Tải bản đầy đủ (.pdf) (98 trang)

Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với đời sống của nông dân (qua thực tiễn ở huyện mê linh hà nội) luận văn ths ki

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 98 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

***********

QUÁCH THỊ KIỀU DUNG

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG CỦA NÔNG DÂN (QUA THỰC TIỄN Ở
HUYỆN MÊ LINH – HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

***********
QUÁCH THỊ KIỀU DUNG

ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC THU HỒI ĐẤT ĐỐI VỚI
ĐỜI SỐNG CỦA NÔNG DÂN (QUA THỰC TIỄN Ở
HUYỆN MÊ LINH – HÀ NỘI)
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. ĐỖ THẾ TÙNG

HÀ NỘI - 2012




MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

1

Chương 1: Thu hồi đất để xây dựng đô thị, khu công nghiệp, kết cấu hạ

9

tầng – tính cấp thiết và ảnh hưởng của nó với đời sống của
nông dân
1.1. Tính cấp thiết phải thu hồi đất để xây dựng đô thị, khu công

9

nghiệp, kết cấu hạ tầng trong quá trình công nghiệ hóa,
hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân ở nước ta
1.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự chuyển đổi mục đích

9

sử dụng đất cho việc xây dựng khu công nghiệp, đô thị và
kết cấu hạ tầng ở nước ta
1.1.2. Thu hồi đất cho sự phát triển công nghiệp và đô thị đã đặt ra

13


những vấn đề cấp thiết
1.2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của việc thu hồi đất đối với đời

19

sống nông dân vùng thu hồi đất
1.2.1. Tác động tích cực của việc thu hồi dất đối với nông dân ở vùng

19

bị thu hồi đất
1.2.2. Tác động tiêu cực của việc thu hồi đất đối với nông dân

27

1.3. Kinh nghiệm xử lý ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với nông

33

dân ở một số địa phương trong nước
1.3.1. Kinh nghiệm của Bắc Ninh

33

1.3.2. Kinh nghiệm thu hồi đất của dự án An Sơn, thị xã Thuận An,

35

Tỉnh Bình Dương
1.3.3. Kinh nghiệp thu hồi đất của dự án KCN Tân Tạo, Thành phố


36

Hồ Chí Minh
CHƯƠNG 2: Thực trạng và ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với

38


đời sống của nông dân vùng thu hồi đất ở Mê Linh
2.1 . Tình hình thu hồi đất ở huyện Mê Linh từ năm 1986 đến nay

38

2.1.1. Đất nông nghiệp bị thu hồi cho xây dựng khu công nghiệp, đô thị

38

và kết cấu hạ tầng
2.1.2. Kết quả triển khai các dự án theo quy hoạch thu hồi đất cho

41

công nghiệp, đô thị và kết cấu hạ tầng
2.1.3. Số dân bị ảnh hưởng trong quá trình thu hồi đất ở Mê Linh

43

2.2. Ảnh hưởng tích cực của việc thu hồi đất với người dân Mê Linh


44

2.2.1. Phát triển khu công nghiệp tạo việc làm và thu nhập cho nong dân

44

thu hồi đất
2.2.2. Tác động tích cực của đô thị hóa đến thu nhập và việc làm cho nông

54

dân vùng thu hồi đất cỏn rất hạn chế
2.2.3. Duy trì phát triển một số ngành nghề truyền thống

56

2.3. Ảnh hưởng tiêu cực của việc thu hồi đất với người dân Mê Linh

56

Chương 3: Những giải pháp chủ yếu để phát huy ảnh hưởng tích cực,

66

khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của việc thu hồi đất đối với
đời sống nông dân Mê Linh
3.1. Dự báo nhu cầu đất cho xây dựng đô thị mới, khu công nghiệp và

66


kết cấu hạ tầng ở Mê Linh đến năm 2030
3.2. Phương hướng hoàn thiện quy hoạch sử dụng đất để khắc phục

67

những sai sót trong quy hoạch đất ở Mê Linh
3.3. Những giải pháp chủ yếu để thực hiện tốt quy hoạch nhằm phát

70

triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của nhân dân ở Mê Linh
3.3.1. Giải pháp về đền bù hỗ trợ nông dân trong thu hồi đất

70

3.3.2. Giải pháp nâng cao quản lý Nhà nước về đất đai, giảm thiểu những dự

73

Treo, hoang hóa, sử dụng đất sai mục đích
3.3.3. Giải pháp về phát triển đô thị hóa gắn với công nghiệp hóa

76


3.3.4. Giải pháp về kích thích đầu tư và sử dụng lao động địa phương

75

sau thu hồi đất

3.3.5. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực cho cong nghiệp hóa và đô thị

80

3.3.6. Giải pháp về khắc phục các tác động về môi trường, quy hoạch

82

đô thị dân cư vùng thu hồi đất
3.3.7. Giải pháp thúc đẩy, nâng cao các hoạt động văn hóa- xã hội cho vùng

85

Khu công nghiệp và đô thị
Kết luận

88

Danh mục tài liệu tham khảo

91


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
Cụm công nghiệp

CCN

Công nghiệp hóa


CNH

Đô thị hóa

ĐTH

Hiện đại hóa

HĐH

Khu công nghiệp

KCN

Khu chế xuất

KCX

Kết cấu hạ tầng

KCHT

Khu đô thị

KĐT


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) và đô thị hóa

(ĐTH) tất yếu phải thu hồi một số diện tích đất nông nghiệp, đất ở để xây dựng
các khu công nghiệp (KCN), khu đô thị (KĐT), khu chế xuất (KCX), các kết cấu
hạ tầng (KCHT). Những năm qua, công tác thu hồi đất phục vụ cho những mục
đích trên đã diễn ra mạnh mẽ ở nhiều địa phương trong cả nước. Quá trình thu
hồi đất đã ảnh hưởng không nhỏ trên nhiều mặt đến đời sống của người nông dân
mất đất và cả nông dân vùng có đất bị thu hồi.
Một mặt, việc thu hồi đất đã có tác động tích cực như thúc đẩy sự chuyển
dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ. Lực lượng lao động
nông thôn sẽ giảm dần cả tương đối lẫn tuyệt đối trong quá trình đó, CNH tạo ra
nhiều ngành nghề mới, nhiều cơ hội việc làm cho người lao động và kéo theo sự
phát triển của khoa học, công nghệ, trình độ của người lao động, khai thác được
tiềm năng kinh tế của các vùng miền, nâng cao đời sống nhân dân.
Mặt khác, việc thu hồi đất nếu thực hiện không tốt cũng gây ra những hệ quả
xấu như: không ít người nông dân mất đất canh tác gặp khó khăn trong việc
chuyển đổi nghề nghiệp, không có việc làm, thu nhập bấp bênh. Do số tiền đền
bù và hỗ trợ thấp, hơn nữa có một bộ phận nông dân không biết sử dụng số tiền
đền bù vào sản xuất kinh doanh, nên sau khi tiêu hết tiền đền bù vào sinh hoạt
dẫn đến không còn nguồn thu nhập, đời sống không ổn định, thậm chí rơi vào
cảnh nghèo nàn. Có một số người do không có việc làm đã sa đà vào các con
đường kiếm tiền phi pháp, hoặc mắc các tệ nạn xã hội… Do quá trình CNH,
ĐTH diễn ra ồ ạt, có khi quy hoạch của các KCN và KĐT không hợp lí, đã gây ô
nhiễm môi trường sinh thái, ảnh hưởng đến sức khỏe của cộng đồng dân cư trên


địa bàn, hoặc chậm triển khai các dự án, để đất hoang hóa, lãng phí tài nguyên
đất.
Tình hình trên đòi hỏi phải nhận thức rõ tác động tích cực và tác động tiêu
cực của việc thu hồi đất đối với đời sống của nông dân, nhất là những nông dân
không còn đất canh tác. Từ đó, có giải pháp thích hợp để phát huy tác động tích
cực, hạn chế tác động tiêu cực ấy.

Vì vậy: “Ảnh hưởng của việc thu hồi đất đối với đời sống của nông dân
(qua thực tiễn ở huyện Mê linh – Hà Nội)” được chọn làm đề tài luận văn thạc
sỹ kinh tế, chuyên ngành kinh tế chính trị.
2. Tình hình nghiên cứu
Vấn đề thu hồi đất để xây dựng KĐT, KCN, KCHT và các tác động của nó
đến đời sống nông dân là vấn đề kinh tế - xã hội cấp bách được nhiều nhà khoa
học, nhiều tác giả quan tâm và đã có nhiều công trình được công bố:
Sách chuyên khảo “ Tác động xã hội vùng của các khu công nghiệp ở Việt
Nam” do TS. Nguyễn Bình Giang (Viện khoa học xã hội Việt Nam, Viện kinh tế
và chính trị thế giới) làm chủ biên. Cuốn sách đã khái quát sự phát triển các
KCN tại Việt Nam, đến năm 2010 cả nước đã có 173 KCN đi vào hoạt động,
trung bình mỗi KCN rộng xấp xỉ 253 ha, vùng Đông Nam Bộ có diện tích KCN
lớn nhất cả nước 33.290 ha. Các KCN đã đem đến những tác động tích cực như
khoản đền bù đất cao hơn khi sản xuất nông nghiệp, nếu sản xuất nông nghiệp ở
Vĩnh Phúc mỗi năm nông dân thu được 900 nghìn đồng/sào, nông dân nhận tiền
đền bù đất 30 triệu, bằng 50 vụ lúa, 25 năm canh tác của người nông dân; hoặc
nông dân có điều kiện về việc làm trực tiếp và gián tiếp từ KCN, đem lại thu
nhập cao, cải biến đời sống, ví dụ sau thu hồi số nhà mái bằng tăng 31,1%, nhà 2
tầng 5,7%, các tiện nghi tăng từ 2- 3 lần so với trước thu hồi. Nhưng mặt tiêu
cực của việc xây dựng các KCN cũng không nhỏ, tác động đến thu nhập, việc


làm và môi trường sống, môi trường xã hội, vì vậy cần giải quyết vấn đề đó.
Cuốn sách mở hướng nhìn rộng hơn khi tìm hiểu các kinh nghiệm của các nước
Đông Á, như: Nhật Bản giải quyết vấn đề thu hút đầu tư cần đặt KCN ở vị trí
thuận lợi, môi trường được cải thiện nhờ cải biến và nâng cao công nghệ, xây
nhiều đường cao tốc để giải quyết việc tắc nghẽn giao thông; hoặc Philippines,
khi xây dựng các KCN, cũng gặp nhiều vấn đề xã hội là việc làm, điều kiện tái
định cư cho nông dân không tốt như trước thu hồi đất, ô nhiễm môi trường tăng
nhanh trong giai đoạn 1986 -1996. Hàng loạt các vấn đề khó giải quyết từ việc

xây dựng các KCN ở các nước Đông Á. Các tác giả đã đưa ra một số khuyến
nghị: Cần chuyển mục đích sử dụng đất; giúp nông dân chuyển đổi nghề; phát
triển công nghiệp xanh và cung cấp đủ hàng hóa công cộng.
Công trình khoa học cấp Nhà nước KX.01- 2005 của trường Đại học Kinh tế
quốc dân về “Việc làm, thu nhập cho lao động bị thu hồi đất trong quá trình
CNH, HĐH, và ĐTH”. Theo số liệu điều tra của Đại học Kinh tế quốc dân tốc độ
thu hồi đất để xây dựng KCN và đô thị tăng nhanh, ví dụ đến năm 2003 tổng
diện tích đất thu hồi là 18.240 ha, riêng giai đoạn năm 2001 – 2003 là 6.500 ha,
dự kiến sẽ tăng, khi những năm tới các tỉnh thành trong cả nước vẫn tiếp tục kiến
nghị đưa vào quy hoạch xây dựng KCN, khoảng 35.000 ha. Tác phẩm trên đã chỉ
ra những bất cập khi nông dân không còn đất canh tác, do không được đào tạo
nên phần lớn không có việc làm và thu nhập. Cần phải giải quyết vấn đề đó,
bằng các chính sách như: chính sách đền bù, hỗ trợ, tái định cư và chính sách
tạo việc làm cũng như trách nhiệm của doanh nghiệp trong thu hồi đất.
Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2010, của Học viện Chính trị - Hành chính khu
vực I, do TS. Trần Thị Ngọc Minh làm chủ nhiệm, nghiên cứu về giải quyết việc
làm cho nông dân bị thu hồi đất ở ngoại thành Hà Nội. Các tác giả đã tổng kết 20
năm phát triển KCN với việc giải quyết việc làm cho lao động, trong đó chỉ rõ


tác động của nó đến việc phát triển thị trường lao động. Lao động làm công ăn
lương có khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao động, thì 80% tập trung ở các vùng
kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, KCN. Tuy nhiên, thu hồi đất xây dựng
KCN, KĐT đã làm cho 2,5 triệu nông dân không có việc làm. Khu vực ngoại
thành Hà Nội đến năm 2009 đã thu hồi 24.400ha đất, số lao động mất việc từ đó
khoảng 40.000 người; Nhà nước cần có chính sách tạo điều kiện để nông dân bị
thu hồi đất có việc làm lâu dài, tạo việc làm tại chỗ cho lao động trên 35 tuổi.
Đề tài khoa học cấp cơ sở, của Viện nghiên cứu Quyền con người, do TS.
Đặng Dũng Chí chủ biên, nghiên cứu về bảo đảm quyền lao động của các hộ
nông dân bị thu hồi đất ở đồng bằng Sông Hồng. Qua tìm hiểu thực trạng việc

làm cho nông dân mất đất và những khó khăn trong mưu sinh của những người
nông dân không còn đất canh tác, tại các vùng đồng bằng Sông Hồng, đề tài đã
đưa ra những luận cứ về bảo vệ quyền lao động của nông dân bị thu hồi đất. Lao
động là quyền cơ bản nhất của con người, Nhà nước ta, trong quá trình thu hồi
đất phải có những chính sách cụ thể đảm bảo quyền lao động của nông dân
không còn đất.
Kỷ yếu khoa học của Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính
trị, thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2010, đã tổng hợp những vấn đề kinh tế
- xã hội trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong đó có đề cập ảnh
hưởng của quá trình thu hồi đất đến nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở các
khía cạnh rất đa dạng. Thí dụ:
Công trình của GS.TS Chu Văn Cấp về “Một số vấn đề xã hội nảy sinh từ tác
động của chính sách thu hồi đất đối với nông dân trong quá trình CNH, HĐH”,
đã đề cập vấn đề nông dân không có việc làm khi mất đất, sử dụng đất đai sai
mục đích và ô nhiễm môi trường. Tác giả đã nêu lên thực trạng: có 37,7% số
người bị mất đất thu nhập thấp hơn khi còn đất, thất nghiệp tăng từ 5,22% lên


9,1%, được nhận vào làm ở KCN chỉ có 2,79%. Hơn nữa quản lý đất đai chưa
chặt chẽ, đã có hàng trăm ha đất không sử dụng đúng mục đích, làm cho các
khiếu kiện về đất đai chiếm 85% trong số đơn kiện trình Quốc Hội, vi phạm về
bảo vệ môi trường lên tới 12.000 cơ sở trong cả nước... Qua đó cần có giải pháp
như: tăng cường đầu tư nông nghiệp, dạy nghề cho nông dân và hoàn thiện chích
sách thu hồi đất.
Nhóm tác giả Lê Viết Thuận, Phan Thị Ngọc đã nghiên cứu về tác động
của chính sách thu hồi đất nông nghiệp, chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai tới
việc làm và các quan hệ xã hội (qua trường hợp thôn Gia Trung, xã Quang Minh,
huyện Mê Linh, Vĩnh Phúc). Công trình đã phân tích những biến động trong đời
sống xã hội của một địa phương nhỏ vào thời kỳ đầu thu hồi đất ở huyện Mê
Linh 2001 - 2004. Năm 2001, tại thôn Gia Trung, đã thu hồi 90% diện tích đất

nông nghiệp để xây dựng KCN và KĐT, làm 50% tổng số lao động không có
việc làm, các quan hệ xã hội bị thay đổi không như mong muốn.
Trên các trang báo web congnghiep.com đề tàì này cũng được đề cập nhiều
như: “Phát triển bền vững nông thôn ở Đồng bằng Bắc Bộ”, của Th.s. Nguyễn
Song Tùng; “Nhường đất cho các dự án đô thị, khu công nghiệp mọc lên, nông
dân không tránh khỏi những khó khăn khi mà việc tái định cư và các giải pháp
chuyển đổi ngành nghề chưa phù hợp” của Ánh Xuân; và bài của Ngân Tuyền, “
Mất đất nông nghiệp và những hệ lụy”… Các bài báo trên đều nêu ra vấn để bất
cập là quy hoạch thu hồi đất nhanh chóng làm cho nhiều nông dân mất đất canh
tác, không có việc làm, không được thu hút vào làm việc ở các KCN. Nhưng các
tác giả chỉ mới đề cập đến những khó khăn khi nông dân không có ruộng, nông
dân không chuyển được sang các ngành công nghiệp, chứ chưa đánh giá khách
quan các tác động tích cực của thu hồi đất cho CNH, HĐH.
Nhiều luận văn thuộc chuyên ngành kinh tế và kinh tế chính trị cũng nghiên


cứu đề tài này, như: “Việc làm cho nông dân khi thu hồi đất trong quá trình
CNH, ĐTH ở Ninh Bình”, luận văn Thạc sỹ của Tống Thị Lan Hương , năm
2009; “Việc làm và thu nhập cho người có đất bị thu hồi ở Hà Nội”, luận văn
Thạc sỹ, của Lê Anh Tuấn, năm 2007; Luận văn của Phùng Thị Thảo, 2009, “
Giải pháp việc làm cho người lao động sau thu hồi đất để phát triển các khu
công nghiệp, dịch vụ ở Vĩnh Phúc”… Các luận văn ấy, với những góc nhìn khác
nhau từ thực trạng cụ thể của các địa phương, đã chỉ rõ nguyên nhân nông dân
không có việc làm, không có thu nhập, đời sống giảm sút.
Nhìn chung các công trình trên đã đề cập ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến
đời sống của nông dân, trên nhiều mặt như: việc làm, thu nhập, về định giá đền
bù, hỗ trợ nông dân mất đất.v.v..Luận văn này kế thừa các kết quả nghiên cứu ấy
nhưng nhấn mạnh sự tác động cả hai mặt tích cực và tiêu cực của quá trình thu
hồi đất cho CNH, HĐH và ĐTH đối với đời sống nông dân, để tìm những giải
pháp thích hợp cho việc phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực của quá

trình này tại huyện Mê Linh.
Như vậy, đề tài này không trùng lặp với các công trình đã được công bố.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Làm rõ ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của việc thu hồi đất để xây dựng
KCN, KĐT, KCHT đối với đời sống của nông dân bị thu hồi đất, từ đó đề xuất
giải pháp phát huy các tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích tính cấp thiết và tác động của quá trình thu hồi đất nông nghiệp
đối với đời sống của nông dân bị thu hồi đất.
- Khảo sát thực trạng về ảnh hưởng của việc thu hồi đất đến đời sống của
người nông dân ở huyện Mê Linh - Hà Nội, để minh họa.


- Đề xuất các giải pháp phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực của việc
thu hồi đất.
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những tác động tích cực, tiêu cực của quá trình
thu hồi đất đối với nông dân không còn đất canh tác, qua khảo sát thực tiễn ở
huyện Mê Linh – Hà Nội.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 1986, nhưng chủ yếu là trong thời kỳ từ 2010
đến 2012
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Luận văn vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, Quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước về quá trình công
nghiệp hóa vào nghiên cứu vấn đề.
- Phương pháp:
Luận văn vận dụng các phương pháp của khoa học kinh tế chính trị; đặc biệt
coi trọng các phương pháp kết hợp lôgíc với lịch sử, phân tích và tổng hợp,

thống kê.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
6.1.Luận văn phân tích tính tất yếu phải thu hồi một phần đất nông nghiệp
và đất ở để xây dựng KCN, KĐT và KCHT. Song việc này đòi hỏi phải rút bớt
lao động nông nghiệp chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ, phải bảo
đảm an ninh lương thực; cần tránh các dự án treo gây lãng phí đất và gây khó
khăn cho cuộc sống nông dân.
6.2.Việc thu hồi đất có tác động tích cực, như tạo nhiều việc làm cho nông
dân, nhất là giới trẻ, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Đồng thời làm biến đổi cơ
cấu kinh tế trong vùng từ thuần nông sang công nghiệp dịch vụ, nông nghiệp, với


KCHT thuận tiện, làm thay đổi cuộc sống của dân cư.
6.3. Nhưng nếu thực hiện không tốt, không đúng pháp luật, việc thu hồi
đất cũng gây ra những tác động tiêu cực, như dự án treo không những không tạo
việc làm mà còn làm cho nông dân mất đất canh tác, hết kế mưu sinh, rơi vào
cảnh bần cùng; không được đào tạo nghề thì ngay cả thanh niên cũng thất
nghiệp; không quản lý nghiêm còn gây ô nhiễm môi trường và nảy sinh các tệ
nạn xã hội .v.v...
6.4. Luận văn đã sưu tầm nhiều tư liệu minh họa thực trạng thu hồi đất để
xây dựng KCN, KĐT, KCHT ở Mê Linh, các tác động tích cực và tiêu cực của
việc này. Trong đó chỉ rõ nhược điểm của đô thị hóa ở đây là thiên về xây dựng
biệt thự, chậm hoàn thiện KCHT, nên chưa thu hút được dân cư, tới 90% các
KĐT ở Mê Linh đang trong tình trạng dở dang hay bỏ hoang hóa.
6.5. Dự báo đến 2030 diện tích đất thu hồi ở Mê Linh sẽ chiếm 61,09%
diện tích đất tự nhiên và 89,35% đất nông nghiệp của 6 xã và 2 thị trấn nằm
trong quy hoạch. Luận văn đề xuất phương hướng hoàn thiện quy hoạch sử dụng
đất hướng vào các mục tiêu kinh tế - xã hội của huyện, phối hợp chặt chẽ việc
thu hồi đất với việc giải quyết các vấn đề sau khi thu hồi để đảm bảo đời sống
cho nông dân.

Từ đó cần thực hiện tốt các giải pháp: đền bù, hỗ trợ thỏa đáng cho nông
dân bị thu hồi đất; nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước; gắn phát triển đô thị
với phát triển khu công nghiệp; khuyến khích các dự án đầu tư sử dụng nhiều lao
động địa phương; đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp
trong KCN và nhu cầu của đô thị; khắc phục ô nhiễm môi trường.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Thu hồi đất để xây dựng đô thị, khu công nghiệp, kết cấu hạ tầng -


tính cấp thiết và ảnh hưởng của nó đối với đời sống nông dân
Chương 2: Thực trạng của việc thu hồi đất và ảnh hưởng đối với đời sống của
nông dân vùng thu hồi đất ở huyện Mê Linh
Chương 3: Những giải pháp chủ yếu để phát huy ảnh hưởng tích cực, khắc phục
ảnh hưởng tiêu cực của việc thu hồi đất đối với đời sống nông dân huyện Mê
Linh, Hà Nội hiện nay


Chương 1
THU HỒI ĐẤT ĐỂ XÂY DỰNG ĐÔ THỊ, KHU CÔNG NGHIỆP,
KẾT CẤU HẠ TẦNG - TÍNH CẤP THIẾT VÀ ẢNH HƯỞNG
CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG CỦA NÔNG DÂN
1.1. Tính cấp thiết phải thu hồi đất để xây dựng đô thị, khu công
nghiệp, kết cấu hạ tầng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền
kinh tế quốc dân ở nước ta.
1.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và sự chuyển đổi mục đích sử
dụng đất cho việc xây dựng khu công nghiệp, đô thị và kết cấu hạ tầng ở nước
ta
Chuyển nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế công nghiệp, hay công
nghiệp hóa là xu thế phát triển tất yếu của tất cả các nước trên thế giới.

Ngày nay, với sự phát triển của cách mạng khoa học công nghệ và kinh tế tri
thức, công nghiệp hóa lại gắn với hiện đại hóa, làm biến đổi cấu trúc kinh tế,
thúc đẩy các ngành nghề có hàm lượng tri thức cao, sử dụng công nghệ hiện đại,
tạo điều kiện cho các nước đi sau có thể rút ngắn quá trình CNH.
Ở Việt Nam, CNH được đề ra tại Đại hội của Đảng lần thứ III năm 1960, và
sau khi đổi mới, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ VII (Khóa VII) đã
xác định: “CNH, HĐH là quá trình biến đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản
xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng lao động thủ
công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đề ra chủ trương: “Cơ cấu lại, xây dựng


nền công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có tính nền tảng, có
lợi thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, hiệu quả,
bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế, từng bước có khả năng
tham gia sâu, có hiệu quả vào mạng lưới sản xuất và phân phối toàn cầu”.[13, tr.
193]. Và đặt ra chỉ tiêu đến năm 2015 công nghiệp và xây dựng đạt 41 – 42%;
sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt 35% tổng
GDP. [13, tr. 190] Như vậy, để tiến hành quá trình CNH, HĐH ở nước ta, chúng
ta vừa phải chuyển dịch lao động nông nghiệp sang công nghiệp, vừa phải xây
dựng cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Trong quá trình CNH, tất yếu phải xây dựng cơ sở vật chất – kỹ thuật, nên
phải thu hồi đất để phát triển các KCN, KĐT và KCHT. Nghị định 36 CP ngày
24/4/1997 của Chính phủ Việt Nam đã định nghĩa KCN là khu tập trung các
doanh nghiệp chuyên sản xuất hàng hóa công nghiệp và thực hiện các dịch vụ
sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định (có tường bao quanh, không
có dân cư sinh sống), do các cơ quan Nhà Nước có thẩm quyền quyết định thành
lập (theo đúng trình tự pháp luật).

ĐTH là quá trình song song với sự phát triển của CNH và cách mạng
khoa học - công nghệ, biểu hiện cụ thể là dân cư nông thôn chuyển dần sang
sống tại các đô thị. Theo số liệu thống kê năm 2009, tại Cộng hòa dân chủ nhân
dân Lào, tỷ lệ dân số sống ở nông thôn là 78,9%, dân số trong nông nghiệp là
75,8%; tại Myanmar tương ứng là: 70% và 69%; tại Campuchia: 80,8% và
68,5%; tại Việt Nam: 73,8% và 65,7%; tại Thái Lan: 67,9% và 45,8%; tại
Inđônêsia: 53,2% và 41,5%; tại Phillippin: 38,2% và 375; tại Singapone: 0% và
0,12%; tại Brunây: 23,2% và 0,6%; còn ở Malaixia: 35,1% và 15% [39].
Mục tiêu mà nước ta đề ra có khoảng 38% dân số đô thị vào năm 2015, và
40% vào năm 2020 là khó đạt. Vì tốc độ quy hoạch đô thị đang diễn ra nhanh


nhưng chưa đồng bộ với việc phát triển dân số đô thị. Ở nước ta quá trình thu hồi
đất đã và đang diễn ra như sau:
Thứ nhất, thu hồi đất để xây dựng các KCN, KCX, nhằm thu hút đầu tư
phát triển công nghiệp và dịch vụ. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư, đến
cuối năm 2010, cả nước có 260 KCN, được thành lập với tổng diện tích trên
71.300 ha nhưng tỷ lệ lấp đầy tại các KCN mới chỉ đạt 46%. Trong tổng số
KCN, có 173 KCN đã hoàn thiện KCHT và đi vào hoạt động, số còn lại đang
giải phóng mặt bằng. Các KCN đã thu hút 3960 dự án FDI với số tiền đầu tư là
53,6 tỷ USD; 4.380 dự án trong nước với tổng kinh phí 336.000 tỷ đồng cho đầu
tư sản xuất kinh doanh [8]. Với sự đầu tư này, doanh thu từ các KCN đạt khá cao
và giải quyết khoảng 1,6 triệu lao động trực tiếp, và 1 triệu lao động gián tiếp
phục vụ cho hoạt động công nghiệp [8].
Bảng 1.1.Số lượng và tổng diện tích các KCN đã thành lập tính đến hết
năm 2010 phân theo vùng lãnh thổ.
Vùng

Số lượng khu công nghiệp


Tổng diện tích (ha)

Đồng bằng Sông Hồng

66

15.031

Trung du miền núi Băc Bộ

16

2.478

Miền Trung

39

9.256

Tây Nguyên

8

1.261

Đồng Nam Bộ

88


33.290

Đồng bằng Sông Cửu Long

43

10.078

Cả nước

260

71.394

( nguồn: Vụ quản lý các khu kinh tế - tháng 2/2011)
Theo quy hoạch được Thủ tướng chính phủ phê duyệt vào tháng 8/ 2005,
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 cả nước có khoảng 80.000 ha đất
dành cho KCN và KCX.


Thứ hai, thu hồi đất để xây dựng và phát triển đô thị bao gồm xây dựng
các công trình: nhà ở của dân cư đô thị, trụ sở làm việc của bộ máy hành chính,
các công trình công cộng phúc lợi xã hội như trường học, bệnh viện, công viên,
các công trình phục vụ sản xuất kinh doanh thương mại ở đô thị, các công trình
dịch vụ giao thông, điện nước…. Song song với quá trình CNH, các đô thị sẽ
mọc lên nhanh chóng. Nhu cầu mở rộng đô thị trở nên cấp thiết do sự phát triển
của kinh tế - xã hội và sự gia tăng dân số đô thị, đặc biệt với các thành phố lớn
như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ…
Năm 1990, cả nước ta có khoảng 500 đô thị, với tỷ lệ dân cư sống tại đô
thị khoảng từ 17% -18% và đến năm 2010, cả nước có khoảng hơn 700 đô thị.

Theo dự báo đến 2020 tỷ lệ đô thị hóa ở Việt Nam đạt khoảng 40%, tương
đương 45 triệu người. Bình quân đầu người tại khu vực ĐTH là 100m2/người,
ước tính khoảng 450.000 ha đất đô thị. Hiện tại mới chỉ đáp ứng được khoảng
1/4 (105.000 ha), có nghĩa là cần thu hồi khoảng 345.000ha trong những năm tới.
Ví dụ thành phố Hồ Chí Minh quy hoạch đáp ứng 3 triệu dân, nhưng số dân hiện
tại là 7 triệu [8].
Thứ ba, thu hồi đất để nâng cấp, xây dựng mới hệ thống KCHT phục vụ
yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và an ninh quốc phòng. Đó là các nhu cầu xây
dựng hạ tầng giao thông, hệ thống điện lưới quốc gia, thông tin, liên lạc, bưu
chính viễn thông, hệ thống thủy lợi…Việc xây dựng KCHT là nhu cầu cấp thiết
cho sự phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. Để phát triển các mặt của đời
sống xã hội cần phải có KCHT hiện đại, đây là một trong những tiêu chí của hiện
đại hóa. KCHT được phát triển sẽ thúc đẩy giao lưu kinh tế, văn hóa, xã hội giữa
các vùng miền, giữa các quốc gia. Sự phát triển hệ thống này có vai trò quan
trọng cho việc thu hút các nguồn đầu tư trong và ngoài nước, mở rộng thị
trường…Qũy đất để xây dựng hệ thống KCHT là quỹ đất được chuyển đổi mục


đích sử dụng từ đất nông nghiệp bị thu hồi.
Ở nước ta KCHT được đầu tư khá mạnh, giai đoạn năm 2001 đến 2008
nguồn vốn đầu tư cho giao thông khoảng 117.794 tỷ đồng, chưa tính đến nguồn
vốn ODA và FDI. Tính đến 2012 chúng ta có 295.046 km đường bộ (gồm 94
đường quốc lộ, 03 đường cao tốc) và nhiều cây cầu lớn. So với những năm đầu
của thập kỷ 90, tổng chiều dài đường bộ trên cả nước tăng gấp 2 lần. Đường sắt
cũng tăng, đến năm 2012 cả nước có 2.632 km. Kết cấu hạ tầng về hàng không,
cũng có nhiều cảng được xây dựng, đến năm 2012 có tổng số là 22 cảng trên
khắp các tỉnh thành cả nước [48]. Để có mặt bằng cho hệ thống kết cấu trên cũng
đã phải thu hồi một số đất ở, đất nông nghiệp và các loại đất khác. Tính đến hết
năm 2010 tổng diện tích thu hồi trên cả nước là 192.212 ha, theo tính toán thu
hồi cho KCN, KĐT như trên thì KCHT có diện tích đất đã thu hồi là 15.912ha

[22, tr. 20]. Đến nay chưa có số liệu thống kê chính thức, nhưng sẽ gia tăng cùng
với tốc độ phát triển KCHT.
1.1.2. Thu hồi đất để phát triển công nghiệp và đô thị đã đặt ra những
vấn đè cấp thiết
Thứ nhất, giảm diện tích đất canh tác, phải rút bớt lao động nông nghiệp
để chuyển sang công nghiệp và dịch vụ.
Theo quy luật, trong quá trình công nghiệp hóa, tất yếu lao động nông
nghiệp sẽ giảm sút một cách tuyệt đối và tương đối, không những do năng suất
lao động tăng lên và việc ứng dụng công nghệ mới đòi hỏi ít lao động sống trên
một đơn vị diện tích mà còn do ruộng đất có hạn. Bình quân diện tích trên một
nhân khẩu giảm đi, khiến cho nhiều người không còn đủ ruộng đất để canh tác,
buộc phải đi làm việc ở các ngành sản xuất phi nông nghiệp (công nghiệp phục
vụ nông nghiệp, hoặc các ngành công nghiệp độc lập với nông nghiệp).
Ở thời điểm trước đổi mới, một lao động ở miền Bắc Việt Nam có khoảng


3 sào bắc bộ (1080m2); ở miền Nam đất nông nghiệp trên 1 lao động gấp 2 - 2,5
lần (tức khoảng 2160m2 – 2700m2). Sau đổi mới, diện tích đất nông nghiệp trên
một lao động bị giảm sút. Theo điều tra, năm 1980 -1990, diện tích đất nông
nghiệp bình quân là 2 sào/1 nhân khẩu, đến năm 2010 là 1,3 sào/1nhân khẩu, có
nơi chỉ còn 10 thước/1nhân khẩu ( tức 240 m2) [22, tr. 123-124).
Trung bình 1 lao động nông nghiệp có thể canh tác gấp 4 - 5 lần diện tích
được giao (khoảng từ 5,2 - 6,5 sào/1 lao động). Theo thống kê cả nước ta quỹ đất
nông nghiệp có gần 9,3 triệu ha, trong đó đất trồng cây hàng năm hơn 5 triệu ha,
đất trồng lúa 4 triệu ha.[22, tr. 76]. Đất trồng lúa quy ra có 110,8 triệu sào, thì
cần khoảng 18,9 triệu lao động (sử dụng hết khả năng lao động, không có lao
động nông nhàn). Mà hiện tại số lao động nông nghiệp có khoảng 26 triệu người
[22, tr. 27], trong đó có 80% làm nghề nông, tức lao động trồng lúa sẽ dư thừa là
khoảng 1,9 triệu lao động. Và nếu đầu tư cho nông nghiệp gia tăng, lao động
nông nghiệp chuyên môn hóa, có trình độ khoa học kỹ thuật cao hơn nữa thì lao

động dôi dư càng tăng.
Sự dư thừa lao động sẽ diễn ra nhanh hơn khi đất nông nghiệp bị thu hẹp,
nhiều ruộng đất màu mỡ đã bị chuyển cho công nghiệp và đô thị. Ước tính từ
năm 2001 – 2010, bình quân mỗi năm đất nông nghiệp giảm xuống 100 nghìn
ha. Theo thống kê giai đoạn 2006 – 2010, tổng diện tích đất nông nghiệp bị thu
hồi cho xây dựng KCN, KĐT, KCHT là 192.212 ha [48]. Như vậy, nông nghiệp
sẽ phải giảm 4.095.5944 người (cả người ở độ tuổi lao động và hết tuổi lao
động). Những năm tới tốc độ thu hồi đất theo quy hoạch sẽ lớn hơn, thì vấn đề
lao động từ nông nghiệp chuyển sang các ngành khác trở thành một vấn đề gay
gắt đối với nước ta. Ước tính, trong công nghiệp bình quân thu hút được 33,7 lao
động trên 1ha, so với nông nghiệp chỉ cần 4,7 lao động trên 1ha – thậm chí số
lao động còn ít hơn khi sử dụng công nghệ hiện đại và chuyên môn hóa [48].


Tuy nhiên, lao động trong nông nghiệp lại rất ít được đào tạo, và có độ
tuổi cao. Theo kết quả điều tra năm 2009, lao động nông nghiệp được đào tạo là
8% (8,6 triệu người); số người trong độ tuổi từ 35 – 55 khoảng hơn 9 triệu
(chiếm 34,6%) [22, tr. 445]. Theo điều tra của bộ Tài nguyên và môi trường năm
2010, chỉ có 29,23% lao động bị thu hồi đất có bằng tốt nghiệp phổ thông trung
học và 14% lao động được đào tạo chuyên môn sơ cấp trở lên, còn lại không có
bằng cấp và có độ tuổi cao[48]. Thực trạng này, gây khó khăn cho việc giải
quyết việc làm cho nông dân vùng thu hồi đất và cả cho sự phát triển của các dự
án công nghiệp, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao.
Bảng 1.2. Khảo sát sử dụng lao động của các KCN ở một số địa phương
có đất thu hồi lớn năm 2010.
Số đất

Số lao động

CầnThu


Cần Thu

Lao động

Địa

bị

được thu hút

hút lao

hút lao

mất việc

phương

thu hồi

tại KCN

động phổ

động đào tạo

do thu

(ha)


(người)

thông(%)

nghề (%)

hồi đất

Đồng Nai

9.554,14

375.000

82,4

17,6

12.000

Hà Nội

7.776

115.000

12,0

88,0


80.000

Vĩnh Phúc

5.573

100.000

46,0

54,0

22.800

Bắc Ninh

5.961

90.000

75,0

25,0

22.222

Hải Dương

5.400


98.000

26,4

73,6

11.964

( Nguồn trang web công nghiệp hóa)
Số lao động được thu hút tại các KCN không nhỏ nhưng lao động nông
nghiệp chuyển sang không đáp ứng được. Như bảng trên các doanh nghiệp ở Hà
Nội, Bắc Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc đều thiếu lao động qua đào tạo, vì vậy,
dư thừa lao động nông nghiệp là do chưa được đào tạo, chưa đáp ứng nhu cầu
của doanh nghiệp.


Thứ hai, vấn đề bồi thường và hỗ trợ cho nông dân bị thu hồi đất
Nghị định số 69/2009/NĐ –CP ngày 13/08/2009 của Chính phủ đã quy
định về mức bồi thường và hỗ trợ khi đất nông nghiệp bị thu hồi. Có hai hình
thức là: bồi thường bằng đất có cùng mục đích sử dụng; hoặc bồi thường bằng
tiền tính theo giá đất cùng mục đích sử dụng (xác định giá đất sát với giá thị
trường tại thời điểm quýêt định thu hồi đất).
Về hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp cũng có hai hình thức: một là hỗ trợ
bằng tiền từ 1,5 – 5 lần giá đất nông nghiệp đối với toàn bộ diện tích đất bị thu
hồi; hai là, hỗ trợ bằng một suất đất ở, hoặc 1 căn hộ chung cư, hoặc 1 suất đất
sản xuất, kinh doanh phi nông nghiệp.
Nghị định trên đã rõ ràng, nhưng quá trình thực hiện nảy sinh một số vấn
đề chưa hợp lý:
Một là, giá bồi thường chưa sát với giá thị trường. Điều kiện để xác định

được giá cả của một hàng hóa, phụ thuộc vào giá trị của hàng hóa, sự biển đổi
của cung cầu và sức mua của đồng tiền. Ở đây, đất đai là hàng hóa đặc biệt , giá
cả của nó là địa tô tư bản hóa, đồng thởi cũng chịu ảnh hưởng bởi sự biến động
của quan hệ cung cầu, sức mua của đồng tiền.
Vì đại bộ phận nông nghiệp ở nước ta là sản xuất nhỏ, việc xác định đúng
mức địa tô chênh lệch là rất khó. Điều 55 trong Luật Đất đai năm 2003 của nước
ta lại quy định Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quy định
giá đất tại địa phương và trình Hội đồng nhân dân cùng cấp cho ý kiến trước khi
quyết định. Gía đất đó được công bố, công khai vào ngày 01- 01 hàng năm. Thế
nhưng mức địa tô chênh lệch không đồng đều giữa các vùng trong địa phương,
còn quan hệ cung cầu về ruộng đất và sức mua của tiền thường biến động, giá cả
đất được công bố trên không thể sát với giá thị trường.
Gía đền bù đất không sát với giá thị trường là điểm bất cập lớn nhất ảnh


hưởng tới đời sống nhân dân, theo công bố của chương trình do UB TƯ MTTQ
Việt Nam phối hợp với trung tâm nghiên cứu phát triển và hỗ trợ cộng đồng, Ban
dân nguyện (Uỷ ban thường vụ Quốc Hội) và chương trình phát triển Liên Hợp
Quốc tại Việt Nam (UNDP), đã đưa ra chỉ số PAPI (Chỉ số hiệu quản trị và Hành
chính công cấp tỉnh ở Việt Nam), trung bình toàn quốc chỉ có 12,8% hộ gia đình
được bồi thường trả lời giá đền bù đất sát với giá thị trường [45]. Nhiều nơi trên
cả nước giá đền bù quá thấp, nông dân rất thiệt thòi, không đủ điều kiện tìm
kiếm nghề mưu sinh, ổn định cuộc sống và tái định cư. Ví dụ, ở xã Ba Sao,
huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam, nông dân được nhận số tiền đền bù rất thấp, đất
nông nghiệp có giá 15 ngàn đồng/m2 (5,4 triệu đồng/sào); 350 nghìn đồng/m2
đất ở; 15 ngàn đồng/m2 đất vườn. Nông dân Ba Sao rất bức xúc về giá đất đó và
họ thực sự khó khăn sau khi nhường đất cho dự án khu du lịch sinh thái Tam
Chúc [45].
Theo kiến nghị của cử tri, Ủy ban Thường vụ Quốc Hội tiến hành giám sát
và đưa ra kết quả: một số nơi không ổn định được đời sống sau thu hồi đất. Hơn

nữa theo Nghị Định số 123 của Chính Phủ ban hành năm 2007, khung giá đất
nông nghiệp trồng cây hàng năm là 4000 – 13.500 đồng/m2 (1.440.000 –
4.840.000 đồng/ sào), nhưng sau khi chuyển đổi mục đích sử dụng thành đất đô
thị, thì giá thị trường lên tới 20 – 30 triệu đồng/m2 [45].
Hai là, phí hỗ trợ. Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp bằng tiền, xác định trong
khoảng từ 1,5 – 5 lần giá đất nông nghiệp (với toàn bộ diện tích bị thu hồi).
Nhưng nếu giá đất bồi thường không sát với giá thị trường, thì phí hỗ trợ cũng
không thỏa đáng; và phí bồi thường áp dụng cho toàn bộ số diện tích đã bị thu
hồi, chưa xét đến mức địa tô và không xét đến đối tượng hỗ trợ (lao động là
thanh niên hay lao động sắp về hưu). Kết quả việc hỗ trợ cho nông dân mấy năm
gần đây chưa cao, nông dân thiếu việc làm, đời sống bấp bênh, chịu nhiều biến


động không mong muốn về mặt xã hội.
Những vấn đề trên đã gây ra khó khăn cho việc giải phóng mặt bằng, làm
chậm tiến độ dự án và chưa tạo điều kiện cho nông dân chuyển sang lĩnh vực phi
nông nghiệp.
Thứ ba, thu hồi đất sẽ làm ảnh hưởng đến vấn đề an ninh lương thực của
quốc gia và phát triển bền vững của nông nghiệp. Số diện tích đất bị thu hồi quá
lớn, mà phần lớn là ruộng đất màu mỡ đang gây lo ngại cho an ninh lương thực.
Dự báo, đến năm 2020 dân số cả nước sẽ xấp xỉ 100 triệu người, năm 2030 sẽ
có khoảng 110 triệu người. Tổng nhu cầu lúa cho năm 2015 là 31,1 triệu tấn,
năm 2030 là 37,3 triệu tấn. Mà hiện nay sản lượng lúa giảm sút trung bình từ
400.000 – 500.000 tấn /năm [9].
Thứ tư, tốc độ quy hoạch xây dựng KCN, KĐT trên cả nước diễn ra nhanh
chóng mà hiệu quả sử dụng đất không cao, tỷ lệ lấp đầy các KCN chưa đến 50%,
các KĐT mọc lên nhiều mà công nhân vẫn thiếu nhà ở. Tình trạng các dự án
chậm triển khai, để đất hoang hóa đã bị xử lý, thu hồi lại nhưng vẫn không hạn
chế được tình trạng dự án treo... Những bất cập đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến
đời sống nông dân và tình hình kinh tế - xã hội chung cho cả nước.

Quy hoạch thu hồi đất cần phải chú ý các vấn đề trên, nhằm thúc đẩy kinh
tế - xã hội phát triển và đảm bảo đời sống của nông dân vùng thu hồi đất.
1.2. Ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của việc thu hồi đất đối với đời
sống nông dân vùng thu hồi đất
Đối tượng bị tác động trực tiếp và lâu dài trong quá trình thu hồi đất cho
phát triển công nghiệp và đô thị là nông dân bị thu hồi đất và nông dân vùng có
đất bị thu hồi, trên cả hai mặt tích cực và tiêu cực.
1.2.1. Tác động tích cực của việc thu hồi dất đối với nông dân ở vùng bị
thu hồi đất


×