Tải bản đầy đủ (.pdf) (112 trang)

Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh hải dương luận văn ths luật 60 38 01 01 pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.92 KB, 112 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH THANH HUYN

Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hải Dương

TểM TT LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2014


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

NGUYN TH THANH HUYN

Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh Hải Dương

Chuyờn ngnh: Lý lun v lch s nh nc v phỏp lut
Mó s: 60 38 01 01

TểM TT LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. MAI VN THNG

H NI - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo
tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn
học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Người cam đoan

Nguyễn Thị Thanh Huyền


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG ............................... 6
1.1.

Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật ....................................................... 6

1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật ...................................................................... 6
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật ................................................................. 7

1.1.3. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật ....................................................... 8
1.1.4. Chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật ..................................................... 9
1.1.5. Phương pháp giáo dục pháp luật ............................................................... 11
1.2.

Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp .................... 11

1.2.1. Những đặc thù cơ bản của giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp ............ 11
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa, tính tất yếu của giáo dục pháp luật trong doanh
nghiệp trong bối cảnh hiện nay ở nước ta .................................................. 16
1.2.3. Mối quan hệ giữa giáo dục pháp luật với giáo dục chính trị tư tưởng, giáo
dục đạo đức và các giáo dục khác trong các doanh nghiệp ............................. 19
1.3.

Những đặc trưng cơ bản của tỉnh Hải Dương và của các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương ...................................................... 20

1.3.1. Đặc điểm về điều kiện vị trí địa lý, kinh tế, văn hóa- xã hội của tỉnh
Hải Dương ................................................................................................ 20
1.3.2. Những đặc điểm cơ bản của các doanh nghiệp và các loại hình doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương .......................................................... 21
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 ...................................................................................... 25


Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
VÀ THỰC TRẠNG GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY ........................................................................ 26
2.1.


Hệ thống pháp luật, chính sách về hoạt động giáo dục pháp luật
trong doanh nghiệp ở Hải Dương........................................................... 26

2.2.

Thực trạng giáo dục pháp luật cho các nhóm đối tượng trong các
loại hình doanh nghiệp trên địa bàn Hải Dương .................................... 34

2.2.1. Thực trạng giáo dục pháp luật cho người lao động trong các loại hình
doanh nghiệp............................................................................................. 34
2.2.2. Giáo dục pháp luật cho người sử dụng lao động trong các loại hình
doanh nghiệp............................................................................................. 40
2.2.3.

Giáo dục pháp luật cho cán bộ công đoàn trong các loại hình doanh nghiệp .... 49

2.3.

Thực trạng về nội dung, hình thức giáo dục pháp luật trong doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương ...................................................... 52

2.3.1. Thực trạng về nội dung giáo dục pháp luật ................................................ 52
2.3.2. Thực trạng về hình thức, phương pháp giáo dục pháp luật ........................ 55
2.4.

Những thành tựu, tồn tại, hạn chế và một số nguyên nhân trong
giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp trên địa bàn Hải Dương ..... 58

2.4.1. Một số thành tựu trong hoạt động giáo dục pháp luật tại các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương .......................................................... 58

2.4.2. Nguyên nhân của những kết quả đạt được ................................................. 69
2.4.3. Những tồn tại, hạn chế trong hoạt động giáo dục pháp luật trong doanh
nghiệp tại địa bàn Hải Dương.................................................................... 71
2.4.4. Những nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế ........................................ 75
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ...................................................................................... 80
Chương 3: QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ,
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ GIÁO DỤC PHÁP
LUẬT TRONG CÁC DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HẢI DƯƠNG ....................................................................... 81


3.1.

Quan điểm, định hướng chung với hoạt động giáo dục pháp luật
trong doanh nghiệp ................................................................................. 81

3.2.

Những yêu cầu đối với công tác giáo dục pháp luật trong các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương ........................................... 83

3.3.

Một số kiến nghị, giải pháp về việc giáo dục pháp luật trong các
doanh nghiệp nói chung và trên địa bàn tỉnh Hải Dương nói riêng ..... 85

3.3.1. Những kiến nghị, giải pháp chung ............................................................. 85
3.3.2. Những kiến nghị, giải pháp cụ thể ............................................................. 88
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ...................................................................................... 97
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 98

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 101


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BHXH:
CBCĐ :
CĐ:
CĐCS:
CN:
CNLĐ:
DN:
DNNN:
ĐTNN:
GDPL:
HĐND:
HĐQT:
HĐTV:
HTX:
KCN:
Kinh tế NNN:
LĐLĐ:
LHPN :
NLĐ:
NSDLĐ:
PBGDPL:
PHPBGDPL:
QCDC:
TGPL:
THCS:
THPT:

TNHH MTV:
TNHH:
TTPBGDPL:
UBND:
UVBTV:
XHCN:

Bảo hiểm xã hội
Cán bộ công đoàn
Công đoàn
Công đoàn cơ sở
Công nhân
Công nhân lao động
Doanh nghiệp
Doanh nghiệp Nhà nước
Đầu tư nước ngoài
Giáo dục pháp luật
Hội đồng nhân dân
Hội đồng quản trị
Hội đồng thành viên
Hợp tác xã
Khu công nghiệp
Kinh tế ngoài nhà nước
Liên đoàn Lao động
Liên hiệp phụ nữ
Người lao động
Người sử dụng lao động
Phổ biến giáo dục pháp luật
Phối hợp phổ biến giáo dục pháp luật
Quy chế dân chủ

Trợ giúp pháp lý
Trung học cơ sở
Trung học phổ thông
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
Trách nhiệm hữu hạn
Tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật
Uỷ ban nhân dân
Ủy viên ban thường vụ
Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới toàn diện do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong
những năm vừa qua đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Nền kinh tế đất nước ta đã
có sự phát triền vượt bậc. Một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên sự phát
triển của nền kinh tế nước ta là đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần kinh
tế thông qua chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần với các loại hình doanh
nghiệp khác nhau. Sự phát triển các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay là tất yếu, khách quan phù
hợp với mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, đáp ứng yêu cầu của tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, tỉnh Hải Dương có nhiều lợi thế
phát triển kinh tế đặc biệt là các ngành công nghiệp. Trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội đến năm 2020 của tỉnh Hải Dương, lãnh đạo tỉnh Hải Dương đã thể
hiện sự quyết tâm xây dựng tỉnh Hải Dương trở thành tỉnh công nghiệp trước năm
2020. Để đạt được mục tiêu đó, tỉnh Hải Dương đã có nhiều cơ chế, chính sách để
thực hiện, trong đó có chính sách tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thành lập,
hoạt động, phát triển. Vì lẽ đó, hiện nay trên địa bàn tỉnh Hải Dương có một lượng
lớn doanh nghiệp đang hoạt động thu hút hàng vạn lao động vào làm việc.

Doanh nghiệp phát triển ổn định không những góp phần quyết định sự phát
triển bền vững về mặt kinh tế của tỉnh mà còn quyết định đến sự ổn định và lành
mạnh hoá các vấn đề xã hội. Tuy nhiên, thực tế cho thấy do nhận thức, ý thức pháp
luật của người lao động, người sử dụng lao động ở nhiều doanh nghiệp còn thấp đã
dẫn đến sự vi phạm pháp luật từ cả hai phía gây ra căng thẳng, bức xúc trong quan
hệ lao động, phát sinh tranh chấp lao động, làm xáo trộn hoạt động kinh doanh và
thiệt hại cho doanh nghiệp, gây mất ổn định an ninh trật tự xã hội trên địa bàn.
Để xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại các doanh nghiệp, góp phần thúc
đẩy sản xuất phát triển, ổn định xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp

1


quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, lãnh đạo tỉnh Hải
Dương đã chú trọng giáo dục nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật của
người lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp. Tuy nhiên, công
tác giáo dục pháp luật trong các loại hình doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh
vẫn chưa đạt hiệu quả cao, nhiều khi còn mang tính hình thức, chưa có sự quan tâm
đầu tư thỏa đáng của các ngành, các cấp trong tỉnh, thậm chí là của chính các doanh
nghiệp. Chưa thật sự huy động được sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị tỉnh Hải
Dương. Xuất phát từ những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Giáo dục pháp luật
trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương” làm luận văn tốt nghiệp của
mình. Tác giả hy vọng với việc nghiên cứu, phân tích thực trạng, cũng như những
giải pháp, kiến nghị được đưa ra trong luận văn sẽ góp phần bổ sung, hoàn thiện
công tác giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh Hải
Dương nói riêng và công tác giáo dục pháp luật nói chung.
2. Mục tiêu nghiên cứu
2.1. Mục tiêu tổng quát
Luận văn phân tích, đánh giá đúng thực trạng giáo dục pháp luật trong các
doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương và đề xuất được phương hướng, giải pháp

nhằm bổ sung, hoàn thiện giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh
Hải Dương. Từ đó tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp hành
pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng đối với người lao động và người sử
dụng lao động. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại các doanh nghiệp, góp phần
thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định xã hội, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân đồng thời tham
mưu, góp ý cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong vấn đề giáo dục pháp luật.
2.2. Mục tiêu cụ thể
+ Phân tích cơ sở lý luận chung của hoạt động giáo dục pháp luật và giáo dục
pháp luật trong các doanh nghiệp.
+ Phân tích, đánh giá đúng thực trạng giáo dục pháp luật trong các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.

2


+ Từ nghiên cứu, đánh giá thực trạng tìm phân tích nguyên nhân thực trạng của
công tác giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
+ Đề xuất phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải
Dương trong giai đoạn hiện nay.
3. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đề tài giáo dục pháp luật từ lâu đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà
khoa học, những người làm công tác lý luận nghiên cứu ở nhiều khía cạnh, góc độ
khác nhau. Cho đến nay, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giáo dục
pháp luật của cá nhân, tập thể được công bố như: “Giáo dục pháp luật và quá trình
hình thành nhân cách” Nguyễn Đặng Đình Lục. - H.: Pháp lý, 1990; “Bàn về giáo
dục pháp luật” PTS. Trần Ngọc Đường, Dương Thanh Mai. - H.: Chính trị quốc
gia, 1995; “ Giáo dục pháp luật qua hoạt động tư pháp ở Việt Nam (Bằng thực tiễn
của toà án và luật sư)” Luận án phó tiến sĩ khoa học luật / Dương Thị Thanh Mai;

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Trần Ngọc Đường. - H., 1996. “Giáo dục
pháp luật trong các trường đại học, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề (không
chuyên luật) ở nước ta hiện nay” Luận án phó tiến sĩ khoa học Luật học / Đinh
Xuân Thảo; Người hướng dẫn khoa học: PGS.PTS. Trần Ngọc Đường, PTS. Hoàng
Thế Liên. - H., 1996; “ Bộ đội biên phòng với việc giáo dục pháp luật cho đồng bào
khu vực biên giới ở Việt Nam hiện nay” Luận án thạc sỹ luật học / Phạm Văn
Trường. - H: Trường Đại học Luật Hà Nội, 1998; “ Giáo dục pháp luật, giáo dục
đạo đức và kỹ năng sống cho trẻ em ở nước ta hiện nay” Lê Thị Phương Nga // Tạp
chí Nghiên cứu lập pháp. Văn phòng quốc hội, Số 20/2010; “Các hình thức giáo
dục pháp luật ở Việt Nam hiện nay - Thực trạng và giải pháp” Khoá luận tốt nghiệp
/ Nguyễn Thị Thuỳ Linh; Người hướng dẫn: ThS. Bùi Xuân Phái. - Hà Nội, 2012.
Ngoài ra, còn rất nhiều các bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các đề tài
đã được nghiệm thu về vấn giáo dục pháp luật nói chung.
Các công trình nghiên cứu khoa học cho thấy giáo dục pháp luật tuy được đề cập
dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau, song về cơ bản bao gồm ba nhóm vấn đề sau:

3


Nhóm 1: Nghiên cứu những vấn đề lý luận chung về giáo dục pháp luật, gồm
khái niệm, mục đích, đối tượng, nội dung, hình thức của giáo dục pháp luật. Nhóm
2: Nghiên cứu giáo dục pháp luật đối với các đối tượng cụ thể nhằm lý giải những
đặc thù và tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật cho từng
đối tượng. Nhóm 3: Nghiên cứu giáo dục pháp luật trong mối quan hệ với các nội
dung khác: đạo đức, ý thức pháp luật, tăng cường pháp chế... [24, tr.4-6].
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học của các tác giả từ trước đến
nay về giáo dục pháp luật đã đóng góp rất nhiều các vấn đề cơ bản cả về vấn đề lý
luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ, khía cạnh khác nhau về giáo dục pháp luật. Tuy
nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào đi sâu nghiên cứu về giáo dục pháp
luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Vì vậy, đây là đề tài đầu

tiên nghiên cứu có hệ thống vấn đề này trên địa bản tỉnh Hải Dương.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
+ Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của hoạt
động giáo dục pháp luật cho người người lao động, người sử dụng lao động, cán bộ
công đoàn trong các doanh nghiệp trên địa bàn Hải Dương.
+ Phạm vi nghiên cứu của luận văn: Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu
thực trạng giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn một địa phương
cụ thể là tỉnh Hải Dương và các số liệu được thống kê từ năm 2009 đến nay.
5. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đề tài có những đóng góp mới đó là:
- Phân tích, đánh giá một cách cụ thể về thực trạng giáo dục pháp luật trong
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Nghiên cứu, đề xuất các phương
hướng, giải pháp cụ thể nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả giáo dục pháp luật
trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
- Là một công trình có sự gắn kết giữa phân tích lý luận với tổng kết thực
tiễn địa phương, luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong việc hoạch định
các chủ trương, chính sách về giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp ở tỉnh Hải
Dương trong những năm tới cũng như là nguồn tư liệu tham khảo cho những người

4


nghiên cứu các đề tài liên quan đến giáo dục pháp luật. Luận văn còn có thể dùng
làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy, tập huấn cho các Hội đồng phối hợp phổ biến,
giáo dục pháp luật, cho cán bộ công đoàn, người sử dụng lao động trong các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
6. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật; quan điểm của Đảng về xây dựng
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam; các quan điểm của Đảng, các văn bản pháp luật

quy định về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật nói chung và đối tượng là người
lao động, người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp nói riêng. Các phương
pháp sử dụng để nghiên cứu là phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương
pháp lịch sử - cụ thể, phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học...
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên
địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương 2: Thực trạng giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa
bàn tỉnh Hải Dương trong giai đoạn hiện nay.
Chương 3: Quan điểm, định hướng và một số kiến nghị, giải pháp nâng cao
hiệu quả giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp trên địa bàn
tỉnh Hải Dương.

5


Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TRONG CÁC
DOANH NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƯƠNG
1.1. Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm giáo dục pháp luật
Theo từ điển từ và ngữ Hán - Việt "Giáo dục là quá trình hoạt động có ý
thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức nhằm bồi dưỡng cho con người những
phẩm chất đạo đức và những tri thức cần thiết để người ta có khả năng tham gia
mọi mặt của đời sống xã hội" [28, tr.35].
Hiện nay trong các tài liệu khoa học về pháp luật ở nước ta, các tác giả đã
khá thống nhất với khái niệm giáo dục pháp luật, theo đó: Giáo dục pháp luật là
hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục tác động lên

đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và thường xuyên nhằm mục đích hình
thành ở họ tri thức pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi
của pháp luật hiện hành và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN [26, tr.04].
Tác giả bày tỏ sự nhất trí cao với quan niệm nêu trên về giáo dục pháp luật.
Theo đó, trong luận văn này, giáo dục pháp luật có nội hàm sau:
- Giáo dục pháp luật là hoạt động có định hướng, có tổ chức, có chủ định do
vậy giáo dục pháp luật là sự tác động mang tính chủ quan, được tiến hành bởi hệ
thống nhiều chủ thể thông qua hình thức nhất định.
- Chủ thể giáo dục tác động lên đối tượng giáo dục một cách có hệ thống và
thường xuyên, liên tục, lâu dài chứ không phải là sự tác động một lần.
- Mục đích của giáo dục pháp luật là hình thành ở đối tượng giáo dục tri thức
pháp luật, tình cảm pháp lý và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của pháp luật hiện
hành và đòi hỏi của nền pháp chế XHCN.
Trong điều kiện hiện nay ở nước ta, giáo dục pháp luật là một bộ phận của
công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Việc trang bị tri thức pháp luật, xây dựng tình
cảm và thói quen hành xử theo pháp luật cho mọi công dân là trách nhiệm của toàn

6


bộ hệ thống chính trị, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và sự điều phối,
tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước và các tổ chức, đoàn thể. Là khâu then
chốt, quan trọng để chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước thực sự
đi vào cuộc sống xã hội, đi vào ý thức, hành động của từng chủ thể trong xã hội.
Giáo dục pháp luật là một trong những mắt xích quan trọng, có ý nghĩa đặc
biệt trong việc tăng cường pháp chế XHCN. Bởi vì, giáo dục pháp luật là nhằm hình
thành ý thức tôn trọng, tuân thủ pháp luật cho mọi công dân, nhằm phát huy vai trò
và hiệu lực của pháp luật trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN [39, tr.12]. Với phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa do Đảng cộng sản Việt Nam đề ra, chúng ta đang từng bước phấn đấu nhằm

hoàn thiện cơ chế quản lý xã hội bằng pháp luật. Trong đó, giáo dục pháp luật giữ
một vai trò đặc biệt quan trọng.
1.1.2. Mục đích của giáo dục pháp luật
Theo Từ điển Tiếng Việt, thì “mục đích là cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho
được” [32, tr.23]. Vậy “cái vạch ra làm đích nhằm đạt cho được” của giáo dục pháp
luật là gì? Hiện nay, có nhiều ý kiến cho rằng mục đích của giáo dục pháp luật bao
gồm ba mục đích cơ bản: mục đích nhận thức, mục đích cảm xúc, mục đích hành vi.
Mục đích thứ nhất: Hình thành, làm sâu sắc và từng bước mở rộng hệ thống
tri thức pháp luật của công dân (mục đích nhận thức). Mục đích thứ hai: Hình thành
tình cảm và lòng tin đối với pháp luật (mục đích cảm xúc). Mục đích thứ ba: Hình
thành động cơ, hành vi và thói quen xử sự theo pháp luật (mục đích hành vi). Việc
phân chia các mục đích giáo dục pháp luật như vậy chỉ mang tính tương đối, giữa
các mục đích có mối quan hệ đan xen, tác động qua lại trong mối liên hệ hữu cơ
thống nhất. Từ tri thức pháp luật đến tính tự giác. Từ tính tự giác đến tính tích cực.
Từ tính tích cực đến thói quen xử sự theo pháp luật. Ngược lại, khi có thói quen xử
sự theo pháp luật thì lòng tin, tình cảm pháp luật lại được củng cố. Do đó, khi tiến
hành giáo dục pháp luật đều phải hướng hoạt động vào cả ba mục đích của giáo dục
pháp luật. Việc xác định mục đích của giáo dục pháp luật trong quá trình giáo dục
pháp luật có ý nghĩa hết sức quan trọng cả trong lý luận lẫn thực tiễn giáo dục pháp

7


luật. Việc xác định đúng hay không đúng mục đích của giáo dục pháp luật sẽ dẫn
đến chất lượng tốt hay không tốt tới giáo dục pháp luật [39, tr.14 -5].
1.1.3. Nội dung, hình thức giáo dục pháp luật
1.1.3.1. Nội dung của giáo dục pháp luật
Nội dung giáo dục pháp luật là yếu tố quan trọng của quá trình giáo dục pháp
luật. Xác định đúng nội dung giáo dục pháp luật là đảm bảo cần thiết để giáo dục
pháp luật có hiệu quả. Nội dung giáo dục pháp luật được xác định trên cơ sở mục

đích của giáo dục pháp luật và nhu cầu, đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật.
Căn cứ vào nhu cầu và đặc điểm của đối tượng giáo dục pháp luật, nhiều nhà
khoa học đã chia nội dung giáo dục pháp luật thành ba mức, cấp độ khác nhau:
Một là, mức độ tối thiểu về giáo dục pháp luật phổ cập cho mọi công dân. Hai là,
mức độ giáo dục pháp luật theo nhu cầu ngành nghề của các công dân hoạt động trong
các lĩnh vực kinh tế kỹ thuật, văn hóa xã hội. Ba là, mức độ giáo dục chuyên luật, đây là
mức độ cao nhất của nội dung giáo dục pháp luật, nhằm mục đích đào tạo các luật gia
cho bộ máy nhà nước và các tổ chức mang tính nghề nghiệp về pháp luật [17, tr.14].
Theo tác giả việc phân định như vậy là hợp lý. Để đạt được mục đích của giáo dục
pháp luật, cần phải phân loại đối tượng giáo dục pháp luật để từ đó xác định nội dung
giáo dục pháp luật cho từng đối tượng, hình thức giáo dục phù hợp sao cho đạt hiệu
quả cao nhất.
1.1.3.2. Hình thức giáo dục pháp luật
Theo từ điển Tiếng Việt thì “hình thức là cái chứa đựng hoặc biểu hiện nội
dung; là cách thể hiện, cách điều hành một hoạt động” [32, tr.27]. Để giáo dục
pháp luật đạt hiệu quả, bên cạnh việc xác định đúng mục đích, nội dung giáo dục
pháp luật thì cần phải xác định đúng hình thức giáo dục pháp luật. Vậy hình thức
giáo dục pháp luật là gì? Hiện nay có một số tác giả quan niệm về hình thức GDPL
khác nhau, tác giả luận văn đồng tình quan niệm: "Hình thức giáo dục pháp luật là
các dạng hoạt động cụ thể, có tổ chức phối hợp giữa chủ thể giáo dục pháp luật và
đối tượng giáo dục pháp luật để thể hiện nội dung giáo dục pháp luật và đạt mục
đích giáo dục pháp luật [39, tr.18].

8


Hình thức giáo dục pháp luật rất đa dạng và phong phú, luôn được hoàn thiện
và phát triển. Căn cứ Điều 11 Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, có các
hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật sau:
- Họp báo, thông cáo báo chí.

- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật; cung
cấp thông tin, tài liệu pháp luật.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh, internet, panô, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải trên Công báo; đăng tải thông tin pháp luật trên
trang thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở, bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cư.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp công
dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở cơ sở.
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ, sinh hoạt của tổ chức chính trị
và các đoàn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ sở.
- Thông qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ
thống giáo dục quốc dân.
- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối
tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng để bảo
đảm cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.
1.1.4. Chủ thể và đối tượng giáo dục pháp luật
1.1.4.1. Chủ thể giáo dục pháp luật
Theo từ điển Tiếng Việt, chủ thể nói chung được hiểu "là đối tượng gây ra
hành động mang tính tác động trong quan hệ đối lập với đối tượng bị chi phối bởi
hành động tác động, gọi là khách thể" [32, tr.130]. Quan điểm chung của nhiều nhà
khoa học pháp lý cho rằng Chủ thể giáo dục pháp luật là tất cả những người mà
theo chức năng, nhiệm vụ hay trách nhiệm xã hội phải tham gia vào việc thực hiện
các mục đích giáo dục pháp luật [17, tr11-12].
Các nghiên cứu lý luận và thực tiễn đã xác định và thừa nhận có hai loại chủ thể

9


giáo dục pháp luật: chủ thể chuyên nghiệp và chủ thể không chuyên nghiệp với vị trí,
nhiệm vụ, yêu cầu trình độ và kỹ năng phổ biến, giáo dục pháp luật khác nhau [17, tr.13].

Tác giả luận văn đồng tình với cách phân loại như vậy. Theo cách phân loại này thì
chủ thể chuyên nghiệp bao gồm những người mà chức năng của họ là thực hiện các
mục đích, nội dung giáo dục pháp luật như các giảng viên luật, báo cáo viên pháp
luật, tuyên truyền viên pháp luật... còn chủ thể không chuyên nghiệp là những người
không có chức năng giáo dục pháp luật nhưng qua hoạt động của mình vẫn thực
hiện chức năng giáo dục pháp luật. Ví dụ: đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng
nhân dân, cán bộ, công chức thuộc các cơ quan hành pháp, tư pháp...
1.1.4.2. Đối tượng giáo dục pháp luật
Đối tượng giáo dục pháp luật là những cá nhân công dân, hay cơ quan tổ
chức hoặc một nhóm cộng đồng dân cư trong xã hội được tiếp nhận tác động của
các hoạt động giáo dục pháp luật trực tiếp hoặc gián tiếp do chủ thể giáo dục pháp
luật tiến hành nhằm đạt được mục đích đặt ra.
Căn cứ mục II, chương II Luật phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012, có thể
chia đối tượng giáo dục pháp luật thành ba nhóm:
- Nhóm 1: đối tượng giáo dục pháp luật là công dân nói chung. Đây là đối
tượng đông đảo nhất trong xã hội.
- Nhóm 2: đối tượng giáo dục pháp luật là các đối tượng đặc thù, bao gồm:
+ Người dân ở vùng dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới,
ven biển, hải đảo, vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn và ngư dân.
+ Người lao động trong các doanh nghiệp.
+ Nạn nhân bạo lực gia đình.
+ Người khuyết tật.
+ Người đang chấp hành hình phạt tù, người đang bị áp dụng biện pháp đưa
vào trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc.
+ Người đang bị áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn, người
bị phạt tù được hưởng án treo.
- Nhóm 3: giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục của hệ thống giáo dục

10



quốc dân. Bao gồm học sinh, sinh viên thuộc các cấp học: mầm non, tiểu học, trung
học cơ sở, trung học phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học.
1.1.5. Phương pháp giáo dục pháp luật
Phương pháp giáo dục pháp luật là hệ thống các cách thức để tiến hành hoạt
động giáo dục pháp luật cho các đối tượng giáo dục pháp luật nhằm mục đích nâng cao
nhận thức pháp luật, tình cảm và lòng tin cũng như thói quen xử sự theo pháp luật.
Chủ thể giáo dục pháp luật phải lựa chọn phương pháp phù hợp khả năng tiếp
nhận kiến thức của đối tượng giáo dục pháp luật. Không thể áp dụng một phương
pháp giáo dục cho nhiều đối tượng khác nhau, chênh lệch tuổi tác và trình độ nhận
thức. Có thể kể ra ở đây một vài phương pháp giáo dục pháp luật như: Phương pháp
sư phạm, phương pháp tư duy logic, tâm lý, thực hành, giải quyết tình huống…
trong các phương pháp nêu trên thì phương pháp sư phạm có vai trò quan trọng
trong công tác giáo dục pháp luật. Để giáo dục pháp luật cho các đối tượng giáo dục
đạt hiệu quả cao cần “kết hợp lý luận với thực tiễn thi hành pháp luật, thông qua
việc xử lý tình huống, kết hợp giữa điều luật cụ thể và đặt những tình huống, cần
ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ” [17, tr.16-17] để đối tượng giáo dục dễ dàng tiếp thu.
1.2. Cơ sở lý luận của giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp
1.2.1. Những đặc thù cơ bản của giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp
1.2.1.1. Đặc thù về mục đích
Giáo dục pháp luật trong các doanh nghiệp:
Nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về ý thức tôn trọng và chấp
hành pháp luật nói chung, pháp luật lao động nói riêng đối với người lao
động và người sử dụng lao động, xây dựng quan hệ lao động hài hòa tại
các doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định xã hội,
bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của người lao động và
người sử dụng lao động, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân [12, tr.1].
1.2.1.2. Đặc thù về đối tượng giáo dục pháp luật
Để thực hiện mục đích giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp như đã nêu


11


trên, các bên tham gia quan hệ lao động cần hiểu và thực hiện đúng, đủ nghĩa vụ,
trách nhiệm của mình, nhất là những gì pháp luật đã quy định. Công đoàn, với vai
trò, chức năng của mình sẽ là cầu nối giữa người sử dụng lao động và người lao
động. Từ đó có thể nhận thấy rằng đối tượng giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp
có đặc thù riêng, bao gồm người sử dụng lao động, người lao động, cán bộ công
đoàn trong các loại hình doanh nghiệp.
a. Khái niệm người sử dụng lao động: theo quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ
luật lao động năm 2012 thì Người sử dụng lao động là doanh nghiệp, cơ quan, tổ
chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử dụng lao động theo hợp
đồng lao động. Nếu là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Ở phạm vi của Luận văn, người sử dụng lao động được hiểu là người đại
diện theo pháp luật của doanh nghiệp. Các doanh nghiệp này phải đăng ký kinh
doanh và được cấp giấy phép đăng ký kinh doanh, có khả năng đảm bảo tiền công
và các điều kiện làm việc cho người lao động. Riêng với doanh nghiệp có vốn đầu
tư nước ngoài thì phải thỏa mãn các điều kiện theo quy định của luật đầu tư nước
ngoài (như có giấy phép đầu tư...). Theo quy định tại Điều 141 của Bộ luật Dân sự
(năm 2005), thì người đại diện của DN là người đứng đầu pháp nhân (tức là “thủ
trưởng” của DN). Người đại diện theo pháp luật của DN phải được ghi nhận trong
Điều lệ, đồng thời phải được ghi nhận trên Giấy chứng nhận ĐKKD của DN. Người
đại diện theo pháp luật của DN có thể là Chủ tịch hoặc Giám đốc hay Tổng Giám
đốc - gọi chung là Giám đốc (các điều 46, 67, 95 và 116, Luật DN năm 2005), cụ
thể với từng loại DN là những người dưới đây:
- Đối với công ty TNHH 1 thành viên, là Chủ tịch HĐTV hay Chủ tịch Công
ty hoặc Giám đốc.
- Đối với công ty TNHH 2 thành viên trở lên, là Chủ tịch HĐTV hoặc Giám
đốc. Nếu Chủ tịch HĐTV là người đại diện theo pháp luật, thì các giấy tờ giao dịch

phải ghi rõ điều đó (khoản 4, Điều 49, Luật DN). Đối với công ty TNHH chỉ có 2
thành viên, nếu có thành viên là cá nhân làm người đại diện theo pháp luật của công
ty bị tạm giữ, tạm giam, trốn khỏi nơi cư trú, bị mất hoặc bị hạn chế năng lực hành

12


vi dân sự hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm các tội buôn lậu, làm hàng
giả, kinh doanh trái phép, trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội khác theo quy
định của pháp luật, thì thành viên còn lại đương nhiên làm người đại diện theo pháp
luật của công ty cho đến khi có quyết định mới của HĐTV (khoản 2, Điều 12, Nghị
định số 139/2007/NĐ-CP ngày 05-9-2007 của Chính phủ Hướng dẫn chi tiết thi
hành một số điều của Luật DN).
- Đối với công ty cổ phần, là Chủ tịch HĐQT hoặc Giám đốc.
- Đối với công ty hợp danh, là tất cả các Thành viên hợp danh. Riêng trường
hợp này, Thông tư số 03/2006/TT-BKH ngày 19-10-2006 của Bộ trưởng Bộ KH và
ĐT Hướng dẫn một số nội dung về hồ sơ, trình tự, thủ tục theo quy định tại Nghị định
88/2006/NĐ-CP, vẫn xác định cụ thể người đại diện theo pháp luật của công ty.
- Đối với công ty nhà nước, là Giám đốc công ty.
- Đối với DN tư nhân, là Chủ DN.
- Đối với HTX, là Trưởng Ban quản trị hoặc Chủ nhiệm HTX.
Như vậy, các chức danh khác như Phó chủ tịch, Phó tổng giám đốc, giám
đốc chi nhánh,… chỉ có thể là người đại diện hợp pháp theo uỷ quyền, chứ không
bao giờ là người đại diện theo pháp luật của DN. Chủ tịch hoặc Tổng giám đốc DN,
nếu không phải là người đại diện theo pháp luật của DN thì không có quyền đương
nhiên được ký kết văn bản giao dịch với các đối tác.
b. Khái niệm người lao động: theo quy định tại khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao
động năm 2012 thì Người lao động là người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao
động, làm việc theo hợp đồng lao động, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành của người sử dụng lao động.

Ở phạm vi của Luận văn, việc giáo dục pháp luật cho người lao động trong
các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải dương được hiểu là giáo dục pháp luật cho
cá nhân người lao động, nhóm người lao động làm công ăn lương trong các doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

13


c. Khái niệm cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp: theo Điều lệ công đoàn
Việt Nam được Đại hội công đoàn Việt Nam lần thứ XI (nhiệm kỳ 2013 - 2018)
thông qua và Hướng dẫn thi hành Điều lệ công đoàn số 238/HD - TLĐ ngày
04/3/2014 thì Cán bộ công đoàn là người đảm nhiệm các chức danh từ tổ phó công
đoàn trở lên thông qua bầu cử tại đại hội hoặc hội nghị công đoàn; được cấp công
đoàn có thẩm quyền chỉ định, công nhận, bổ nhiệm vào các chức danh cán bộ công
đoàn hoặc được giao nhiệm vụ thường xuyên để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của
tổ chức Công đoàn.
Cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp bao gồm cán bộ công đoàn chuyên
trách và cán bộ công đoàn không chuyên trách. Căn cứ Điều 4 luật công đoàn 2012
thì Cán bộ công đoàn chuyên trách là người được tuyển dụng, bổ nhiệm để đảm
nhiệm công việc thường xuyên trong tổ chức công đoàn. Cán bộ công đoàn không
chuyên trách là người làm việc kiêm nhiệm được Đại hội công đoàn, Hội nghị công
đoàn các cấp bầu ra hoặc được Ban chấp hành công đoàn chỉ định, bổ nhiệm vào
chức danh từ Tổ phó tổ công đoàn trở lên.
Ở phạm vi của Luận văn, chỉ nghiên cứu công tác giáo dục pháp luật cho cán
bộ công đoàn trong các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Như vậy, có thể nhận thấy đối tượng giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp
gồm hai đối tượng chính tham gia trực tiếp vào quan hệ lao động đó người lao động
và người sử dụng lao động. Người lao động trong doanh nghiệp là người làm công
ăn lương theo hợp đồng lao động, có độ tuổi, trình độ, nghề nghiệp, giới tính,
chuyên môn khác nhau nên nhận thức pháp luật cũng khác nhau. Người sử dụng lao

động là người thuê mướn, trả công lao động, vì lợi ích của doanh nghiệp có thể xâm
phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động. Cả hai đối tượng
này cần phải được giáo dục pháp luật để nâng cao nhận thức, ý thức chấp hành pháp
luật nói chung và pháp luật lao động nói riêng để tránh xảy ra xung đột, tranh chấp
lao động, xây dựng quan hệ lao động ổn định, hài hòa trong doanh nghiệp.
1.2.1.3. Đặc thù về nội dung giáo dục pháp luật
Căn cứ vào sự đặc thù của từng đối tượng, từng loại hình doanh nghiệp,

14


ngành nghề sản xuất kinh doanh và theo từng vùng miền mà có nội dung giáo dục
cho phù hợp. Đối với giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp, sự đặc thù về nội dung
giáo dục pháp luật thể hiện ở chỗ cần tuyên truyền, phổ biến pháp luật lao động và
các quy định pháp luật khác liên quan tới hoạt động của doanh nghiệp và quyền,
nghĩa vụ công dân cho người lao động và người sử dụng lao động. Cụ thể như: các
Nghị Quyết của Đảng cộng sản Việt Nam, Bộ Luật Lao động, Luật Công đoàn, Luật
Doanh nghiệp, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Thi đua khen thưởng, Luật khiếu nại,
Luật tố cáo, Luật Bình đẳng giới, Phòng chống bạo lực gia đình, Luật An toàn giao
thông, Luật phòng, chống HIV/AIDS, Luật Giao thông đường bộ, Luật phòng
chống tham nhũng, Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật quản lý thuế,
Luật phòng chống Ma tuý… và các văn bản dưới Luật giúp người lao động, người
sử dụng lao động hiểu rõ pháp luật có liên quan, đặc biệt là quyền và nghĩa vụ của
các bên khi tham gia quan hệ lao động, nhằm góp phần làm ổn định tình hình an
ninh trật tự, kinh tế - xã hội của địa phương.
1.2.1.4. Hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật
Trên cơ sở đặc điểm đặc thù về đối tượng, chủ thể, nội dung giáo dục pháp
luật, hình thức và phương pháp giáo dục pháp luật cho người lao động, người sử
dụng lao động, cán bộ công đoàn trong doanh nghiệp cũng có điểm khác so với
những đối tượng khác. Để đưa các văn bản pháp luật đến với người lao động và

người sử dụng lao động trong các doanh nghiệp, công tác giáo dục pháp luật được
thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau, bằng nhiều phương pháp, cách làm
khác nhau. Tuy nhiên, không phải tất cả các hình thức đều phù hợp với mọi đối
tượng và có thể thực hiện được ở mọi địa bàn, trong mọi điều kiện. Vì vậy, để công
tác giáo dục pháp luật thực sự có hiệu quả thì một trong những yêu cầu quan trọng
là phải lựa chọn hình thức và biện pháp giáo dục pháp luật cho phù hợp. Để làm
được điều đó, các cơ quan quản lý nhà nước, các cấp công đoàn đã có nhiều hình
thức giáo dục pháp luật đa dạng và được thực hiện bằng nhiều biện pháp sinh động,
phong phú. Tuy nhiên qua thực tế thực hiện cho thấy các hình thức trực tiếp vẫn có
hiệu quả, thu hút sự tham gia đông đảo người lao động và người sử dụng lao động

15


tham gia như: việc tổ chức hội nghị, hội thảo, hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
thao, mít tinh, kỷ niệm, hòa giải, trợ giúp pháp lý, tư vấn pháp luật, giải quyết tranh
chấp lao động...
1.2.2. Vai trò, ý nghĩa, tính tất yếu của giáo dục pháp luật trong doanh
nghiệp trong bối cảnh hiện nay ở nước ta
1.2.2.1. Vai trò, ý nghĩa của giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp trong
bối cảnh hiện nay
Trước yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trước xu thế hội nhập toàn diện đời sống kinh tế xã hội đất nước, xây dựng Nhà
nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, Nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, công tác giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp có vai trò quan trọng
và ý nghĩa thực tiễn sâu sắc để duy trì sự phát triển ổn định, bền vững cho doanh
nghiệp, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Thực tế trong những năm gần đây, hoạt động kinh doanh, thương mại đang
chịu áp lực cạnh tranh ngày càng khốc liệt, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập tổ
chức Thương mại thế giới (WTO). Thời gian qua, chúng ta đã có những vụ tranh

chấp hoạt động thương mại quốc tế, tuy nhiên đa số phần thua thiệt đều nghiêng về
phía các doanh nghiệp Việt Nam. Nguyên nhân dẫn đến những rủi ro pháp lý đó là
do không am hiểu pháp luật và thông lệ quốc tế, thậm chí có doanh nghiệp không
nắm được các quy định của pháp luật Việt Nam mà chỉ thực hiện hành vi thương
mại của mình theo thói quen và cảm tính. Trong quá trình thực hiện hoạt động sản
xuất kinh doanh, doanh nghiệp bị điều chỉnh bởi rất nhiều quy định của các văn bản
Luật, trong khi đó phần lớn chủ sở hữu, người quản lý doanh nghiệp không được
đào tạo cơ bản về pháp luật. Do vậy, việc nhận thức pháp luật của phần lớn các lãnh
đạo doanh nghiệp cũng hạn chế. Thêm vào đó với tâm lý ngại va chạm, sợ rườm rà
nên lãnh đạo các doanh nghiệp đôi khi làm ẩu, làm cho qua chuyện mà không tính
đến hậu quả xảy ra. Chính điều đó đó dẫn đến hàng loạt các hệ lụy về pháp lý khó
giải quyết như: giải quyết tranh chấp lao động, vấn đề doanh nghiệp bỏ trốn, vấn đề
lập doanh nghiệp để mua bán hóa đơn, vấn đề doanh nghiệp chấm dứt hoạt động

16


nhưng không thông báo với cơ quan quản lý nhà nước... Bên cạnh đó, về phía người
lao động, thực tế cho thấy phần lớn công nhân lao động trong các doanh nghiệp là
lao động phổ thông và lao động có trình độ sơ cấp nghề nên nhận thức, hiểu biết về
pháp luật còn thấp. Lợi dụng điều đó, những thành phần xấu đã kích động, xúi giục
công nhân thực hiện các hành vi trái pháp luật, gây ra sự mất ổn định trong doanh
nghiệp. Nhiều vụ đình công, lãn công, gây rối, đập phá tài sản của một số công nhân
trong các doanh nghiệp đã xảy ra, gây thiệt hại không nhỏ về kinh tế cho các doanh
nghiệp, tạo sự căng thẳng trong mối quan hệ giữa người lao động và người sử dụng
lao động, ảnh hưởng đến việc làm, đời sống của hàng ngàn lao động khác. Mặt
khác, cũng vì thiếu kiến thức, hiểu biết về pháp luật, nhiều công nhân lao động đã bị
xâm phạm các quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng, phải chịu nhiều thiệt thòi
trong quan hệ lao động với người sử dụng lao động.
Từ thực tiễn trên cho thấy giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp trong bối

cảnh hiện nay của đất nước có vai trò quan trọng và ý nghĩa thiết thực để nâng cao ý
thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động. Giáo dục pháp luật
trong doanh nghiệp cần tiếp tục được quan tâm tổ chức thường xuyên, liên tục với
nhiều hình thức đa dạng, phong phú nhằm từng bước hình thành thói quen ứng xử
và hành động theo pháp luật, hạn chế tình trạng xung đột trong quá trình lao động,
tạo ra lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp ở trong nước cũng như quốc tế.
1.2.2.2. Tính tất yếu, khách quan của giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp
trong bối cảnh hiện nay
Trong xu thế phát triển và hội nhập như hiện nay, công tác giáo dục pháp
luật trong doanh nghiệp mang tính tất yếu, khách quan không phụ thuộc vào ý chí
chủ quan của bất kỳ cơ quan, tổ chức hay cá nhân nào. Tính tất yếu, khách quan của
giáo dục pháp luật trong doanh nghiệp xuất phát từ yêu cầu của công cuộc đổi mới
toàn diện đất nước ta do Đảng cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo trong
những năm qua. Thực tiễn kết quả của công cuộc đổi mới trong những năm vừa qua
của đất nước đã chứng minh rằng để phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước tất yếu đòi hỏi

17


phải xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân và vì dân. Nhà nước quản lý các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng pháp luật để
thực hiện mục tiêu tạo ra sự phát triển bền vững. Từ yêu cầu quản lý Nhà nước bằng
pháp luật, phát huy dân chủ và không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa,
cần phải nhận thức được tầm quan trọng của công tác giáo dục pháp luật nâng cao
nhận thức, ý thức chấp hành pháp luật cho các đối tượng trong doanh nghiệp nói
riêng và các tầng lớp nhân dân nói chung. Bên cạnh đó xuất phát từ đặc điểm của
thời đại với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là sau khi nước ta trở
thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO) nhu cầu nâng cao hiểu biết
pháp luật trong nước và quốc tế của các doanh nghiệp là rất lớn và có tính thời sự

cao, mang tính tất yếu, khách quan. Vì lẽ đó, công tác giáo dục pháp luật trong
doanh nghiệp cũng mang tính tất yếu khách quan. Việc giáo dục pháp luật trong các
doanh nghiệp còn thể hiện sự tôn trọng và quyết tâm thực hiện các cam kết quốc tế
mà Nhà nước ta đã đưa ra khi gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) trong
việc công khai, minh bạch các chủ trương, chính sách của Nhà nước thông qua hoạt
động tuyên truyền, phổ biến, giải thích pháp luật, để mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân
và doanh nghiệp đều có quyền và được tạo điều kiện thuận lợi để tiếp cận thông tin
về chính sách và pháp luật. Ngoài ra tính tất yếu, khách quan của giáo dục pháp luật
trong doanh nghiệp trong bối cảnh hiện nay còn xuất phát từ vị trí, vai trò của doanh
nghiệp trong nền kinh tế. Doanh nghiệp có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh
tế của đất nước. Có thể nói vai trò của DN không chỉ quyết định sự phát triển bền
vững về mặt kinh tế mà còn quyết định đến sự ổn định và lành mạnh hoá các vấn đề
xã hội. Doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển trong những năm gần đây đã góp
phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống của người lao động,
giải quyết tốt hơn các vấn đề xã hội, là yếu tố quyết định đến tăng trưởng cao và ổn
định của nền kinh tế những năm qua. Theo Niên giám thống kê năm 2009 và số liệu
điều tra “Doanh nghiệp Việt Nam 9 năm đầu thế kỷ 21” của Tổng cục Thống kê,
đến 1/1/2009, tổng số doanh nghiệp thực tế đang hoạt động là 205.732, trong đó:
Doanh nghiệp Nhà nước là 3.328 (chiếm 1,6%); doanh nghiệp FDI là 5.625 (chiếm

18


×