Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (87.05 KB, 6 trang )

Xây dựng pháp luật

Hớng hoàn thiện pháp luật về
dịch vụ t vấn pháp luật tại Việt Nam
TS. Hà Hùng Cờng *
Ths. Nguyễn Thị Minh

T

rên thế giới, dịch vụ t vấn pháp luật
đợc thừa nhận là một trong các dịch
vụ quan trọng, góp phần tạo lập môi trờng
pháp lí an toàn, tin cậy cho hoạt động đầu
t, kinh doanh, thơng mại, dân sự, giúp
hạn chế việc phát sinh các tranh chấp cũng
nh bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
các doanh nghiệp và cá nhân trong nền
kinh tế thị trờng với nhiều mối quan hệ
pháp lí đa dạng, phức tạp và năng động.
Trớc năm 1987, nền kinh tế nớc ta
còn vận hành theo cơ chế tập trung quan
liêu, bao cấp, hoạt động t vấn pháp luật ít
đợc quan tâm, cha trở thành nhu cầu của
x hội và do đó, cũng cha đợc x hội
thừa nhận nh loại hình dịch vụ, loại nghề
nghiệp. Cùng với việc thực hiện chính sách
đổi mới do Đại hội VI của Đảng đề ra, hoạt
động t vấn pháp luật đ trở thành nhu cầu
khách quan của x hội, loại hình dịch vụ,
loại nghề nghiệp không thể thiếu đợc
trong sự phát triển kinh tế x hội của đất


nớc và nó đ phát triển nhanh chóng.
Thực trạng về dịch vụ t vấn pháp luật ở
Việt Nam hiện nay còn có khá nhiều bất
cập. Sự đa dạng, phức tạp về hình thức tổ
chức hành nghề t vấn pháp luật và sự thiếu
thống nhất, thiếu đồng bộ trong sự điều
chỉnh của pháp luật đ tạo ra các "sân chơi"
khác nhau cho hoạt động t vấn pháp luật.
Đoàn luật s, công ti luật, chi nhánh tổ
chức luật s nớc ngoài, văn phòng và
trung tâm t vấn pháp luật của hội luật gia
và các tổ chức đoàn thể khác đợc thành
lập và hoạt động theo các quy định khác
nhau của pháp luật, đợc ban hành trong

các thời kì và điều kiện lịch sử cụ thể khác
nhau.
Đoàn luật s là tổ chức nghề nghiệp của
luật s đợc thành lập ở mỗi tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ơng, đợc tổ chức và
hoạt động theo Pháp lệnh tổ chức luật s
năm 1987. Tính đến nay, trong cả nớc đ
có 61 đoàn luật s tại 61 tỉnh, thành phố
trực thuộc trung ơng với tổng số 1.471
luật s(1). Pháp lệnh tổ chức luật s năm
1987 đặt cơ sở pháp lí ban đầu cho hoạt
động t vấn pháp luật (luật s vừa có chức
năng tranh tụng vừa có chức năng t vấn
pháp luật và thực hiện các dịch vụ pháp lí
khác). Tuy nhiên, Pháp lệnh tổ chức luật s

đợc ban hành trong những năm đầu
chuyển đổi cơ chế, vai trò của t vấn pháp
luật cha đợc quan tâm nên các điều
khoản của Pháp lệnh này chủ yếu tập trung
điều chỉnh lĩnh vực tranh tụng của luật s,
cha có các quy định điều chỉnh hoạt động
t vấn pháp luật với t cách là nghề nghiệp.
Công ti luật đợc thành lập và hoạt
động trên cơ sở vận dụng các quy định của
Luật công ti năm 1990. Trên thực tế, các
công ti luật nằm ngoài sự quản lí thống
nhất của Nhà nớc đối với việc hành nghề
t vấn pháp luật. Theo quy định của Luật
công ti thì công ti luật chỉ phải báo cáo về
hoạt động kinh doanh, thực hiện nghĩa vụ
thuế, không buộc phải báo cáo về tổ chức
hoạt động nghề nghiệp cho cơ quan quản lí
nhà nớc về t vấn pháp luật và Luật công
ti cũng không quy định chế tài về trách
* Bộ t pháp

Tạp chí luật học - 57


Xây dựng pháp luật

nhiệm nghề nghiệp của công ti trong trờng
hợp gây thiệt hại về lợi ích vật chất hay uy
tín đối với khách hàng. Ngoài ra, Luật công
ti chỉ điều chỉnh tổ chức và hoạt động của

các loại hình công ti kinh doanh thuần túy
chứ cha có các điều luật cụ thể điều chỉnh
hoạt động dịch vụ nghề nghiệp và đặc biệt
là nghề t vấn pháp luật. Đây là nghề khá
đặc thù, đòi hỏi phải có những quy định
pháp luật yêu cầu về trình độ, t cách đạo
đức của ngời thực hiện dịch vụ này đồng
thời quy định trách nhiệm cao đối với cá
nhân kinh doanh dịch vụ đó.
Chi nhánh tổ chức luật s nớc ngoài
đợc thành lập và hoạt động tại Việt Nam
theo Nghị định số 42/CP ngày 8/7/1995 về
hành nghề t vấn pháp luật của tổ chức luật
s nớc ngoài tại Việt Nam (Nghị định số
42/CP nay đ đợc thay thế bằng Nghị định
số 92/1998/NĐ-CP ngày 10/11/1998). Chi
nhánh tổ chức luật s nớc ngoài chỉ đợc
t vấn về pháp luật nớc ngoài trong lĩnh
vực kinh doanh, đầu t, thơng mại; không
đợc t vấn về pháp luật Việt Nam, không
đợc tham gia tố tụng với t cách là ngời
bào chữa, ngời đại diện cho khách hàng
trớc tòa án Việt Nam(2). Nh vậy, chi
nhánh tổ chức luật s nớc ngoài chỉ đợc
t vấn về pháp luật nớc ngoài, trong
trờng hợp có vấn đề liên quan đến pháp
luật Việt Nam thì chi nhánh đợc kí kết
hợp đồng hợp tác t vấn pháp luật với tổ
chức hành nghề t vấn pháp luật Việt Nam
để thực hiện việc t vấn về pháp luật Việt

Nam. Song có vấn đề phát sinh trong thực
tế là: Phạm vi của "lĩnh vực kinh doanh,
đầu t, thơng mại", việc t vấn về pháp
luật nhập c của Mĩ cho khách hàng Việt
Nam và khách hàng nớc ngoài có thuộc
các lĩnh vực đợc nêu không? Vấn đề này
vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau và còn phải
tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi cho phù hợp
với tình hình thực tế và xu hớng chung.
58 - Tạp chí luật học

Các văn phòng và trung tâm t vấn pháp
luật của hội luật gia đợc thành lập và hoạt
động theo Thông t số 1119/QLTPK ngày
24/12/1987 của Bộ t pháp về hoạt động t
vấn pháp luật. Nhng thực chất hoạt động
của các văn phòng t vấn pháp luật của hội
luật gia là hành nghề t vấn pháp luật có
thu, đa số vì mục đích lợi nhuận chứ không
phải phục vụ miễn phí nh các văn phòng
t vấn pháp luật của các tổ chức đoàn thể
khác nh công đoàn hay hội phụ nữ.
Tóm lại, hiện nay cha có hành lang
pháp lí thống nhất cho hoạt động t vấn
pháp luật. Cơ sở pháp lí cho việc hình thành
và phát triển hoạt động t vấn pháp luật còn
nhiều quy định cha phù hợp với tính chất
chuyên nghiệp của nghề t vấn pháp luật.
Xuất phát từ việc cha có cách hiểu
thống nhất về dịch vụ t vấn pháp luật nên

các luật s, luật gia thực hiện t vấn pháp
luật rất khác nhau. Vì vậy, dịch vụ t vấn
pháp luật trong thời gian qua tơng đối đa
dạng, trong đó có những dịch vụ khó có thể
coi là dịch vụ t vấn pháp luật, ví dụ nh
dịch thuật, đánh máy, in ấn tài liệu...
Dới góc độ quản lí vĩ mô, hoạt động t
vấn pháp luật ở nớc ta còn khá nhiều tồn
tại, bất cập. Có thể nêu một số điểm chính
sau đây:
Thứ nhất, có thể nói rằng tồn tại lớn
nhất là sự thụ động từ phía các cơ quan có
thẩm quyền của Nhà nớc trong việc ban
hành chính sách và hoàn thiện pháp luật
trong lĩnh vực t vấn pháp luật. Việc chậm
sửa đổi Pháp lệnh tổ chức luật s, chậm sửa
đổi các quy định có tính chất tạm thời nh
Thông t số 1119/QLTPK của Bộ t pháp
hoặc tháo gỡ những vấn đề vớng mắc nh
ý kiến chỉ đạo của Thủ tớng Chính phủ tại
Chỉ thị số 620/TTg ngày 29/9/1995 là
nguyên nhân chính của thực trạng bức xúc
nói trên. Pháp lệnh tổ chức luật s năm
1987 đợc soạn thảo, xem xét thông qua
một cách kĩ lỡng, có bài bản nhng đợc


Xây dựng pháp luật

ban hành ở năm đầu tiên của công đổi mới,

còn rất nhiều vấn đề cha lờng hết đợc
và cha chín muồi ở thời điểm đó. Do đó,
so với yêu cầu phát triển hiện nay của nghề
luật s nói chung và t vấn pháp luật nói
riêng của đất nớc thì Pháp lệnh tổ chức
luật s có rất nhiều điểm bất cập, không
hoàn thiện.
Thứ hai, phải khẳng định rằng hoạt
động t vấn pháp luật ở nớc ta là sản
phẩm của chính sách đổi mới, của cơ chế
thị trờng nhng bản thân sự phát triển của
nó lại cha đợc đặt trong bối cảnh thị
trờng. Mặc dù thị trờng t vấn pháp luật
ở nớc ta còn rất nhỏ bé so với tiềm năng
của đất nớc gần 80 triệu dân và đang
quyết tâm phát triển kinh tế với nhịp độ
tăng trởng trên dới 7% năm nhng điều
đó không cho phép chúng ta buông xuôi,
thả nổi cho sự tự phát, sự cạnh tranh không
lành mạnh, thiếu trách nhiệm với ngời tiêu
dùng. Phải nói rằng thực chất chúng ta cha
có nhận thức thống nhất, rõ ràng về dịch vụ
t vấn pháp luật với t cách là loại nghề,
chính vì vậy, cho đến nay cha có văn bản
quy phạm pháp luật về hành nghề t vấn
pháp luật, cha có quy định chuẩn, thống
nhất về yêu cầu tối thiểu đối với trình độ
của ngời thực hiện dịch vụ t vấn pháp
luật, cha có yêu cầu về quy tắc đạo đức
nghề nghiệp đối với ngời thực hiện t vấn

pháp luật. Ngoài ra, các yêu cầu về bảo
hiểm nghề nghiệp, về trách nhiệm của luật
s và các tổ chức t vấn pháp luật cũng
cha đợc quy định rõ.
Hơn nữa, lĩnh vực t vấn pháp luật cha
đợc quản lí một cách thống nhất. Chức
năng quản lí của các cơ quan nhà nớc và
tổ chức x hội còn khá nhiều chồng chéo,
gây ra tình trạng quản lí vừa thiếu lại vừa
thừa. Do vậy, hoạt động t vấn pháp luật
không tuân theo chính sách, chiến lợc
nhất định, không tuân thủ sự chỉ đạo thống
nhất của cơ quan quản lí nhà nớc.

Thứ ba, các quy định pháp luật hiện
hành còn phân biệt khá rõ nét giữa t vấn
pháp luật của luật s Việt Nam và luật s
nớc ngoài. Hoạt động của luật s nớc
ngoài tại Việt Nam đợc xem nh loại nghề
(có giấy phép hành nghề t vấn pháp luật,
có bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp) còn
hoạt động của luật s Việt Nam thì cha có
các quy định tơng tự. Những điều cấm đối
với luật s nớc ngoài đợc quy định trong
pháp luật hiện hành là phù hợp (không
đợc t vấn về pháp luật Việt Nam, không
đợc thuê luật s Việt Nam và không đợc
đại diện cho khách hàng trớc tòa án Việt
Nam) song trong tơng lai, khi Việt Nam
đ trở thành thành viên của WTO, hiệp

định thơng mại Việt - Mĩ có hiệu lực hoặc
theo các cam kết của Việt Nam trong
trơng trình hợp tác về dịch vụ t vấn pháp
luật ASEAN (2001 - 2010) thì các quy định
nêu trên sẽ không còn phù hợp.
Vấn đề lớn đặt ra hiện nay là làm thế
nào để trong thời gian ngắn (có thể đến
năm 2010) phát triển đợc đội ngũ luật s
Việt Nam đông đảo về số lợng, ít ra là gấp
10 lần hiện nay đồng thời có kĩ năng hành
nghề theo kịp các luật s quốc tế, khu vực
để vừa đáp ứng nhu cầu phát triển của đất
nớc, chiếm lĩnh thị trờng ngoài nớc,
cạnh tranh với các luật s nớc ngoài? Nếu
chúng ta xem đó là mục tiêu tổng quát của
chiến lợc phát triển dịch vụ t vấn pháp
luật của Việt Nam thì vấn đề cấp thiết hiện
nay là phải đổi mới, hoàn thiện khung pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực nghề nghiệp này.
Tuy nhiên, cũng cần phải lựa chọn bớc đi
cho phù hợp.
Theo chúng tôi, về định hớng cho giai
đoạn 2001 - 2005 nên xây dựng đạo luật
chung về hành nghề luật s cho cả luật s
trong nớc và luật s nớc ngoài, khắc
phục tình trạng cát cứ nh hiện nay, phải
coi luật s nớc ngoài hành nghề tại Việt
Nam là bộ phận của luật s Việt Nam, dần
Tạp chí luật học - 59



Xây dựng pháp luật

dần nội địa hóa các chi nhánh tổ chức luật
s nớc ngoài tại Việt Nam theo hớng cho
phép họ thuê các luật s Việt Nam để tiến
tới có thể thay thế luật s nớc ngoài điều
hành các công ti luật quốc tế. Thậm chí có
thể cho phép các công ti luật Việt Nam
đợc hợp tác với các tổ chức luật s nớc
ngoài theo quy định của Luật đầu t nớc
ngoài tại Việt Nam. Hơn nữa, có thể tính
đến việc cá nhân luật s Việt Nam và nớc
ngoài đợc hợp tác ngay từ đầu để thành
lập công ti luật theo Luật doanh nghiệp...
Tuy nhiên, đó là những vấn đề cần đợc
tiếp tục nghiên cứu, trao đổi trong quá trình
hình thành chính sách, chiến lợc. Trớc
mắt, trong các năm 2000 - 2001, theo
chúng tôi, cần thực hiện các biện pháp sau
đây:
- Đối với luật s trong nớc, cầm sớm
thông qua Pháp lệnh luật s (sửa đổi), điều
chỉnh thống nhất hoạt động của luật s,
trong đó có hành nghề t vấn pháp luật.
Việc ban hành Pháp lệnh luật s (sửa đổi)
phải đạt đợc những nội dung chính sau
đây:
Thứ nhất, phải thống nhất hóa nghề luật
s, tạo ra sân chơi bình đẳng giữa các luật

s Việt Nam với nhau; luật s phải là nghề
nghiệp chung bao gồm cả luật s tranh tụng
và luật s t vấn pháp luật, không hạn chế
luật s chỉ đợc hành nghề tranh tụng hoặc
hành nghề t vấn pháp luật; họ đợc tự do
lựa chọn lĩnh vực hành nghề phù hợp với sở
trờng của họ, họ cũng có thể hành nghề
trên cả hai lĩnh vực nh pháp luật hiện hành
quy định.
Thứ hai, phải chính quy hóa tiêu chuẩn
luật s. Khác với các dịch vụ thông thờng,
t vấn pháp luật là dịch vụ cung cấp cho
khách hàng kiến thức pháp luật, hớng dẫn
cho họ xử sự theo pháp luật, xử lí các tình
huống tranh chấp theo pháp luật, do đó đòi
hỏi ngời t vấn phải có trình độ pháp luật
60 - Tạp chí luật học

nhất định. Trên thực tế, có những ngời
hoàn toàn không đợc đào tạo về luật cũng
thành lập công ti luật; các luật gia, các luật
s thực hiện t vấn pháp luật thì đợc đào
tạo về kĩ năng hành nghề. Theo chúng tôi,
Dự án Pháp lệnh luật s (sửa đổi) về
nguyên tắc cần quy định cụ thể các tiêu
chuẩn về trình độ để đợc cấp chứng chỉ
hành nghề luật s nh sau:
+ Đ tốt nghiệp đại học luật;
+ Đ tốt nghiệp khóa đào tạo nghề luật
s;

+ Đ qua tập sự hành nghề luật s.
Thứ ba, thống nhất hóa hình thức hành
nghề luật s. Nh trên đ trình bày về sự đa
dạng, phức tạp trong hình thức tổ chức
hành nghề t vấn pháp luật hiện nay, do đó,
cần phải quy định thống nhất hình thức tổ
chức hành nghề trong Dự án Pháp lệnh luật
s (sửa đổi). Theo chúng tôi, trớc mắt chỉ
nên quy định luật s đợc hành nghề dới
hai hình thức: Văn phòng luật s và công ti
luật hợp danh. Hai hình thức hành nghề này
của luật s phù hợp với xu hớng chung ở
phần lớn các nớc trên thế giới. Bởi lẽ, đây
là nghề có nhiều đặc thù, đòi hỏi trách
nhiệm cao đối với cá nhân và tổ chức hành
nghề, họ phải chịu trách nhiệm vô hạn về
hoạt động t vấn của mình trớc khách
hàng.
Thứ t, cần quy định rõ trách nhiệm của
luật s và các tổ chức hành nghề luật s
trớc khách hàng khi thực hiện t vấn sai,
gây thiệt hại về lợi ích vật chất và tinh thần
cho khách hàng. Pháp luật hiện hành cha
quy định trách nhiệm mua bảo hiểm nghề
nghiệp đối với luật s Việt Nam, chỉ quy
định đối với luật s nớc ngoài(3). Đây cũng
là một trong các lí do khách hàng nớc
ngoài lựa chọn luật s nớc ngoài t vấn
cho các dự án của mình, chứ không lựa
chọn luật s Việt Nam. Tuy nhiên, đây là

loại hình bảo hiểm mới cha đợc quy định


Xây dựng pháp luật

trong pháp luật về bảo hiểm của Việt Nam
và điều này cần thiết phải đợc nghiên cứu,
bổ sung trong thời gian tới.
Thứ năm, Pháp lệnh luật s (sửa đổi)
cần quy định rõ một số các điều cấm làm
liên quan đến đạo đức nghề nghiệp của luật
s, ví dụ: Cấm tiết lộ bí mật của khách
hàng mà luật s biết đợc trong khi hành
nghề; cấm quan hệ với ngời có thẩm
quyền nhằm giải quyết vụ việc một cách
trái pháp luật; cấm xúi bẩy đơng sự khiếu
nại, khiếu kiện, tố cáo không có căn cứ;
cấm sách nhiễu khách hàng; cấm gây khó
khăn hoặc cản trở hoạt động của cơ quan
Nhà nớc một cách bất hợp pháp; cấm trực
tiếp nhận thù lao và các chi phí từ khách
hàng; cấm kinh doanh các ngành nghề
khác.
Ngoài các điều cấm nói trên do pháp
luật quy định, các luật s còn phải tuân
theo các quy tắc đạo đức nghề nghiệp của
mình, thờng do đoàn luật s hoặc hiệp hội
luật s quy định. Các quy tắc này vừa cụ
thể hóa các điều cấm do pháp luật quy định
vừa là những điều tuy pháp luật không cấm

nhng tự các luật s thỏa thuận quy định để
tuân theo và trong trờng hợp vi phạm, có
thể bị đoàn hoặc hiệp hội luật s xử lí kỉ
luật. Hiện nay, vấn đề đạo đức nghề nghiệp
của luật s Việt Nam đang đợc x hội và
các cơ quan có thẩm quyền liên quan quan
tâm. Chúng tôi muốn nói đến các quy tắc
ứng xử trong quan hệ với khách hàng, với
cơ quan tiến hành tố tụng, với đồng
nghiệp... Do đó, bên cạnh các quy định
cấm của pháp luật, các đoàn luật s cần
sớm ban hành quy tắc đạo đức nghề nghiệp
luật s của đoàn mình.
Cuối cùng, cần quy định thống nhất, rõ
ràng về quản lí nhà nớc trong lĩnh vực t
vấn pháp luật, kết hợp với việc phát huy
chế độ tự quản của các đoàn luật s. Quản
lí nhà nớc đối với luật s hành nghề t vấn
pháp luật là lĩnh vực quản lí đặc thù, một

mặt không thể buông lỏng nh hiện nay,
mặt khác lại không đợc can thiệp quá sâu
vào nghề nghiệp tự do này. Do đó, theo
chúng tôi, mục đích quản lí nhà nớc trong
lĩnh vực này chủ yếu là nhằm tạo lập khung
pháp lí thống nhất - sân chơi bình đẳng cho
mọi cá nhân, tổ chức thực hiện dịch vụ t
vấn pháp luật, bảo đảm chất lợng dịch vụ
tốt đồng thời bảo đảm lợi ích hợp pháp của
ngời sử dụng dịch vụ trong cơ chế thị

trờng. Do vậy, nội dung quản lí nhà nớc
nên chăng chủ yếu tập trung vào cơ chế cấp
hoặc tớc chứng chỉ hành nghề của luật s
và hoạt động của các tổ chức hành nghề
luật s? Các nội dung quản lí khác nên quy
định thuộc chế độ tự quản của tổ chức x
hội nghề nghiệp của luật s.
- Đối với luật s nớc ngoài, theo chúng
tôi, trong một vài năm tới cũng cần kiến
nghị Chính phủ báo cáo Quốc hội cho phép
hoàn thiện Nghị định, nâng lên thành Pháp
lệnh về hành nghề t vấn pháp luật của luật
s nớc ngoài tại Việt Nam. Bởi lẽ, quy chế
về hành nghề t vấn pháp luật của luật s
nớc ngoài hiện nay đợc ban hành dới
hình thức nghị định vừa không phù hợp với
quy định của Luật ban hành văn bản quy
phạm pháp luật vừa không tơng xứng với
hình thức văn bản quy định đối với việc
hành nghề của luật s trong nớc. Việc
soạn thảo ban hành Pháp lệnh về luật s
nớc ngoài phải chăng cũng là bớc chuẩn
bị cho ban hành đạo luật chung về hành
nghề luật s tại Việt Nam nh đ trình bày
ở trên.
Trong khi cha ban hành đợc Pháp
lệnh, theo chúng tôi trớc mắt, cũng cần
thiết phải nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung
Nghị định số 92/1998/NĐ-CP ngày
10/11/1998 cho phù hợp yêu cầu thực tế.

Hiện nay đ nảy sinh một số vấn đề mới
vợt ra ngoài khuôn khổ quy định của Nghị
định này, ví dụ nh yêu cầu sáp nhập các
Tạp chí luật học - 61


Xây dựng pháp luật

chi nhánh tại Việt Nam, nhằm mục đích
giảm chi phí, tăng khả năng cạnh tranh;
yêu cầu tạm ngừng hoạt động hoặc ngay cả
yêu cầu về phạm vi, lĩnh vực hành nghề đ
khác nhiều với quy định hiện hành. Trên
tinh thần đó, theo chúng tôi việc sửa đổi, bổ
sung Nghị định nên tập trung vào một số
điểm sau đây:
Thứ nhất, mở rộng phạm vi hành nghề
cho chi nhánh tổ chức luật s nớc ngoài
tại Việt Nam, có nghĩa là chi nhánh đợc t
vấn về pháp luật nớc ngoài trong bất kì
lĩnh vực nào phù hợp với chuyên môn của
họ và có nhu cầu của thị trờng Việt Nam,
không chỉ hạn chế trong lĩnh vực đầu t,
kinh doanh, thơng mại nh quy định hiện
hành. Tuy nhiên, lĩnh vực hành nghề cụ thể
cần đợc giới hạn trong giấy phép và họ
cũng vẫn chỉ đợc t vấn về pháp luật nớc
ngoài, pháp luật quốc tế, không đợc t vấn
về pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, đơn giản hóa thủ tục hành

chính đối với việc xem xét cấp giấy phép
đặt chi nhánh và đăng kí hành nghề của chi
nhánh tổ chức luật s nớc ngoài tại Việt
Nam. Chẳng hạn, theo Điều 11 Nghị định
số 92/1998/NĐ-CP, tổ chức luật s nớc
ngoài phải nộp 7 loại giấy tờ kèm theo đơn
xin phép đặt chi nhánh tại Việt Nam. Dự
thảo Nghị định (sửa đổi) chỉ nên giữ lại 3
trong số 7 giấy tờ đó. Hoặc là giảm bớt các
điều kiện để đợc phép hành nghề tại Việt
Nam đối với tổ chức luật s nớc ngoài,
các quy định không cần thiết từ giác độ
quản lí Nhà nớc mà tạo cảm giác gây khó
khăn trong việc cấp giấy phép đặt chi
nhánh nh điều kiện "có khách hàng hoạt
động đầu t, kinh doanh tại Việt Nam:, "có
uy tín"... Điều kiện duy nhất theo chúng tôi
nên để lại là tổ chức luật s đó phải đợc
thành lập và hoạt động hợp pháp ở nớc
ngoài.
62 - Tạp chí luật học

Thứ ba, tạo cơ chế linh hoạt và thuận lợi
hơn cho hoạt động hợp tác giữa chi nhánh
tổ chức luật s nớc ngoài và tổ chức t vấn
pháp luật Việt Nam, không nên bắt buộc
các chi nhánh tổ chức luật s nớc ngoài
trong mọi trờng hợp phải kí hợp đồng hợp
tác cũng không cần thiết phải gửi bản sao
hợp đồng cho sở t pháp.

Thứ t, bổ sung một số quy định nhằm
điều chỉnh các tình huống đ xảy ra trong
thực tế nhng cha đợc quy định trong
Nghị định số 92/1998/NĐ-CP nh việc sáp
nhập các chi nhánh tại Việt Nam, việc xin
phép tạm ngừng hoạt động của chi nhánh...
Dịch vụ t vấn pháp luật nói riêng và
nghề luật s nói chung ở nớc ta đang có
vận hội to lớn để phát triển nhanh chóng
bền vững, lâu dài. Trớc hết, đó là do nhu
cầu nội tại của sự phát triển kinh tế, x hội
của đất nớc đang đi vào công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, củng cố pháp quyền và hội
nhập khu vực, quốc tế. Sự phát triển của
nghề luật s cũng đứng trớc những thách
thức gay gắt, đặc biệt gắn với quá trình hội
nhập kinh tế nói chung và việc gia nhập
WTO nói riêng. Giành thế chủ động trong
quá trình này chắc hẳn là nhiệm vụ trực
tiếp của mỗi luật s Việt Nam và các tổ
chức hành nghề mà luật s làm việc. Nhng
đó cũng là nhiệm vụ quan trọng của Nhà
nớc ta với t cách là ngời định hớng,
tạo môi trờng cần thiết cho sự phát triển
của nghề luật s ở Việt Nam./.
(1). Thống kê của Bộ t pháp.
(2).Xem Điều 20 Nghị định số 92/1998/NĐ-CP ngày
10/11/1998 về hành nghề t vấn pháp luật của tổ chức
luật s nớc ngoài tại Việt Nam.
(3).Xem: Điều 31 Nghị định số 92/1998/NĐ-CP của

Chính phủ ngày 10/11/1998 về hành nghề t vấn pháp
luật của tổ chức luật s nớc ngoài tại Việt Nam quy
định: "Chi nhánh có nghĩa vụ mua bảo hiểm trách
nhiệm nghề nghiệp cho luật s của mình hành nghề tại
Việt Nam".



×