Tải bản đầy đủ (.doc) (75 trang)

So sánh nhân vật nữ trong truyền kỳ mạn lục (nguyễn dữ) và tiễn đăng tân thoại (cù hựu)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.82 KB, 75 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh

----------------------

Nguyễn Thị Cẩm Tú

So sánh nhân vật nữ trong ''truyền kỳ mạn lục''
(Nguyễn Dữ) và ''tiễn đăng tân thoại'' (Cù Hựu)
Chuyên ngành :Lý luận văn học
Mã số: 60.22.32

Luận văn thạc sĩ ngữ văn
TS. phạm tuấn vũ

Ngời hớng dẫn khoa học:

Vinh - 2007

Mục lục
Trang
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu
4. Mục đích yêu cầu
5. Phơng pháp nghiên cứu

1
1
4


4
4

1


6. Đóng góp của luận văn
7. Cấu trúc luận văn
Chơng 1. Vị trí của nhân vật nữ trong hai tác phẩm
1.1. Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học
1.2. Số lợng nhân vật nữ và vị trí của nó trong hai tác phẩm
1.2.1. Thống kê, phân tích số liệu
1.2.2. Lý giải
Chơng 2. Những sự tơng đồng và khác biệt của tính cách
và số phận nhân vật nữ trong hai tác phẩm
2.1. Những sự tơng đồng và khác biệt về tính cách
2.1.1. Những sự tơng đồng
2.1.2. Lý giải những sự tơng đồng
2.1.3. Những sự khác biệt
2.1.4. Lý giải những khác biệt
2.2. Những sự tơng đồng và khác biệt về số phận
2.2.1. Những sự tơng đồng
2.2.2. Lý giải những sự tơng đồng
2.2.3. Những sự khác biệt
2.2.4. Lý giải những sự khác biệt
Chơng 3. Sự tơng đồng và khác biệt trong
nghệ thuật xây dựng nhân vật nữ ở hai tác phẩm
3.1. Sử dụng yếu tố "kỳ" để xây dựng nhân vật nữ
3.2. Vai trò của chất liệu văn học dân gian đối với xây dựng nhân vật nữ
Kết luận

Tài liệu tham khảo

2

5
5
6
6
7
7
11
22
22
22
35
35
39
39
39
56
56
63
65
65
74
84
87


Mở đầu

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Sáng tác Truyền kỳ mạn lục Nguyễn Dữ chịu ảnh hởng của ba
nguồn: truyện truyền kỳ đời Đờng, tác phẩm Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu
đời Minh và truyền thuyết, chí quái Việt Nam. Riêng Tiễn đăng tân thoại
không chỉ đợc tiếp thu ở Việt Nam mà cả ở Triều Tiên và Nhật Bản, nhng theo
nhiều nhà nghiên cứu thì sự tiếp thụ của Nguyễn Dữ là thành công nhất.
Nghiên cứu đề tài này góp phần làm rõ sự tiếp thụ một cách sáng tạo đó.
1.2. Nghiên cứu những sự tơng đồng và khác biệt của nhân vật nữ ở hai
tác phẩm sẽ thấy đợc vai trò của nhân tố đời sống lịch sử xã hội và truyền
thống của văn học dân gian đối với hai tác phẩm này.
1.3. Thời phong kiến, địa vị của ngời phụ nữ trong xã hội hết sức khiêm
tốn, vì vậy hình ảnh của họ trong văn học những thế kỷ đầu cũng không nổi
bật. Nghiên cứu đề tài này để có thêm cơ sở để khẳng định giá trị của Truyền
kỳ mạn lục và đóng góp của Nguyễn Dữ trong việc thể hiện hình tợng phụ nữ
trong văn học trung đại Việt Nam.
1.4. Nhiều nhà nghiên cứu đánh giá trong số những tác phẩm sử dụng
chất liệu của Tiễn đăng tân thoại thì Truyền kỳ mạn lục tính chất dân tộc đậm
đà nhất. Nghiên cứu đề tài sẽ thấy đợc vai trò của nhân vật nữ trong việc góp
phần tạo nên phẩm chất này ở tác phẩm của Nguyễn Dữ.
2. Lịch sử vấn đề
ở phần này chúng tôi điểm lại những ý kiến của ngời đi trớc liên quan
đến những vấn đề trong đề tài nghiên cứu. Truyền kỳ mạn lục đã đợc đánh giá
cao ngay thời kỳ tác phẩm ra đời. Và hiện nay, các tác giả thời hiện đại tiếp
tục nghiên cứu nó ở cả phơng diện nội dung và hình thức nghệ thuật.

3


Trớc hết chúng tôi điểm lại những công trình tiêu biểu của các tác giả
trong nớc.

Trong công trình Lịch sử văn học Việt Nam (tập 2), Bùi Văn Nguyên đã
cho rằng : Đọc Truyền kỳ mạn lục, chúng ta cũng có thể đọc đợc bộ mặt của
xã hội thời xa qua nhiều khía cạnh. Giá trị Truyền kỳ mạn lục không phải chỉ ở
chỗ đã tố cáo đợc bề mặt xã hội thời đó mà còn ở chỗ đã bớc đầu phê phán
những ràng buộc của xã hội phong kiến đối với ngời phụ nữ [21, 256]. Tác
giả khẳng định Chán ghét cảnh thối nát của quan trờng, ông (Nguyễn Dữ) mợn văn chơng để vạch trần những xấu xa, những tội ác của giai cấp thống trị,
tố cáo những thói tệ đơng thời và đồng thời cũng nói lên đợc một phần nỗi đau
đớn xót xa của những con ngời bình thờng, đặc biệt là phụ nữ. [21, 261]
Giáo trình Văn học Việt Nam từ thế kỷ X - đến giữa thế kỷ X VIII của
Đại học s phạm ghi nhận vấn đề ngời phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục. Các tác
giả cho rằng Truyền kỳ mạn lục ca ngợi tình cảm vợ chồng gắn bó thuỷ chung,
ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của ngời phụ nữ và cảm thông với những nỗi bất
hạnh của họ lại là một đóng góp của Nguyễn Dữ.
Các nhà nghiên cứu khẳng định việc viết về ngời phụ nữ là một đóng
góp lớn của Nguyễn Dữ. Trong bài Tìm hiểu khuynh hớng sáng tác trong
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, Nguyễn Phạm Hùng cho rằng trong khi
thể hiện vấn đề dân tộc, địa vị của các lực lợng phong kiến thống trị, ngời tri
thức phong kiến thì vấn đề ngời phụ nữ đợc Nguyễn Dữ trình bày khá sâu sắc.
Khi bàn về phẩm chất dân tộc trong Truyền kỳ mạn lục, tác giả nhấn mạnh:
Nguyễn Dữ với Truyền kỳ mạn lục đã mở đầu một cách đích thực khuynh hớng văn học nêu cao tinh thần dân tộc qua việc ngợi ca, khẳng định con ngờinhất là ngời phụ nữ bình thờng bị vùi dập nhng vẫn sáng ngời phẩm chất cao
quý[8,114].
Nhiều nhà nghiên cứu nớc ngoài đã viết về tác phẩm của Nguyễn Dữ,
trong số đó có công trình nghiên cứu so sánh rất công phu của nhà nghiên cứu
Đài Loan- Trần ích Nguyên: Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại và
Truyền kỳ mạn lục. Đây là công trình đầu tiên nghiên cứu một cách tỉ mỉ và
khá đầy đủ về nguồn gốc, nội dung, kỹ xảo, nội hàm của Truyền kỳ mạn lục và
Tiễn đăng tân thoại, sự ảnh hởng của hai tác phẩm này đến nền văn học mỗi
nớc. Trần ích Nguyên khẳng định: Nghiên cứu so sánh Tiễn đăng tân thoại
và Truyền kỳ mạn lục là một việc không thể xem nhẹ trong nghiên cứu so sánh


4


văn học Việt -Trung; mà việc ấy lại là một khâu không thể thiếu trong nghiên
cứu văn học Đông á [19, 17]. Ông đã nêu ra những điểm dị đồng giữa
Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại trên các phơng diện cơ bản, nhng
cha so sánh nhân vật nữ ở hai tác phẩm.
Gần đây có công trình của tác giả Toàn Huệ Khanh Nghiên cứu so sánh
tiểu thuyết truyền kỳ Hàn Quốc- Trung Quốc- Việt Nam thông qua Kim Ngao
tân thoại, Tiễn đăng tân thoại, Truyền kỳ mạn lục, tác giả đã đa ra các tiêu
chuẩn để phân loại tác phẩm ở loại truyện diễm tình và loại truyện kỳ quái,
chỉ ra sự khác biệt về bối cảnh lịch sử đã dẫn đến sự biến đổi ý đồ sáng tác của
các tác giả, đồng thời chỉ ra sự khác biệt về văn hoá làm nên sự khác biệt
trong quan điểm nhìn nhận về phẩm chất ngời phụ nữ. Trong khi khái quát ý
nghĩa văn học sử Đông á của tiểu thuyết truyền kỳ ba nớc Hàn - Trung -Việt,
tác giả kết luận: Tiễn đăng và Truyền kỳ có đôi chút khác biệt về mặt đặc
điểm văn hoá và tín ngỡng bản địa nhng đã xây dựng đợc nhiều loại hình nhân
vật đa dạng phong phú [ 11, 175]. Bàn về vấn đề trinh tiết của ngời phụ nữ tác
giả đã khái quát đặc điểm riêng của Truyền kỳ mạn lục so với Kim Ngao tân
thoại và Tiễn đăng tân thoại: Trong chủ đề các truyện loại diễm tình của
Truyền kỳ đã nêu cao trinh tiết của phụ nữ để cảnh báo hành vi của ngời
chồng, đồng thời sự trinh tiết của phụ nữ vào tình yêu của nam nhân vật chính
thể hiện qua các cuộc chiến đấu để rồi đi tìm vợ và để thể hiện ý chí của dân
tộc bảo vệ tổ quốc Việt Nam chống giặc ngoại xâm. Đó mới là động cơ sáng
tác của tác giả [11,176]
Nh vậy, cha có một công trình nghiên cứu quy mô về hình tợng phụ nữ
trong Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng tân thoại, về nội dung phản ánh và nghệ
thuật xây dựng loại hình tợng nhân vật này. Mặc dù vậy, kết quả của các công
trình nghiên cứu trên là những gợi ý quan trọng cho luận văn này.
3. Đối tợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tợng nghiên cứu là So sánh nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục
(Nguyễn Dữ) và Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu).
Luận văn tập trung đi vào tìm hiểu những điểm tơng đồng và khác biệt
về nhân vật nữ trong hai tác phẩm. Văn bản Truyền kỳ mạn lục và Tiễn đăng
tân thoại mà chúng tôi dựa vào nghiên cứu đợc in trong Tiễn đăng tân thoại
và Truyền kỳ mạn lục, Phạm Tú Châu dịch, Trần Thị Băng Thanh giới thiệu và
chỉnh lý, NXB Văn học, Hà Nội 1997.

5


4. Mục đích yêu cầu
4.1. Đối sánh nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục với nhân vật nữ
trong Tiễn đăng tân thoại để nhận thức những sự tơng đồng và khác biệt lớn
trong tính cách và số phận.
4.2. Cắt nghĩa những sự tơng đồng và khác biệt đó từ các nguyên nhân
lịch sử xã hội, tâm lý dân tộc, truyền thống của văn học dân gian và từ các đặc
điểm của thể loại.
4.3. Từ đó đa thêm những cơ sở để khẳng định Nguyễn Dữ tiếp thu văn
chơng nớc ngoài một cách sáng tạo.
5. Phơng pháp nghiên cứu
4.1. Đặt nhân vật nữ của hai tác phẩm trong đời sống văn xuôi trung đại
Việt Nam những thế kỷ đầu với hai đặc điểm quan trọng: một là tiếp thu thành
tựu văn xuôi Trung Hoa một cách sáng tạo, hai là sử dụng chất liệu văn học
dân gian Việt Nam.
4.2. Luôn bám sát đặc trng của truyện truyền kỳ là phản ánh cuộc sống
và con ngời có sử dụng yếu tố kỳ (kỳ lạ, kỳ quái, kỳ diệu...). Cái kỳ ở đây
vừa là thế giới quan vừa là một thủ pháp nghệ thuật quan trọng.
4.3. Sử dụng các thao tác nghiên cứu: thống kê, phân tích, tổng hợp và
đặc biệt chú trọng thao tác so sánh.

6. Đóng góp của luận văn
5.1. Đối sánh một cách hệ thống nhân vật nữ ở hai tác phẩm.
5.2. Lý giải sự tơng đồng và khác biệt của nhân vật nữ ở hai tác phẩm
cùng thể loại này từ hoàn cảnh lịch sử xã hội, hoàn cảnh sáng tác, truyền
thống văn hoá thẩm mỹ, vai trò của văn học dân gian, cá tính sáng tạo của mỗi
tác giả.
5.3. Chỉ ra sự tiếp thụ một cách sáng tạo của Nguyễn Dữ.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn đợc triển khai trong
ba chơng:
Chơng 1. Vị trí của nhân vật nữ trong hai tác phẩm
Chơng 2. Những sự tơng đồng và khác biệt của tính cách và số phận
nhân vật nữ trong hai tác phẩm
Chơng 3. Sự tơng đồng và khác biệt trong nghệ thuật xây dựng
nhân vật nữ ở hai tác phẩm

6


Chơng 1
Vị trí của nhân vật nữ trong hai tác phẩm
1.1. Khái niệm nhân vật trong tác phẩm văn học
Nhân vật văn học là con ngời đợc miêu tả, thể hiện trong tác phẩm bằng
phơng tiện văn học. Nhân vật văn học là một hiện tợng nghệ thuật mang tính
uớc lệ, đó không phải là sự sao chụp đầy đủ mọi chi tiết của con ngời mà chỉ
thể hiện con ngời với những đặc điểm nào đó. Nhân vật văn học có thể là
những con ngời đợc miêu tả đầy đặn cả ngoại hình lẫn nội tâm, có tính cách,
tiểu sử nh thờng thấy ở tác phẩm tự sự, kịch. Đó có thể là những ngời thiếu
hẳn những nét đó, nhng lại có tiếng nói, giọng điệu, cái nhìn nh nhân vật trần
thuật, hoặc chỉ có cảm xúc, nỗi niềm, ý nghĩ, cảm nhận nh nhân vật trữ tình

trong thơ trữ tình.
Khái niệm nhân vật thờng đợc quan niệm với một phạm vi rộng hơn
nhiều, đó không chỉ là con ngời có tên hoặc không tên, đợc khắc họa sâu đậm
hoặc chỉ xuất hiện thoáng qua trong tác phẩm, mà còn có thể là những con vật
bao gồm cả quái vật thần linh, ma quỷ ít nhiều mang bóng dáng, tính cách con
ngời, đợc dùng nh những phơng thức khác nhau để biểu hiện con ngời.
Qua nhân vật nhà văn thể hiện quan điểm nghệ thuật và lý tởng thẩm mỹ
của mình về xã hội và con ngời. Vì đợc miêu tả qua các biến cố, xung đột,
mâu thuẫn và các chi tiết nên nhân vật luôn gắn liền với cốt truyện, do đợc
khắc họa qua xung đột cho nên nhân vật văn học là một chỉnh thể vận động có
tính cách đợc bộc lộ dần trong không gian, thời gian và mang tính chất là một
quá trình.
Bản chất văn học là mối quan hệ đối với đời sống, nó tái hiện đời sống
qua những chủ thể nhất định, đóng vai trò nh những tấm gơng của cuộc đời.

7


Văn chơng phản ánh đời sống bằng hình tợng, trong tác phẩm tự sự nhân vật
là phơng tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực một cách hình tợng. Nhân
vật văn học vốn là hiện tợng hết sức đa dạng, các nhân vật đợc xây dựng thành
công thờng là những sáng tạo độc đáo, không lặp lại. Tuy nhiên, trong các
nhân vật, xét về mặt nội dung, cấu trúc chức năng có thể thấy nhiều hiện tợng
lặp lại tạo thành các loại nhân vật.
Trong tác phẩm văn học thờng có một hoặc nhiều nhân vật. Các tác
phẩm tự sự và kịch thờng có nhiều nhân vật. Trong trờng hợp đó không phải
mọi nhân vật trong tác phẩm văn học đều có vai trò nh nhau trong kết cấu và
cốt truyện tác phẩm. Dựa vào những tiêu chí khác nhau để phân biệt các nhân
vật trên những khía cạnh nh kết cấu, ý thức hệ và cấu trúc. Dựa vào vị trí đối
với nội dung cụ thể với cốt truyện của tác phẩm, nhân vật văn học đợc chia

thành nhân vật chính, nhân vật phụ, nhân vật trung tâm.
Nhân vật chính là nhân vật đóng vai trò chủ chốt xuất hiện nhiều, giữ vị
trí then chốt của cốt truyện hoặc tuyến cốt truyện. Đó là con ngời liên can đến
các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả triển khai đề tài cơ bản
của mình. Nhân vật trung tâm là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm,
là nơi thể hiện những vấn đề trung tâm của tác phẩm.
Nhân vật phụ mang các tình tiết, sự kiện, t tởng có tính chất phụ trợ, bổ
sung. Nhờ có những nhân vật phụ này mà câu chuyện hấp dẫn hơn, nó thúc
đẩy sự kiện, cốt truyện phát triển. Vì thế cũng không thể coi nhẹ nhân vật phụ,
bởi chúng không những là một bộ phận không thể thiếu của bức tranh chung, mà
nhiều khi, nhân vật phụ còn hàm chứa những t tởng quan trọng của tác phẩm.
Những tri thức về nhân vật giúp chúng ta xem xét nhân vật nữ đợc thể
hiện nh thế nào trong hai tác phẩm trên cả phơng diện số lợng và chất lợng, cố
gắng giải thích thực trạng đó.
1.2. Số lợng nhân vật nữ và vị trí của nó trong hai tác phẩm
1.2.1. Thống kê, phân tích số liệu
1.2.1.1. Bảng khảo sát
Bảng 1 : Nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục
NHÂN VậT Nữ
TT
TÊN TáC PHẩM
Chính
Phụ
1 Chuyện ngời nghĩa phụ ở Khoái Châu
Nhị Khanh
2

Nhị Khanh

Chuyện cây gạo


8


3

Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh

4

Chuyện kỳ ngộ ở trại Tây

5

Chuyện đối tụng ở Long cung

6

Chuyện nghiệp oan của Đào thị

7

Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên

8

Chuyện yêu quái ở Xơng Giang

9


Chuyện nàng Thuý Tiêu

Vợ Đức Công,
Hán Anh
Nhu Nơng, Hồng Nơng
( Đào, Liễu)
Dơng thị
Đào Hàn Than
Giáng Hơng

mẹ Giáng Hơng
Thị Nghi

Thuý Tiêu

10 Chuyện ngời con gái Nam Xơng

Vũ Thị Thiết

11 Chuyện Lý tớng quân

ngời mẹ chồng
mẹ của họ Lý

12 Chuyện Lệ Nơng

Nguyễn Lệ Nơng

13 Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa


Ngô Chi Lan

Bảng 2 : Nhân vật nữ trong Tiễn đăng tân thoại

3

Đằng Mục rợu say chơi vờn Tụ Cảnh

4

Chiếc đèn mẫu đơn

5

Cuộc kỳ ngộ ở Vị Đờng

6

Động Thân Dơng

7

Nàng ái Khanh

Nhân vật nữ
Chính
Phụ
Khánh
Nơng
Hng Nơng

Lan Anh, Huệ
Anh
Kiều Kiều
Vệ Phơng Hoa
Lệ Khanh,
Kim Liên
Cô gái con chủ quán
- Cô gái con ông họ Tiền
-hai cô gái hàng xóm
ngời mẹ chồng
ái Khanh

8

Nàng Thuý Thuý

Lu Thuý Thuý

9

Đêm chơi thuyền trên Giám Hồ

10

Cô gái áo xanh

TT
Tên tác phẩm
1
Chiếc thoa vàng hình chim phợng

2
Lầu Liên Phợng

Chức Nữ
Cô gái

9

hai thị nữ


1.2.1.2. Phân tích số liệu
Dựa vào kết quả khảo sát, thống kê đặt trong sự so sánh hai tác phẩm,
xét số lợng tác phẩm là đối tợng khảo sát, chúng tôi có kết quả sau đây:
* Truyền kỳ mạn lục:
13/20 tác phẩm có nhân vật nữ, chiếm 65% số lợng tác phẩm.
Trong số 13 tác phẩm có nhân vật nữ đó có:
+ 8/13 tác phẩm, nhân vật nữ là nhân vật chính (chiếm 62%).
+ 6/13 tác phẩm, nhân vật nữ vừa là nhân vật chính vừa là nhân vật
trung tâm, chiếm 46% tác phẩm
+ 5 /13 tác phẩm tên nhân vật nữ đợc đặt cho tên tác phẩm (chiếm
38%).
+ 9 nhân vật nữ thực trong 7/13 tác phẩm (chiếm 54%).Trong đó có 5
nhân vật nữ thực đóng vai trò vừa là nhân vật chính vừa là nhân vật trung tâm
(chiếm 38%).
+ 8 nhân vật nữ siêu thực trong 6/13 tác phẩm (chiếm 46%). Trong đó
có 5 nhân vật nữ siêu thực trong vai trò là nhân vật phụ (chiếm 38%).
* Tiễn đăng tân thoại:
10/20 tác phẩm có nhân vật nữ (chiếm 50% ).
Trong số 10 tác phẩm có nhân vật nữ đó có:

+ 7/10 tác phẩm, nhân vật nữ là nhân vật chính (chiếm 70%).
+ 4/10 tác phẩm, nhân vật nữ vừa là nhân vật chính vừa là nhân vật
trung tâm (chiếm 40%).
+ 3/ 10 tác phẩm tên nhân vật nữ đợc đặt cho tên tác phẩm (chiếm
30%).
+ 7 nhân vật nữ thực trong 4/10 tác phẩm ( chiếm 40%). Trong đó có 2
nhân vật nữ thực đóng vai trò vừa là nhân vật chính vừa là nhân vật trung tâm
(chiếm 20%). Có tới 10 nhân vật nữ siêu thực trong 5/10 tác phẩm(chiếm
50%). Trong đó có 4 nhân vật nữ siêu thực trong vai trò là nhân vật chính
(chiếm 40%)
Nh vậy cả Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, số lợng tác
phẩm có nhân vật nữ khá lớn, đặc biệt có nhiều tác phẩm nhân vật nữ đóng
vai trò trụ cột. Điều này thể hiện cả hai tác giả đều rất quan tâm đến ngời
phụ nữ. Đây thực sự là bớc tiến, một cách nhìn mới về ngời phụ nữ trong

10


văn học. Nếu nh trớc đó văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc đều
chịu ảnh hởng nặng nề của hệ thống t tởng Nho giáo, con ngời bổn phận
(quân, s, phụ), con ngời gắn với quan niệm về chí thì đến đây, hai tác
giả đã gắn văn học gần hơn với cuộc sống, hớng ngòi bút về ngời phụ nữ.
Song, nếu nh trong Truyền kỳ mạn lục nhân vật nữ thực giữ vai trò chủ đạo
thì ở Tiễn đăng tân thoại nhân vật nữ siêu thực lại giữ vai trò chủ đạo. Mặt
khác, trong Truyền kỳ mạn lục nhân vật nữ lại phong phú và đa dạng hơn
Tiễn đăng tân thoại. Hình tợng ngời phụ nữ xuất hiện trong Truyền kỳ mạn
lục nhiều hơn và cũng đa dạng hơn.
1.2.2. Lý giải
Nhân vật là một yếu tố không thể thiếu trong văn học, đặc biệt là trong
tác phẩm tự sự. Nhân vật là hình thức cơ bản mà thông qua nó, văn học miêu

tả thế giới một cách hình tợng. Nếu không có nhân vật nhà văn không thể tái
hiện cuộc sống muôn hình vạn trạng, không thể khái quát đợc những quy luật
cuộc sống con ngời. Qua nhân vật nhà văn còn thể hiện quan niệm của mình
về con ngời, về cuộc sống. Vì thế, có thể xem nhân vật là yếu tố then chốt của
tác phẩm tự sự, một tác phẩm có thể không có cốt truyện nhng nhân vật thì
không thể không có, dù là một truyện ý tởng.
Lựa chọn cách xây dựng nhân vật, nhà văn thể hiện nhận thức của mình
về con ngời, về thế giới và thông qua nhân vật dẫn dắt độc giả vào đời sống
một thời kỳ lịch sử nhất định, đồng thời tác giả thể hiện ý đồ nghệ thuật của
mình. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật để thể hiện nhận thức của mình về một cá
nhân nào đó, về một loại ngời, về một vấn đề nào đó của hiện thực. Cho nên
tìm hiểu nhân vật là góp phần tìm ra t tởng, tình cảm và tài năng sáng tạo của
ngời cầm bút.
Qua sự thống kê ở trên, bớc đầu chúng ta có thể nhận thấy sự lựa chọn
nhân vật, xây dựng những mối quan hệ giữa các nhân vật là điểm hội tụ nội
dung tác phẩm, là phơng tiện nghệ thuật thể hiện quan niệm về con ngời, về
xã hội của mỗi tác giả.
Với Truyền kỳ mạn lục, nhân vật đã thực sự đóng vai trò rất quan trọng
trong việc thể hiện t tởng, chủ đề tác phẩm cũng nh tấm lòng của tác giả đối
với hiện thực cuộc sống. Đúng nh Nguyễn Đăng Na nhận xét: Nguyễn Dữ đã

11


phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật, văn học lấy
con ngời làm đối tợng và trung tâm phản ánh [17,19]
Trớc hết, phải khẳng định sự ảnh hởng của Tiễn đăng tân thoại đối với
Truyền kỳ mạn lục là một sự thật. Cù Tông Cát viết Tiễn đăng tân thoại vào
năm Hồng Vũ 11(1378) đời Minh Thái Tổ. Đây là một tập truyền kỳ u tú của
Trung Quốc thế kỷ XIV. Đến những năm 70, 80 của thế kỷ XVI, sau khi

truyền sang Triều Tiên, Nhật Bản, Tiễn đăng tân thoại đã du nhập vào Việt
Nam. Theo nhận xét của ngời xa (Hà Thiện Hán- ngời viết tựa đầu tiên cho
Truyền kỳ mạn lục) thì sách của Nguyễn Dữ không ra khỏi phên dậu của Cù
Tông Cát. Mặc dù chịu ảnh hởng của Cù Hựu, song không phải là sự sao chép
cứng nhắc mà tác phẩm là kết tinh của sự sáng tạo. Đó là đứa con tinh thần
vừa tiếp thụ tinh hoa của văn học nớc ngoài, vừa không quên bắt rễ ở mảnh đất
quê hơng mình. Điều đó đợc thể hiện qua nội dung phản ánh, qua chủ đề t tởng, hệ thống nhân vật, đặc biệt qua vị trí nhân vật nữ trong hai tác phẩm.
Trong cả Tiễn đăng tân thoại (Cù Hựu) và Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ),
hình tợng ngời phụ nữ đợc đề cập đến một cách phong phú, đa dạng thông qua
những cảnh đời, những số phận khác nhau.
Trong tiến trình lịch sử văn học Việt Nam cho thấy nếu nh từ thế kỷ XV
trở về trớc, nền văn học Việt Nam rất nặng tính chất chức năng, vai trò của các
chức năng ngoài văn học rất lớn, thì từ thế kỷ XVI trở đi văn học lại phát triển
theo chiều hớng khác. Đó là văn học đang thoát ra những chức năng phi văn
học, dần mang những giá trị tự thân của nó. Đối tợng phản ánh của văn chơng
trớc thế kỷ XVI thờng là những cái tao nhã, trang trọng, lý tởng; còn từ thế kỷ
XVI trở đi phần lớn là những cái thông tục, bình thờng. Con ngời trong văn
học từ đây ít bị ràng buộc hơn vào t tởng, giáo lý có sẵn. Lúc này bên cạnh
những bậc quân tử, trợng phu, thờng thấy có thêm hình tợng phụ nữ và nó dần
dần trở thành nhân vật trung tâm của nền văn chơng trung đại Việt Nam. Thay
vì những con ngời của tinh thần và ý chí, t tởng và giáo điều thì nay bớc vào
văn học là những con ngời trần thế, với nhu cầu hành động và ớc muốn chủ
yếu của nó. Một quan niệm mới về con ngời đã xuất hiện trong Truyền kỳ mạn
lục. Trong hoàn cảnh chiến tranh nội chiến phong kiến liên miên, Nguyễn Dữ
thấu hiểu sâu sắc rằng ngời chịu nhiều đau khổ nhất, oan trái nhất chính là ngời phụ nữ. Chính vì thế, khuynh hớng t tởng chủ đạo của Truyền kỳ mạn lục
không phải là đề cao chí khí nhà nho hay đạo đức phong kiến, mà chính là ở

12



chỗ nó đấu tranh cho con ngời, cho quyền sống của con ngời, vì con ngời
(nhất là phụ nữ), mang tinh thần nhân đạo chủ nghĩa. Và đơng nhiên, nó
chống lại những gì bất công, tàn bạo, trái với con ngời, với một tinh thần dân
chủ mà thời đại cho phép. Đó chính là khuynh hớng t tởng của những nhà văn
lớn của giai đoạn này, đang hoà nhập vào một trào lu rộng lớn trong suốt
nhiều thế kỷ- trào lu văn học có tinh thần nhân đạo chủ nghĩa [9,119].
Sự xuất hiện nhân vật ngời phụ nữ trong Tiễn đăng tân thoại còn có lý
do khác. Cù Hựu viết nhiều về chuyện tình ái, từ đó ông xây dựng nhiều nhân
vật phụ nữ, mà chủ yếu là những nhân vật chính diện. Sở dĩ nh vậy vì sự
khống chế của giai cấp thống trị đầu đời Minh trên lĩnh vực văn hoá. Văn học
Trung Quốc thời kỳ này ít thể hiện những vấn đề chính trị, nếu có thì cũng ca
ngợi, nhuận sắc hồng nghiệp. Giai cấp thống trị đã khống chế văn chơng rất
chặt, thờng vì nhầm một chữ, một câu mà mang họa. Bản thân Cù Hựu cũng bị
đày đi Bảo An 10 năm vì thơ. Bởi thế, để có thể chuyển tải một cách kín đáo
phần nào t tởng nhân sinh của mình, Cù Hựu xây dựng những nhân vật nữ.
Bên cạnh đó còn do các yếu tố nh đời sống lịch sử xã hội, bối cảnh thời đại,
cuộc đời của mỗi tác giả chi phối dẫn đến ý đồ, mục đích nghệ thuật khác
nhau.
1.2. 2.1. Vai trò đời sống lịch sử xã hội đối với hai tác phẩm
Có ý kiến cho rằng: Tác phẩm là cái thai của tác giả, tác giả là cái thai
của thời đại, nói cách khác, giữa tác phẩm văn học và hoàn cảnh thời đại có
mối liên hệ khăng khít, không thể tách rời nhà phê bình văn học luôn dựa
vào mức độ chân thực của tác phẩm phản ánh về thời đại để đánh giá một bộ
tiểu thuyết thành công hay không?... , có nh vậy thì việc bình phẩm văn học
mới thoát khỏi rơi vào ảo tởng [16,77-78]. ở đây chúng ta cũng sẽ tìm hiểu
hai tác phẩm này miêu tả bức tranh thời đại nh thế nào?
Dới ngòi bút của Nguyễn Dữ và Cù Hựu, các nhân vật phụ nữ thờng có
chung cuộc đời tăm tối bởi họ là nạn nhân của xã hội phong kiến trì trệ với
những cơng thờng đạo lý khiến ngời phụ nữ bị trói buộc trong ''tam tòng tứ
đức'', với những quan niệm cổ hủ nam nữ thụ thụ bất thân, họ là nạn nhân

của những gã nam giới háo sắc, dâm ô, tàn ác.
Nguyễn Dữ sống trong một thời kỳ lịch sử đầy biến động, ông chứng
kiến cảnh đất nớc loạn ly, dân chúng điêu linh. Giai đoạn này, nội bộ giai cấp
phong kiến không chỉ ăn chơi sa đọa mà còn mâu thuẫn gay gắt. Triều đình

13


nhà Lê chia bè, kéo cánh đánh giết lẫn nhau chỉ trong vòng 23 năm (từ năm
1504- 1527) mà có đến 6 ông vua. Tình trạng khủng hoảng trầm trọng dẫn đến
việc bị Mạc Đăng Dung cớp ngôi (năm 1527). Hiện trạng đó gây nên thảm
họa binh lửa, cuộc sống cùng cực, điêu đứng của nhân dân. Truyền kỳ mạn
lục đã ra đời trong bối cảnh xã hội nh thế. Hiện thực xã hội đã khiến Nguyễn
Dữ xây dựng nên những cảnh đời, những số phận éo le gắn với dân tộc, gắn
với hiện thực sôi động, đau thơng của thời đại ông.
Truyền kỳ mạn lục mợn chuyện đời xa để phản ánh những vấn đề của hiện
thực xã hội thời Nguyễn Dữ. Thời gian xảy ra các truyện là đời Lý, đời Trần,
đời Hồ và đời Lê sơ. Niên đại đợc nhắc đến sớm nhất trong Truyền kỳ mạn lục
là năm Bính Tí, niên hiệu Quang Thái (1396) và niên đại cuối cùng là Diên
Ninh năm thứ năm (1458). Thế nhng, vấn đề truyện nêu lên đều là những vấn
đề đặt ra cấp thiết và gay gắt trong thời đại Nguyễn Dữ. Từ đời sống sa đọa
của tầng lớp thống trị đến cuộc sống cơ cực của nhân dân, từ những biểu hiện
suy thoái của Nho, Phật, Đạo đến những biểu hiện suy đồi của đạo đức xã hội, đặc
biệt từ bi kịch đến khát vọng của ngời phụ nữ..., không chỉ là hồi âm của quá khứ
mà còn là những vấn nạn của thời Nguyễn Dữ.
Mặc dù khi ra đời tác phẩm đợc viết bằng thể loại nớc ngoài và chữ Hán
nhng vẫn đậm đà tính chất dân tộc. Tác phẩm cho chúng ta nhận thức về hình
ảnh dân tộc qua những con ngời khổ đau, thấp cổ bé họng, bị o ép, áp bức,
coi rẻ nhng phẩm chất vô cùng cao quý. Đó là những ngời phụ nữ trong xã hội
phong kiến đơng thời. Những con ngời khổ đau, bé nhỏ nh Đào Hàn Than, Vũ

Thị Thiết, Thuý Tiêu, Lệ Nơng v.v... trong đau đớn, vùi dập vẫn bừng cháy
niềm khao khát khôn nguôi về hạnh phúc tình yêu, công bằng, về quyền đợc
sống, đợc hởng thụ và hiến dâng. Nhà văn đã mợn hình ảnh ngời phụ nữ để nói lên
cảnh đau thơng của dân tộc trong thời kỳ này.
Cù Hựu viết Tiễn đăng tân thoại trong thời phong kiến thịnh trị. Lúc
này cuộc khởi nghĩa do Chu Nguyên Chơng lãnh đạo giành thắng lợi và lập
nên triều đại nhà Minh. Giai cấp thống trị đang có những chính sách tiến bộ
để xây dựng vơng triều mới nên cha bộc lộ những mâu thuẫn nội tại của nó.
Vì thế trong văn của Cù Hựu, ông không tập trung miêu tả sự suy vi, tàn lụi
của xã hội. Vấn đề mà ông hớng đến và khai thác là gắn con ngời với những
khát khao tình yêu, hạnh phúc. Đó là Lan Anh, Huệ Anh say đắm với tình yêu,

14


Hng Nơng chờ đợi trong héo mòn đến chết, lại quyết trở về để đợc sống trong
tình yêu
1.2.2.2 ảnh hởng của cuộc đời hai tác giả đối với các tác phẩm
Hà Thiện Hán cho biết Nguyễn Dữ từng làm quan nhng thất vọng trớc
thời thế hỗn loạn, lấy cớ phụng dỡng mẹ già đã từ quan về ở ẩn chốn núi rừng
Thanh Hoá, mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành (Tựa Truyền kỳ
mạn lục). Cù Hựu cũng là ngời có tài mà không đợc trọng dụng. Suốt đời ông
chỉ đợc giữ vài chức quan nhỏ, bổng lộc ít ỏi. Cù Hựu đã có lúc vì thơ mà mắc
họa, đã từng bị đa đi đồn thú ở Bảo An tỉnh Thiểm Tây mời tám năm. Cuối đời
ông từ quan về quê làm nghề dạy học. Trớc thực tại nhiễu nhơng cả hai tác giả
đều có thái độ thất vọng, bất mãn, gần nh bất lực. Có thể nói, tác giả tiểu
thuyết truyền kỳ đều là những kẻ có tài, đều sinh ra và lớn lên vào thời trung
đại và có cuộc đời không phẳng lặng [11,52]. Những điểm khác biệt trong
cuộc đời của hai tác giả biểu lộ qua thế giới quan của mình trong tác phẩm,
chi phối đến cách xây dựng nhân vật của hai nhà văn cũng nh ảnh hởng tới

chủ đề tác phẩm.
Ngoài ra còn có nguyên nhân từ động cơ sáng tác của hai ngời cầm bút.
Nguyễn Dữ viết ra tập lục này để ngụ ý (Hà Thiện Hán). Lời ngụ ý khuyên
răn là tinh thần nhất quán của ông. Chu Thanh Nguyên nói rằng động cơ của
Cù Hựu khi viết Tiễn đăng tân thoại là bỡn cợt nơi bút mực, trào phúng một
để khuyên răn một trăm, mợn việc đó để bộc lộ ý chí và khí khái trong lòng
[19,48].
Nhìn chung cả Cù Hựu và Nguyễn Dữ đều sáng tác để khuyến thiện
trừng ác. Vốn xuất thân là một nhà Nho, sinh vào thời loạn, Nguyễn Dữ mợn
Truyền kỳ mạn lục để bày tỏ niềm cô phẫn, thổ lộ hết những điều không vui
trong lòng. Cù Hựu cũng là một nhà Nho, từ nhỏ đã thông tuệ, tài hoa rất mực.
Sinh ra giữa buổi binh lửa loạn ly, từng lu lạc nhiều nơi, viết Tiễn đăng tân
thoại những mong mợn chén rợu của ngời tới nỗi lòng chất chứa. Tuy rằng
Truyền kỳ mạn lục có chịu ảnh hởng của Cù Tông Cát nhng là một thành phẩm
nghệ thuật thể hiện ý đồ nghệ thuật riêng, mang dấu ấn tài hoa riêng của tác
giả.
ở Việt Nam, từ khi có nền văn học viết cho đến thế kỷ XVI, cha bao
giờ ngời ta thấy nhân vật phụ nữ xuất hiện trong các tác phẩm văn học nh là
một đối tợng chính của các nhà văn nhà thơ. Và nếu nh trớc đây hình ảnh ngời

15


phụ nữ cung đình quý tộc có thấp thoáng trong sáng tác của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Húc... thì thờng mới chỉ dừng lại ở mức độ nhận thức trên bình diện
tâm lý, còn ở đây, nó là một đối tợng nhận thức, đối tợng thẩm mỹ trọn vẹn,
thành vấn đề ngời phụ nữ trong văn học- với những nhân vật trung tâm là phụ
nữ! [9,119]. Trong sáng tác của Nguyễn Dữ, họ hiện lên thật trọn vẹn với cả
diện mạo, tâm hồn, tình cảm, nhu cầu và khát vọng, với số phận của mình.
Trong Truyền kỳ mạn lục, bên cạnh các nhân vật nho sĩ ẩn dật, nhân vật

phụ nữ có vị trí chủ đạo. Những con ngời vốn xuất thân rất bình thờng, có khi
tầm thờng nh ca kỹ, tỳ thiếp nhng lại mang những phẩm chất rất đáng trân
trọng, ngợi ca. Hình tợng ngời phụ nữ trở thành nhân vật chính, nhân vật trung
tâm trong rất nhiều truyện của Truyền kỳ mạn lục. Đó là Nhị Khanh (Chuyện
ngời nghĩa phụ Khoái Châu), Vũ Thị Thiết (Chuyện ngời con gái Nam Xơng),
Đào Hàn Than (Chuyện nghiệp oan của Đào thị), Lệ Nơng (Chuyện Lệ Nơng)

Tiễn đăng tân thoại là một tác phẩm nổi tiếng trên văn đàn văn học
trung đại Trung Quốc. Tác phẩm đợc lu truyền và ảnh hởng sâu rộng trong và
ở nớc ngoài nh Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, gợi ý cho nhà văn trong ngoài
nớc cải biên, sáng tác thành truyền kỳ, thoại bản và kịch bản. Trong tác phẩm
này, ngời phụ nữ gắn với những mối tình say đắm thuỷ chung đợc thử thách
qua nhiều loạn ly và nhiều ngăn trở nh Hng Nơng (Chiếc thoa vàng hình kim
phợng), Thuý Thuý (Nàng Thuý Thuý), cô gái (Cô gái áo xanh)... hoặc là
những cuộc gặp gỡ kỳ lạ với thần tiên ma quỷ chốn Thiên Thai, dới thuỷ cung,
âm phủ, hang động hay trong chùa nh Lệ Khanh (Chiếc đèn mẫu đơn), những
cô gái (Động Thân Dơng), Cô gái con lão chủ quán (Cuộc kỳ ngộ ở Vị Đờng)... Đây là đề tài đợc tác giả chú trọng.
ở cả hai tác phẩm đều có hai loại nhân vật có thực và nhân vật siêu
thực, nhng trong Truyền kỳ mạn lục, Nguyễn Dữ để cho loại nhân vật thực
hoàn toàn nắm vai trò chính yếu của cốt truyện. Tiễn đăng tân thoại cũng có
điều này song chỉ chiếm số lợng nhỏ, chỉ có nhân vật ái Khanh và Lu Thuý
Thúy là nhân thực trong vai trò là nhân vật chính. Nhân vật nữ chủ yếu là
những hồn ma, yêu nữ mang dáng dấp con ngời.
Để cho nhân vật chính là những con ngời thực, Nguyễn Dữ đã có dụng
ý, bởi vì hơn ai hết chỉ có con ngời thực mới thật sự đảm đơng công việc đời
thờng một cách trọn vẹn, chỉ có con ngời thực mới có thể sống trong xã hội

16



thực. Đa con ngời thực đóng vai trò chính, Nguyễn Dữ đúng là một nhà nho,
ông đã đặt ngời phụ nữ trong mối quan hệ của xã hội dới học thuyết Nho giáo
tam tòng, tứ đức, nam tôn, nữ ty. Xây dựng con ngời thực là nhân vật
chính, Nguyễn Dữ đã có dụng tâm miêu tả vẻ đẹp và nỗi đau của con ngời trần
thế. Đó là những bi kịch nảy sinh từ phía mỗi gia đình, mỗi thân phận. Những
truyện mà ngời phụ nữ đóng vai trò nhân vật chính thờng: tả nỗi luân lạc của
ngời phụ nữ, một đằng vì tên cờng quyền chiếm đoạt làm cho rẽ thuý chia
uyên (Chuyện nàng Thuý Tiêu ), một đằng vì bọn ngoại xâm lăng loàn áp bức,
làm cho bình rơi trâm gãy (Chuyện Lệ Nơng), hay tả rõ ngời phụ nữ trong xã
hội cũ, dù ăn ở thuỷ chung với chồng thế nào, cũng chịu một thân phận hèn
kém: một đằng vì thua bạc mà gán vợ (Chuyện ngời nghĩa phụ Khoái Châu),
một đằng vì ngờ vực hão huyền để vợ phải quyên sinh (Chuyện ngời con gái
Nam Xơng). Xuyên suốt các câu chuyện trong Truyền kỳ mạn lục ngời phụ nữ
đóng vai trò nhân vật chính đều toát lên ở họ vẻ đẹp tinh thần, vẻ đẹp thể chất
ít đợc thể hiện. Con ngời thực phản ánh hiện thực, đó là mong muốn của
Nguyễn Dữ khi ông muốn thể hiện ớc mơ về một xã hội tốt đẹp hơn.
Những nhân vật phụ nữ đóng vai trò nhân vật phụ là những nhân vật
không có thực. Họ là những nhân vật siêu nhiên, những hồn ma, hồn hoa
mang dáng dấp của những con ngời thoắt ẩn thoắt hiện, sống trên dơng gian
chỉ là tạm bợ. Những nhân vật này có vẻ đẹp nghiêng về vật chất và ta khó tìm
đợc một tính cách có thay đổi. Đây phải chăng cũng là một dụng ý của
Nguyễn Dữ ? Ông để cho nhân vật phụ nữ không có thật đóng vai trò phụ bởi
chỉ có nh vậy nhân vật siêu nhiên này mới biểu hiện đợc khát vọng trần thế,
khát vọng tình yêu. Chẳng hạn trong Chuyện cây gạo, nhân vật Lệ Khanh dới
hình thức là hồn ma là yếu tố tác động khiến cho Trình Trung Ngộ mắc vào
vòng luyến ái. Lệ Khanh chỉ là nhân vật phụ, mọi t tởng, ý nghĩ của nàng cho
thấy nàng chỉ muốn đắm mình trong ái ân, thoả mãn bản năng nghĩ đời ngời
ta chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào, nên tìm lấy
những thú vui, kẻo một sớm chết đi, sẽ thành ngời của suối vàng, dù có muốn
ái ân cũng không đợc nữa. Nh vậy khát vọng trần thế ở đây không còn là

khát vọng bình thờng: yêu và đợc yêu, sống là bổn phận, trách nhiệm của ngời
vợ, ngời mẹ nữa mà là những con ngời chỉ có ớc vọng về phần xác thịt, sống
theo bản năng. Do đó, những ngời phụ nữ đóng vai trò nhân vật phụ trong
Truyền kỳ mạn lục hầu hết không có phẩm chất nổi bật, một phần có lẽ thời

17


gian cho họ xuất hiện quá ngắn ngủi số trời đã định, kỳ về đến nơi, biết làm
sao đợc... Chỉ nội trong đêm nay thôi. Hễ lúc nào có trận gió đông nổi lên ấy
là lúc chúng em thác hoá (Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây), phần nữa, do họ không
có nhiều xung đột, mâu thuẫn với cuộc đời thực. Nguyễn Dữ đã mợn những
hồn hoa nh Liễu (Hồng Nơng), Đào (Nhu Nơng) để thể hiện vẻ đẹp thể chất
của ngời phụ nữ: Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, và những nhân vật kỳ ảo này dù
là hồn ma cũng mang vẻ đẹp yêu kiều, diễm lệ: Chuyện cây gạo, Chuyện yêu
quái ở Xơng Giang ...
Trong Truyền kỳ mạn lục ngời phụ nữ đóng vai trò nhân vật chính cha
thể hiện đợc khát vọng, ớc mơ của mình ở cõi đời này, cũng nh ngời phụ nữ
trong Tiễn đăng tân thoại, cuộc sống hiện thực của họ không thể thoả mãn đợc
tình yêu tự do, hạnh phúc. Do đó, ở phần cuối mỗi tác phẩm bao giờ cũng có
sự tái sinh qua yếu tố kỳ ảo hoang đờng. Vấn đề này chúng tôi sẽ đi vào cụ thể
hơn trong phần sau.
Truyền kỳ mạn lục đặc biệt đề cao vẻ đẹp của ngời phụ nữ trên phơng
diện tinh thần. Nếu chỉ để con ngời hiện lên giữa cuộc đời trần trụi thì cha đủ
để tác giả ca ngợi mà tác giả đã có sự kết hợp giữa ba cõi: Tiên- trần- âm phủ.
Tạo ra khung cảnh kỳ ảo giữa hai cõi âm - dơng, tiên- trần, mục đích của
Nguyễn Dữ là nói lên khát vọng tìm lại nhau của con ngời. Vũ Nơng trở về
trên dòng sông huyền ảo rồi nhanh chóng biến mất. Đó là cuộc gặp gỡ và chia
ly giữa một bên là thực, một bên là h ảo. ở đó vẫn là hai thế giới cách trở
không thể hoà nhập: cõi âm và cõi dơng. Và sự thật đau lòng: hai ngời đã

thuộc về hai thế giới khác nhau làm sao có thể cùng sống cùng nhau, có chăng
chỉ là khát khao tìm lại những gì đã mất. Nàng Nhị Khanh trong truyện
Chuyện ngời nghĩa phụ ở Khoái Châu cũng vậy, những tiếng vọng nơi cõi âm
truyền về chỉ là một yếu tố kỳ lạ cho lòng mong mỏi gặp lại ngời xa.
Trong Tiễn đăng tân thoại ngời phụ nữ lại đợc nhấn mạnh đến vẻ đẹp
thể chất, họ là những ngời phụ nữ có sắc đẹp, là những cô gái khuê các nh Hng Nơng, Khánh Nơng hay Lan Anh, Huệ Anh vừa thông minh, giỏi thơ phú
lại xinh đẹp. Và chủ yếu những nhân vật nữ là những hồn ma hiện thành ngời,
những nhân vật thực xuất hiện rất ít. Nếu nh Cù Hựu đã thuyết phục ngời đọc
bởi chất hoang đờng kỳ ảo, thậm chí đã dụng công tạo nên sự ly kỳ rùng rợn
gây cảm giác ghê sợ hãi hùng cho ngời đọc, thì Nguyễn Dữ lại thuyết phục và

18


lay động trái tim ngời đọc qua những cảnh đời éo le, sự cảm thông, sẻ chia,
xót đau trớc những thân phận bất hạnh.
Cả hai tác giả đều mợn yếu tố siêu hình để biểu hiện khát vọng tình yêu
tự do của nam nữ. Trong Truyền kỳ mạn lục đó là cuộc gặp gỡ của Trung Ngộ
với hồn ma Nhị Khanh, cuộc kỳ ngộ của Hà Nhân ở trại Tây với Liễu, Đào rồi
cuộc kỳ ngộ giữa Hàn Than- Vô Kỷ, Phật Sinh với Lệ Nơng, mối tình bất
chính của hồn oan Thị Nghi với viên quan họ Hoàng... ở Tiễn đăng tân thoại,
đó là cuộc gặp gỡ giữa Kiều Sinh và Lệ Khanh, mối tình giữa hồn ma Hng Nơng và Hng Ca, mối tình giữa Đằng Mục và hồn ma Vệ Phơng Hoa, Thuý
Thuý- Kim Định, hạnh phúc có đợc của vợ chồng Vơng Sinh trong Cuộc kỳ
ngộ ở Vị Đờng...
Nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục dù nhân vật chính hay nhân vật
phụ, dới hình thức chính diện hay phản diện thì đều là những con ngời thể
hiện đợc sự phức tạp của cuộc sống. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Dữ
không chỉ đơn nhất xây dựng một kiểu nhân vật xuất thân từ một thành phần
của xã hội mà ở đó ngời phụ nữ hiện lên dới nhiều thành phần xã hội : khuê
nữ (ngời con gái sống trong cung cấm), kỹ nữ (ngời phụ nữ buôn phấn bán

son), dân nữ (ngời phụ nữ thờng dân). Nhân vật nữ trong Truyền kỳ mạn lục
rất đa dạng, xuất hiện và biến thái dới nhiều hình thức. Trong Tiễn đăng tân
thoại, nhân vật nữ cũng xuất hiện từ những cuộc đời, những số phận khác
nhau nhng phần nhiều là những tiểu th khuê các.
Cha bao giờ Văn học viết Việt Nam cho đến thế kỷ XVI lại có hình tợng ngời phụ nữ xuất hiện nhiều nh trong Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ.
Nếu nh ở giai đoạn thế kỷ X- XIV, các tác giả truyện ngắn lấy thần thánh, lấy
những nhân vật truyền thuyết hoặc lấy các cao tăng, đạo sĩ ... làm nhân vật
trung tâm cho tác phẩm của mình thì giờ đây, Nguyễn Dữ đã lấy ngời thực,
việc thực; đặc biệt là lấy những con ngời có số phận bất hạnh nh Vũ Thị Thiết,
Lệ Nơng, Đào Hàn Than... làm đối tợng phản ánh. Rõ ràng Nguyễn Dữ là ngời
mở đầu cho khuynh hớng phản ánh cuộc sống phức tạp của ngời phụ nữ. Viết
về ngời phụ nữ, Nguyễn Dữ là ngời đầu tiên có bớc công phá để khẳng định
giá trị tốt đẹp của con ngời mà dới chế độ xã hội cũ họ là thân phận nhỏ nhoi,
thấp kém, dễ lụi tàn. Chúng ta trân trọng t tởng nhân văn của Nguyễn Dữ, một
nhà nho ẩn dật suốt đời. Ông đồng cảm với số phận của ngời phụ nữ, khẳng
định vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của họ.

19


Chơng 2
Những sự tơng đồng và khác biệt của tính cách
và số phận nhân vật nữ trong hai tác phẩm
2.1 Những sự tơng đồng và khác biệt về tính cách
Tính cách có vai trò quan trọng đối với cả nội dung và hình thức của tác
phẩm văn học. Đối với nội dung, tính cách có nhiệm vụ cụ thể hóa sự thực
hiện của chủ đề t tởng tác phẩm, thông qua sự hoạt động và mối liên hệ giữa
các tính cách, ngời đọc sẽ đi đến một sự khái quát hóa về mặt nhận thức, t tởng. Tính cách cũng là nhân tố chủ yếu tạo nên diễn biến của các sự kiện
trong quá trình phát triển của cốt truyện. Cũng qua hệ thống tính cách, ngời
đọc có thể đánh giá khả năng biểu hiện nội dung của các yếu tố hình thức nh

ngôn ngữ, kết cấu, những quy luật loại thể, các biện pháp thể hiện... Có thể nói
nh Hêghen: Tính cách là điểm trung tâm của mối quan hệ giữa nội dung và
hình thức.
2.1.1 Những sự tơng đồng
Nhà văn xây dựng nên những nhân vật nhằm khái quát tính cách con
ngời. Do tính cách là một hiện tợng xã hội, lịch sử xuất hiện trong hiện thực
khách quan nên chức năng ấy của nhân vật văn học cũng mang tính lịch sử.
Trong văn học dân gian, nhân vật đồng nhất với vai trò mà nó đóng góp
trong tác phẩm nên đợc gọi là nhân vật chức năng. Nhân vật có đặc điểm,
phẩm chất cố định không thay đổi từ đầu đến cuối và không có đời sống nội
tâm. Trong văn học trung đại, nhân vật văn học thuộc nhân vật loại hình vì
nhân vật thể hiện tập trung một loại phẩm chất, tính cách nào đó của con ngời

20


hoặc các phẩm chất, tính cách nào đó của một loại ngời nhất định ở một thời
đại nhất định.
Việc nghiên cứu tính cách nhân vật chỉ thực sự có ý nghĩa khi ngời ta
đặt nó trong mối quan hệ với hoàn cảnh nhất định, bởi vì trong thực tế, tính
cách không thể phát triển tự thân thoát ly hoàn cảnh. Tính cách và hoàn cảnh
có mối quan hệ mật thiết không thể tách rời.
Trong Tiễn đăng tân thoại và Truyền kỳ mạn lục, nhân vật đều xuất hiện
trong khuôn khổ của xã hội phong kiến. Ngời phụ nữ dới chế độ phong kiến
đáng thơng bởi họ là nạn nhân của chế độ tàn ác, hủ bại. Chế độ xã hội cũ coi
khinh ngời phụ nữ và bắt họ phải tuân thủ những quy định ngặt nghèo của học
thuyết Nho giáo. Dới xã hội đó ngời phụ nữ chịu nhiều bất công, nhiều nỗi
đau. Trong Truyền kỳ mạn lục, ngời phụ nữ phải chịu mấy tầng áp bức: nam
quyền, vơng quyền, thần quyền Thế nhng trong những hoàn cảnh nh thế họ
vẫn khẳng định đợc giá trị cao đẹp của mình. Đặt ngời phụ nữ trong mối quan

hệ với gia đình và trong mỗi gia đình cụ thể ngời phụ nữ đợc thể hiện đầy đủ
những phẩm chất, tính cách. Đặc biệt trong mối quan hệ vợ chồng, ngời phụ
nữ hiện lên cùng với những phẩm hạnh hoàn hảo, sự tháo vát của ngời đàn bà,
những sự đấu tranh mạnh mẽ để bảo vệ tình yêu. Xây dựng ngời phụ nữ trong
mối quan hệ với vợ chồng, Nguyễn Dữ tập trung phản ánh những đức tính tốt
đẹp của ngời phụ nữ, đồng thời lý giải căn nguyên nỗi khổ mà họ phải gánh
chịu, qua đó, phản ánh xã hội đơng thời.
2.1.1.1. Sự thuỷ chung, đức hy sinh, lòng vị tha
Nàng Nhị Khanh, Vũ Nơng, Lệ Nơng, Thuý Tiêutrong Truyền kỳ mạn
lục của Nguyễn Dữ, hay nàng Nhị Khanh, Thuý Thuý trong Tiễn đăng tân
thoại của Cù Hựu đều là những ngời phụ nữ thuỷ chung son sắt với tình yêu,
là những ngời tiết tháo, trọn đạo với chồng con. Cả hai tác giả đều đặt nhân
vật vào những hoàn cảnh khó khăn, khắc nghiệt để bộc lộ những nét tính cách
cao cả đó. Và gắn với những số phận bi kịch đó, tác giả đã thể hiện sự chia sẻ,
đồng cảm. Trong đau khổ, khó khăn ấy họ đã vợt lên cái xấu xa, các thế lực để
giữ tấm lòng trong sạch, tự đấu tranh để bảo vệ cho tình yêu hạnh phúc, quyền
sống của mình. Cả hai tác giả đã phần nào đề cập đến vấn đề nhân sinh và với
một tấm lòng cao cả.
Trong Tiễn đăng tân thoại ngời phụ nữ tiêu biểu cho đức hy sinh, thuỷ
chung, tiết liệt là La ái ái (Nàng ái Khanh). Một cô gái thông minh, làm thơ

21


từ rất giỏi, vì thế mọi ngời đều mến mộ và kính trọng nên gọi nàng là ái
Khanh và cũng chính vì điều đó chàng trai nhà họ Triệu, cũng con nhà trâm
anh quyết hỏi đợc nàng làm vợ. Về nhà chồng, ái Khanh giữ đạo làm vợ rất
siêng năng, gia pháp cũng rất nghiêm chỉnh, lựa lời ăn nói, không đúng lễ ắt
không làm khiến chàng họ Triệu yêu chiều và kính nể. Hạnh phúc đó cha đợc
bao lâu, chồng nàng phải lên đờng đi nhận chức quan ở Giang Nam. Mặc dù

rất quyến luyến, song nàng vẫn khuyên chồng quyết chí ra đi em nghe nói,
nam nhi sinh ra để chọn tang bồng hồ thỉ bắn đi bốn phơng, trợng phu lớn lên
thì lập thân nêu danh làm rạng rỡ cho cha mẹ, sao có thể nặng ân tình đợc?
Mẹ chàng ở nhà, cần chăm lo quạt nồng ấp lạnh, miếng ngọt miếng bùi, em
thừa sức gánh vác công việc ấy. ái Khanh ở nhà thay chồng đảm đơng việc
nhà, hết lòng thành kính, một lòng chăm sóc mẹ chồng chu đáo. Tấm lòng ấy
của nàng khiến trớc lúc lâm chung bà còn dặn lại : Con mẹ vì cớ công danh
lên mãi Kinh đô rồi từ đấy tuyệt không tin tức. Mẹ lại không may đau ốm, con
dâu mẹ chăm sóc mẹ không thiếu điều gì. Nay số mẹ đã hết, không có gì trả
ơn con. Chỉ mong con trai mẹ sớm về, con dâu mẹ ngày sau có con có cháu và
chúng đều hiếu thảo nh con dâu mẹ. Trời xanh có biết, ắt thế nào cũng không
phụ con. Lời tri ân cảm thơng, thấu hiểu của mẹ chồng dành cho con dâu
hiếu thảo! Đến khi mẹ chồng qua đời nàng vẫn một lòng giữ trọn đạo hiếu ở
vậy chờ chồng. Cho dến một ngày Trơng Sỹ Thành dấy binh nổi loạn vây hãm
Bình Giang, nhà ái Khanh bị tên Lu Vạn hộ chiếm, thấy nàng có nhan sắc
hắn muốn ép nàng làm vợ. Trớc tình thế cấp bách đó, không còn cách nào
khác để giữ gìn sự trinh tiết, nàng tìm đến cái chết để giữ mãi sự thuỷ chung
với chồng. Cái chết vừa là để nàng tự bảo vệ mình vừa là sự chứng tỏ cho lòng
thuỷ chung son sắt. Mặc dù xuất thân là một ca kỹ, ngời ta vẫn thờng nói xớng ca vô loài - nhng ái Khanh lại không phải là loại hết làm vợ họ Trơng
lại hầu họ Lý. Không dừng lại ở đó, sử dụng yếu tố kỳ, tác giả đã cho
chồng gặp lại nàng. Thực lòng thơng cảm khi tìm gặp lại vợ, nhìn lại vợ trong
một hình hài còn nguyên vẹn, ái Khanh còn tơi tắn nh lúc sống, da thịt nh xa, rồi họ đợc trò chuyện cùng nhau. ái Khanh đã giãi bày lòng mình trong
nghẹn ngào, nức nở:
Xa cách ba xuân,
Một ngày ba năm,
Sao chàng chẳng về?

22



Nhớ mẹ già mang bệnh,
Tự lo thuốc, cháo,
Mồ cao chôn chặt,
áo sô tiễn đi.
Đêm bói hoa đèn,
Sáng chờ khớu báo,
Ngày cài cửa, ma dập hoa lê!
Ai ngờ đâu
Ân tình thôi vĩnh biệt, th chẳng thấy về!
Gơm đao khắp chốn vung lia
Sao mệnh bạc thời suy họa áp kề.
Hớng màn vàng bớc tới,
Hạc kinh, vợn oán,
Thơm tho khăn lụa,
Ngọc nát hoa lìa.
Muốn giữ trọn trinh,
Phải liều một chết
Khỏi bị ngời đời kháo thị phi.
Chàng hãy nhớ
Họa là trong tranh vẽ
Gặp lại Thôi Huy
Tác giả đã để cho nhân vật đợc bộc bạch những nỗi niềm tự trong thẳm
sâu, đợc chồng thấu hiểu những sự đắng cay. Đó chính là cái nhìn đầy thông
cảm đối với nhân vật, và phần nào khắc đậm hình ảnh ái Khanh- một ngời
phụ nữ chính chuyên, giàu đức hy sinh.
Nguyễn Dữ cũng dành bút lực của mình ngợi ca về ngời phụ nữ. Trong
Truyền kỳ mạn lục họ là những tấm gơng của sự thuỷ chung, tiết liệt. Đó là
nàng Nhị Khanh trong Chuyện ngời nghĩa phụ Khoái Châu và Vũ Thị Thiết
trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng là hai ngời phụ nữ tiêu biểu cho phẩm
cách ấy. Hai ngời đàn bà sống trọn nghĩa với chồng nhng rốt cuộc phải nhận

lấy những bi kịch xót đau. Và dù cuộc đời có tàn nhẫn với họ bao nhiêu thì họ
vẫn thể hiện rõ tính cách, phẩm chất cao quý của mình.
Nghi ngút đầu ghềnh toả khói hơng
Miếu ai nh miếu vợ chàng Trơng

23


Ngọn đèn dầu tắt đừng nghe trẻ
Làn nớc chi cho lụy đến nàng
(Lê Thánh Tông)
Câu chuyện buồn của nàng Vũ Nơng xảy ra từ thời hậu Trần đã đợc
Nguyễn Dữ ghi lại thành một truyền kỳ, đã làm rơi nớc mắt ngời đọc mấy thế
kỷ nay. Cái bóng oan khiên nh một định mệnh phủ xuống đời nàng. Câu
chuyện ca ngợi vẻ đẹp của lòng vị tha, ca ngợi đức trung trinh của ngời đàn
bà. Xây dựng mối quan hệ vợ chồng, Nguyễn Dữ đã dựa vào tính cách cha
hoàn hảo của Trơng Sinh - chồng của Vũ Nơng để nói lên tấn bi kịch và phẩm
hạnh của Vũ Nơng. Nàng là ngời phụ nữ hoàn hảo từ dung nhan cho đến phẩm
chất Vũ Thị Thiết ngời con gái quê ở Nam Xơng. Ngời đã thuỳ mị, nết na, lại
thêm t dung tốt đẹp. Khi làm vợ Trơng Sinh, Vũ Nơng cũng tỏ ra là một ngời
vợ nết na, rất mực. Mặc dù chồng có tính ghen bóng ghen gió nhng Vũ Nơng luôn giữ gìn khuôn phép, không lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Đến
lúc Trơng Sinh đi lính nàng chẳng dám mong đeo đợc ấn phong hầu, mặc áo
gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo đợc hai chữ bình yên. Một
mình tần tảo sớm tối chăm sóc mẹ chồng, dạy dỗ con thơ, làm nhiệm vụ một
ngời con dâu, ngời mẹ trẻ một cách hoàn hảo. Khi mẹ chồng ốm, nàng chăm
lo thuốc thang. Đến khi mẹ chồng mất nàng thơng xót, lo việc ma chay tế lễ
chu đáo. Những năm tháng chờ chồng đã giúp nàng bộc lộ những phẩm chất
của một ngời phụ nữ rất mực phẩm hạnh. Nàng cách biệt ba năm giữ gìn một
tiết, song cuộc đời thật lắm lúc đa đoan, nghiệt ngã. Thói ghen tuông và tính
đa nghi làm cho Trơng Sinh thành kẻ mù quáng và nhẫn tâm. Khi đi lính trở

về, Trơng Sinh nghe con nói, đinh ninh là vợ h, mối nghi ngờ ngày càng sâu
Khi nàng hỏi, thì lại dấu, không kể lời con, chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ
mà mắng nhiếc nàng và đánh đuổi đi. Chàng đã nghe một lời nói ngây thơ
nhng chứa lợng thông tin không đầy đủ của con thơ.
ở đây thật, giả lẫn lộn. Vũ Nơng đã đem một cái giả để thay cho một
cái thật, dùng cái bóng của mình để khoả lấp nỗi nhớ thơng chồng. Trơng Sinh
lại lầm lẫn giữa cái giả và sự thật. Sự lầm lẫn ấy đã xảy ra một bi kịch không
thể cứu vãn. Trơng Sinh mất niềm tin đối với vợ. Bị chồng nghi oan, mắng
nhiếc, nàng chỉ biết khóc và có những lời giãi bày, mong đợc cởi mối nghi
ngờ. Không đợc chồng tin tởng, nàng đành mợn đến cái chết để giữ tiết hạnh.
Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc,

24


tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan
trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nớc xin làm ngọc Mỵ Nơng, xuống đất
xin làm cỏ Ngu Mỹ. Nhợc bằng, lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dới xin
làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho quạ, chẳng những là chịu khắp mọi
ngời phỉ nhổ. Lời thề thốt thể hiện nỗi oan khuất của nàng. Qua lời thề ấy Vũ
Nơng hiện lên là một con ngời trung hậu. Tìm đến cái chết là cách duy nhất
Vũ Nơng có thể chứng tỏ đợc tấm lòng trinh bạch của mình. Cuộc sống đối
với nàng không có niềm tin thì làm sao có thể là chỗ dựa tuyệt đối cho nàng
Thiếp sở dĩ nơng tựa vào chàng vì có thú vui nghi gia nghi thất, có sự yên ổn
đợc tựa bóng cây cao. Cuộc đời không dành cho nàng chỗ đứng để khẳng
định nhân phẩm nàng đã quyết chọn cái chết, chỉ có cái chết mới giúp nàng
thoát khỏi sự ruồng rẫy của chồng.
Nàng khát khao vơn tới một bến bờ hạnh phúc, khẳng định giá trị cao
đẹp của mình: một ngời vợ chung tình với chồng, một ngời con trọn bề hiếu
đạo. Phẩm chất đáng quý ấy của Vũ Nơng khiến ngời đọc trân trọng bao nhiêu

thì lại trách chàng Trơng Sinh vô tình bấy nhiêu - vô tình để cho ngời vợ đáng
thơng chết một cách oan uổng. Cái chết đã trả nàng về với cõi vĩnh hằng, để
lại sự tiếc thơng vô hạn cho đời sau. Nàng là một ngời con gái thờng dân đợc
tôn thờ nh một thành hoàng làng (miếu vợ chàng Trơng). Nàng cũng là một
phụ nữ đời thờng đợc chính một trong những vị vua tài giỏi vào bậc nhất nớc
Việt - Lê Thánh Tông chiêu tuyết bằng những vân thơ đầy xúc động:
Qua đây mới biết nguồn cơn ấy
Khá trách chàng Trơng khéo phũ phàng
Cũng nh Cù Hựu xây dựng nhân vật ái Khanh, xây dựng nhân vật Vũ
Nơng, Nguyễn Dữ đã mợn yếu tố kỳ lạ, hoang đờng để khẳng định trọn vẹn
thêm đức tính của nàng và khắc họa rõ về tính cách của ngời phụ nữ trong xã
hội phong kiến. Đó là sự bù đắp những mất mát thiệt thòi của nàng ở trần
gian. Nguyễn Dữ đã tạo dựng một không gian mới, một thế giới mới cho nhân
vật tồn tại, thế giới của vua biển Nam Hải, nơi Vũ Nơng sống sau khi gieo
mình xuống sông. Đây phải chăng là một bớc tiếp nối của nghệ thuật tợng trng phơng Đông nh một sự có hậu để ám chỉ nỗi oan khuất của Vũ Nơng đợc
hoá giải? Dòng sông là nơi minh chứng cho sự trinh bạch của nàng, rửa nỗi
oan cho nàng; cũng là nơi cho nàng gặp lại Trơng Sinh để tỏ lòng vị tha trớc
những hối hận của chồng. Nhng đằng sau hình ảnh rực rỡ của yếu tố thần kỳ

25


×