Tải bản đầy đủ (.doc) (38 trang)

triết học mác lê nin với khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.15 KB, 38 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--

BÀI TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:

VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊ NIN
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN.
Ý NGHĨA VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN

Học viên

: Trần Thu Vân

Mã học viên

: CH220158

Lớp

: CH 22N

Hà Nội, 11/2013


-2-

MỤC LỤC
MỤC LỤC...........................................................................................................................
LỜI MỞ ĐẦU.....................................................................................................................



Chương 1: Tổng quan về đề tài “Vai trò của triết học Mác – Lênin đối
với sự phát triển của khoa học và khoa học xã hội nhân văn”.........................
1.1 Giới thiệu chung........................................................................................................
1.1.1 Lý do chọn đề tài..................................................................................................
1.1.2 Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................
1.1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài .....................................................
1.2 Ý nghĩa và phương pháp nghiên cứu........................................................................
1.3 Tổng luận...................................................................................................................
1.4 Kết cấu của đề tài ......................................................................................................

Chương 2: Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự phát triển của
khoa học và khoa học xã hội nhân văn”. Ý nghĩa và liên hệ thực tiễn...........
2.1 Triết học Mác – Lênin..............................................................................................
2.1.1 Điều kiện ra đời và khái niệm về triết học Mác – Lênin...................................
2.1.2 Đối tượng, chức năng và những đặc điểm của triết học Mác – Lênin...............
2.2 Vai trò của triết học Mác – Lênin với sự phát triển của khoa học và khoa học
xã hội, nhân văn................................................................................................................
2.2.1 Lịch sử hình thành của triết học trong sự phát triển của khoa học thời kỳ
trước Mác..........................................................................................................................
2.2.2 Vai trò của triết học Mác – Lênin với sự phát triển của khoa học và khoa
học xã hội - nhân văn........................................................................................................
2.2.2.1 Đối với khoa học tự nhiên.............................................................................
2.2.2.2 Đối với khoa học xã hội – nhân văn.............................................................
2.3 Ý nghĩa phương pháp luận và liên hệ thực tế..........................................................

Chương 3: Một số ý kiến nhận xét chung và kết luận.....................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................



-3-

LỜI MỞ ĐẦU
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, con người có mối quan hệ rất chặt chẽ
với triết học. Bên cạnh đó, con người luôn có sự tìm tòi và khám phá thế giới
xung quanh để nhận thức được về thế giới, hiểu biết càng nhiều về thế giới sẽ làm
vốn tri thức của con người càng được đầy thêm, từ đó con người có thể cải tạo thế
giới theo ý mình để có thể phục vụ một cách tối đa cho cuộc sống của con người.
Con người khám phá ra giới tự nhiên tới đâu thì khoa học phát triển tới đó. Nhưng
để có thể lý giải cho những sự phát triển của khoa học thì con người cần có những
căn cứ phù hợp và con người đã dựa vào triết học. Triết học sẽ tổng hợp những
thành tựu của khoa học, nghiên cứu và đua ra những lý luận chung, khái quát cho
mọi vấn đề của khoa học, định hướng cho khoa học phát triển đúng đắn. Khoa học
sẽ dựa vào những định hướng của triết học đề nghiên cứu và lý giải cho các hiện
tượng khoa học mới. Vậy, mối quan hệ giữa khoa học và triết học rất chặt chẽ và
phụ thuộc sâu sắc với nhau.
Khi triết học Mác – Lênin ra đời thì mối quan hệ này lại càng được củng cố và
bên chặt. Để hiểu thêm về mối quan hệ này em chọn đề tài: “Vai trò của triết học
Mác – Lênin đối với sự phát triển của khoa học và khoa học xã hội nhân văn. Ý
nghĩa và liên hệ thực tiễn”. Qua quá trình làm đề tài này giúp em có thể củng cố
thêm kiến thức về triết học Mác – Lênin, hiểu thêm vai trò quan trọng của nó đối
với sự phát triển của khoa học riêng và đối với thế giới nói chung.
Tuy nhiên do trình độ hiểu biết có hạn, thời gian tìm hiểu môn học còn ít, quá
trình nghiên cứu chưa tiếp xúc được nhiều tài liệu nên bài tiểu luận của em không
thể không tránh khỏi những sai sót. Em rất mong được sự góp ý của thầy

giáo và các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn chỉnh hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!



-4-

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỀ TÀI “VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC
MÁC – LÊ NIN VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC
VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI – NHÂN VĂN”
1.1 Giới thiệu chung
1.1.1 Lý do chọn đề tài
Ngày nay, sự phát triển của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội - nhân văn
luôn gắn liền với sự phát triển của con người. Theo thời gian, con người dần tìm
hiểu được sâu thêm về thế giới, quá trình nhận thức của con người về vũ trụ càng
thêm sâu rộng, và khi con người nắm bắt được tri thức bao nhiêu thì cuộc sống
của con người sẽ tiến bộ bấy nhiêu…Vì vậy, sự phát triển của các ngành khoa học
sẽ giúp đỡ rất nhiều cho con người trong quá trình đó. Tuy nhiên, sự phát triển
của các ngành khoa học và khoa học xã hội nhân văn luôn cần có sự định hướng
đúng đắn về thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác – Lênin. Triết
học Mác – Lênin với tư cách là môn khoa học, về các quy luật chung nhất của đời
sống tự nhiên và xã hội, nó hình thành. Với những lý luận của mình triết học Mác
– Lênin giúp con người giải thích về những gì đã, đang và sẽ xảy ra, làm con
người có thể nhận thức được thế giới, cải tạo thế giới. Từ đó ta có thế thấy được
vai trò của triết học Mác – Lênin là vô cùng cần thiết cho sự phát triển của nhân
loại, đặc biệt là với sự phát triển của khoa học và khoa học xã hội - nhân văn. Do
vậy, em chọn đề tài này để có thể nói lên được tầm quan trọng của triết học Mác –
Lênin với sự phát triển của khoa học và khoa học xã hội - nhân văn.
1.1.2 Tính cấp thiết của đề tài
Triết học là một môn khoa học tổng quát, nó có một tầm quan trọng rất lớn
với sự phát triển của tất cả các lĩnh vực trong cuộc sống. Ngay nay, tuy triết học
không còn là khoa học của các khoa học như những thời kỳ cổ đại, nhưng tầm ảnh
hưởng của nó tới các môn khoa học khác trong khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội là rất lớn. Cùng với sự phát triển của loài người, triết học đã cung cấp cho con

người một tri thức tổng quát về thế giới, giúp con người có thể nhận thức được thế


-5giới một cách đúng đắn, định hướng cho những nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực
cụ thể có thể giải thích được các hiện tượng trên thế giới một cách khoa học,
thống nhất và có tính thuyết phục cao, áp dụng được vào thực tiễn đối với đời
sống con người.
Trong lịch sử của triết học, có rất nhiều những nhà triết học nổi tiếng, họ
không chỉ là những nhà triết học nghiên cứu triết học mà họ còn có thể nghiên cứu
các lĩnh vực khoa học cụ thể, đặt nên móng quan trọng cho các ngành thuộc các
lĩnh vực tự nhiên hay xã hội. Tiêu biểu cho các nhà triết học hiện đại có Mác,
Ăngghen và Lênin, họ là những nhà triết học vĩ đại của nhân loại, họ không chỉ
đưa ra những tư tưởng, những quan niệm mới cho nền triết học hiện đại mà còn
góp phần đưa triết học vào cuộc sống, phục vụ cho con người. Triết học Mác –
Lênin đã trở thành một lý luận quan trọng của giai cấp công nhân trong sự nghiệp
giải phóng con người, và chắc chắn con người muốn phát triển thì cần phải có sự
hiểu biết và áp dụng triết học Mác – Lênin một cách triệt để nhất. Chính vì vậy,
triết học Mác – Lênin vô cùng quan trọng trong cuộc sống của con người trong
quá khứ, hiện tại và tương lai. Tuy vậy, một thực tế đáng buồn là ngày nay phần
lớn giới trẻ không hiểu được tầm quan trọng của triết học Mác – Lênin, họ học
tập, tìm hiểu và theo đuổi các lĩnh vực thuộc khoa học tự nhiên hay khoa học xã
hội nhân văn, họ coi triết học là một bộ phận của khoa học xã hội nhân văn,
không mấy quan tâm, và không tìm hiểu về triết học. Họ không thấy được tầm
bao quát và định hướng của triết học Mác – Lênin đối với những ngành mà họ
theo đuổi, điều này rất nguy hiểm nếu những nhà khoa học trẻ, vì có thể họ sẽ đi
lệch hướng phát triển. Vậy, với đề tài “Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với
sự phát triển của khoa học và khoa học xã hội nhân văn. Ý nghĩa và liên hệ thực
tiễn” sẽ giúp các bạn phần nào hiểu thêm về triết học Mác – Lênin, nhấn mạnh
thêm về tầm quan trọng và tầm bao quát của nó tới sự phát triển của khoa từ xưa
tới nay. Qua đó, giúp các bạn có thể quan tâm nhiều hơn tới triết học và có những

định hướng đúng đắn trong việc phát triển những lĩnh vực mà các bạn theo đuổi.
1.1.3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài


Mục đích của đề tài:

Bài tiểu luận mà em trình bày sau đây nhằm tới các mục đích:


-6- Hoàn thành bài tiểu luận về môn triết học theo đúng yêu cầu của giáo viên
đưa ra.
- Đảm bảo được kiến thức đã học cũng như mở rộng thêm kiến thức về vấn đề
trong đề tài.
- Thông qua tìm hiểu đề tài em có thể củng cố thêm kiến thức cho bản thân về
môn triết học, cũng như hiểu được vai trò quan trọng của nó đối với cuộc sống, từ
đó có thể nghiên cứu thêm để áp dụng được vào thực tế.
- Giúp mọi người có cái nhìn đúng đắn, sâu sắc hơn về triết học Mác- Lênin,
vai trò của nó với sự phát triển của khoa học và khoa học xã hội - nhân văn.
Trên cơ sở thấy được vai trò quan trọng của triết học Mác – Lênin, các bạn sẽ
xác định được phải làm gì và làm như thế nào để có hướng đi đúng đắn đối với
lĩnh vực mà các bạn theo đuổi, đồng thời các bạn có thể điều chỉnh hướng phát
triển sao cho phù hợp với xu thế phát triển của đất nước và thời đại.


Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được những mục đích nêu trên, em xin xác định những nhiệm vụ
nghiên cứu trọng tâm của đề tài như sau:
-


Trên cơ sở tìm hiểu các giáo trình và các tài liệu tham khảo có thể

sơ lược về sự ra đời và phát triển của triết học Mác - Lênin.
-

Làm rõ vai trò của triết học với sự phát triển của khoa học trong

lịch sử. Làm rõ được mối liên hệ chặt chẽ giữa triết học và khoa học.
-

Nói lên được vài trò của triết học Mác - Lênin với sự phát triển của

khoa học tự nhiên từ quá khứ tới hiện đại.
-

Vai trò của triết học Mác - Lênin với sự phát triển của khoa học xã

hội nhân văn từ quá khứ tới hiện đại.
-

Nêu lên những bài học, liên hệ vấn đề thực tiễn liên quan tới đề tài.

1.2 Ý nghĩa và phương pháp nghiên cứu


Phương pháp nghiên cứu:

Trong quá trình nghiên cứu, tác giả đã sử dụng phương pháp nghiên cứu và
tổng hợp các tài liệu liên quan, áp dụng các phương pháp nghiên cứu của các
ngành khoa học xã hội như: phân tích – tổng hợp, cụ thể – khái quát các kiến thức

đã học và bổ sung thêm những vấn đề liên quan.


-7Ngoài ra, đề tài còn có sự liên kết giữa lý luận và thực tiễn, để có cách nhìn
nhận đúng đắn hơn, khoa học hơn.


Ý nghĩa của đề tài:

Đề tài “Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự phát triển của khoa học và
khoa học xã hội nhân văn. Ý nghĩa và liên hệ thực tiễn” là đề tài nghiên cứu của
em sau khi hoàn thành xong chương trình triết học. Với đề tài nghiên cứu này, em
đã được nâng cao nhận thức của mình trong quá trình tìm hiểu triết học Mác –
Lênin để có một cái nhìn đúng đắn về triết học trong mối quan hệ với các ngành
khoa học cụ thể. Hy vọng với kết quả nghiên cứu của đề tài này sẽ góp phần nhỏ
bé trong việc giúp các bạn có thể nhận thức được tầm quan trọng của triết học
Mác – Lênin đối với sự phát triển của khoa học và khoa học tự nhiên nói riêng, và
sự ảnh hưởng của triết học Mác – Lênin tới các mặt của đời sống nói chung. Đề
tài này sẽ là tài liệu tham khảo cho những bạn quan tâm, tìm hiểu và nghiên cứu
về triết học Mác – Lênin, và sẽ là sự tham khảo bổ ích cho các bạn trong quá trình
học tập và thi kết thúc môn Triết học.
1.3 Tổng luận
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, tác giả có sử dụng và tham khảo một số
tài liệu như giáo trình triết học và một số tài liệu tham khảo có liên quan:
Giáo trình triết học Mác – Lênin của chủ biên là PGS.TS Đoàn Quang Thọ
cùng các tập thể các tác giả, và giáo trình triết học Mác – Lênin của đồng chủ biên
là các là GS.TS Nguyễn Ngọc Long – GS.TS Nguyễn Hữu Vui cùng tập thể các
tác giả, giáo trình “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin” với tổng
chủ biên là TS Nguyễn Viết Thông cùng tập thể các tác giả…. Các tác phẩm này
để phục vụ cho quá trình học tập và nghiên cứu những vấn đề cơ bản về triết học,

các tác phẩm này có nội dung chủ yếu nói về quá trình hình và phát triển của triết
học Mác – Lênin từ thời cổ đại cho tới hình thức phát triển cao nhất của triết học
ngày nay là triết học Mác – Lênin. Đồng thời, những tác phẩm này đã trình bày
khá chi tiết về nội dung của triết học Mác – Lênin, với nguồn gốc cũng như và cơ
sở lý luận của thế giới quan và phương pháp luận hiện đại, mang lại cho thế giới
một cách lý giải một cách khoa học cho các vấn đề liên quan. Ngoài ra, với tác
phẩm này cũng đã nói lên được sự liên hệ giữa triết học Mác – Lênin với sự


-8nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Còn với đề tài nghiên cứu của tác
giả thì tác phẩm này sẽ giúp làm rõ thêm về lịch sử và quá trình phát triển của triết
học Mác – Lênin và vai trò của nó đối với thế giới, cũng như có sự liên hệ vào
Việt Nam.
Tác giả còn sử dụng các tài liệu tham khảo bài viết như tác phẩm “Biện chứng
của tự nhiên” của Ăngghen, và các bài viết có liên quan tới vấn đề trên các báo
mạng…
Với tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” là một tác phẩm triết học lớn của
Ăngghen, chủ yếu bàn về giới tự nhiên và khoa học tự nhiên. Tác phẩm trên khi
Ăngghen mới chỉ viết ở dạng bản thảo chưa chính thức, khi Ănghen mất và tới
năm 1925 tác phẩm mới được xuất bản lần đầu tại Matxcơva. Tác phẩm này ra
đời trước khi có những phát minh vật lý mới làm đe dọa nguy cơ sụp đổ của chủ
nghĩa duy vật. Do vậy, Ăngghen vẫn dựa trên những lý thuyết triết học cũ của
Mác để giải thích, Ăngghen không chứng kiến được những đổi thay của thế giới
tự nhiên để có thể làm phát triển thêm cho tác phẩm, do vậy tác phẩm chưa được
hoàn chỉnh. Tác phẩm này sẽ giúp làm rõ thêm về vai trò và mối quan hệ của triết
học đối với khoa học tự nhiên, những vấn đề mà tác phẩm chưa giải thích được
đối với khoa học tự nhiên hiện đại sẽ được Lênin tiếp tục kế thừa và giải quyết để
làm phát triển và phong phú thêm cho triết học Mác – Lênin.
Bên cạnh đó, bài tiểu luận còn sử dụng tài liệu về giáo trình về xã hội học và
những tài liệu có liên quan tới những môn khoa học xã hội…Ngoài ra, bài viết

còn sử dụng những bài nhận định đánh giá về triết học Mác – Lênin, vai trò của
triết học Mác – Lênin đối với khoa học. Những bài nghiên cứu về vai trò triết học
Mác – Lênin với sự phát triển của con người, với xã hội trên các Tạp chí triết học,
Tạp chí cộng sản, Tạp chí khoa học…Ngoài ra, bài tiểu luận còn sử dụng nhiều
những bài viết có liên quan để tham khảo được sưu tầm trên mạng internet.
Trong bài tiểu luận này, tác giả đã nói lên được lịch sử phát triển của triết học
và triết học Mác – Lênin. Nói lên được vai trò của triết học Mác – Lênin đối với
sự phát triển của khoa học căn bản. Đồng thời nói lên được vai trò quan trọng của
triết học Mác – Lênin đối với phát triển của giai cấp vô sản, với sự nghiệp giải
phóng con người.


-9Với bài tiểu luận này, tác giả hy vọng sẽ cung cấp thêm cho các bạn một số
nhận xét và đánh giá về triết học Mác – Lênin. Giúp cho các bạn hiểu thêm về vai
trò của triết học Mác – Lênin đối với khoa học căn bản từ cổ đại với hiện đại. Dù
đã cố gắng rất nhiều, nhưng chắc chắn bài viết không thể tránh khỏi những thiếu
xót. Rất mong được thầy cô và các bạn đóng góp thêm ý kiến để đề tài có thể
được hoàn thiện hơn.
1.4 Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, bài tiểu luận bao gồm 3
chương:
Chương 1: Tổng quan về đề tài “Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự
phát triển của khoa học và khoa học xã hội nhân văn”.
Chương 2: Vai trò của triết học Mác – Lênin đối với sự phát triển của khoa
học và khoa học xã hội nhân văn. Ý nghĩa và liên hệ thực tiễn
Chương 3: Một số ý kiến nhận xét chung và kết luận.


- 10 -


CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN TRONG SỰ
PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC VÀ KHOA HỌC XÃ HỘI –
NHÂN VĂN. Ý NGHĨA VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN
2.1 Triết học Mác – Lênin
2.1.1. Điều kiện ra đời và khái niệm về triết học Mác – Lênin
Triết học Mác - Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành nên chủ nghĩa Mác –
Lênin, được C.Mác, Ăngghen sáng lập vào thế kỷ thứ XIX, sau đó được Lênin và
các nhà macxit khác phát triển thêm. Triết học Mác ra đời dựa vào những điều
kiện và tiền đề sau:
Về điều kiện kinh tế - xã hội: giữa thế kỷ XIX, quá trình hình thành và phát
triển của chủ nghĩa tư bản cũng như giai cấp tư sản tất yếu tạo ra trong lòng nó
một lực lượng đối lập là giai cấp vô sản hiện đại. Giai cấp tư sản và vô sản có mâu
thuẫn với nhau đã, và nổ ra nhiều cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản, cuộc
đấu tranh giai cấp này tất yếu sẽ dẫn đến yêu cầu phải có một lý luận khoa học để
dẫn đường cho giai cấp công nhân đi đúng hướng, từ đó triết học Mác ra đời.
Về tiền đề lý luận: sự ra đời của triết học Mác là kết quả của sự phát triển của
triết học duy vật trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm trong lịch sử triết
học, và tiền đề trực tiếp cho triết học Mác ra đời là triết học cổ điển Đức, tiêu biểu
là Hêghen và Phoiơbắc.
Tiền đề về khoa học tự nhiên: sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đã
làm thay đổi quan niệm siêu hình về nhận thức thế giới tự nhiên; khoa học tự
nhiên mang tính chất lý luận trong giai đoạn này là tiền đề cho sự ra đời của triết
học Mác.
Với những điều kiện và tiền đề trên, vào những năm 40 của thế kỷ XIX, Triết
học Mác – Lênin đã ra đời. Triết học Mác – Lênin là một bộ phận lý luận, nghiên
cứu những quy luật vận động, phát triển chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư
duy; xây dựng thế giới quan và phương pháp luận chung nhất của nhận thức khoa
học và thực tiễn cách mạng. Sự ra đời của triết học Mác –Lê nin không phải là sự



- 11 ngẫu nhiên mà là sự kết tinh có tính quy luật của quá trình phát triển lịch sử tư
tưởng triết học nhân loại và trên cơ sở các điều kiện kinh tế - xã hội cũng như
trình độ phát triển khoa học tự nhiên.
2.1.2 Đối tượng, chức năng và những đặc điểm của triết học Mác – Lênin


Đối tượng của triết học Mác – Lênin

Các quan điểm triết học trước Mác trong từng thời kỳ thì xác định đối tượng
đối tượng khác nhau. Đối với triết học Mác – Lênin thì xác định đối tượng nghiên
cứu là nghiên cứu những quy luật chung nhất về tự nhiên, xã hội và tư duy, vai trò
của con người đối với thế giới trên cơ sở giải quyết khoa học vấn đề cơ bản của
triết học.


Chức năng của triết học Mác – Lênin: gồm hai chức năng cơ bản:

+ Chức năng thế giới quan: triết học Mác - Lênin không phải là một niềm tin
như tôn giáo cũng không phải là sự tưởng tượng thần thánh hóa như trong thần
thoại mà nó là tri thức, là sự hiểu biết khái quát về thế giới, là sự giải thích thế
giới trên cơ sở các suy luận lôgic và các căn cứ khoa học thực tiễn.
Tri thức triết học khác với khoa học cụ thể và nghệ thuật. Nó là sự hiểu biết
tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống về thế giới. Nó cung cấp cho con người bức
tranh chung về thế giới, xác định vai trò, vị trí của con người trong thế giới đó.
Chức năng nhận thức của triết học Mác - Lênin được thể hiện ở chỗ. Triết học
Mác - Lênin đã vạch ra các quy luật chung nhất của tự nhiên xã hội và tư duy, nó
quyết định thái độ của con người đối với thế giới xung quanh và chỉ đạo hoạt
động thực tiễn, cải tạo thế giới của con người.
Nhờ phát hiện ra các quy luật khách quan của tự nhiên và xã hội, triết học Mác

- Lênin đã hướng sự hoạt động của con người theo đúng sự phát triển của xã hội
và do đó thúc đẩy thêm sự phát triển ấy.
+ Chức năng phương pháp luận: triết học Mác – Lênin không chỉ làm nhiệm
vụ giải thích thế giới mà còn định hướng cho con người trong hoạt động, nếu
thiếu tri thức của triết học thì con người dễ sa vào tình trạng mò mẫm, suy diễn.
Hai chức năng thế giới quan và phương pháp luận của triết học Mác - Lênin
giúp cho con người có phương pháp cải tạo thế giới phục vụ nhu cầu của mình.


- 12 

Đặc điểm của triết học Mác – Lê nin: Triết học Mác -Lênin là một học

thuyết khoa học và tiến bộ, nó mang trong mình những đặc điểm chính sau:
+ Thống nhất giữa tính Đảng và tính khoa học:
- Tính Đảng của triết học Mác - Lênin: Lập trường chủ nghĩa duy vật biện
chứng, đấu tranh kiên quyết chống chủ nghĩa duy tâm, siêu hình, bảo vệ chủ nghĩa
Mác - Lênin, bảo vệ và mang lại lợi ích cho giai cấp vô sản và quần chúng nhân
dân lao động.
- Tính khoa học của triết học Mác - Lênin: phản ánh đúng đắn hệ thống các
quy luật vận động và phát triển của thế giới.
- Sự thống nhất giữa tính đảng và tính khoa học trong triết học Mác - Lênin có
được do mục tiêu lý tưởng chiến đấu, lợi ích giai cấp vô sản phù hợp tiến trình
khách quan của lịch sử.
+ Sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn:
- Gắn nhận thức thế giới với cải tạo thế giới là nguyên tắc cơ bản của triết học
Mác: triết học Mác - Lênin ra đời từ nhu cầu thực tiễn, nhu cầu của phong trào
cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao động. Nó trở thành vũ khí lý
luận của giai cấp vô sản…
- Thông qua tổng kết kinh nghiệm thực tiễn mà phát triển triết học, triết học lại

trở lại chỉ đạo, hướng dẫn cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống giai cấp tư
sản làm tròn sứ mệnh của mình.
- Chỉ có thông qua hoạt động thực tiễn thì triết học Mác - Lênin mới trở thành
sức mạnh vật chất, mới phát triển và đổi mới không ngừng.
+ Tính sáng tạo của triết học Mác - Lênin:
- Sáng tạo là bản chất của triết học Mác: triết học Mác - Lênin được xậy dựng
và phát triển dựa trên những tinh hoa của các các lý luận triết học thời kỳ trước,
đồng thời triết học Mác - Lênin cũng có những sự sáng tạo riêng để tạo nên một
hệ thống lý luận triết học mới trên lập trường của chủ nghĩa duy vật.
- Hiện thực khách quan không ngừng vận động và biến đổi, tư duy và ý thức
phản ánh chúng cũng không ngừng bổ sung và phát triển. Triết học với tư cách là
một khoa học cũng không ngừng được bổ sung, phát triển và vận dụng một cách
sáng tạo, sao cho phù hợp với từng hoàn cảnh.


- 13 - Tính sáng tạo của triết học Mác - Lênin đòi hỏi chúng ta phải nắm vững bản
chất cách mạng và khoa học của từng nguyên lý và vận dụng nó trên quan điểm
thực tiễn, lịch sử, cụ thể. Nghĩa là phải xuất phát từ khách quan, đúng thực tiễn
sinh động làm cơ sở cho nhận thức và vận dụng lý luận.
Từ việc khái quát hiện thực xã hội, và rút kinh nghiệm của phong trào công
nhân và những thành tựu của khoa học tự nhiên, nghiên cứu có phê phán những tư
tưởng triết học trước đó, Mác - Ăngghen và Lênin đã sáng tạo ra triết học của
mình, thực hiện một bước ngoặt cách mạng trong lịch sử triết học, mở ra thời kỳ
mới cho sự phát triển của triết học, và càng làm tăng hơn nữa sức ảnh hưởng của
triết học tới mọi lĩnh vực của cuộc sống, xã hội.

2.2 Vai trò của triết học Mác – Lênin với sự phát triển của khoa học và
khoa học xã hội, nhân văn.
2.2.1 Lịch sử hình thành của triết học trong sự phát triển của khoa học
thời kỳ trước Mác.

Triết học là bộ môn nghiên cứu về những vấn đề chung và cơ bản của con
người, thế giới quan và vị trí của con người trong thế giới quan, những vấn đề có
kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy luật, ý thức, và ngôn ngữ.
Triết học được phân biệt với những môn khoa học khác bằng cách thức mà nó giải
quyết những vấn đề trên, đó là ở tính phê phán, phương pháp tiếp cận có hệ thống
chung nhất và sự phụ thuộc của nó vào tính duy lý trong việc lập luận.
Thời kỳ cổ đại: Triết học gần như được ra đời gần như cùng một thời gian vào
khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI TCN tại một số trung tâm văn minh cổ đại
như Trung Hoa, Ấn Độ, Hy Lạp.
Triết học Ấn Độ: triết học Ấn Độ cổ đại gắn bó chặt chẽ với tôn giáo, trên cơ
sở tín ngưỡng tôn giáo hình thành nên các hệ thống triết học - tôn giáo. Các hệ
thống triết học - tôn giáo ở Ấn Độ cổ đại đều quan tâm tới vấn đề nhân sinh quan,
đặc biệt là vấn đề luân hồi, nghiệp báo.
Triết học Trung Hoa: triết học Trung Hoa luôn nhấn mạnh tinh thần nhân văn,
chú trọng đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người, còn triết học tự
nhiên có phần mờ nhạt, chú trọng đến lĩnh vực chính trị - đạo đức của xã hội, coi
việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời người.


- 14 Bên cạnh đó, triết học Trung Hoa cổ, trung đại nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa
giữa tự nhiên và xã hội, phản đối sự "thái quá" hay "bất cập". Đặc điểm nổi bật
của phương thức tư duy của triết học Trung Hoa cổ, trung đại là nhận thức trực
giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm", coi đó là gốc rễ của nhận thức.
Thời kỳ triết học Hy lạp cổ đại, triết học gồm năm nhánh là siêu hình
học, lôgic, nhận thức luận, luân lý học, và mỹ học. Tuy nhiên đối tượng của triết
học còn mở rộng đến chính trị học, vật lý học, địa chất học, sinh học, khí tượng
học, và thiên văn học.
Ngay từ khi mới ra đời, triết học được xem là hình thái cao nhất của tri thức,
thời kỳ này triết học chưa có đối tượng riêng. Trình độ nhận thức còn đang ở điểm
xuất phát, tri thức khoa học còn ở tình trạng tản mạn, sơ khai, nên triết học hầu

như là dạng thức lý luận duy nhất, bao trùm, giải quyết tất cả các vấn đề về tự
nhiên, xã hội và tư duy, mà lúc ấy thực ra cũng chỉ là những phác thảo sơ lược,
chưa thấy cụ thể, chưa hoàn thiện. Tính bao trùm ấy của tri thức triết học khiến nó
được xem như “môn khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các môn khoa học khác”.
Và các nhà triết học thời kỳ này được coi là những nhà khoa học.
Thời kỳ trung cổ: Triết học bị coi là “đầy tớ” của thế giới, nó chỉ có nhiệm vụ
lý giải và chứng minh những điều trong tôn giáo. Trong thời kỳ này, dưới sự tác
động và ảnh hưởng của tôn giáo khoa học cũng như triết học không có sự phát
triển.
Từ thế kỷ XV tới thế kỷ XVIII, khoa học dần thoát khỏi sự kiềm chế của giáo
hội và có sự phát triển. Đã xuất hiện một số ngành khoa học mới. Giai đoạn này
vẫn còn quan niệm “triết học là khoa học của các khoa học”. Tuy nhiên, các bộ
môn khoa học chuyên ngành, nhất là khoa học thực nghiệm đã ra đời với tư cách
là những khoa học độc lập và phát triển mạnh mẽ, từng bước làm phá sản tham
vọng muốn đóng vai trò "khoa học của mọi khoa học" của một số học thuyết triết
học lúc bấy giờ, đặc biệt là triết học Hêghen.
Đầu thế kỷ XIX, cùng với hoàn cảh kinh tế và sự phát triển mạnh mẽ của khoa
học đã dẫn đến sự ra đời của triết học Mác – Lê nin đã chấm dứt quan niệm truyền
thống coi triết học là khoa học của các khoa học khác, đồng thời chống lại quan


- 15 niệm hạ thấp vai trò của triết học xuống thành công cụ của thế giới, của khoa học
hay của hoạt động thực tiễn.
Triết học nghiên cứu thế giới bằng phương pháp của riêng mình khác với mọi
khoa học cụ thể. Trong khi các khoa học cụ thể nghiên cứu những vấn đề liên
quan tới một đối tượng thì triết học xem xét thế giới như một chỉnh thể và tìm
cách đưa ra một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Điều đó chỉ có thể thực
hiện được bằng cách tổng kết toàn bộ lịch sử của khoa học và lịch sử của bản thân
tư tưởng triết học. Triết học là sự diễn tả thế giới quan bằng lý luận.
Cái chung trong các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung

nhất của giới tự nhiên, của xã hội và con người, mối quan hệ của con người nói
chung, của tư duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Còn khoa học cụ
thể nghiên cứu những quy luật cụ thể, đặc thù của từng lĩnh vực trong cuộc sống.

2.2.2 Vai trò của triết học Mác – Lênin với sự phát triển của khoa học
và khoa học xã hội - nhân văn
Khoa học là các nỗ lực thực hiện phát minh, và tăng lượng tri thức hiểu biết
của con người về cách thức hoạt động của thế giới vật chất xung quanh. Tri thức
trong khoa học là toàn bộ lượng thông tin mà các nghiên cứu đã tích lũy được.
Định nghĩa về khoa học được chấp nhận phổ biến rằng khoa học là tri thức tích
cực đã được hệ thống hóa.
Khoa học theo nghĩa nguyên thủy của nó là một từ chỉ kiến thức hơn là một từ
chỉ việc theo đuổi kiến thức. Đặc biệt, nó là một loại kiến thức mà con người có
thể giao tiếp và chia sẻ với nhau.
Tới thế kỷ XVII – XVIII, khoa học có sự phân ngành. Các lĩnh vực khoa học
thường được chia thành hai nhóm chính: khoa học tự nhiên, nghiên cứu các hiện
tượng tự nhiên (kể cả đời sống sinh học) và khoa học xã hội, nghiên cứu hành vi
con người và xã hội. Những nhóm chính là khoa học thực nghiệm, trong đó kiến
thức phải được dựa trên những hiện tượng quan sát được và có khả năng được thử
nghiệm để kiểm nghiệm tính đúng đắn của nó bởi các nhà nghiên cứu khác nhau
làm việc trong cùng điều kiện. Ngoài ra, các ngành liên quan được nhóm lại thành
các khoa học liên ngành và khoa học ứng dụng, chẳng hạn như khoa học kỹ thuật
và khoa học sức khỏe. Các thể loại khoa học này có thể bao gồm các yếu tố của


- 16 các ngành khoa học khác nhưng thường có thuật ngữ và cơ quan chuyên môn
riêng.
Khoa học thuần túy là các môn học bao gồm các phương diện triết lý, tôn giáo,
khoa học, tín ngưỡng, xã hội học, nhân chủng học, chính trị học, luận lý học, đạo
đức học, tâm lý học, phân tâm học, thần kinh bệnh học, ngôn ngữ học, tôn giáo

học huyền bí học. Khoa học ứng dụng là khoa học chính xác sử dụng các kiến
thức thuộc một hay nhiều lĩnh vực của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội để
giải quyết những vấn đề thực tế. Nó có liên hệ mật thiết hoặc đồng nhất với kỹ
nghệ. Khoa học ứng dụng có thể sử dụng để phát triển công nghệ.
Mối quan hệ giữa triết học Mác - Lênin và các khoa học là mối quan hệ biện
chứng, cụ thể là: các khoa học là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của triết
học. Đến lượt mình, triết học Mác - Lênin cung cấp những công cụ phương pháp
luận phổ biến, định hướng sự phát triển của các khoa học. Mối quan hệ này càng
đặc biệt quan trọng trong kỷ nguyên cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ.
2.2.2.1 Đối với khoa học tự nhiên
Khoa học tự nhiên là ngành nghiên cứu lý luận về vũ trụ qua các quy luật hoặc
định luật về trật tự thiên nhiên. Thuật ngữ khoa học tự nhiên còn được dùng để
đối lập với triết học và các môn khoa học xã hội với các đối tượng nghiên cứu
thuộc về các lĩnh vực xã hội, nhân văn.
Trong tác phẩm Biện chứng của giới tự nhiên, Ăngghen đã quan tâm và
nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên. Ông cũng chỉ rõ vai
trò của khoa học tự nhiên đối với triết học, và sự phát triển triết học tương ứng với
sự phát triển của khoa học tự nhiên “mỗi lần có một phát minh vạch thời đại, ngay
cả trong lĩnh vực lịch sử - khoa học tự nhiên thì chủ nghĩa duy vật lại không tránh
khỏi thay đổi hình thức của nó”. Triết học khái quát những kết quả nghiên cứu của
khoa học tự nhiên, rút ra những kết luận có ý nghĩa về mặt thế giới quan và
phương pháp luận chung, giúp các nhà khoa học tự nhiên xác định phương hướng
và phương pháp nghiên cứu chính của mình.
Vào thời cổ đại, khoa học tự nhiên ở dạng thấp kém, nó xuất hiện với tư cách
là những mầm mống của nhận thức khoa học và chưa có vị trí độc lập, chưa phân
ngành và còn nằm trong triết học. Những kiến thức về khoa học tự nhiên còn ít ỏi,


- 17 rời rạc và chưa có tính hệ thống. Từ đó, hình thành quan niệm thô sơ về thế giới là
quan niệm duy vật tự phát. Về bản chất, quan niệm trên là đúng nhưng chưa đầy

đủ do nó chủ yếu dựa trên những tài liệu trực quan, thiếu sự phân tích khoa học,
chứa đựng nhiều yếu tố tưởng tượng, phỏng đoán. Từ những hạn chế trên nên chủ
nghĩa duy vật tự phát không đáp ứng được nhu cầu của sự phát triển khoa học và
thực tiễn xã hội; vì vậy, nó đã bị chủ nghĩa siêu hình thay thế. Trong giai đoạn
siêu hình, triết học hầu như là dạng thức lý luận duy nhất, bao trùm, giải quyết tất
cả các vấn đề về tự nhiên, xã hội và tư duy, thực ra cũng chỉ là những phác thảo
sơ lược, chưa thấy cụ thể, chưa hoàn thiện. Vì vậy, tính bao trùm của tri thức triết
học khiến nó được xem như “môn khoa học đặc biệt đứng trên tất cả các môn
khoa học khác”.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên sau khi được phân
ngành và đi vào từng lĩnh vực cụ thể như Toán học, Vật lý học, Hóa học, Sinh
học…lúc này khoa học tự nhiên đã có bước phát triển mới, chuyển từ giai đoạn
thực nghiệm sang giai đoạn khái quát hóa lý luận. Các phát minh về khoa học tự
nhiên trong thời kỳ này như thuyết tiến hóa của S.Đácuyn, quy luật về sự bảo toàn
vật chất của Lômônôxốp…những phát minh đó chứng minh rằng tự nhiên có quá
trình chuyển hóa lẫn nhau một cách biện chứng, phủ định quan điểm siêu hình vẫn
còn tồn tại trong tư duy của nhiều nhà khoa học tự nhiên. Ví dụ: khi quan sát một
cốc nước, theo quan điểm siêu hình bằng cảm nhận theo quan điểm trực quan
chúng ta chỉ thấy và cảm nhận được nước là chất lỏng, ẩm ướt và không màu, chứ
không thể thấy được thực chất những phân tử nước là bao gồm sự kết hợp giữa
các phân tử hyđrô và ôxy. Hay theo học thuyết của S.Đacuyn đã chứng minh rằng,
dưới tác động của môi trường sống biến đổi, các loài động vật có sự tiến hóa từ
thấp lên cao, con người cũng không phải ngoại lệ. Học thuyết này đã chứng minh
con người có nguồn gốc từ động vật; đây là đòn giáng mạnh mẽ vào quan niệm
siêu hình cho rằng động vật không bao giờ thay đổi và quan niệm tôn giáo cho
rằng con người là do thượng đế sinh ra. Vậy quan điểm siêu hình không còn phù
hợp với sự phát triển của khoa học tự nhiên, nó cản trở sự phát triển của khoa học
tự nhiên. Lúc này đã nảy sinh vấn đề đòi hỏi phải có một phương pháp lý luận
mới trong tư duy triết học con người.



- 18 Thực tế đã cho thấy, trong thời điểm này, càng đi sâu vào nghiên cứu các hiện
tượng khác nhau của tự nhiên, khoa học tự nhiên càng vấp phải nhiều vấn đề mà
tự nó không giải quyết được vì những vấn đề đó tuy gắn bó mật thiết với khoa học
tự nhiên nhưng lại là những vấn đề triết học (vì triết học tác động tới phương pháp
tư duy của con người), Ăngghen cũng chỉ ra rằng trong thời kỳ này chủ nghĩa duy
vật lưu hành chủ nghĩa duy vật tầm thường và cả chủ nghĩa chiết trung khác nhau,
do vậy gây ra một sự hỗn loạn trong tư duy lý luận, nên khoa học cũng đang rơi
vào tình trạng không lôi thoát và khó phát triển được. Điều này đã được A.
Einstein khẳng định: “Những khó khăn mà vật lý hiện nay đang vấp phải trong
lĩnh vực của mình đã buộc ông ta phải đề cập đến những vấn đề triết học nhiều
hơn so với các nhà vật lý của các thế hệ trước”. Để thoát khỏi tình trạng đó, khoa
học tất yếu phải quay về với tư duy biện chứng. Theo Ăngghen: “Chính phép biện
chứng là một hình thức tư duy quan trọng nhất của khoa học tự nhiên, bởi vì chỉ
có nó mới có thể đem lại sự tương đồng và do đó đem lại phương pháp giải thích
những quá trình phát triển diễn ra trong giới tự nhiên, giải thích mối liên hệ phổ
biến, những bước quá độ từ lĩnh vực nghiên cứu này sang lĩnh vực nghiên cứu
khác”. Và vì vậy, “Ngày nay, không còn lối thoát, không còn khả năng nào để có
thể nhìn thấy ánh sáng nếu không từ bỏ tư duy siêu hình mà quay trở lại với tư
duy biện chứng, bằng cách này hay cách khác”.
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học;
sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại,
triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phương pháp luận đúng đắn cho sự
phát triển khoa học. Triết học Mác – Lênin nghiên cứu những thuộc tính và những
quy luật chung nhất của các hệ thống vật chất khác nhau của tự nhiên và xã hội,
cũng như các hệ thống nhận thức thế giới của con người. Về thực chất, chủ nghĩa
duy vật biện chứng là một lý thuyết triết học chung nhất của các hệ thống vật chất
và tinh thần. Nó đem lại một bức tranh nhất định về thế giới xem như vật chất
đang vận động (phương diện thế giới quan) và đồng thời nó cũng là phương pháp
luận của nhận thức khoa học (phương diện logic – nhận thức luận).

Vào đầu thế kỷ XX, khoa học tự nhiên có những phát minh mới, đặc biệt là
phát minh ra tia X của Rơghen, hiện tượng bức xạ của Béccơren, phát hiện ra điện


- 19 tử và electron, Thuyết tương đối hẹp của Albert Einstein (1905) và thuyết tương
đối rộng (1916); thuyết lượng tử của Planck (1900); lý thuyết kết cấu nguyên tử
lượng tử hoá của Niels Bohr (1913); lý thuyết cơ học lượng tử của Heisenberg
(1925)…đã bác bỏ quan điểm của các nhà duy vật và từ đó dẫn tới cuộc khủng
hoảng về thế giới quan trong lĩnh vực nghiên cứu vật lý học, cũng như cuộc
khủng hoảng của chủ nghĩa duy vật, tạo nên những cuộc tranh luận ngày càng gay
gắt về sự nhận thức của con người đối với thế giới. Chính điều này đã buộc các
nhà khoa học tự nhiên phải tìm đến với một thế giới quan triết học đúng đắn để từ
đó lý giải những vấn đề cụ thể trong lý thuyết khoa học của mình.
Trong bối cảnh đó, Lênin đã tiến hành tổng kết những thành tựu khoa học tự
nhiên và từ nhu cầu của cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm ông đã đưa ra
một khái niệm mới về vật chất, khẳng định vật chất tồn tại khách quan, không phụ
thuộc vào cảm giác, cũng như khẳng định vật chất là cái có trước vào tạo nên thế
giới, cùng với phép biện chứng duy vật Lênin khẳng định tính đúng đắn và lập
trường vững vàng của chủ nghĩa duy vật, khi chủ nghĩa duy vật đã có một cơ sở
vững vàng là chủ nghĩa duy vật biện chứng đã giúp định hướng cho khoa học có
hướng đi đúng đắn.
Triết học Mác – Lênin cố gắng vạch ra một cái chung, ổn định và bất biến
trong vô số những thuộc tính và những quy luật riêng lẻ cụ thể và điều đó dẫn đến
sự nhận thức những thuộc tính và những quy luật phổ biến của vật chất. Với khoa
học tự nhiên, các thuộc tính và các quy luật phổ biến của các hệ thống cũng được
nghiên cứu trong các khoa học tự nhiên cơ bản, nhưng mỗi bộ môn khoa học cụ
thể chỉ nghiên cứu những hình thức vật chất và vận động nhất định hay những bộ
phận hữu hạn của thế giới. Chẳng hạn, như trong khoa học tự nhiên, người ta đã
xác định hàng loạt những quy luật đặc trưng cho mối quan hệ qua lại của các
thuộc tính và các khuynh hướng biến đổi đối lập với các khách thể vật chất: các

quy luật tương tác giữa điện tích dương và điện tích âm, sự hút và sự đẩy trong
các kết cấu vật chất, các quy luật cân bằng động học trong các hệ thống…Mỗi quy
luật này đều tác động trong phạm vị cục bộ, nhưng trong kết cấu của tất cả những
quy luật ấy vẫn tồn tại một sự thống nhất, bất biến. Trên cơ sở khái quát những
nội dung thống nhất này mà hình thành quy luật biện chứng về sự thống nhất và


- 20 đấu tranh của các mặt đối lập, nó là một quy luật có giá trị và rất phổ biến, được
áp dụng cho rất nhiều lĩnh vực không chỉ trong khoa học tự nhiên mà cả cho các
khoa học khác.
Triết học tác động vào khoa học tự nhiên thông qua thế giới quan và phương
pháp luận khoa học. Chủ nghĩa duy vật biện chứng mới sẽ giúp cho việc khái quát
hóa và giải thích đúng đắn những thành tựu mới của khoa học. Khi chủ nghĩa duy
vật biện chứng ra đời với thế giới quan và phương pháp luận, nó đã cung cấp cho
khoa học tự nhiên có những định hướng đúng đắn để phát triển. Trong đó, thế giới
quan là triết học tri thức, là sự diễn tả quan niệm của con người dưới dạng hệ
thống các quy luật, phạm trù đóng vai trò là những nấc thang trong quá trình nhận
thức thế giới, và phương pháp luận là phép biện chứng duy vật với đặc trưng cơ
bản là “phép biện chứng được xác lập trên nền tảng của thế giới quan duy vật
khoa học”, và “trong phép biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác – Lênin có sự
thống nhất giữa nội dung thế giới quan (duy vật biện chứng) và phương pháp luận
(biện chứng duy vật), do đó nó không dừng lại ở sự giải thích thế giới mà còn là
công cụ để nhận thức thế giới và cải tạo thế giới. Sẽ nguy hiểm nếu chúng ta tách
biệt và gián đoạn giữa triết học và các phạm trù của khoa học tự nhiên. Khi khoa
học tách rời khỏi triết học, triết học sẽ trở thành triết học kinh viện (thiên nghiên
cứu về mặt lý luận) và không được vai trò gì trong sự phát triển của tri thức hiện
đại, và khoa học tự nhiên sẽ mất đi bộ máy phương pháp luận của nó, không thấy
được mối liên hệ và sự tác động qua lại giữa các phạm trù của nó. Theo quan
điểm siêu hình thì mọi sự vật hiện tượng được nhận thực trực tiếp qua cảm giác.
Ví dụ: lửa khi sờ vào cảm nhận được nó nóng, nhưng theo chủ nghĩa duy vật biện

chứng với quan niệm nguyên tử là thứ nhỏ nhất và sinh ra mọi thứ, đã giải thích
lửa với hiện tượng trong mối liên hệ của nó với những đối tượng khác theo
nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và quy luật về sự vận động, lửa được sinh ra là
do ôxy được đốt cháy cùng các chất như khí gas hay củi khô…tạo ra chất mới và
cùng đó sẽ tạo ra nhiệt làm con người cảm giác được nó nóng….
Như chúng ta đều biết, để có thể nhận thức được sự vật, đi sâu vào nghiên cứu
chúng, khám phá những bí ẩn của chúng, thì điều quan trọng đối với người nghiên
cứu là phải có trong tay những phương pháp, tức là các hình thức nắm vững hiện


- 21 thực về mặt lý luận và thực tiễn, xuất phát từ những quy luật vận động của khách
thể được nghiên cứu. Phương pháp không phải là những quy luật vận động trình
bày tùy tiện muốn như thế nào cũng được. Ngược lại, bao giờ nó cũng được xây
dựng trên cơ sở các quy luật khách quan của sự vật mà con người đã nhận thức
được. Đối với những khoa học riêng biệt chúng ta có quy luật riêng và đi cùng với
nó là phương pháp riêng. Nắm được phương pháp biện chứng, tức là “phương
pháp nắm sự vật và phản ánh sự vật trong tư tưởng, chủ yếu là trong sự liên hệ,
ràng buộc, vận động, phát sinh và tiêu vong của sự vật” nhà khoa học sẽ có một
công cụ hiệu nghiệm để nghiên cứu bất kỳ lĩnh vực khoa học nào và ngược lại,
trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào, người nghiên cứu muốn đạt được chân lý thì
cũng phải áp dụng phương pháp biện chứng. Nhà nghiên cứu cần phải tuân theo
phương pháp đó sử dụng phương pháp được xây dựng trên cơ sở quy luật khách
quan.
Nói như vậy không có nghĩa là chỉ cần nắm vững và vận dụng phương pháp
biện chứng là đã đủ để đạt tới chân lý trong từng lĩnh vực nghiên cứu cụ thể.
Phương pháp biện chứng là phương pháp chung nhất, phổ biến nhất, nhưng cái
chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện sự tồn tại của
mình, bất cứ cái riêng nào cũng không được bao quát hoàn toàn trong cái chung.
Vì vậy, phương pháp biện chứng cần phải được cụ thể hóa, cá biệt hóa cho từng
khoa học cụ thể.

Việc áp dụng phép biện chứng duy vật có thể diễn ra một cách tự giác, cũng có
thể diễn ra một cách tự phát. Lịch sử của khoa học đã chứng minh nhiều trường
hợp như vậy. Ví như: Từ hiện tượng năng lượng tách ra từ Ra, những người theo
chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng ở cuối thế kỷ XIX đã rút ra kết luận: chủ
nghĩa duy vật đã bị phá sản. Do đó, họ cho rằng không cần tìm đại biểu vật chất
của các thuộc tính phóng xạ. Nhưng M. Curie – nhà khoa học thiên tài người Pháp
lại đặt vấn đề ngược lại: Khả năng phát ra các tia phóng xạ gắn liền với cái gì?
Với trạng thái vật lý tạm thời của vật thể như sự điện phân hay đó là một thuộc
tính cơ bản của các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt? Nếu nó gắn liền với
trạng thái vật lý tạm thời của vật thể thì trong trường hợp đó việc tìm kiếm các
nguyên tố phóng xạ sẽ là vô nghĩa. Nhưng nếu đó là một thuộc tính cơ bản của


- 22 các nguyên tử thuộc loại vật chất đặc biệt thì trong khi đo các phóng xạ (vận
động), cần tìm đại biểu vật chất của nó. Qua đây chúng ra thấy, với những người
theo chủ nghĩa Makhơ và thuyết duy năng, những kết luận của họ chỉ đi tới sự
kìm hãm của phát minh khoa học, phản khoa học. Còn với M. Curie, việc áp dụng
phép biện chứng một cách tự phát nhưng lại đi tới phát minh khoa học. Hay như
việc phát minh ra định luật tuần hoàn của các nguyên tố hóa học của Mendeleev
và một ví dụ điển hình khi nói về tác dụng của tư tưởng duy vật biện chứng tới
nghiên cứu khoa học tự nhiên. Điều này đã được Ph.Ăngghen khẳng định: “Nhờ
áp dụng – một cách không có ý thức – quy luật của Hêghen về sự chuyển hóa
lượng thành chất, Mendeleev đã hoàn thành một kỳ công khoa học có thể tự hào
đứng ngang hàng với kỳ công của Joseph Le Verrier (1811-1877) khi ông tính ra
quỹ đạo của hành tinh sao Hải vương tinh mà người ta chưa biết”.
Thực tế trong lịch sử, ta có thể thấy rằng triết học đã đi trước khoa học tự
nhiên trên rất nhiều lĩnh vực, và bằng những tư tưởng đúng đắn, bằng những dự
kiến thiên tài, triết học đã vạch đường cho khoa học tự nhiên tiến lên, giúp cho
khoa học tự nhiên có được công cụ giải quyết những vấn đề khó khăn vấp phải
trên con đường phát triển của mình. Ví dụ: lý thuyết về nguyên tử đã được

Đêmôcrít nêu lên hàng nghìn năm trước khi nó dạng của lý thuyết khoa học tự
nhiên và được thực nghiệm xác minh.
Như vậy, trong triết học Mác - Lênin, thế giới quan và phơng pháp luận thống
nhất hữu cơ với nhau, làm cho triết học Mác trở thành chủ nghĩa duy vật hoàn bị,
một "công cụ nhận thức vĩ đại". Là cơ sở khoa học chống lại ảnh hưởng của chủ
nghĩa duy tâm, hệ tư tưởng tư sản xuyên tạc những phát minh khoa học.
Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết học và khoa học;
sự phát triển của khoa học tạo điều kiện cho sự phát triển của triết học. Ngược lại,
triết học Mác - Lênin đem lại thế giới quan và phơng pháp luận đúng đắn cho sự
phát triển khoa học.
Ngày nay, khi khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ thì sự gắn bó giữa
triết học Mác - Lênin và khoa học càng trở nên đặc biệt quan trọng. Lý luận triết
học sẽ khô cứng và lạc hậu nếu tách rời các tri thức khoa học chuyên ngành.
Ngược lại, nếu không đứng vững trên lập trường duy vật khoa học và thiếu tư duy


- 23 biện chứng thì trước những phát hiện mới, người ta dễ mất phương hướng và đi
đến những kết luận sai lầm về mặt triết học.
2.2.2.2 Đối với khoa học xã hội – nhân văn
Khoa học xã hội – nhân văn là hệ thống những tri thức về xã hội và về con
người hợp thành xã hội. Nếu tách bạch ra thì khoa học xã hội nghiên cứu về xã
hội, còn nhân văn nghiên cứu về con người.
Có những khoa học nghiên cứu xã hội như một chính thể phát triển qua thời
gian: đó là sử học (cổ, trung, cận, hiện đại) và những khoa liên quan như khảo cổ
học, dân tộc học. Có những khoa học nghiên cứu xã hội như một cấu trúc gồm
nhiều yếu tố hợp thành (cơ sở và kiến trúc thượng tầng, tồn tại xã hội và ý thức xã
hội) cũng như những mặt khác nhau của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, luật
pháp, đạo đức, tôn giáo, văn học, nghệ thuật tâm lí... Đó là những khoa học xã hội
hiểu theo nghĩa hẹp. Nếu lấy con người làm đối tượng nghiên cứu, coi con người,
tính người là trung tâm như hàm nghĩa của khái niệm nhân văn thì chưa đủ, bởi

con người là chủ thể của ý thức, của tư duy. Vì vậy, nhân văn còn gồm cả những
khoa học triết học, trong đó có văn học, sử học, ngôn ngữ học, triết học (nghiên
cứu về thế giới quan, về lí luận nhận thức), lôgic học (nghiên cứu về tư duy trừu
tượng). Có nhiều quan niệm khác nhau về khoa học xã hội. Anh, Pháp, Mỹ quan
niệm khoa học xã hội ở nghĩa hẹp, nghĩa là tách Kinh tế, Luật ra khỏi khoa học xã
hội và nghiên cứu độc lập. Trong khi, một số nước khác như Nga, Việt Nam,
Trung Quốc lại quan niệm rộng hơn, nghĩa là ghép chung cả Luật, Kinh tế vào
khoa học xã hội. Theo quan niệm của nước ta, khoa học xã hội là một hệ thống
lớn gồm rất nhiều khoa học và các chuyên ngành của nó như triết học, kinh tế học,
xã hội học, tâm lý học, luật học, văn học, lịch sử... Đó là hệ thống những tri thức
về xã hội và con người. Nhiệm vụ của khoa học xã hội là nghiên cứu nhằm phát
hiện quy luật của sự hình thành và phát triển của con người và xã hội loài người,
làm rõ quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội và giữa
con người với giới tự nhiên
Con người là một sản phẩm của quá trình tiến hóa của tự nhiên, đồng thời nó
là một sinh vật có tính xã hội. Ngay từ khi ra đời, để tồn tại con người thường tập
hợp lại thành những bộ lạc, cùng lao động cùng chiến đấu với tự nhiên để sinh


- 24 tồn. Trải qua thời gian dài, xã hội con người dần hình thành, và dần con người
xuất hiện ngôn ngữ, chữ viết… xây dựng được những nền văn minh đầu tiên của
loài người. Mỗi một nền văn minh đều xây dựng cho mình một nét văn hóa riêng
rất đặc trưng tạo nên một xã hội rất phong phú và đa dạng. Các nền văn minh đều
được xây dựng dựa trên nhận thức của con người về thế giới. Dựa vào khả năng
quan sát, tư duy và kinh nghiệm con người đã tạo cho mình những tri thức cần
thiết cho cuộc sống. Khi xuất hiện ngôn ngữ và chữ viết, con người bắt đầu biết
lưu lại những tri thức của mình bằng cách ghi chép, đồng thời trong cuộc sống
con người cũng tự đặt ra cho mình những quy tắc, những chuẩn mực nhất định,
buộc mọi người trong cộng đồng phải tuân theo để đảm bảo cuộc sống, như việc
sống theo bầy đàn, việc thống nhất và nghe theo lời của người đứng đầu, việc tổ

chức đi săn…từ những quy tắc đó hình thành nên các mối quan hệ xã hội…Vậy
các lĩnh vực thuộc về xã hội đã dần được hình thành song song với sự hình thành
và phát triển của con người, và có thể nói các lĩnh vực xã hội xuất hiện trước các
lĩnh vực tự nhiên. Từ thời cổ đại đã xuất hiện những nhà triết học, sử học, lý luận
văn học nổi tiếng, và cho đến ngày nay là sự xuất hiện của nhiều nhà xã hội học,
kinh tế học, tâm lý học… có đóng góp lớn vào lịch sử phát triển của xã hội. Tuy
vậy, vào thời cổ đại, do quan niệm triết học là “khoa học của mọi khoa học” nên
chưa tồn tại khái niệm khoa học xã hội hay khoa học xã hội - nhân văn.
Cũng giống như khoa học tự nhiên, tới khoảng thế kỷ XVII, thế kỷ XVIII khoa
học xã hội được phân ngành, dần tách khỏi triết học, và cùng với sự phát triển của
khoa học tự nhiên thì sự phát triển của khoa học xã hội đã dần làm phá sản tham
vọng muốn đóng vai trò “khoa học của các khoa học” lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, trong giai đoạn tiếp sau, phải mất một thời gian dài khi nhắc tới
khoa học người ta thường hay nghĩ tới khoa học tự nhiên, đồng nhất khoa học với
khoa học tự nhiên, còn các môn thuộc về khoa học xã hội – nhân văn vẫn chưa
được coi trọng, và chiếm một vị trí rất khiêm tốn. Trong tâm trí đa số công chúng,
thuật ngữ “khoa học” thường gắn với khoa học về tự nhiên. Từ đó, nảy sinh nhiều
câu hỏi lặp đi, lặp lại về ý nghĩa của khoa học xã hội và muốn biết rõ phải chăng
các khoa học xã hội chiếm được vị thế khoa học. Nguyên nhân của vấn đề này là
do các môn thuộc khoa học xã hội mang nặng tính lý thuyết nên ít có tính ứng


- 25 dụng, không thấy được tính phục vụ cao cho cuộc sống con người. Điều này làm
cho các môn xã hội trong nhiều năm qua ít được chú trọng, dẫn đến phát triển cầm
chừng, chưa mang lại được sự đột phá lớn . Tuy nhiên, bản chất của con người
luôn muốn tìm hiểu về thế giới, muốn nghiên cứu thêm về thế giới con người cần
nâng cao niềm đam mê khoa học nghiên cứu căn bản. Mà muốn làm nghiên cứu
căn bản, thì con người phải nắm vững lý thuyết. “Không có gì thực tiễn hơn một
lý thuyết tốt”, đó là câu nói của một triết gia, Hans Albert. Tại sao? Tại vì “không
có lý thuyết, thực tiễn chỉ là lặp đi lặp lại, do thói quen cố định mà làm. Chỉ lý

thuyết mới thúc đẩy và làm phát triển óc sáng tạo”. Đó là câu nói của một nhà
khoa học, Pasteur.
Có một nhận định cho rằng: “Một xã hội phải đi trên hai chân: một chân là
khoa học và công nghệ, một chân là văn hóa. Và dĩ nhiên xã hội phải có khả năng
vận động cả hai chân. Thật vậy, không có một xã hội hiện đại nào chỉ thuần là văn
hóa: xã hội nào cũng dựa trên khoa học và công nghệ. Nhưng một xã hội chỉ dựa
trên công nghệ, trên một công nghệ thiếu suy tư, cắt đứt với văn hóa, trên một
công nghệ tự nó duy nhất trở thành cứu cánh của chính nó, không thể hoạt động
tốt được”.
Tới thế kỷ XIX, Triết học Mác ra đời đã làm thay đổi mối quan hệ giữa triết
học và các môn khoa học, trong đó có khoa học xã hội – nhân văn. Trong thời kỳ
này, các nước Tây Âu đã thực sự bước vào xã hội tư bản với sự phát triển mạnh
mẽ của nền đại công nghiệp, xuất hiện hai giai cấp có mâu thuẫn lớn về mặt lợi
ích là giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Sự phát triển của nền kinh tế và những
biến đổi về chính trị - xã hội, về tư tưởng, lý luận và khoa học đã tạo ra nhu cầu
cần hiểu thêm về xã hội và con người. Mác và Ăngghen đã tiến hành nghiên cứu
sâu hơn về các môn thuộc khoa học xã hội và nhận ra những tính quy luật chung
của nó và các ông đã biến các bộ môn khoa học thành các môn khoa học, như
biến môn xã hội thành xã hội học, tâm lý thành tâm lý học, đạo đức thành đạo đức
học, mỹ thuật thành mỹ thuật học… Khi nghiên cứu chủ nghĩa duy vật với thế
giới quan là triết học duy vật và phương pháp luận là các phép biện chứng của
Hêghen dưới góc độ các nhà duy vật, Mác và Ăngghen phát hiện ra những tính


×