Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Học thuyết tam quyền phân lập và sự vận dụng vào tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước việt nam hiện nay luận văn tốt nghiệp đại học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (438.82 KB, 94 trang )

Khúa lun tt nghip

LờI CảM ƠN
Trang

Trong quá trình hoàn thành khóa luận, ngoài sự nỗ lực
của bản thân, ngời viết đã nhận đợc sự quan tâm, giúp đỡ
của các thầy cô giáo trong khoa, đặc biệt là sự hớng dẫn, dẫn
dắt chu đáo, nhiệt tình của thầy giáo Nguyễn Văn Đại ngời trực tiếp hớng dẫn tôi hoàn thành khóa luận.
Với tình cảm chân thành, cho phép ngời viết đợc gửi
lời cảm ơn tới tất cả các thầy cô giáo trong khoa, đặc biệt là
thầy giáo Nguyễn Văn Đại.
Do trình độ, kiến thức của ngời viết còn hạn khoa học
nên chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót. Rất mong nhân
đợc lời góp ý của thầy cô giáo và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn!
Sinh viên:
Trịnh Thị

Huyền

MC LC
A - M U
Trnh Th Huyn

1
1

Lp 48 B2 Lut



Khóa luận tốt nghiệp
1. Lý do chọn đề tài

1

2. Tình hình nghiên cứu

2

3. Mục đích nghiên cứu của đề tài

3

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

4

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

4

6. Những đóng góp mới về khoa học của khóa luận

4

7. Kết cấu của khóa luận

5

B – PHẦN NỘI DUNG


6

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN
PHÂN LẬP” VÀ SỰ VẬN DỤNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG HỌC
THUYẾT VÀO TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY

6

NHÀ NƯỚC TƯ SẢN
1.1. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết
“tam quyền phân lập”
1.1.1. Giới thiệu khái quát về nhà tư tưởng chính trị vĩ đại Montesquieu
1.1.2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “tam quyền phân lập”

6
6
9

1.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập”

11

1.2. Nội dung cơ bản của học thuyết “tam quyền phân lập” về tổ chức

14

và hoạt động của bộ máy Nhà nước nói chung
1.2.1. Nội dung về tính phân quyền trong tổ chức hoạt động của Bộ
máy Nhà nước

1.2.2. Học thuyết “Tam quyền phân lập” về vấn đề xây dựng Nhà nước

14
19

pháp quyền TBCN
1.3. Vận dụng nội dung của học thuyết “tam quyền phân lập” để xây
Nhà nước pháp quyền tư sản trong lịch sử
Trịnh Thị Huyền

2

22

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
1.3.1. Sự vận dụng chung ở các mô hình Nhà nước Tư sản

22

1.3.2. Sự vận dụng học thuyết “tam quyền phân lập” ở nước Mỹ

24

1.3.3. Sự vận dụng học thuyết “tam quyền phân lập” ở liên bang Nga

29


Kết luận chương 1

32

Chương 2: VẬN DỤNG HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN

33

LẬP” ĐỂ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XHCN Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY
2.1. Khái quát về Nhà nước pháp quyền XHCN

33

2.1.1. Tính tất yếu khách quan về sự ra đời của Nhà nước XHCN

33

2.1.2. Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền – quy luật phát triển của

35

Nhà nước XHCN
2.1.3. Các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước pháp quyền XHCN
2.2. Vận dụng học thuyết “tam quyền phân lập” trong tổ chức và hoạt
động của Nhà nước ta hiện nay
2.2.1. Một số tư tưởng cốt lõi của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN
2.2.2. Nguyên tắc thống nhất quyền lực và phân công, phối hợp giữa

các quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta
2.2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy Nhà nước ở Việt Nam hiện nay

37
44
44
52
60

2.3. Những vấn đề tồn tại và giải pháp trong việc xây dựng Nhà nước

62

pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân ở nước ta hiện nay
2.3.1. Đánh giá một số tồn tại, vướng mắc cần nhận thức đúng đắn để

62

khắc phục
73

2.3.2. Các giải pháp khắc phục
Trịnh Thị Huyền

3

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp

Kết luận chương 2:

89

C - PHẦN KẾT LUẬN

90
91

D - DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Có thể nói trong lịch sử các học thuyết chính trị của nhân loại, các học thuyết
về Nhà nước luôn giữ vị trí quan trọng nhất. Trong các học thuyết ấy thì học thuyết
về quyền lực Nhà nước, về việc tổ chức và thực hiện quyền lực giữ vị trí cơ bản và
trọng yếu, chúng bao giờ cũng để lại dấu ấn trong các thể chế chính trị nhất định.
Vì vậy, nghiên cứu lịch sử các học thuyết chính trị mang lại một ánh sáng cần thiết
cho việc nghiên cứu nền chính trị và các thể chế chính trị đương đại.
Học thuyết phân chia quyền lực Nhà nước có mầm mống xa xưa trong lịch sử,
từ thời cổ đại. Chúng ta có thể tìm thấy những nét đại cương của nó trong tổ chức
và hoạt động của bộ máy Nhà nước Hy Lạp, La Mã thời kỳ cổ đại, trong các quan
điểm chính trị của Aristote, Polybe... Sau đó, học thuyết này được các nhà tư tưởng
tư sản thế kỷ XVII – XVIII, điển hình là John Locke và Montesquieu kế thừa, phát
triển và hoàn thiện nó, coi đó là cơ sở bảo đảm quyền lực nhân dân và chống chế
độ độc tài, chuyên chế. Montesquieu phát triển một cách toàn diện học thuyết phân
quyền và sau này khi nhắc tới học thuyết “tam quyền phân lập” là nhắc tới tên tuổi
của ông. Nó được áp dụng trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước của nhiều nước trên
thế giới ở các mức độ khác nhau, được ghi nhận một cách trang trọng trong các bản
Tuyên ngôn và Hiến pháp của một số nước. Thậm chí, có nước đã coi phân quyền là

nguyên tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước của mình. Đó chính là sự thừa
nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam quyền phân lập” trong thực tế.
Tuy vậy, trong một thời gian khá dài, ở nước ta cũng như ở các nước XHCN
khác, học thuyết này không được chú trọng nghiên cứu và đánh giá đúng giá trị, vì
nó bị coi là tư tưởng của giai cấp tư sản. Việc tổ chức của bộ máy Nhà nước ở
Trịnh Thị Huyền

4

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
những nước gần như rập khuôn theo mô hình Nhà nước Liên Xô và sự phân quyền
hầu như bị phủ nhận. Từ khi bắt đầu công cuộc đổi mới toàn diện đất nước do Đại
hội VI ĐCSVN khởi xướng, với mục đích phục vụ nhiệm vụ cấp bách mà Đảng
vạch ra là: tăng cường bộ máy Nhà nước, cải tiến tổ chức và hoạt động để nâng cao
hiệu quả quản lý của nó, học thuyết “tam quyền phân lập” đã được quan tâm
nghiên cứu để hiểu rõ nội dung, ý nghĩa của nó và để vận dụng vào việc tổ chức bộ
máy Nhà nước ta ở mức độ phù hợp.
Do đó, bộ máy Nhà nước Việt Nam theo Hiến pháp 1992 tổ chức theo tinh
thần: “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và
tư pháp”. Quản lý Nhà nước bằng pháp luật được tăng cường. Dân chủ XHCN
được mở rộng, ổn định chính trị được giữ vững. Đó là kết quả ban đầu của quá
trình đổi mới nhận thức của chúng ta và chính vì vậy mà phương hướng cải cách tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta như trên được ghi nhận lại trong Báo
cáo chính trị tại Đại hội Đảng IX là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN dưới
sự lãnh đạo của Đảng”.
Mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của

bộ máy Nhà nước theo mục tiêu ấy được Đảng và Nhà nước ta khẳng định trong
những văn kiện quan trọng nhất của đất nước. Đó là mục tiêu hoàn toàn đúng đắn
và phù hợp với xu thế tất yếu của thời đại - xu thế phát triển dân chủ và tiến bộ xã
hội. Với mong muốn góp phần vào công cuộc hoàn thiện xây dựng, tổ chức và hoạt
động của bộ máy Nhà nước ta, tôi mạnh dạn chọn đề tài: “Học thuyết “tam quyền
phân lập” và sự vận dụng vào tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước Việt
Nam hiện nay” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Học thuyết “tam quyền phân lập” được nghiên cứu từ lâu và ở nhiều nước trên
thế giới như Anh, Mỹ, Nga, ... Còn ở nước ta, việc tìm hiểu cũng như sự vận dụng
nó vào tổ chức bộ máy Nhà nước cho đến nay mới dừng ở mức độ khái quát nên
chưa có tác giả nào trình bày cụ thể và có hệ thống về vấn đề này. Hiện tại, mới chỉ
Trịnh Thị Huyền

5

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
một số công trình đề cập đến nó như: “Thuyết “tam quyền phân lập” và bộ máy
Nhà nước Tư sản hiện đại” của Viện Thông tin Khoa học xã hội; “Thử bàn lại học
thuyết phân chia quyền lực” của PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung; “Luật Hiến pháp và
các định chế chính trị” của Lê Đình Chân. Các tác phẩm trình bày khái quát về cội
nguồn của thuyết “tam quyền phân lập”, nội dung của nó, các quan điểm khác nhau
về thuyết này, thực tế áp dụng thuyết “tam quyền phân lập” trên thế giới và yêu
cầu phải có sự phân công phân nhiệm giữa các cơ quan Nhà nước Việt Nam.
Song, chưa có tác giả nào trình bày một cách cụ thể và có hệ thống về lịch sử của
học thuyết “tam quyền phân lập” cũng như sự thể hiện và áp dụng học thuyết này
trong thực tiễn tổ chức bộ máy Nhà nước trên thế giới và ở Việt Nam. Phải chăng

cũng vì thế mà cho đến nay, việc tìm ra một cơ chế để thực hiện có hiệu quả sự
phân công và phối hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lực: lập pháp, hành pháp, tư pháp và bảo đảm sự thống nhất của quyền lực Nhà
nước ở nước ta vẫn còn nhiều lúng túng, chưa có câu trả lời thỏa đáng. Hậu quả là
vấn đề này hiện nay chủ yếu mới dừng ở nguyên tắc mà chưa được cụ thể hóa về
mặt pháp lý.
3. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Thông qua việc xem xét một cách cụ thể, toàn diện, có hệ thống về sự hình
thành và phát triển của học thuyết “tam quyền phân lập”, sự thể hiện và áp dụng nó
trong thực tế tổ chức bộ máy Nhà nước ở một số nước, khóa luận mong muốn:
+ Làm rõ lịch sử phát triển của học thuyết “tam quyền phân lập”, nội dung,
giá trị lý luận và thực tiễn, ảnh hưởng và sức sống qua nhiều thế kỷ của nó.
+ Chứng minh rằng học thuyết phân quyền có thể áp dụng được và đã được áp
dụng với các mức độ khác nhau trong tổ chức bộ máy của các Nhà nước có chính
thể khác nhau, từ Cộng hòa Tổng thống, Cộng hòa và Quân chủ Đại nghị đến Cộng
hòa Hỗn hợp. Và cả những nước có chính thể Cộng hòa XHCN như nước ta - nơi
mà việc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước được căn bản dựa trên nguyên
tắc tập trung dân chủ và thống nhất quyền lực.

Trịnh Thị Huyền

6

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
+ Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể tìm ra một số giải pháp cụ thể để cải cách
tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước ta hiện nay theo hướng vận dụng học
thuyết phân quyền mạnh mẽ và rõ rệt hơn.


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Khóa luận nghiên cứu và lý giải các vấn đề sau:
Một là: Sự xuất hiện và phát triển của học thuyết này trong lịch sử thể hiện
qua thực tiễn tổ chức bộ máy Nhà nước của một số nước, qua quan điểm của một
số nhà tư tưởng của các thời đại và một số cách hiểu về sự phân quyền, nội dung
và ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập”.
Hai là: Sự thể hiện và áp dụng học thuyết phân quyền trong tổ chức bộ máy Nhà
nước ở một số nước tư sản đại diện cho các mức độ áp dụng khác nhau cũng như
sự vận dụng các giá trị đúng đắn, khoa học, khách quan trong Nhà nước XHCN và
cụ thể ở Nhà nước ta hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của khóa luận bao gồm:
Thứ nhất: Chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề Nhà nước
Thứ hai: Quan điểm của ĐCSVN, Chủ tịch Hồ Chí Minh về vấn đề xây
dựng Nhà nước pháp quyền XHCN.
Trong quá trình nghiên cứu các vấn đề trên, tôi chủ yếu dựa vào phương
pháp thu thập và xử lý thông tin, tư liệu. Khi xử lý, tôi sử dụng kết hợp các phương
pháp cụ thể: phân tích, tổng hợp, khái quát hóa và so sánh giữa các quan điểm, các
tài liệu, các ý kiến, nhận xét khác nhau của nhiều tác giả về cùng một vấn đề.
6. Những đóng góp mới về khoa học của khóa luận
Khóa luận làm sáng tỏ lịch sử hình thành, phát triển, nội dung, giá trị lý luận,
thực tiễn và hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập”. Qua đó, góp phần bổ
Trịnh Thị Huyền

7

Lớp 48 B2 – Luật



Khóa luận tốt nghiệp
sung, làm phong phú hơn, hoàn chỉnh hơn sự hiểu biết về quá trình hình thành và
phát triển của học thuyết phân quyền trong lịch sử, góp phần bổ sung những tri
thức mới và thúc đẩy sự phát triển của ngành khoa học nghiên cứu về lịch sử tư
tưởng chính trị - pháp lý ở Việt Nam.
Bằng việc trình bày một cách tổng quát về sự thể hiện và áp dụng thuyết “tam
quyền phân lập” một cách sáng tạo vào tổ chức bộ máy Nhà nước ở một số nước
đại diện cho các mức độ áp dụng và sự thể hiện học thuyết phân quyền trong tổ
chức bộ máy Nhà nước ta. Khóa luận vừa góp phần khẳng định giá trị thực tiễn của
học thuyết phân quyền trong việc thiết kế các mô hình tổ chức bộ máy Nhà nước,
vừa nêu lên đặc trưng cơ bản cũng như ưu điểm và hạn chế của từng mức độ áp
dụng để có thể tham khảo, học tập, rút kinh nghiệm trong quá trình cải cách tổ
chức và hoạt động của Nhà nước ta.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài lời cảm ơn, mục lục, phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham
khảo, khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về học thuyết “tam quyền phân lập” và sự vận dụng
trong tổ chức và hoạt động ở Nhà nước tư sản.
Chương 2: Vận dụng học thuyết “tam quyền phân lập” để xây dựng Nhà
nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.

Trịnh Thị Huyền

8

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp


B – PHẦN NỘI DUNG
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HỌC THUYẾT “TAM QUYỀN PHÂN LẬP” VÀ SỰ
VẬN DỤNG GIÁ TRỊ NỘI DUNG HỌC THUYẾT VÀO TỔ CHỨC
VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC TƯ SẢN

1.1. Hoàn cảnh ra đời và ý nghĩa phương pháp luận của học
thuyết “tam quyền phân lập”
1.1.1. Giới thiệu khái quát về nhà tư tưởng chính trị vĩ đại Montesquieu
Charles de Secondat Montesquieu (1689 – 1755) – nhà triết học khai sáng,
nhà tư tưởng chính trị, nhà kinh tế học, nhà xã hội học và nhà sử học người Pháp.
Ông là nhà tư tưởng có dòng dõi quý tộc, sinh ngày 18 tháng 1 năm 1689 tại lâu
đài La Brét ở Tây – Nam nước Pháp. Cha ông là Giắc đơ Sơcôngđa – một quý tộc
bị sa sút và đã có thời gian làm đại úy vệ kỳ binh, sau đó lui về ở ẩn cho đến năm
1713 thì qua đời. Khi Montesquieu lên 7 tuổi thì mẹ ông mất. Montesquieu chịu
ảnh hưởng nhiều của người chú ruột – Giăng đơ Sơcôngđa, người đã từng là Chủ
tịch Nghị viện Boóc đô. Năm 1714, Montesquieu vào làm việc tại Viện Boócđô và
hai năm sau, ông trở thành nam tước De Montesquieu – Chủ tịch Nghị viện
Boócđô. Năm 1716, Montesquieu trở thành thành viên Viện Hàn lâm Khoa học
Boócđô.
Khí chất của chàng thanh niên Montesquieu ham tìm tòi, suy nghĩ với lòng
khát khao hiểu biết trên nhiều lĩnh vực đồng thời lại trực tiếp tiếp xúc với thực tiễn
chính trị – xã hội của thời đại ở một giai đoạn được coi là có sự bùng nổ của các
cuộc đấu tranh quyết liệt chống phong kiến đã sớm nung nấu tinh thần của nhà triết
Trịnh Thị Huyền

9

Lớp 48 B2 – Luật



Khóa luận tốt nghiệp
học khai sáng tương lai. Tư tưởng và tài năng của ông thực sự hòa làm một, kết
tinh thành năng lực tư duy sáng tạo, khí phách kiên cường của nhà triết học khai
sáng. Vào năm 1721, Montesquieu đã cho ra đời tác phẩm đầu tay, tác phẩm được
thừa nhận là đã gây chấn động dư luận không riêng gì ở Pháp, mà cả ở châu Âu –
đó là tiểu thuyết bằng thư “Những bức thư Ba Tư”.
Năm 1726, Montesquieu thôi chức vụ Chánh án Tòa án Boócđô mà trước đấy,
ông đã làm thế chân người chú của mình. Một năm sau, ông được bầu vào Viện
Hàn lâm Khoa học Pháp. Đến năm 1728, ông lên đường đi du lịch khắp nơi để hiểu
phong tục, tập quán, luật pháp và thể chế của các nước châu Âu. Ông lưu lại hai
năm cuối ở Anh. Dưới chế độ quân chủ lập hiến, ông cảm thấy rất hài lòng và cho
đó là một thể chế lý tưởng, trái ngược với nước Pháp quân chủ chuyên chế. “Tại
Nghị viện Anh, người ta cho phép ông có mặt trong các cuộc tranh luận giữa
Chính phủ và phe đối lập kéo dài tới 12 giờ”. Các tư tưởng của ông về lý luận phân
quyền đã bắt đầu chín muồi ở Anh. Đây là thời gian đã làm cho Montesquieu thấy
thực sự quý báu và những cảm nhận của ông về những gì đã diễn ra ở đây đã trở
thành tiền đề cho sự hình thành tư tưởng của ông sau này.
Tháng 10 năm 1748, Montesquieu cho ra đời tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp
luật”. Ở tác phẩm “Bàn về tinh thần pháp luật”, Montesquieu không nghiên cứu
luật pháp như một nhà luật học thuần tuý, mà nghiên cứu cái hồn, cái tinh thần của
pháp luật. Ông muốn khám phá cái trật tự, cái quy luật trong mớ hỗn độn của các
luật pháp ở tất cả các dân tộc và ở mọi thời đại. Đây là tác phẩm mang tính triết
học sâu sắc, trong đó luật pháp được giải thích từ nhiều khía cạnh khác nhau.
Montesquieu chia thể chế Nhà nước ra ba loại: Độc tài, Quân chủ lập hiến và
Cộng hòa. Phê phán thể chế độc tài và ca ngợi thể chế cộng hòa là tốt đẹp nhưng
không thực hiện được trong thực tế, ông chủ trương rằng thể chế chính trị hợp lý
nhất của nước Pháp và nhiều nước là Quân chủ lập hiến giống như nước Anh.

Trịnh Thị Huyền


10

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
Trong học thuyết của mình, Montesquieu nêu ra nguyên tắc phân quyền: lập
pháp, hành pháp và tư pháp. Trong đó, nghị viện giữ quyền lập pháp, nhà vua giữ
quyền hành pháp và các quan tòa giữ quyền tư pháp. Các nghành này độc lập với
nhau nhưng kiểm soát lẫn nhau, giai cấp tư sản nắm giữ cơ chế này trong xã hội.
Nguyên tắc phân quyền này của ông đã được thực hiện sau cuộc cách mạng tư sản
Pháp 1789 - 1794 và là định hướng cho nhiều nhà tư sản trên thế giới sau này.
Học thuyết của Montesquieu không chủ trương lật đổ chế độ phong kiến
bằng cách mạng mà chỉ là những cải cách cho phù hợp với đòi hỏi và quyền lợi của
giai cấp tư sản. Như vậy, ông không phải là người theo thuyết dân chủ mà theo
thuyết tự do. Nhưng trong bối cảnh chế độ phong kiến tàn bạo lúc đó, tư tưởng của
Montesquieu thể hiện tính chất tiến bộ và có giá trị tinh thần to lớn đối với các tầng
lớp nhân dân.
Những năm cuối đời, Montesquieu sống trong lâu đài của mình và tại đây,
ông đã viết thêm một số tác phẩm khác, như Lyđimác (1751), Acxat và Ixmêni
(1754). Khi đó, ông đã trở nên nổi tiếng và được kính trọng.
Trong thời gian đó, ông đã phải chịu đựng sự hành hạ thân xác một cách
khủng khiếp do bệnh tật ngày một nặng thêm, nhưng ông vẫn sống và hoạt động
với một nghị lực hiếm có. Ông đã qua đời tại Paris ngày 10 tháng 2 năm 1755 và
để lại nhiều nguyên cảo, trong đó có tập “Những tư tưởng của tôi”.
Với tất cả những cống hiến lý luận của mình, Montesquieu xứng đáng được
tôn vinh là một trong những nhà tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng nhân loại thế
kỷ XVIII, là nhà triết học khai sáng Pháp nổi tiếng với tư tưởng đề cao “tam quyền
phân lập” luôn thể hiện ý chí và khát vọng xây dựng một xã hội mới mà ở đó,

không còn áp bức, bất công, một xã hội có khả năng đem lại tự do cho mọi người,
hoà bình cho nhân loại. Hơn hai thế kỷ qua, nhân loại luôn nhắc đến ông với tư
cách đó và học thuyết “tam quyền phân lập” của ông luôn được các nhà tư tưởng,
các chính khách và giới nghiên cứu lý luận trên toàn thế giới sử dụng như một tài
Trịnh Thị Huyền

11

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
liệu tham khảo bổ ích, có giá trị gợi mở cho việc xây dựng và hoàn thiện lý luận về
xây dựng Nhà nước.

1.1.2. Hoàn cảnh ra đời của học thuyết “tam quyền phân lập”
Bắt đầu từ thế kỷ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất nhỏ và
các đạo luật hà khắc trung cổ bước vào thời kỳ tan rã. Xuất hiện nhiều công trường
thủ công, ban đầu ở các nước ven Địa Trung Hải, nhất là ở Italia, sau đó lan sang
Anh, Pháp và các nước khác. Thay thế cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển là
nền sản xuất công trường thủ công đem lại năng suất lao động cao hơn. Nhiều công
cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện nhằm thúc đẩy sản xuất. Với việc sáng tạo
ra máy tự kéo sợi và máy in làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt
phát triển, nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp
cho con người thời kỳ này sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng
suất lao động.
Những phát kiến địa lý như việc tìm ra châu Mỹ và các đường biển đến những
miền đất mới… càng tạo điều kiện phát triển nền sản xuất theo hướng TBCN. Nhờ
đó, thị trường trao đổi hàng hóa giữa các nước được mở rộng. Các cuộc giao du
Đông - Tây được tăng cường. Các nước TBCN sớm phát triển như Anh, Pháp, Tây

Ban Nha… thi nhau xâm chiếm thuộc địa, khai thác tài nguyên thiên nhiên của các
nước kém phát triển, mở rộng thị trường tiêu thụ hàng hóa của mình. “Giờ đây, lần
đầu tiên người ta đã thực sự phát hiện ra trái đất và đặt nền móng cho nền thương
nghiệp thế giới sau này và đại công nghiệp hiện đại”.
Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã hội Tây
Âu, thời kỳ này, sự phân hóa giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện
gồm các chủ xưởng công trường, xưởng thợ, chủ thuyền buôn… vai trò và vị trí
của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn. Hàng loạt nông dân từ nông thôn di
cư đến các thành phố, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ.
Họ là tiền thân của giai cấp công nhân sau này. Các tầng lớp xã hội trên đại diện
Trịnh Thị Huyền
Lớp 48 B2 – Luật
12


Khóa luận tốt nghiệp
cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ phong kiến
đang suy tàn.
Những mầm mống của nền sản xuất TBCN xuất hiện trước tiên ở Italia, nước
được coi là quốc gia tư bản sớm nhất ở Tây Âu. Với nền văn hóa phục hưng phát
triển rực rỡ trong suốt thế kỷ XIV - XV, Italia trở thành trung tâm của vũ đài lịch
sử thế giới, tiêu biểu cho nền văn minh nhân loại thời kỳ này. Tiếp sau đó, các
cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) với việc xử tử vua Lu - i XVI là một
trong những đòn quyết định tiêu diệt chế độ phong kiến ở châu Âu.
Vào thế kỷ XVI - XVII thành phần kinh tế TBCN ngày càng phát triển mạnh
mẽ trong nền kinh tế của các nước Tây Âu. Sự lớn mạnh của công nghiệp và
thương mại cùng với sự phát triển như vũ bão của khoa học kỹ thuật đã dẫn tới sự
tiếp tục tan rã của chế độ phong kiến. Song, quyền sở hữu ruộng đất của phong
kiến, chế độ nông nô, chế độ đẳng cấp và sự bất bình đẳng về pháp luật đặc trưng
cho xã hội phong kiến đã ngăn cản sự phát triển của kinh tế TBCN dựa trên sự

cạnh tranh tự do và bóc lột lao động làm thuê. Nền quân chủ chuyên chế với những
thể chế bảo thủ can thiệp quan liêu vào toàn bộ đời sống xã hội kìm hãm sự phát
triển của các xí nghiệp thương mại và công nghiệp. Giai cấp tư sản đang trưởng
thành và lớn mạnh ở các nước phát triển nhất không thể khoan nhượng với chế độ
chuyên chế phong kiến. Giai cấp tư sản đòi xóa bỏ đẳng cấp và thiết lập sự bình
đẳng pháp luật, bảo đảm tự do và an ninh cá nhân và quyền sở hữu tư nhân bằng
cách tạo ra những sự đảm bảo cần thiết về mặt chính trị và pháp lý.
Trong cuộc đấu tranh chống nền quân chủ chuyên chế, giới quý tộc và nhà
thờ, các nhà tư tưởng tư sản muốn vứt bỏ vòng hào quang thiêng liêng bao trùm
lên chế độ phong kiến, tách các vấn đề Nhà nước và pháp quyền ra khỏi tôn giáo.
Khuynh hướng này được thể hiện rõ nét trong học thuyết về pháp quyền tự nhiên,
về chủ nghĩa tự do. Nội dung của các học thuyết này được truyền bá rộng rãi ở Tây
Âu đã tạo ra những quan niệm xây dựng nền tảng của thể chế chính trị dân chủ tư
sản. Nó cũng là nền móng của những hệ thống chính trị ở các nước tư bản phát
triển và các nền dân chủ tư bản hiện đại sau này.
Trịnh Thị Huyền
13

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
Tóm lại, hoàn cảnh lịch sử Tây Âu thế kỷ XV - XVIII và nền tảng tư tưởng
trên đây quy định nội dung của những tư tưởng chính trị thời kỳ này, làm cho nó
không chỉ đơn thuần dừng lại ở việc tiếp thu và khôi phục các giá trị tư tưởng
truyền thống, mà còn phát triển với nhiều sắc thái riêng của một thời kỳ lịch sử. Ở
thời kỳ này, có rất nhiều nhà tư tưởng chính trị tiêu biểu và nổi tiếng, những tư
tưởng của họ về mặt chính trị để lại cho nhân loại nhiều giá trị trong đó có thuyết
“tam quyền phân lập” của Montesquieu.
1.1.3. Ý nghĩa phương pháp luận của học thuyết “tam quyền phân lập”

1.1.3.1. Đóng góp của học thuyết “tam quyền phân lập”
Học thuyết này đã được các nhà tư tưởng tư sản thế kỷ XVII - XVIII mà điển
hình là John Locke và Montesquieu kế thừa, phát triển và hoàn thiện nó, coi đó là
cơ sở để bảo đảm quyền lực của nhân dân và chống chế độ độc tài chuyên chế.
Montesquieu đã phát triển một cách toàn diện học thuyết phân quyền và sau này khi
nhắc tới học thuyết “tam quyền phân lập” là nhắc tới tên tuổi của ông. Nó đã được thể
hiện và áp dụng trong việc tổ chức bộ máy Nhà nước của nhiều nước trên thế giới ở
các mức độ khác nhau, được ghi nhận một cách trang trọng trong các bản Tuyên
ngôn và Hiến pháp của một số nước. Thậm chí, có nước đã coi phân quyền là nguyên
tắc cơ bản trong tổ chức bộ máy Nhà nước của mình, là tiêu chuẩn và điều kiện của
nền dân chủ. Đó chính là sự thừa nhận và khẳng định giá trị của học thuyết “tam
quyền phân lập” trong thực tế.
Qua hai thế kỷ, loài người ngày càng hiểu biết hơn về giá trị của nguyên tắc
phân quyền của Montesquieu, đã góp phần đẩy nhanh việc kết thúc chủ nghĩa cực
quyền, ông được mệnh danh như là một người đặt nền móng cho việc thiết lập một
Chính phủ hiện đại. Hiện nay, dân chủ và tự do đã trở thành một giá trị rõ ràng, chế
độ độc tài dần dần được đẩy lùi, phân tích của Montesquieu về việc phân quyền
như là một trong những biện pháp quan trọng để chống sự độc tài chuyên chế của
nhiều Nhà nước trên thế giới hiện nay.

Trịnh Thị Huyền

14

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
Thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến
những quan niệm sau này về tổ chức Nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức Nhà

nước của các Nhà nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan trọng của chủ
nghĩa lập hiến. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều tuyên bố phân
quyền là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực Nhà nước.
Học thuyết “tam quyền phân lập” chiếm một vị trí đáng kể trong lịch sử các
học thuyết chính trị - pháp luật thế giới. Ngày nay, nguyên tắc tổ chức quyền lực
Nhà nước theo kiểu “tam quyền phân lập” đã trở thành nguyên tắc đặc thù và khá
phổ biến ở các Nhà nước pháp quyền tư sản. Các học giả và giới chính trị tư sản
coi nguyên tắc phân quyền là hòn đá tảng của nền dân chủ tư sản mà họ đang cố
nhào nặn nhằm duy trì quyền lợi của giai cấp mình.
Ý nghĩa cơ bản của việc vận dụng nguyên tắc phân quyền vào tổ chức và xây
dựng bộ máy Nhà nước được họ giải thích là nhằm tạo ra một cơ chế có kiểm tra,
kiểm soát và giám sát hoạt động lẫn nhau giữa các cơ quan Nhà nước để khắc phục
sự lạm quyền, tiếm quyền dẫn tới độc tài, là nền tảng đảm bảo cho việc thực hiện
các nguyên tắc cơ bản được thừa nhận của Nhà nước pháp quyền; là cơ chế bảo vệ
pháp quyền và tự do cơ bản của công dân khỏi những hành vi tùy tiện, độc đoán,
những quyết định mang tính chất liên quan, hành chính, mệnh lệnh gây phiền hà và
nhũng nhiễu từ phía các cơ quan và công chức trong bộ máy Nhà nước.
Có thể nói, ưu điểm quan trọng nhất của học thuyết “tam quyền phân lập” là
tránh được sự chuyên quyền, độc tài trong thực hiện quyền lực Nhà nước. Đánh
dấu sự chuyển biến từ việc sử dụng “quyền lực dã man” trong các xã hội chuyên
chế sang việc thực thi quyền lực văn minh trong xã hội dân chủ. Loại bỏ chế độ
quân chủ chuyên chế, độc tài - mảnh đất tốt cho sự lộng quyền, bức rào cản của
dân chủ và phát triển xã hội. Sự hình thành và phát triển của lý thuyết này gắn liền
với quá trình đấu tranh cho bình đẳng, tự do và tiến bộ xã hội. Lấy pháp luật làm
tối thượng, lấy bảo đảm các quyền tự do công dân làm mục đích cuối cùng. Không
chỉ vậy, với cơ chế kiềm chế và đối trọng, kiểm tra và chế ước lẫn nhau giữa ba
Trịnh Thị Huyền

15


Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
nhánh quyền lực đã loại trừ được nguy cơ tập trung tất cả quyền lực Nhà nước vào
tay một cá nhân, nhóm người hay một cơ quan quyền lực duy nhất nào đó - nguyên
nhân chủ yếu dẫn đến sự tha hoá trong quá trình thực thi quyền lực. Nhờ cơ chế
này mà không cơ quan Nhà nước nào có thể chi phối hoặc lấn át hoàn toàn hoạt
động của cơ quan khác. Đồng thời, không cơ quan nào, tổ chức nào đứng ngoài
hoặc đứng trên pháp luật; nằm ngoài sự kiểm tra, giám sát từ phía cơ quan Nhà
nước khác. Như vậy, sự phân chia rành mạch về chức năng và nhân sự cùng với cơ
chế kìm chế, đối trọng có tác dụng hạn chế khả năng lạm quyền, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc phát giác sự lạm quyền, đồng thời đề cao trách nhiệm cá nhân.
Mặc dù thực tiễn chính trị đã thay đổi nhiều so với thời kỳ học thuyết phân
quyền ra đời nhưng học thuyết này vẫn còn nguyên sức sống. Những giá trị mang
tính phổ quát của nó vẫn đang được khai thác và nhân rộng trong tổ chức quyền
lực của nhiều nước, không phân biệt điều kiện kinh tế, văn hoá và chế độ chính trị.
Trong khuôn khổ lý thuyết phân quyền, thực tiễn đã hình thành những chính
thể khác nhau phù hợp với đặc điểm kinh tế, xã hội và truyền thống văn hoá của
mỗi nước. Ở các nước tư bản, các nhánh quyền lực Nhà nước được thể chế hoá cao
độ. Các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp được chuyên nghiệp hoá rất cao. Cơ
chế kiểm soát quyền lực tỏ rõ tính hiệu quả trong việc hạn chế tình trạng lạm
quyền, chuyên quyền, quan liêu, tham nhũng trong bộ máy Nhà nước. Có thể thấy,
cho đến nay, học thuyết phân quyền đã thể hiện và khẳng định những giá trị tiến bộ
của nó. Những giá trị này đã được kiểm chứng trong thực tiễn chính trị hàng trăm
năm ở các nước tư bản phát triển. Đúng như đánh giá của Ph. Ăngghen: “Phân
quyền được xem như là nguyên tắc thiêng liêng và không thể xâm phạm trên thực
tế, về thực chất nó không có gì khác là sự phân công công việc lao động được áp
dụng đối với bộ máy Nhà nước nhằm đơn giản hoá và để kiểm tra”.
1.1.3.2. Một số hạn chế của học thuyết “tam quyền phân lập”

Bên cạnh những ưu điểm, học thuyết “tam quyền phân lập” còn có những
điểm hạn chế là bảo thủ phong kiến, đòi hỏi cho tầng lớp quý tộc. Học thuyết về sự
Trịnh Thị Huyền

16

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
phân quyền tạo ra sự chuyên môn hóa cao trong quản lý bộ máy Nhà nước. Cơ
quan nào cũng bị kiểm tra giám sát việc thực thi quyền lực nó có thể dẫn dến sự
thiếu đồng bộ, mâu thuẫn trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước, thậm
chí làm cho bộ máy Nhà nước bị tê liệt.
Sự đối trọng, kiềm chế, kiển tra, giám sát lẫn nhau giữa các cơ quan lập pháp,
hành pháp và tư pháp bên cạnh tránh tính chủ quan, chuyên chế thì nguy cơ về sự
xung đột thẩm quyền, tranh giành quyền lực, bạo loạn lật đổ luôn tiềm ẩn trong
Nhà nước tư sản.
Montesquieu xuất thân từ giai cấp tư sản, là nhà tư tưởng tư sản vĩ đại vì vậy
mà tư tưởng của ông vẫn mang tính phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản. Học thuyết
của Montesquieu không chủ trương lật đổ chế độ phong kiến bằng cách mạng mà
chỉ là những cải cách cho phù hợp với đòi hỏi và quyền lợi của giai cấp tư sản.
Song những giá trị, những đóng góp và mặt tích cực của học thuyết “tam
quyền phân lập” đem lại cho nhân loại rất lớn mà không ai có thể phủ nhận được.

1.2. Nội dung cơ bản của học thuyết “tam quyền phân lập” về tổ
chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước trong các Kiểu Nhà nước.
Montesquieu - nhà tư tưởng chính trị xuất sắc, cùng với Vonte đã mở đầu cho
phong trào giải phóng tư tưởng vĩ đại. Các tư tưởng chính trị của ông đã vạch trần
được bản chất của chế độ phong kiến và tuyên bố nguyên tắc tự do chính trị, học

thuyết chính trị mang tinh thần tư sản do ông xây dựng đã đưa ông vào hàng ngũ
những nhà tư tưởng vĩ đại của thời đại đó. Học thuyết chính trị của Montesquieu
bao quát nhiều vấn đề từ bản chất của pháp luật đến các hình thức chính quyền
phân chia quyền lực, địa chính trị… nhưng quan trọng nhất là học thuyết phân chia
quyền lực.
1.2.1. Nội dung về tính phân quyền trong tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước
Trịnh Thị Huyền

17

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
Nội dung đầu tiên trong học thuyết phân quyền của Montesquieu là quyền lực
Nhà nước được cấu thành bởi ba hình thái cơ bản (tam quyền): lập pháp, hành
pháp và tư pháp: “Trong mỗi quốc gia đều có ba thứ quyền lực: quyền lập pháp,
quyền thi hành những điều hợp với quốc tế công pháp và quyền thi hành những
điều hợp với luật dân sự. Với quyền Thứ nhất, nhà vua hay pháp quan làm ra các
thứ luật cho một thời gian hay vĩnh viễn, và sửa đổi hay hủy bỏ luật này. Với
quyền lực thứ hai, nhà vua quyết định hòa hay chiến, gửi Đại sứ đi các nước, thiết
lập an ninh, đề phòng xâm lược. Với quyền lực thứ ba, nhà vua hay pháp quan
trừng trị tội phạm, phân xử tranh chấp giữa các cá nhân. Người ta gọi đây là quyền
tư pháp, và trên kia là quyền hành pháp quốc gia”.
Nội dung tiếp theo là quyền lực Nhà nước phải được tổ chức làm sao cho tự
do của công dân được bảo đảm: “Tự do chính trị của công dân là sự yên tâm vì mỗi
người nghĩ rằng mình được an ninh. Muốn đảm bảo tự do chính trị như vậy thì
Chính phủ phải làm thế nào để mỗi công dân không phải sợ một công dân khác”.
Montesquieu kịch liệt lên án chế độ quân chủ chuyên chế ở Pháp lúc bấy giờ.

Chế độ quân chủ chuyên chế là tổ chức quyền lực phi lý. Chuyên chế là hình thức
cầm quyền của một người phủ nhận pháp luật, Nhà nước phụ thuộc vào sự lộng
quyền của người cầm quyền. Chế độ chuyên chế sở dĩ tồi tệ, phi lý là vì: Nhà nước
tồn tại vốn biểu hiện của ý chí chung nhưng trong chế độ chuyên chế nó lại biểu
hiện ý chí đặc thù; chế độ chuyên chế với bản chất vô pháp luật và ý chí tùy tiện
của nó lại trái với bản chất pháp luật và nhu cầu pháp luật. Montesquieu nhận thấy
pháp luật gồm nhiều lĩnh vực, phân nghành rõ rệt, cho nên tập trung vào một người
duy nhất là trái với bản chất của nó. Gắn với bản chất của chế độ chuyên chế là
tình trạng lạm quyền. Vì vậy, việc thanh toán hiện tượng lạm quyền chỉ có thể
đồng thời là sự thanh toán chế độ chuyên chế. Theo Montesquieu, một khi quyền
lực được tập trung vào một mối, kể cả một người hay một tổ chức, thì nguy cơ
chuyên chế vẫn còn. Từ đó, Montesquieu cho rằng tổ chức quyền lực Nhà nước
theo phương thức phân chia quyền lực Nhà nước để chống lại chế độ chuyên chế,
thanh toán nạn làm quyền, bảo đảm quyền tự do của con người…
Trịnh Thị Huyền

18

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
Montesquieu viết: “Khi mà quyền lập pháp và quyền hành pháp nhập lại trong
tay một người hay một Viện Nguyên lão thì không còn tự do nữa; vì người ta sợ
rằng chính ông ta hay viện ấy sẽ đặt ra những luật độc tài để thi hành một cách độc
tài. Cũng không có gì là tự do nếu quyền tư pháp không tách khỏi quyền lập pháp
và quyền hành pháp. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền lập pháp, thì người ta
sẽ độc đoán với quyền sống và quyền tự do của công dân; cơ quan tòa sẽ là người
đặt ra luật. Nếu quyền tư pháp nhập lại với quyền hành pháp, thì ông quan tòa sẽ
có cả sức mạnh của kẻ đàn áp. Nếu một người hay một tổ chức của quan chức,

hoặc của quý tộc, hoặc của dân chúng nắm luôn cả ba thứ quyền lực nói trên thì tất
cả sẽ mất hết”.
Chứng nghiệm vào thực tế, nhận xét của Montesquieu rất đúng. Tự do sẽ
không có nếu quyền lập pháp và quyền hành pháp chập vào một bàn tay. Vì người
nắm quyền lực sẽ đặt ra những quy tắc thuận tiện cho mình cai trị và sẽ không ban
hành các quy tắc gây bất lợi cho mình.
Quyền lập pháp nhập với quyền tư pháp thì tự do cũng sẽ bị đe dọa. Nếu một
người vừa có quyền lập pháp vừa có quyền tư pháp thì sẽ: làm luật cho những
trường hợp hay cá nhân mà ông ta muốn hại, chẳng hạn một nhà độc tài làm ra
những đạo luật riêng nhằm bỏ tù những kẻ chống đối mình; sẽ đem thi hành đạo
luật cho những cá nhân mà ông ta bênh vực hay biệt đãi, chẳng hạn một nhà độc tài
đóng vai trò thẩm phán sẽ không phạt tù những kẻ thân thuộc đã phạm tội. Như
vậy, luật không còn là luật nữa vì không có giá trị tổng quát nữa mà thay đổi tùy
theo ý muốn chủ quan của nhà cầm quyền.
Lạm quyền là thuộc tính của quyền lực Nhà nước. Một người càng có nhiều
quyền hành trong tay thì càng có khả năng lạm quyền. Nếu một người hay một cơ
quan nắm trọn cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp thì tự do của dân chúng
sẽ không còn gì. Phân quyền có nghĩa là ba quyền đó được giao cho những cơ
quan khác nhau, độc lập với nhau có những phương thức hình hành riêng, cách
thức hoạt động, lĩnh vực hoạt động riêng. Tương ứng với ba quyền đó là ba cơ
Trịnh Thị Huyền

19

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
quan: cơ quan lập pháp là Quốc hội, cơ quan hành pháp là Chính phủ, cơ quan tư
pháp là Tòa án.

Một ý tưởng tiếp theo của thuyết phân quyền là sự bình đẳng giữa các nghành
quyền lực. Montesquieu cho rằng, quyền lực tối thượng được phân chia thành ba
hình thái quyền lực cơ bản là lập pháp, hành pháp và tư pháp nên không có nghành
quyền lực nào được gọi là tối thượng. Ba ngành quyền lực này ngang bằng với
nhau, bình đẳng với nhau, không nghành nào cao hơn nghành nào. Thuyết phân
quyền quan niệm rằng mỗi cơ quan đại diện quốc gia thi hành một nhiệm vụ, một
quyền hạn và chỉ có nhiệm vụ quyền hạn đó mà thôi. Cơ quan lập pháp chỉ có
quyền lập pháp, chỉ có nhiệm vụ làm luật. Cơ quan hành pháp chỉ có quyền hành
pháp, nghĩa là nhiệm vụ thi hành luật lệ. Cơ quan tư pháp chỉ có quyền tài phán,
nhiệm vụ xét xử để áp dụng pháp luật.
Phân chia quyền hạn thôi chưa đủ, mà phải có sự độc lập giữa các cơ quan.
Nghĩa là các cơ quan không có hành động hỗ trợ nào. Ví dụ, quyền hành pháp
không có quyền trình các sáng kiến lập pháp lên cơ quan lập pháp.
Một khi tam quyền đã được phân lập rồi thì vấn đề tiếp theo là làm sao để ba
quyền đó kiểm soát lẫn nhau. Để tránh tập trung quyền lực vào tay một hay một
nhóm người thì cần phải có một cơ chế kiểm soát quyền lực, mà khả thi nhất là
dùng quyền lực để kiểm soát quyền lực. Như vậy, người ta sẽ tránh được rủi ro là:
một quyền lực mạnh quá sẽ có tham vọng trở nên độc đoán vì rằng kinh nghiệp
vĩnh viễn cho hay là: ai có quyền cũng sẵn sang lạm quyền. Do đó, thuyết phân
quyền của Montesquieu đặt vấn đề: Phải làm thế nào cho cái việc quyền hành ngăn
chặn quyền hành trở nên một sự dĩ nhiên. Một Chính phủ ôn hòa là một Chính phủ
trong đó sự lạm quyền không thể xẩy ra được, nhờ ở một lối tổ chức nào, một tổ
chức có thể phân phối những thẩm quyền của chủ quyền quốc gia cho những lực
lượng chính trị khác biệt nhau, để khiến cho “quyền hành ngăn chặn quyền hành”.
Công cụ ngăn chặn quyền hành trước mà Montesquieu đề cập đến là: tổ chức
ra hai viện để viện nọ kiểm soát viện kia: “Trong một nước luôn luôn có những
Trịnh Thị Huyền

20


Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
người nổi bật lên vì dòng giống, vì của cải, hoặc vì danh vọng của họ. Nếu họ cũng
chỉ được dùng một lá phiếu bầu như dân chúng, thì tự do chung là nô lệ đối với họ,
họ không tha thiết gì bảo vệ tự do chung đó, vì phần lớn các điều quyết nghị chung
sẽ chống lại họ. Cho nên, khi tham gia vào công cuộc lập pháp thì họ nên được một
tỉ lệ cao tương ứng với vị trí ưu việt mà họ có trong quốc gia”.
Tiếp theo Montesquieu nói đến công cụ để hành pháp ngăn chặn lập pháp.
Trước tiên là quyền của hành pháp quy định thời hạn và thời gian các phiên họp
của nghành lập pháp: “cơ quan lập pháp không nên tự mình triệu tập lấy mình. Nếu
để cho cơ quan hành pháp quy định thời hạn và thời gian các cuộc họp Nghị viện
tùy theo tình huống mà cơ quan hành pháp cho là cần thiết”. Ngoài ra, quyền hành
pháp không có quyền đưa ra các sáng kiến trước lập pháp (như quyền trình dự án
luật của Chính phủ trước Nghị viện ở nhiều nước châu Âu ngày nay), nhưng có
quyền ngăn cản việc thi hành các đạo luật đã được nghành lập pháp thông qua (như
quyền phủ quyết của Tổng thống Mỹ ngày nay). Montesquieu lập luận: “nếu cơ
quan hành pháp không có quyền ngăn cản các dự định của các cơ quan lập pháp,
thì cơ quan lập pháp sẽ trở thành chuyên chế, tự ban cho mình mọi thứ quyền hành
mà xóa bỏ mọi thứ quyền lực khác”. Nếu như quyền hành pháp có quyền ngăn cản
đối với quyền lập pháp thì quyền lập pháp cũng có quyền xem xét việc thi hành các
đạo luật mà mình đã ban hành ra: “trong một nước tự do, nếu cơ quan lập pháp
không nên có quyền ngăn cản cơ quan hành pháp thì nó phải có chức năng xem xét
các đạo luật đã ban hành được thực hiện như thế nào”. Ngày nay, ta gọi đây là
quyền giám sát của Nghị viện.
Ngày nay, theo một quan niệm rất thực tế Vedel quan niệm: “nguyên tắc phân
quyền xét cho cùng có thể thu hẹp và tóm lược bằng một ý tưởng thuộc loại lẽ phải
thông thường. Ý tưởng đó như sau: chế độ độc tài là chế độ tập trung mọi quyền
hành, là chế độ quyền hành võ đoán, là quyền hành có thể vừa làm luật, vừa điều

động quân đội, vừa xử án; là quyền hành muốn làm gì thì làm; theo sở thích riêng,
không cần phải tôn trọng một quy tắc gì đã đặt ra từ trước và cái nguyên tắc của

Trịnh Thị Huyền

21

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
nghệ thuật chính trị mà ta gọi là phân quyền chỉ nhằm có việc tránh độc tài, làm thế
nào cho độc tài không thể ngóc đầu lên được”.
Thuyết “tam quyền phân lập” của Montesquieu có ảnh hưởng sâu sắc đến
những quan niệm sau này về tổ chức Nhà nước cũng như thực tiễn tổ chức Nhà
nước của các nước tư bản. Học thuyết này là một nguồn quan trọng của chủ nghĩa
lập hiến. Đa số Hiến pháp của các nước tư bản hiện nay đều tuyên bố phân quyền
là một nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức quyền lực Nhà nước.
Theo cơ chế phân quyền, các nghành quyền lực độc lập nên sự lạm quyền
được kiểm soát. Hơn nữa, với cơ chế phân quyền, không một nghành quyền lực
nào có thể được coi là đại diện duy nhất cho chủ quyền nhân dân. Mỗi một nghành
quyền lực chỉ đại diện cho chủ quyền nhân dân trên một phương diện nhất định:
Nghị viện sẽ đại diện cho chủ quyền nhân dân trên phương diện lập pháp, Chính
phủ trên phương diện hành pháp, Tòa án trên phương diện tư pháp. Do đó, không
một cơ quan nào có thể thao túng được toàn bộ quyền lực của dân chúng.
1.2.2. Học thuyết “Tam quyền phân lập” về vấn đề xây dựng Nhà nước
pháp quyền TBCN
Nhà nước pháp quyền là một phạm trù có nội hàm rất rộng được hiểu dưới
hai khía cạnh cơ bản là một học thuyết tư tưởng chính trị - pháp lý hoặc là một tổ
chức bộ máy Nhà nước hiện thực.

Dưới góc độ là một hệ tư tưởng chính trị - pháp lý, Nhà nước pháp quyền đã
xuất hiện sớm trong lịch sử loài người. Khi có Nhà nước và pháp luật ra đời thì
cũng đã bắt đầu xuất hiện một số tư tưởng quan niệm về xây dựng Nhà nước pháp
quyền. Coi trọng pháp luật được hiểu là mầm mống đầu tiên về một mô hình Nhà
nước pháp quyền. Hệ tư tưởng này đặc biệt phát triển vào thời kỳ cuối cùng của xã
hội phong kiến khi giai cấp tư sản đã bắt đầu xuất hiện và ngày càng lớn mạnh.
Dưới góc độ là một tổ chức bộ máy Nhà nước thì Nhà nước pháp quyền là
mô hình Nhà nước mà ở đó pháp luật giữ vị trí tối thượng trong việc điều chỉnh các
Trịnh Thị Huyền

22

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
quan hệ xã hội và tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Sự điều chỉnh thống
nhất của pháp luật, Nhà nước đảm bảo tốt nhất các giá trị của con người (nhân
quyền và quyền công dân) thừa nhận một xã hội dân sự phát triển và một hệ thống
pháp luật được xây dựng thống nhất, đồng bộ ở kỹ thuật lập pháp cao.
Nhà nước pháp quyền là con đẻ của cách mạng tư sản châu Âu diễn ra
khoảng thế kỷ XVII gắn liền với phong trào giải phóng nhân loại ra khỏi chế độ
chuyên chế phong kiến. Nhà nước pháp quyền với ý nghĩa là một mô hình hiện
thực chỉ ra đời khi Nhà nước TBCN và Nhà nước XHCN xuất hiện. Còn tư tưởng
về xây dựng một Nhà nước pháp quyền lại xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử gắn
liền với các học thuyết chính trị - pháp lý: học thuyết “tam quyền phân lập”, học
thuyết “tự nhiên”, học thuyết “nhân quyền”…
Tóm lại, Nhà nước pháp quyền TBCN mang những đặc trưng sau:
Thứ nhất, Nhà nước pháp quyền được xây dựng trên cơ sở nền tảng của học
thuyết “tam quyền phân lập”. Lúc này tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước

được vận hành theo nguyên tắc phân quyền và pháp luật được coi trọng mới được
sử dụng để điều chỉnh tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Mọi thiết chế
quyền lực Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ và bị kiểm
soát bởi pháp luật. Quyền lực Nhà nước được phân thành ba hệ thống cơ quan
quyền lực: Quyền lập pháp thuộc về cơ quan Nghị viện; quyền hành pháp thuộc về
Chính phủ; quyền tư pháp thuộc về Tòa án.
Với việc phân chia quyền lực như vậy tránh được sự chuyên quyền, độc đoán,
lạm quyền. Đảm bảo tính khách quan, kiềm chế, đối trọng lẫn nhau… đó gọi là cơ
chế phản biện xã hội, thúc đẩy các chủ thể hoàn thành công việc của mình.
Thứ hai, Nhà nước pháp quyền tư sản thừa nhận và bảo hộ một xã hội dân sự
phát triển rộng rãi. Tức là xã hội đó đề cao con người, vai trò của quyền tự do, bình
đẳng, thỏa thuận giữa các công dân trong quan hệ kinh tế - xã hội. Nhà nước cũng
chỉ giữ vai trò là một chủ thể độc lập, không can thiệp quá sâu vào các quan hệ
pháp luật. Xã hội dân sự đối ngược lại với một xã hội hành chính mang bản chất
mệnh lệnh, phục tùng, bất bình đẳng.
Trịnh Thị Huyền

23

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
Nhà nước được xây dựng trên nền tảng xã hội của công dân - một xã hội mà ở
đó công dân là chủ thể, Nhà nước phải phục tùng lợi ích của công dân. Pháp luật
phải đứng trên Nhà nước và Nhà nước phải có nghĩa vụ tuân thủ pháp luật.
Thứ ba, Nhà nước pháp quyền thừa nhận, củng cố và bảo vệ tốt nhất các giá
trị của con người và quyền công dân. Vấn đề an sinh xã hội, phúc lợi xã hội, bảo
hiểm xã hội được Nhà nước quan tâm và dành được được nhiều kết quả có tính
chất thực tế.

Bản chất của Nhà nước pháp quyền là đề cao vai trò điều chỉnh của pháp luật,
pháp luật là công cụ, phương tiện hữu hiệu và đắc lực nhất để bộ máy Nhà nước đó
sử dụng điều chỉnh các quan hệ xã hội. Tuy nhiên, nếu như việc đề cao vai trò
pháp luật chỉ vì bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị, Đảng phái cầm quyền thì đó là
một Nhà nước có bản chất trái ngược với Nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp
quyền có nghĩa là sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền con người một cách tối ưu.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền tư sản gắn liền với một hệ thống pháp luật
thống nhất, đồng bộ và được xây dựng bởi một trình độ lập pháp tiên tiến và hiện
đại.
Điều đó được thể hiện ở tính tối cao của Hiến pháp và pháp luật. Pháp luật là
cơ sở của mọi hình thức tổ chức quyền lực công khai, mọi chủ thể trong xã hội đều
phải tuân theo pháp luật. Mọi đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đều
phải dựa vào pháp luật không được trái với Hiến pháp và pháp luật. Hiến pháp là
văn bản có giá trị hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mặt khác hệ thống pháp luật đó được xây dựng bởi một trình độ lập pháp tiên
tiến và hiện đại. Tức là trình độ con người, khả năng tư duy được đánh giá rất cao.
Thứ năm, Nhà nước pháp quyền tư sản xác lập mối quan hệ hợp tác, bình
đẳng, đoàn kết vì mục đích phát triển và cùng có lợi với các quốc gia khác trên thế
giới đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền tự quyết dân tộc, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau, cùng nhau hợp tác để giải quyết các công việc mang
tính chất toàn cầu: dịch bệnh, đói nghèo, thiên tai, dân số…Điều này đã trở thành
Trịnh Thị Huyền

24

Lớp 48 B2 – Luật


Khóa luận tốt nghiệp
một thuộc tính và được ghi nhận trong Hiến pháp tư sản - đó là thuộc tính xã hội

của Hiến pháp.
Thứ sáu, Nhà nước pháp quyền gắn liền với pháp chế tư sản. Pháp chế tức là
việc nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật một các đầy đủ, triệt để, thống nhất và kịp
thời. Mọi hành vi vi phạm pháp luật đều bị xử lý công minh; cán bộ công chức
Nhà nước, tổ chức kinh tế chính trị - xã hội và mọi công dân đều phải đặt mình
dưới sự điều chỉnh của pháp luật, không có ngoại lệ…Đảm bảo pháp chế tức là
pháp luật được tôn trọng và thực thi - là cơ sở để xây dựng thành công Nhà nước
pháp quyền.

1.3. Sự vận dụng nội dung của học thuyết “tam quyền phân lập”
về xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền Tư sản trong lịch sử
1.3.1. Sự vận dụng chung ở các mô hình Nhà nước Tư sản
Bộ máy Nhà nước là hệ thống các cơ quan Nhà nước có tổ chức, vị trí, chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn khác nhau nhưng có mối quan hệ tạo thành một thể
thống nhất vì được tổ chức và hoạt động theo những nguyên tắc chung nhất định.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước là những phương
hướng mang tính chất chỉ đạo trong quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước. Hiến pháp tư sản ghi nhận bộ máy Nhà nước của mình được tổ chức và
hoạt động dựa trên nguyên tắc phân quyền. Cơ sở lý luận của nó là học thuyết “tam
quyền phân lập” của Montesquieu và biểu hiện của nó là hệ thống quyền lực Nhà
nước được phân chia thành ba hệ thống cơ quan: lập pháp thuộc về Nghị viện;
hành pháp thuộc về Chính phủ; tư pháp thuộc về Tòa án.
Với quyền thứ nhất, cơ quan lập pháp là Nghị viện sẽ làm ra các thứ luật cho
một thời gian hay vĩnh viễn và sửa đổi hay bổ sung luật này.
Với quyền thứ hai, thì cơ quan hành pháp là Chính phủ sẽ quản lý đất nước,
điều hành đất nước trong các lĩnh vực đời sống xã hội.
Với quyền thứ ba, là quyền hành pháp thì Tòa án sẽ bảo đảm pháp luật được
thi hành, chấp hành một cách nghiêm chỉnh và bảo vệ pháp luật…
Trịnh Thị Huyền


25

Lớp 48 B2 – Luật


×