thực trạng:
Trường Tiểu học Thanh Tân là một đơn vị đóng trên địa bàn nông thôn . Với
423 học sinh, đa số là con em gia đình nông nghiệp. Đội ngũ cán bộ giáo viên của
trường có tay nghề vững vàng, nhiệt huyết với công việc. Ban lãnh đạo nhà trường
luôn quan tâm đúng mức đến chất lượng học tập và nề nếp của các em. Đầu năm học
2014-2015 tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4B, tổng số học sinh của lớp
33em, trong đó nữ 17 em. Tất cả đều là dân tộc kinh .Các em ngoan, ham học .
a. Thuận lợi – Khó khăn:
* Thuận lợi:
Ngay khi bắt đầu tiến hành nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được nhiều sự ủng hộ
từ phía nhà trường cũng như một số giáo viên. Ban giám hiệu nhà trường đã tạo mọi
điều kiện thuận lợi và hướng dẫn chi tiết cho tôi cách trình bày nội dung đúng với
hướng dẫn của Phòng giáo dục, cung cấp cho tôi những tư liệu cần thiết để nghiên
cứu. Bên cạnh đó các anh chị em đồng nghiệp rất cởi mở và nhiệt tình giúp đỡ cho tôi
hoàn thành nội dung nghiên cứu, nhiều giáo viên không ngại khó khăn đã cùng trao
đổi với tôi rất nhiệt tình về những kinh nghiệm nghiệp vụ, hướng dẫn tôi một số biện
pháp nâng cao vốn từ cho học sinh. Đặc biệt các em học sinh lớp 4B rất ham học và

ngoan ngoãn, sẵn sàng hợp tác mỗi khi giáo viên dạy áp dụng các phương pháp vào
bài dạy.
* Khó Khăn:
Bên cạnh đó vẫn còn một số khó khăn nhất định như :
Đây là một lĩnh vực nghiêm cứu mới lạ, chưa có người làm nên tài liệu tham
khảo cho quá trình nghiên cứu còn rất ít. Thời gian nghiên cứu có hạn không thể áp
dụng xong sáng kiến và đánh giá chính xác 100% về mức độ đạt của học sinh dẫn
đến chưa xác định được khả năng thành công của đề tài. Bên cạnh đó là do kinh tế gia
đình các em còn khó khăn, phụ huynh chưa thực sự quan tâm đến việc học tập của
con em mình nên dẫn tới chất lượng học sinh không đồng đều cũng là một khó khăn
cho việc nghiên cứu.
b. Thành công – Hạn chế:
* Thành công
Ngay từ đầu năm học, khi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 4B nên tôi
đã sắp xếp thời gian hợp lý tiếp cận với các em, tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của các
em trong học tập cũng như vui chơi. Cũng từ đó tôi đã lập cho mình một kế hoạch
dạy học phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp. Trong đó việc nắm bắt mức
độ vốn từ của mỗi học sinh và tôi quyết định nghiên cứu về lĩnh vực này. Sau đó tôi
đã tiến hành khảo nghiệm trong mỗi bài dạy và cho thấy có sự thay đổi rõ nét, chất
lượng tăng lên từng ngày. Đó cũng là thành công bước đầu của đề tài.
3


* Hạn chế :
Hạn chế lớn nhất của việc nghiên cứu và áp dụng là thời gian lồng ghép những
biện pháp trong đề tài vào quá trình giảng dạy bị hạn chế. Bên cạnh đó đối tượng học
sinh trong lớp không đồng đều, đa số các em là con em gia đình làm nông nghiệp,
kinh tế còn eo hẹp nên bố mẹ chưa quan tâm đến việc học tập của con em đúng mức.
Tất cả những điều đó là những hạn chế lớn nhất trong việc nghiên cứu nội dung của
đề tài này.

c. Mặt mạnh – Mặt yếu:
* Mặt mạnh:
Việc sử dụng những biện pháp nhằm nâng cao vốn từ cho học sinh lớp 4 là một
biện pháp mang tính thiết yếu trong quá trình dạy học hiện nay. Bởi yêu cầu của chất
lượng học tập luôn được nâng cao trong khi đó thực tế của một số học sinh tại
Trường Tiểu học Thanh Tân chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế trên mức đại trà. Do
đó mặt mạnh của giải pháp là cung cấp thêm cho học sinh một số vốn từ ngữ trong
quá trình học tập, rèn luyện kỹ năng sử dụng Tiếng Việt để trình bày văn bản và giao
tiếp hằng ngày. Đồng thời xây dựng cho học sinh ý thức tự giác rèn luyện, tự nâng
cao kiến thức cho bản thân qua học tập cũng như qua tiếp xúc với các nguồn thông
tin đại chúng.
* Mặt yếu:
Bên cạnh những mặt mạnh của giải pháp nêu trên vẫn còn những mặt yếu:
- Phải có sự đầu tư công phu và nhiều thời gian nên sẽ ảnh hưởng đến quỹ thời
gian học tập chính thức của lớp, do đó giáo viên cần bố trí hợp lý vào các buổi thứ
hai hoặc các buổi sinh hoạt ngoại khóa.
- Sử dụng các phương pháp này đòi hỏi người giáo viên phải thật kiên nhẫn, chịu
khó từng bước giúp đỡ thì hiệu quả của tiết dạy mới đạt, nếu chỉ áp dụng một cách
thông thường thì hiệu quả sẽ không cao.
- Để những biện pháp nêu trên đi sâu vào các tiết học, đòi hỏi phải trang bị thêm
nhiều tài liệu tham khảo của môn Luyện từ và Câu.
d. Các nguyên nhân:
- Nguyên nhân của việc nghiên cứu đề tài này có rất nhiều nguyên nhân tác
động. Nhưng tôi chỉ nêu ra một số nguyên nhân chính tác động đến việc tìm hiểu và
nghiên cứu đến nội dung của đề tài như sau :
- Ngay từ đầu năm học khi nhận lớp tôi đã tìm hiểu ngay về khả năng kiến thức
của từng em và tôi nhận thấy trong lớp còn nhiều em có vốn từ rất nghèo nàn, nhất là
khi viết bài văn tả hoặc tìm từ, đặt câu. Nguyên nhân thứ hai cũng là do tính thực tế
nghề nghiệp của bản thân có lòng yêu nghề, mến trẻ, tôi rất băn khoăn khi thấy chất
lượng học sinh trong lớp bên cạnh đó cũng muốn phấn đấu thi đua, đưa chất lượng

của lớp nâng cao theo mục tiêu phấn đấu của nhà trường. chính vì thế tôi đã quyết
định tìm hiểu và nghiên cứu nội dung “Một số biện pháp nâng cao vốn từ ngữ trong
môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4”
II.3. Giải pháp, biện pháp:
a. Mục tiêu của giải pháp:
Việc nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh là một trong những yêu cầu quan trọng
trong công tác giáo dục tại trường tiểu học. Nâng cao vốn từ không chỉ giúp học sinh
có vốn từ ngữ để làm bài làm văn hay các bài tập ở môn Luyện từ và câu và nâng cao
4


vốn từ còn giúp cho học sinh có kĩ năng sống ,biết sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp
trong cuộc sống hằng ngày và học tập các môn khác. Do đó mục tiêu của giải pháp là
dùng các biện pháp thiết yếu và có tính khả thi để cung cấp thêm cho học sinh một số
vốn từ ngữ, giúp các em làm tốt các bài tập trong môn Luyện từ và câu qua đó các em
biết tích lũy kinh nghiệm, làm giàu vốn từ cho mình để giao tiếp và học tập tốt các
môn học khác.
b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp, biện pháp:
* Hình thức tổ chức giờ dạy từ ngữ theo hướng tích cực hoá :
Dạy từ ngữ dưới dạng nâng cao vốn từ ở tiểu học được tổ chức theo hai hình
thức : đó là dạy bài lý thuyết về từ (Mở rộng vốn từ) và tổ chức thực hành từ ngữ làm giàu vốn từ cho học sinh.
a) Dạy bài lý thuyết về từ :
Mục đích cuối cùng của dạy từ là để học sinh sử dụng được từ trong hoạt động
nói năng. Các đo nghiệm cho thấy rằng có một số lượng từ rất lớn học sinh hiểu được
nghĩa nhưng chúng không đi vào vốn từ tích cực, không được học sinh sử dụng trong
giao tiếp của mình. chính vì vậy, dạy sử dụng từ rất quan trọng. Nhiệm vụ cơ bản của
dạy từ ngữ là chuyển vốn từ tiêu cực của học sinh thành vốn từ tích cực. Để thực hiện
nhiệm vụ này, người ta đã xây dựng hệ thống bài tập sử dụng từ. Những bài tập này
nhằm làm giàu vốn từ cho học sinh bằng cách hình thành ở các em những kỹ năng sử
dụng từ. Các bài tập này vận dụng các quan hệ ngôn ngữ, cả quan hệ liên tưởng và

quan hệ hình tuyến để lựa chọn và kết hợp từ. Chúng mang tính chất từ vựng – Ngữ
pháp.
Ví dụ : Qua bài học về mở rộng vốn từ : Cái đẹp (Tiếng Việt lớp 4, môn “Luyện
từ và câu”, trang 52. sau nội dung bài học, có 2 bài tập nhằm làm giàu vốn từ cho học
sinh :
Bài tập 3 : Cho học sinh tìm các từ ngữ miêu tả mức độ cao của cái đẹp (HS suy
nghĩ tìm ra : tuyệt vời, lộng lẫy,...)
Bài tập 4 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 3. (Những cây cảnh trước sân
trường em đẹp tuyệt vời. Mái tóc nhung huyền, xoã ngang vai của chị tôi đẹp tuyệt
vời,...)
b) Tổ chức thực hành từ ngữ - làm giàu vốn từ cho học sinh:
Các bài tập sử dụng từ sẽ giúp học sinh nắm nghĩa và khả năng kết hợp của từ.
Các đo nghiệm cho thấy là do không nắm chắc nghĩa và khả năng kết hợp của từ mà
học sinh tiểu học đã nói, viết những câu như : “Hôm nay em dũng cảm”, “Em rất
đoàn kết”, “Em ở giữa tổ quốc”, “chị kiên nhẫn em bé”, “”em yêu các đất nước”, “em
thăm tổ quốc Căm Pu chia”.
Những bài tập được sử dụng ở tiểu học để dạy dùng từ là bài tập điền từ, bài tập
tạo ngữ, bài tập đặt câu, bài tập viết đoạn văn, bài tập chữa lỗi dùng từ.
Bài tập điền từ :
Là kiểu bài tập được sử dụng nhiều ở tiểu học. Có hai mức độ : hoặc cho trước
các từ, yêu cầu học sinh tìm trong số những từ đã cho những từ thích hợp để điền vào
chỗ trống trong đoạn, bài cho sẵn hoặc không cho trước các từ để học sinh tự tìm
trong vốn từ của mình mà điền vào. Đây là kiểu bài tập nâng cao vốn từ yêu cầu tính
độc lập và sáng tạo của học sinh ở mức độ thấp, vừa sức với tuổi nhỏ. Khi tiến hành
bài tập, giáo viên hướng dẫn học sinh nắm nghĩa của từ đã cho ( với bài tập cho sẵn
5


các từ cần điền ) và xem xét kỹ đoạn văn có chỗ trống (đã được giáo viên chép sẵn
trên bảng phụ). Giáo viên cho học sinh đọc lần lượt từng câu của đoạn văn cho sẵn,

đến những chỗ có chỗ trống thì dừng lại, cân nhắc xem có thể điền từ nào trong các
từ đã cho để câu văn có nghĩa, phù hợp với toàn đoạn. Khi đọc lại, thấy nghĩa của
câu, nghĩa của bài đều thích hợp thì bài tập đã được giải đúng.
Ví dụ:Qua bài học về mở rộng vốn từ : Sức khoẻ (Tiếng Việt lớp 4, môn “Luyện
từ và câu”, trang 19) sau nội dung bài học, có 1 bài tập kiểu điền từ :
Tìm từ ngữ thích hợp với mỗi chỗ trống để hoàn chỉnh các thành ngữ sau :
Khoẻ như..................
Nhanh như................
Bài tập tạo ngữ nhằm luyện cho học sinh biết kết hợp các từ. Bài tập này có hai
mức độ: Mức độ thứ nhất cho sẵn hai dãy yếu tố, yêu cầu học sinh chọn từng yếu tố
của dãy này ghép với một hoặc một số yếu tố của dãy kia cho thích hợp. Để làm
những bài tập này, giáo viên hướng dẫn học sinh thử ghép ở mỗi từ ở dãy này với
từng từ ở dãy kia, đọc lên rồi vận dụng kinh nghiệm nói năng của mình để xét xem
những cách nói nào chấp nhận được để nói cho đúng.
Bài tập dùng từ đặt câu:
Là kiểu bài tập với một hoặc một số từ cho trước, yêu cầu học sinh tự đặt câu.
Học sinh sẽ thể hiện sự hiểu biết của mình về nghĩa của từ, cách thức kết hợp từ với
nhau, ví dụ bài tập:’đặt ba câu mỗi câu dùng một từ sau: khai giảng, dạy bảo, gọn
gàng’, “Đặt câu với mỗi từ sau: vàng tươi, xanh ngắt”,… Những bài tập kiểu này có
cả trong giờ ngữ pháp, chúng yêu cầu học sinh sử dụng cả kiến thức từ ngữ và ngữ
pháp. Để làm những bài tập này, trước hết, giáo viên cần hướng dẫn học sinh hiểu
nghĩa của những từ đã cho, nhớ lại xem từ đó đã được dùng như thế nào trong các bài
tập đọc các em đã học, sau đó các em đặt được câu với những từ này. Để đặt được
những câu khác nhau. Giáo viên phải hướng dẫn học sinh tự đặt câu hỏi( hoặc giáo
viên đặt câu hỏi để cho các em trả lời, đặt thành câu).
Ví dụ 1: Qua ví vụ trên bài học về mở rộng vốn từ : Cái đẹp (Tiếng Việt lớp 4,
môn “Luyện từ và câu” trang 52. sau nội dung bài học, có 2 bài tập:
- Bài tập 3 : Cho học sinh tìm các từ ngữ miêu tả mức độ cao của cái đẹp (HS
suy nghĩ tìm ra : tuyệt vời, lộng lẫy,...)
- Bài tập 4 : Đặt câu với mỗi từ tìm được ở bài tập 3.

+ Mái tóc nhung huyền, xoã ngang vai của chị tôi đẹp tuyệt vời.
+ Ánh trăng rằm toả xuống cách đồng lúa vừa mới mưa xong, toả ra những vệt
sáng như ngọc bích, làm cho cánh đồng lúa trở nên đẹp lộng lẫy.
Ví dụ 2: Ở bài tập 5 (Tiếng việt 4 Tập 2 – trang 83) có đề bài : Đặt câu với một
trong các thành ngữ vừa tìm được ở bài tập 4.
Như vậy ở dạng bài tập này, yêu cầu học sinh phải từ tìm cho mình những vốn
từ ngữ mà các em tự hiểu và tiếp thu được qua học tập các môn học khác hoặc qua
các thông tin bên ngoài môn học. Nhưng vốn từ này các em phải dựa trên yêu cầu
chính là các thành ngữ có sẵn ở bài tập 4 đồng thời nội dung vừa đặt được phải thuộc
chủ điểm “Dũng cảm”.
Chẳng hạn, giáo viên có thể hướng dẫn cho các em một câu làm mẫu:
“Ông nội em là người đã từng vào sinh ra tử ở chiến trường miền Nam”
Bài tập chữa lỗi dùng từ :
6


Là bài tập đưa ra những câu dùng từ sai, yêu cầu học sinh nhận ra và sửa chữa.
Trong các tài liệu dạy học, số lượng bài tập thuộc kiểu này không nhiều nhưng trên
thực tế, có thể sử dụng bài tập này bất kì lúc nào thấy cần thiết, ở đâu có hoạt động
nói năng của học sinh ở đó có thể sử dụng kiểu bài tập này. Những lỗi dùng từ cần
lấy trong chính thực tế hoạt động nói, viết của học sinh. giáo viên cũng có thể đưa ra
những lỗi học sinh dễ mắc phải. Nhiệm vụ của học sinh là phát hiện và tự chữa những
lỗi này.
Các kiểu bài tập này đều được vận dụng để xây dựng các bài tập từ ngữ. Giáo
viên cần hướng dẫn cho học sinh biết cách thức chung để tiến hành bài tập này.
* Một số biện pháp nâng cao vốn từ cho học sinh:
Để tổ chức một giờ bài tập từ ngữ, giúp học sinh nâng cao vốn từ, giáo viên phải
nắm được mục đích, ý nghĩa, cơ sở xây dựng, nội dung bài tập và biết cách giải thích
chính xác bài tập, biết trình tự cần tiến hành giải bài tập để hướng dẫn cho học sinh.
Trong giáo án phải ghi rõ mục đích bài tập, lời giải mẫu, những sai phạm dự tính học

sinh có thể mắc phải và điều chỉnh đưa về cách giải đúng. Tuần tự công việc giáo
viên cần làm trên lớp này là ra nhiệm vụ (nêu đề ra), hướng dẫn và thực hiện kiểm tra
đánh giá.
1) Giáo viên cần nêu đề bài một cách rõ ràng, nên yêu cầu học sinh nhắc lại đề
ra, khi cần, phải giải thích để em nào cũng nắm được yêu cầu của bài tập. Có nhiều
hình thức nêu bài tập : Chỉ dùng lời, viết lên bảng, yêu cầu học sinh xem đề ra trong
sách học sinh hoặc vở bài tập. Nhưng dù đề bài được nêu ra dưới hình thức nào cũng
cần kiểm tra xem tất cả học sinh đã nắm được yêu cầu của bài tập chưa.
Có những trường hợp không thể sử dụng bài tập của sách học sinh như một đề
bài mà phải có sự điều chỉnh cho hợp lý, có thể là phải chia cắt bài tập của sách học
sinh thành những bài tập nhỏ hơn. Tuỳ thời gian và trình độ học sinh mà quy định số
lượng bài tập cần tiến hành trong giờ học. Có thể lựa chọn, lược bỏ, bổ sung thêm bài
tập của sách học sinh. khi giao bài tập cho học sinh cần lưu ý để có sự phân hoá cho
phù hợp với đối tượng.Nhưng phải theo hướng đảm bảo chuẩn kiến thức - Kĩ năng
trong từng tiết học.
2) Khi hướng dẫn học sinh làm bài tập, giáo viên phải nắm chắc trình tự của bài
tập. Cần phải dự tính trước những khó khăn và những lỗi học sinh mắc phải khi giải
bài tập để chữa kịp thời. Việc thực hiện bài tập cũng có nhiều hình thức :nói, đọc, viết
hoặc nối, tô, vẽ, đánh dấu. Có bài trả lời miệng, có bài viết, có bài gạch, đánh dấu
trong vở bài tập. Với những kiểu bài tập mới xuất hiện lần đầu giáo viên cần hướng
dẫn thật chi tiết. Khi hướng dẫn thực hiện cần chia thành nhiều mức độ cho phù hợp
với các đối tượng học sinh khác nhau, cần giúp những học sinh yếu kém bằng những
câu hỏi gợi mở. Trong quá trình tiến hành phải tăng dần mức độ làm việc độc lập của
học sinh.
3) Kiểm tra đánh giá : Đây là một công việc quan trọng mà giáo viên không
được bỏ qua hoặc xem nhẹ. Việc kiểm tra đánh giá là lúc giáo viên nắm bắt kết quả
tiếp thu kiến thức của học sinh, cũng là lúc giáo viên tự đánh giá lại hình thức tổ chức
dạy học của mình đã hợp lý chưa, phù hợp với từng đối tượng của học sinh trong lớp
không. Vì thế phải có mẫu lời giải đúng và dùng nó đối chiếu với bài làm của học
sinh, với những bài làm sai, giáo viên không nhận xét chung chung là sai mà phải dựa

vào quy trình làm bài, chia ra từng bước nhỏ hơn để thực hiện, từ đó chỉ rõ lỗi sai của
7


học sinh một cách chi tiết, cụ thể và có thể sửa chữa được. Phải biết cách chuyển từ
một lời giải sai sang một lời giải đúng như thế nào chứ không chỉ nói “em làm sai
rồi” và chuyển sang gọi em khác. Như vậy khi chữa bài tập, giáo viên không chỉ biết
đánh giá thế này là sai, thế kia là đúng mà phải cắt nghĩa được tại sao như thế là sai,
tại sao như thế là đúng, nghĩa là lại một lần nữa lặp lại quy trình giải bài tập khi có
học sinh làm chưa đúng.
4) Cuối cùng là thông qua hệ thống trò chơi :
Tổ chức trò chơi trong giờ dạy - Học “Luyện từ và câu” là một hình thức rất bổ
ích cho học sinh. Khi tổ chức thành công trò chơi trong giờ học sẽ mang lại hai tác
dụng lớn :
- Củng cố kiến thức, kỹ năng tiếp thu của học sinh qua giờ học, đồng thời giúp
cho giáo viên đánh giá, nhận xét kết quả học tập của học sinh một cách nhanh nhất về
những kiến thức đã truyền thụ và khả năng linh hoạt trong việc tìm tòi và xử lý khi
tham gia trò chơi.
- Thông qua trò chơi, tạo cho học sinh niềm vui, sự hứng khởi, thoải mái để tiếp
tục tham gia học tập tốt các môn học khác.
Chính vì vậy giáo viên cần chọn lựa những trò chơi vừa phù hợp với khả năng kiến
thức của học sinh, vừa củng cố kiến thức cần thiết đã học. Cần cân nhắc về thời gian
chơi cũng như về trật tự của lớp học để không ảnh hưởng đến những tiết học khác.
Có rất nhiều hình thức tổ chức trò chơi cũng như rất nhiều trò chơi trong dạy-học
“Luyện từ và câu”. Điều quan trọng là giáo viên phải biết nghiên cứu, tìm hiểu để lựa
chọn trò chơi sao cho phù hợp với đối tượng học sinh cũng như kiến thức cần củng
cố.
Ví dụ 1 : Ở lớp 4, sau khi dạy xong bài : Mở rộng vốn từ : Nhân hậu – Đoàn kết
(tiếng Việt 4, trang 33). Giáo viên có thể tổ chức một trò chơi nhỏ (trò chơi điền từ)
trong thời gian 5 phút để củng cố kiến thức cho học sinh :

* Dùng 2 tấm bìa roky đã viết sẵn một số câu còn thiếu :
Hiền như ……
Lành như ……
Dữ như ……
Thương nhau như ……
Ghét nhau như ……
* Cắt một số từ : đất, cọp, bụt, phúc, hiền, ác, vui, buồn, dễ, khó,chị em gái,…
* Để lẫn lộn các từ đó với nhau, sau đó chia thành hai phần.
Chia học sinh thành hai nhóm thực hiện nhiệm vụ giống nhau, đội nào tìm và gắn từ
chính xác nhiều hơn,nhanh hơn thì đội đó thắng.
c. Điều kiện thực hiện giải pháp, biện pháp :
Để đề tài được áp dụng vào thực tế và có hiệu quả cao nhất, cần phải đáp ứng
được những điều kiện sau :
- Đối với nhà trường cần quan tâm tạo mọi điều kiện thuận lợi về quỹ thời gian để
giáo viên lồng ghép vào trong các tiết dạy vào buổi thứ hai.
- Kiểm tra thường xuyên việc giảng dạy của giáo viên nhất là vào buổi học thứ hai để
kịp thời phát hiện và sửa sai những thiếu sót trong quá trình giảng dạy của giáo viên
và học tập của học sinh.
8


- Với giáo viên phải kiên trì, chịu khó từng bước áp dụng đề tài. Luôn gần gũi và
quan tâm giáo viên để tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng và có những hình thức tổ
chức phù hợp bài dạy, đối tượng học sinh. Phải thường xuyên tham mưu với lãnh đạo
nhà trường để có những ý kiến chỉ đạo kịp thời sát sao với nội dung bài dạy, nhằm
giúp học sinh nắm vững những kiến thức mà đề tài muốn đề cập.
d. Mối quan hệ giữa biện pháp và giải pháp :
Việc triển khai những nội dung vào trong chương trình giảng dạy, giáo viên cần
xác định cụ thể giữa hình thức tổ chức và các phương pháp tổ chức áp dụng nội dung.
- Cần xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa biện pháp và giải pháp của đề tài. Cụ thể

phải xác định quỹ thời gian của môn Luyện từ và câu trong chương trình để từ đó
từng bước áp dụng giải pháp vào trong bài học. Có thể lồng ghép vào trong các bài
tập thực hành trên những tiết học chính thức. Đồng thời xác định và phân loại từng
đối tượng học sinh trong lớp, hoàn cảnh cuộc sống từng em để lồng ghép vào bài dạy.
- Nếu việc xác định cụ thể các biện pháp áp dụng trong chương trình giảng dạy thì
giải pháp đã nêu trong đề tài chắc chắn sẽ thực hiện có hiệu quả.
e. Kết quả khảo nghiệm:
Sau khi áp dụng những giải pháp đã nêu vào trong chương trình giảng dạy tôi thấy
hiệu quả của đề tài rất rõ. Số lượng học sinh biết dùng từ đặt câu, hoặc tìm những từ
ngữ mới, câu mới để điền vào bài tập hay hơn.
Cụ thể tôi đã tiến hành tổ chức một tiết kiểm tra với đề bài sau:
ĐỀ BÀI
1. Đặt hai câu kể, kể về các việc em làm hằng ngày sau khi đi học về.
2. Cho đoạn văn sau : “Trên nương, mỗi người một việc. Người lớn đánh trâu ra cày.
Các cụ già nhặt cỏ, đốt lá. Mấy chú bé bắc bếp thổi cơm. Các bà mẹ tra ngô. Các em
bé ngủ khì trên lưng mẹ. Lũ chó sủa om cả rừng.”
Em hãy tìm trong đoạn văn trên các từ chỉ hoạt động. Đặt câu hỏi cho những từ
chỉ hoạt động mà em đã đặt được.
Sau khi học sinh làm bài xong, tôi đã nhận xét và tổng kết kết quả như sau :
Lớp tổng số 33 học sinh trong đó 5 em làm bài tốt, 17 em làm bài phần tìm từ chỉ
hoạt động còn thiếu 1 từ chỉ hoạt động, 8 em đặt câu hỏi cho cho những từ chỉ hoạt
động còn thiếu 2 câu hỏi, 3 em làm bài bài 2 chưa đầy đủ.Tôi đã nhận xét từng bài và
chỉ ra những lỗi sai của các em, hướng dẫn các em cách làm và yêu cầu các em về
học thuộc các ghi nhớ cuối mỗi bài học.
Kết quả chất lượng cuối học kì I như sau :
Tổng số HS
Giỏi
Khá
TB
Yếu

33
8
17
8
0
III.PHẦN KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
III.1. Kết luận của đề tài :
Qua kết quả khảo sát từ thực tế việc tổ chức dạy học trong phân môn “Luyện từ
và câu” ở Trường Tiểu học Thanh Tân và quá trình tự tìm tòi nghiên cứu tài liệu về
biện pháp tổ chức dạy từ ngữ giúp học sinh nâng cao vốn từ, tôi nhận thấy rằng việc
dạy nâng cao vốn từ ngữ cho học sinh tiểu học là một công việc không hề đơn giản
bởi vốn từ ngữ của đất nước ta vô cùng phong phú, nghĩa của từ cũng đa dạng, các
loại từ, từ loại rất phức tạp. Bên cạnh đó, đối tượng học sinh tiểu học còn ngây thơ,
vốn từ các em còn nghèo nàn, sự tiếp thu về kiến thức từ vựng, ngữ pháp còn có
9


nhiều bất cập. Mặt khác đối với giáo viên tiểu học, vốn từ ngữ cũng còn hạn chế chủ
yếu là dựa vào vốn từ trong sách giáo khoa. Đồng thời các phương pháp dạy học theo
hình thức đổi mới dưới dạng lấy học sinh làm trung tâm thì giáo viên và học sinh
cũng còn bỡ ngỡ. Đó chính là những nguyên nhân chính dẫn đến việc dạy từ ngữ mở
rộng vốn từ, nâng cao vốn từ cho học sinh còn chưa đạt hiệu quả cao.
Từ đó chúng tôi mạnh dạn đề cập đến những biện pháp thực hiện có tính khả thi
và nêu lên trong đề tài. Tuy nhiên đó chỉ là những ý kiến đóng góp qua học tập
nghiên cứu kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy của bản thân sau một thời gian công
tác trong Trường Tiểu học Thanh Tân. Việc tổ chức dạy học bằng phương pháp nào
cho đạt hiệu quả cao không phải là chuyện đơn giản chỉ nói qua lý thuyết mà cần phải
có thời gian cũng như kinh nghiệm giảng dạy cộng với sự tìm tòi học hỏi không
ngừng của người giáo viên thì hiệu quả của tiết dạy mới được nâng cao, chất lượng
giáo dục mới đáp ứng được mục tiêu của ngành giáo dục. Giáo viên không phải là

người hoàn hảo, nhưng cũng đóng một vai trò chủ đạo trong việc tiếp thu kiến thức
của học sinh. Cung cấp vốn từ ngữ trong môn Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4
không những giúp cho các em nắm chắc kiến thức tiếng Việt mà còn học tốt các môn
học khác, vì kiến thức ở tiểu học là phương tiện để hình thành kĩ năng, trong đó kĩ
năng sống là tổng hợp các kĩ năng cơ bản cần thiết nhất. Chính vì thế mà giáo viên
phải luôn có ý thức thay đổi phương pháp và hình thức tổ chức dạy học qua mỗi tiết
dạy thật linh hoạt sáng tạo theo hướng đảm bảo chuẩn kiến thức kĩ năng để học sinh
thực sự hứng thú trong việc học, học mà chơi, vui mà học. Qua đó nâng cao năng lực
tự học, rèn luyện bản lĩnh tự tin và kĩ năng giao tiếp cho học sinh, để lớp học thực sự
trở thành một lớp học thân thiện, thì mới đạt kết quả học tập tốt nhất.
Bởi thế người giáo viên phải biết tìm tòi học hỏi không ngừng nâng cao trình độ
nghiệp vụ để đáp ứng yêu cầu giảng dạy và nhịp độ phát triển của thời đại
III.2. Kiến nghị :
1) Đối với nhà trường :
- Cần tổ chức thêm những buổi tập huấn về việc nâng cao chất lượng dạy – học môn
tiếng Việt để giáo viên kịp thời bổ sung những phương pháp và biện pháp tổ chức
dạy học mới nâng cao hiệu quả của tiết dạy.
- Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham gia các lớp học chuyên đề, bồi
dưỡng.v.v… để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ cũng như nắm bắt đầy đủ các
phương pháp , các hình thức tổ chức dạy học mới đáp ứng yêu cầu của nền giáo dục
nước nhà trong giai đoạn hiện nay
2) Đối với giáo viên :
- Cần tích cực tham gia tập huấn nhiều về những hình thức cũng như phương pháp
dạy học để củng cố trình độ nghiệp vụ của bản thân
- Quan tâm nhiều hơn đến học sinh trong lớp mình trực tiếp giảng dạy, thường xuyên
theo dõi chất lượng học tập của các em, nhằm tìm ra những sai sót để có biện pháp
uốn nắn kịp thời giúp cho các em có kiến thức cũng như tinh thần để học tốt môn
khác.
- Ngoài ra còn nhờ sự quan tâm giúp đỡ của Ban giám hiệu nhà trường, chị em bạn bè
đồng nghiệp và các cấp quản lý giáo dục.

3) Về phía học sinh:
10


- Cần ý thức được nhiệm vụ học tập và vị trí, vai trò của Từ ngữ rất cần thiết cho
các môn học khác và yêu cầu cuộc sống. Do vậy, các em phải chủ động tìm ra những
phương pháp học phù hợp nhằm đem lại kết quả cao trong quá trình học tập.
Tôi xin chân thành cảm ơn.
Thanh Tân ngày 30 tháng 3 năm 2015
Người thực hiện
Đinh Thị Thu Hằng

11


Tài liệu tham khảo
- Nhiều tác giả (2006). Sách giáo viên, sách giáo khoa môn Tiếng Việt lớp 4– Nhà
xuất bản giáo dục – Năm 2010.
- Phương pháp dạy học Tiếng Việt tập 1, 2. Nhà xuất bản giáo dục.
- Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng từ ngữ cho học sinh tiểu học: Các dạng bài tập và
những vấn đề cần lưu ý.
-Chuyên đề Giáo dục Tiểu học (Nhà xuất bản giáo dục Viêt Nam năm 2011)
- Hướng dẫn thực hiện điều chỉnh nội dung dạy học các môn học cấp Tiểu học.
-Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn ở Tiểu học lớp 4.
- Giáo dục kĩ năng sống lớp 4.

12


- Những điều giáo viên chủ nhiệm cần biết ( Biên tập : Hồ Phương Lan- Nhà xuất bản

Lao Động. )

13


14



×