Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

Nguyên lý của chủ nghĩa máclênin về vấn đề văn hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.05 KB, 33 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

NHỮNG
NGUYÊ
N LÝ
CƠ BẢN
ĐỀ TÀI:
CỦALÝ CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ
NGUYÊN
CHỦ VẤN ĐỀ VĂN HÓA
NGHĨA
GVHD: TS.NGUYỄN KHÁNH VÂN
Nhóm sinh viên giảng đường 58-60
MÁCKhóa 38
LÊNIN
TP.HCM, ngày 15 tháng 3 năm 2013


DANH SÁCH THÀNH VIÊN
STT

HỌ VÀ TÊN

CÔNG VIỆC THAM GIA

1

Phan Thị Như Nghĩa
Lớp 59



Khái niệm văn hóa, nền văn
hóa

2

Nguyễn Thị Ngọc Bích
Lớp 58

Khái niệm nền văn hóa xã
hội chủ nghĩa

3

Nguyễn Xuân Hảo
LA001-k35

Tính tất yếu của việc xây
dựng nền văn hóa XHCN

4

Đào Bình Thạnh
Lớp 59

5

Huỳnh Thị Nhiên
Lớp 59


Nội dung cơ bản của quá
trình xây dựng nền văn hóa
XHCN
Phương thức xây dựng nền
văn hóa XHCN

6

Phan Thị Miên
Lớp 59

Sự hình thành nền văn hóa
Việt Nam

7

Nguyễn Bảo Anh
Lớp 60

Đặc điểm, tính chất nền văn
hóa Việt Nam

8

Huỳnh Tấn Thịnh
Lớp 59

Thành tựu nền văn hóa Việt
Nam


9

Lữ Thông Đạt
Lớp 58

Hạn chế nền văn hóa Việt
Nam

10

Hồ Văn Hùng
Lớp 40

Nguyên nhân các mặt hạn
chế nền văn hóa Việt Nam

11

Lê Thái Nhân
Lớp 41

Phương hướng nền văn hóa
Việt Nam

12

Phạm Huy Vũ
Lớp 40

Giải pháp nền văn hóa Việt

Nam

CHỮ KÝ


13

Hoàng Hạ Trúc Quỳnh
Lớp 40

Kết luận
Trả lời câu hỏi

14

Vũ Thị Hồng Hoa
Lớp 41

Tổng hợp bài thuyết trình
Trả lời câu hỏi

15

Phạm Văn Giàu
Lớp 42

Thuyết trình

16


Võ Lê Bảo Vy
Lớp 42

Thuyết trình

17

Hoàng Vũ Trung Hiếu
Lớp 40

Thiết kế powerpoint
Trả lời câu hỏi

18

Nguyễn Tấn Khoa
Lớp 41

Thiết kế powerpoint
Trả lời câu hỏi

19

Phan Tuấn Hảo
Lớp 42

Thiết kế powerpoint

20


Phan Đức Tuấn
Lớp 42

Thiết kế powerpoint
Trả lời câu hỏi

21

Trần Thiện San
Lớp 41

Thiết kế powerpoint
Trả lời câu hỏi

NHẬN XÉT CỦA GIÁO VIÊN
.......................................................................................................................................


.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................

.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................

MỤC LỤC


A. NGUYÊN LÝ CỦA CHỦ NGHĨA MAC-LENIN VỀ VẤN ĐỀ VĂN HÓA:

Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
1. Khái niệm văn hóa và nền văn hóa:
1.1 Khái niệm văn hóa:
Văn hóa là toàn bộ những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra bằng lao
động và hoạt động thực tiễn trong quá trình lịch sử của mình; biểu hiện trình độ phát triển xã
I.


hội trong từng thời kì lịch sử nhất định. Văn hóa bao hàm cả văn hóa vật chất lẫn văn hóa tinh
thần.
Khái niệm văn hóa được biểu hiện theo hai nghĩa:
+ Nghĩa rộng: Văn hóa bao gồm văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần.
Văn hóa vật chất : Là năng lực sáng tạo của con người được thể hiện và kết tinh trong sản
phẩm vật chất.
Văn hóa tinh thần: Là tổng thể các tư tưởng, lý luận và giá trị được sáng tạo ra trong đời
sống tinh thần và hoạt động tinh thần của con người. Đó là những giá trị cần thiết cho hoạt động
tinh thần, những tiêu chí, nguyên tắc chi phối hoạt động nói chung và hoạt động tinh thần nói

riêng, chi phối hoạt động ứng xử, những tri thức, kỹ năng, giá trị khoa học, nghệ thuật được con
người sáng tạo và tích lũy trong lịch sử của mình; là nhu cầu tinh thần, thị hiếu của con người và
những phương thức thỏa mãn nhu cầu đó.
+ Nghĩa hẹp: Văn hóa được hiểu chủ yếu là văn hóa tinh thần.
Như vậy nói tới văn hóa là nói tới con người, là nói tới việc phát huy những năng lực thuộc
bản chất của con người nhằm hoàn thiện con người, hoàn thiện xã hội. Do vậy văn hóa có mặt
trong mọi hoạt động của con người như: kinh tế, chính trị-xã hội, tinh thần…
1.2 Khái niệm nền văn hóa:

Nền văn hóa: Là biểu hiện cho toàn bộ nội dung, tính chất của văn hóa được hình thành và
phát triển trên cơ sở kinh tế- chính trị của một thời kì lịch sử, trong đó ý thức hệ của giai cấp
thống trị chi phối phương hướng phát triển và quyết hệ thống các chính sách, pháp luật quản lí
các hoạt động văn hóa.
Điều kiện sinh hoạt vật chất của mỗi xã hội và của mỗi giai cấp khác nhau, đặc biệt là của
giai cấp thống trị, là yếu tố quyết định hình thành các nền văn hóa khác nhau. Mọi nền văn hóa
trong xã hội bao giờ cũng có tính giai cấp và gắn với bản chất của giai cấp cầm quyền.
Kinh tế là cơ sở vật chất của nền văn hóa. Một nền kinh tế lành mạnh được xây dựng trên
nguyên tắc công bằng, thật sự vì đời sống của người lao động sẽ là điều kiện để xây dựng một
nền văn hóa tinh thần lành mạnh và ngược lại.
Chính trị là yếu tố quy định khuynh hướng phát triển của một nền văn hóa, tạo nên nội
dung ý thức của văn hóa. Do đó,nền văn hóa của bất cứ thời kì nào của lịch sử cũng đồng thời
có sự kế thừa, sử dụng những di sản của quá khứ và sáng tạo ra những giá trị văn hóa mới.


Như vậy,trong xã hội có giai cấp và quan hệ giai cấp, các giai cấp thống trị của mỗi thời kỳ
lịch sử đều in dấu ấn của mình trong lịch sử phát triển của văn hóa và tạo ra nền văn hóa của xã
hội đó, tạo ra những giai đoạn khác nhau trong lịch sử phát triển văn hóa.
2. Khái niệm nền văn hóa xã hội chũ nghĩa:
2.1 Khái niệm nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Cũng như mọi hiện tượng xã hội khác, văn hóa luôn trong quá trình phát triển và có sự biến

đổi không ngừng theo quy luật vận động, phát triển từ thấp đến cao. Sự thay đổi từ một nền văn
hoá này bằng một nền văn hóa khác luôn diễn ra và là một hiện tượng thường xuyên trong lịch
sử xã hội. Sự ra đời của nền văn hóa XHCN là một tất yếu trong quá trình phát triển của lịch sử.
Nền văn hóa XHCN là sự phát triển tự nhiên, hợp quy luật khi phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đã lỗi thời và phương thức sản xuất mới xã hội chủ nghĩa đã hình thành .
Chế độ mới XHCN được xác lập với hai tiền đề quan trọng là tiền đề chính trị và tiền đề
kinh tế. Từ hai tiền đề này cách mạng XHCN tiếp tục phát triển trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, trong đó có lĩnh vực văn hóa tinh thần.
Nền văn hóa XHCN là nền văn hóa được xây dựng và phát triển trên nền tảng hệ tư tưởng
của giai cấp công nhân và do Đảng cộng sản lãnh đạo nhằm thỏa mãn nhu cầu không ngừng
tăng lên về đời sống văn hóa tinh thần, trình độ dân trí của nhân dân, đưa nhân dân lao động
thực sự trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Như vậy cách mạng XHCN là một cuộc cách mạng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực kinh
tế chính trị, văn hóa, xã hội. Chính vì thế Lênin khẳng định sự thay thế nền văn hóa tư sản bằng
nền văn hóa vô sản là một sự thay đổi lớn về tư tưởng “ lịch sử tư tưởng chính là lịch sử của quá
trình thay thế của tư tưởng, do đó là lịch sử đấu tranh tư tưởng”. ( Trích V.I.Lênin: Toàn tập,
Nxb Tiến bộ, Maxcova 1980, t.25, tr.131).
2.2 Đặc trưng cơ bản nền văn hóa xã hội chũ nghĩa:
Nền văn hóa XHCN có ba đặc trưng cơ bản sau đây:
Một là: hệ tư tưởng của giai cấp công nhân là nội dung cốt lõi, giữ vai trò chủ đạo, quyết
định phương hướng phát triển nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, trong xã hội có giai cấp, ý thức hệ giai cấp là
nội dung cốt lõi của mọi nền văn hóa. Vì vậy, sau khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm
quyền thì ý thức hệ của nó trở thành nhân tố giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã
hội. Mọi sự coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều
nhất định dẫn đến kết cục là không thể xây dựng được nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.


Đặc trưng nói trên phản ánh bản chất giai cấp công nhân của nên văn hóa XHCN. Mọi sự
coi nhẹ, xa rời nội dung khoa học, cách mạng của ý thức hệ giai cấp công nhân đều nhất định

dẫn đến kết cục là không thể xây dựng được nền văn hóa XHCN.
Hai là: nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa có tính nhân dân rộng rãi và tính dân
tộc sâu sắc.
Đặc trưng này thể hiện mục đích và động lực nội tại của quá trình xây dựng nền văn hóa
XHCN, quá trình xây dựng xã hội mới.
Trong các xã hội cũ giai cấp thống trị bóc lột độc quyền chiếm hữu tư liệu sản xuất và trên
cơ sở đó cũng độc quyền chi phối đời sống tinh thần, nền văn hóa của xã hội.
Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng chủ nghĩa xã hội, hoạt động sáng
tạo và hưởng thụ văn hóa không còn là đặc quyền đặc lợi của thiểu số giai cấp bóc lột. Giai cấp
công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc là chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa.
Văn hóa luôn có sự kế thừa. Trong bất kì thời kì nào của lịch sử, văn hóa đều đồng thời bao
gồm việc kế thừa, sử dụng di sản quá khứ và sáng tạo ra những giá trị mới. Sự kế thừa và sáng
tạo của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa luôn mang tính giai cấp công nhân với tư tưởng chính trị
tiên tiến của thời đại và hướng tới nhân dân, dân tộc. Đông đảo nhân dân và cả dân tộc là chủ
thể của văn hóa. Do đó, nền văn hóa XHCN là nền văn hóa mang tính nhân dân rộng rãi và tính
dân tộc sâu sắc.
Ba là: nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là nền văn hóa được hình thành, phát triển một cách tự
giác, đặc dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân thông qua tổ chức Đảng cộng sản, có sự quản
lí của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Nền văn hóa xã hội chủ nghĩa không hình thành và phát triển một cách tự phát. Trái lại, nó
phải được hình thành và phát triển một cách tự giác, có sự quản lí của nhà nước và có sự lãnh
đạo của chính đảng của giai cấp công nhân. Moị sự coi nhẹ hoặc phủ nhận vai trò lãnh đạo của
Đảng cộng sản và vai trò quản lí của nhà nước đối với đời sống tinh thần của xã hội, đối với nền
văn hóa xã hội chủ nghĩa đều nhất định sẽ làm cho đời sống văn hóa tinh thần của xã hội mất
phương hướng chính trị.
II.

Tính tất yếu của việc xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:

Cách mạng XHCN là cuộc cách mạng triệt để và toàn diện, được triển khai trên quy mô

rộng lớn với những nhiệm vụ mới mẻ và phức tạp, vừa cải tạo XHCN, vừa xây dựng CNXH


trên mọi lĩnh vực cảu đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực tư tưởng văn hóa. Chủ tịch Hồ Chí
Minh cho rằng, trong công cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề cần chủ ý, cũng phải coi là quan
trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa.
Tính tất yếu của việc thực hiện những biến đối cách mạng trên lĩnh vực văn hóa là xuất
phát từ những căn cứ sau:
1. Tính triệt để ,tính toàn diện của cách mạng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải thay đổi

phương thức sản xuất tinh thần, làm cho phương thức sản xuất tinh thần phù hợp với
phương thức sản xuất mới của xã hội chủ nghĩa.
Hệ tư tưởng thường gắn liền với đại diện cho một phương thức sản xuất nhất định. Cách
mạng văn hóa là cần thiết và tất yếu để xây thay đổi phương thức sản xuất tinh thần, làm cho
phương thức sản xuất tinh thần của xã hội phù hợp với phương thức sản xuất mới.
Cách mạng đã giải phóng được giai cấp công nhân và nhân dân lao động , xác lập quyền
làm chủ của sản xuất và tiêu dùng, sấng tạo và cảm thụ các sản phẩm văn hóa, xây dựng đời
sống văn hóa tinh thần thực sự của mình, xóa bỏ ảnh hưởng tiêu cực của đạo đức, lối sống tư
sản.
2. Xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất yếu trong quá trình cải tạo tâm lý, ý

thức và đời sống tinh thần của chế độ cũ để lại nhằm giải phóng nhân dân lao động
thoát khỏi ảnh hưởng tư tưởng ,ý thức của xã hội cũ lạc hậu.
Mặt khác ,xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa còn là một yêu cầu cần thiết trong việc
đưa quần chúng nhân dân thực sự trở thành chủ thể sản xuất và tiêu dùng , sáng tạo và hưởng
thụ văn hóa tinh thần .
Đó là một nhiệm vụ cơ bản ,phức tạp, lâu dài của quá trình xây dựng nền văn hóa mới xã
hội chủ nghĩa.Về thực chất ,đây cũng chính là cuộc đấu tranh giai cấp trên lĩnh vực văn hóa,đấu
tranh giữa hai hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng vô sản trong quá trình phát triển xã hội.
3. Nhằm khắc phục tình trạng thiếu văn hóa ,nâng cao trình độ văn hóa cho nhân dân

lao động,tất yếu phải xây dựng xã hội chủ nghĩa.
Đó chính là điều kiện cần thiết để đông đảo nhân dân lao động chiến thắng nghèo nàn, lạc
hậu, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của nhân dân lao động.
4. Xuất phát từ yêu cầu khách quan:văn hóa vừa là mục tiêu,vừa là động lực của quá
trình xây dựng chủ nghĩa xã hội nên xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa là tất
yếu.
Văn hóa, mà trong đó hệ tư tưởng đóng vai trò cốt lõi, là nền tảng tinh thần của xã hội, nếu
một xã hội không có một nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh thì không giải quyết tốt mối


quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì sự phát triển kinh tế xã hội
cũng không thể bền vững và cũng không đạt được mục đích giải phóng con người và xã hội.
Xây dựng và phát triển kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hóa, dân giàu, nước mạnh xã hội
công bằng dân chủ và vản minh, con người phát triển toàn diện.
Chỉ có phát triển văn hóa, nâng cao trình độ và nhu cầu văn hóa của quần chúng mới có thể
làm cho họ trở thành chủ thể thực sự của xã hội mới. Nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa tạo
những tiền đề quan trong nâng cao chất lượng , phẩm chất , học vấn , giác ngộ chính trị của
quần chúng nhân dân lao động , tạo cơ sở năng suất lao động xã hội. Văn hóa xã hội chủ nghĩa
với nền tảng là hệ tư tưởng giai cấp công nhân trở thành điều kiện tinh thần của quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và là động lực mục tiêu của chủ nghĩa xã hội .
III.
Nội dung và phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
1. Những nội dung cơ bản của quá trình xây dựng nền văn hóa:

Việc xây dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa bao gồm những nội dung chính sau đây:
Một là: cần phải nâng cao trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức của xã hội mới.
Theo V.I.Lênin, “ Chủ nghĩa xã hội sinh động, sáng tạo là sự nghiệp của bản thân quần
chúng nhân dân”. Quần chúng nhân dân càng được chuẩn bị tốt về mặt tinh thần, trí lực, tư
tưởng… càng có ảnh hưởng tích cực đến tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Do đó, nâng cao
trình độ dân trí, hình thành đội ngũ trí thức mới trở thành nội dung cơ bản của nền văn hóa

XHCN.
Trí tuệ khoa học và cách mạng là yếu tố quan trọng đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội.Do đó, nâng cao đân trí, đào tạo nguồn lao động có chất lượng và bồi dưỡng nhân tài,
hình thành và phát triển đội ngũ trí thức là nhu cầu cấp bách, thiết yếu lâu dài của sự nghiệp xây
dựng xã hội chủ nghĩa và chủ nghĩa cộng sản.
Hai là: xây dựng con người mới phát triển toàn diện.
Con người là sản phẩm của lịch sử, chính hoạt động của con người đã sáng tạo ra lịch sử.
Vì vậy xã hội muốn phát triển, các giai cấp cầm quyền của mỗi thời kì lịch sử khác nhau khi đã
ý thức về xã hội mà mình tạo dựng, thì trước tiên giai cấp đó phải quan tâm đến việc xây dựng
con người.
Khi giai cấp công nhân trở thành giai cấp cầm quyền, thì việc xây dựng con người mới đáp
ứng được nhu cầu của sự nghiệp xây dựng CNXH trở thành một yêu cầu tất yếu. Do đó, xây
dựng con người mới phát triển toàn diện của xã hội mới là một trong những nội dung cơ bản của
văn hoá vô sản, của nền văn hoá XHCN.
Con người mới xã hội chủ nghĩa được xây dựng là con người phát triển toàn diện. Đó là
con người có tinh thần và năng lực xây dựng thành công CNXH, là con người lao động mới, là
con người có tinh thần yêu nước chân chính và tinh thần quốc tế trong sáng, là con người có lối
sống tình nghĩa, có tính cộng đồng cao.


Ba là: xây dựng lối sống mới xã hội chủ nghĩa.
Lối sống : là dấu hiệu biểu thị sự khác biệt giữa những cộng đồng người khác nhau; là tổng
thể các hình thái hoạt động của con người, phản ánh điều kiện vật chất, tinh thần xã hội của con
người ; là sản phẩm tất yếu của một hình thái kinh tế-xã hội và có tác động đến hình thái kinh tế
xã hội đó.
Lối sống mới xã hội chủ nghĩa là một đặc trưng có tính nguyên tắc của xã hội chủ nghĩa,
việc xây dựng lối sống mới tất yếu trở thành một nội dung của nền văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Lối sống mới xã hội chủ nghĩa được hình thành trên những điều kiện cơ bản như: chế độ công
hữu về tư liệu sản xuất, nguyên tắc phân phối theo lao động, quyền lực nhà nước thuộc về nhân
dân, hệ tư tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp, xoá bỏ tình trạng bất bình đẳng dân tộc,

giới tính, thể hiện công bằng, mở rộng dân chủ…
Bốn là: xây dựng gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa.
Gia đình là một trong những hình thức tổ chức căn bản trong đời sống cộng đồng của con
người, một thiết chế văn hóa-xã hội đặc thù, được hình thành, tồn tại và phát triển trên quan hệ
hôn nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng và giáo dục… giữa các thành viên.
Gia đình là một giá trị văn hoá của xã hội. Văn hoá gia đình luôn gắn bó, tương tác với văn
hoá cộng đồng dân tộc, giai cấp và tầng lớp xã hội trong các thời kì. Cách mạng xã hội chủ
nghĩa là tiền đề quan trọng để xây dựng gia đình văn hoá mới. Muốn xây dựng gia đình văn hoá
mới xã hội chủ nghĩa trước tiên phải xây dựng cơ sở kinh tế-xã hội của nó.
Gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa phát triển cùng với tiến trình của công cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa. Vì vậy xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là một yêu cầu tất yếu
của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quá trình đó, cách mạng xã hội chủ nghĩa trên
lĩnh vực tư tưởng và văn hoá có tác động trực tiếp và nền văn hoá xã hội chủ nghĩa có nhiệm vụ
quyết định nhất đến việc xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa.
Thực chất của việc xây dựng gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là nhằm góp phần xây
dựng nền văn hoá xã hội chủ nghĩa. Gia đình là tế bào của xã hội, mỗi gia đình hoà thuận, hạnh
phúc, ổn định sẽ góp phần cho sự phát triển ổn định lành mạnh của xã hội và ngược lại.
Gia đình văn hoá mới xã hội chủ nghĩa là gia đình được xây dựng, tồn tại và phát triển trên
cơ sở giữu gìn và phát huy những giá trị văn hoá tốt đẹp của dân tộc,xoá bỏ những yếu tố lạc
hậu, những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến,tư bản chủ nghĩa, đồng thời tiếp
thu những những giá trị tiến bộ.
Việc xây dựng gia đình văn hoá xã hội chủ nghĩa trở thành một nội dung quan trọng của
nền văn hoá xã hội chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của nên văn hoá XHCN so vói các nền văn
hoá trước. Có nhiều nội dung cần phải thực hiện trong quá trình xây dựng gia đình văn hoá mới
XHCN. Tuy nhiên, với tính chất cơ bản của gia đình trong chủ nghĩa xã hội, thì việc xây dựng
mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình và giữa gia đình với xã hội là nội dung quan
trọng nhất.Mối quan hệ trong gia đình là một bộ phận của quan hệ xã hội, đồng thời là biểu hiện


của quan hệ xã hội. Phải tạo dựng mối qua hệ vợ chồng bình đẳng, thương yêu giúp đỡ nhau về

mọi mặt. Bình đẳng, thương yêu, tôn trọng lẫn nhau là những yếu tố gắn bó mật thiết với nhau
trong quan hệ vợ chồng. Mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa anh chị em trong gia đình là
mối quan hệ huyết thống, tình cảm của tình thương thương yêu và trách nhiệm.
2. Phương thức xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa:
Để thực hiện được nội dung chính yếu của nền văn hóa XHCN cần thực hiện các phương
thức cơ bản sau đây :
Thứ nhất, giữ vững và tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân
trong đời sống tinh thần của xã hội.
Phải làm cho hệ tư tưởng của giai cấp công nhân trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong xã
hội. Đây là phương thức quan trọng để xây dựng nền văn hoá XHCN vì nó là phương thức cơ
bản để giữ vững đặc trưng, bản chất của nền văn hóa xã hội chủ nghĩa.truyền bá hệ tư tưởng vào
các tầng lớp nhân dân bằng những phương pháp và hình thức thích hợp
Quá trình tư tưởng diễn ra không ngừng cùng với quá trình sản xuất vật chất. trong đời
sống văn hoá tinh thần, quá trình đó diễn ra với tất cả tính đa dạng, phức tạp của nó. Chính vì
thế trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp cầm
quyền, phải cố gắng tác động,chi phối các quan hệ tư tưởng, quá trình tư tưởng nhằm giữ vững,
tăng cường vai trò chủ đạo của hệ tư tưởng giai cấp công nhân của mình trong đời sống tinh
thần xã hội.
Thứ hai, không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản và vai trò quản lý
của nhà nước xã hội chủ nghĩa đối với hoạt động văn hóa.
Sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lí của nhà nước XHCN đối với hoạt động văn hóa là
phương thức có tính nguyên tắc, là nhân tố quyết định sự thắng lợi của sự nghiệp xây dựng nền
văn hóa XHCN .Phương thức này được coi là sự bảo đảm về chính trị, tư tưởng để nền văn hóa
xây dựng trên nền tảng của hệ tư tưởng của giai cấp công nhân đi đúng quĩ đạo và mục tiêu xác
định.
Đảng lãnh đạo xây dựng nền văn hóa bằng cương lĩnh, đường lối, chính sách văn hóa của
mình và sự lãnh đạo của Đảng phải được thể chế hóa trong hiến pháp, pháp luật, chính sách.
Nhà nước thực hiện quản lý văn hóa theo nguyên tắc, quan điểm, chủ trương của Đảng cộng
sản.
Thứ ba, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phải theo phương thức kết hợp giữa

việc kế thừa những giá trị trong di sản văn hóa dân tộc với tiếp thu có chọn lọc những tinh
hoa của văn hóa nhân loại.
Nền văn hoá XHCN không hình thành từ hư vô, trái lại nó hình thành trên cơ sở kế thừa
những giá trị văn hoá dân tộcVăn hoá dân tộc là nền móng trên cơ sở đó tiếp thu tinh hoa văn
hoá nhân loại


Sự gắn kết giữa giữ gìn, kế thừa văn hóa dân tộc, tiếp thu giá trị văn hóa nhân loại với quá
trình sản sinh giá trị mới tạo nên sự thống nhất biện chứng của hai mặt giữ gìn và sáng tạo văn
hóa. Đây được coi là phương thức nhằm xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa phong phú, đa
dạng.
Thứ tư, tổ chức và lôi cuốn quần chúng nhân dân vào các hoạt động và sáng tạo văn
hóa.
Trong tiến trình cách mạng XHCN cũng như trong sự nghiệp xây dựng CNXH, nhân dân
lao động trở thành chủ thể sáng tạo và hưởng thụ văn hóa. Để phát huy tối đa tính chủ động,
sáng tạo của quần chúng, Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa cần phải tổ chức nhiều
phong trào nhằm lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia vào các hoạt động và sáng tạo văn hóa.
B. VẤN ĐỀ VĂN HÓA Ở VIỆT NAM:
I.

Sự hình thành nền văn hóa:
1. Mở đầu:

Nền văn hóa cổ truyền của người Việt Nam được xây dựng trên vùng địa văn hóa gió mùa
nhiệt đới, bán đảo. Trong cái nôi phát sinh của loài người, người Việt đã trải qua con người bộ
lạc, con người của các mường Đông Nam Á rồi đến con người làng xã định cư, trồng lúa nước.
Trải qua các quá trình hoàn thiện các công cụ lao động từ nền văn hóa đá cũ, đá mới đến thời đồ
đồng, người Việt đã nhảy xuống đồng bằng khai phá đất đai hoang dại, ẩm thấp, sình lầy, quần
cư, từ đó hình thành nên các làng, bản giống như các cư dân Nam Á khác.
Nền văn hóa cổ truyền của người Việt đã kết tinh nhiều giá trị tốt đẹp. Chẳng hạn: Tinh

thần yêu nước, chủ nghĩa thích ứng, tình cảm vị tha, đức tính hiếu học, cần cù, tiết kiệm và sáng
tạo gắn chặt với cộng đồng làng xã là biểu tượng văn hóa đậm đà bản sắc Việt Nam. Trong nền
văn hóa cổ truyền có sự phát triển ưu trội của các quan hệ đạo đức. Con người phải có bổn phận
với cộng đồng trên là vua, dưới là làng là cha mẹ, anh em và gia đình. Thiện ác, các tư tưởng
bình quân ngấm rất sâu vào văn hóa lao động, giao tiếp, gia đình và nhân cách mỗi người. Bản
chất kinh tế - xã hội của nó thể hiện lợi ích cộng đồng.
2. Thực trạng nền văn hóa Việt Nam trước cách mạng tháng Tám:

Thực trạng nền văn hóa truyền thống Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945 có
những biểu hiện sau:
Đó là một nền văn hóa theo chủ nghĩa dân tộc chật hẹp. Nền văn hóa truyền thống đã đạt
được những giá trị yêu nước to lớn, song nó phát triển cạnh chủ nghĩa bành trướng Đại Hán nên
cũng trở thành một chủ nghĩa Đại Việt hẹp hòi.


Đó là một nền văn hóa thiếu hụt một truyền thống khoa học, đặc biệt là khoa học tự nhiên.
Kết cấu giai cấp trong xã hội cổ truyền không những không có giai cấp đại biểu cho công nghiệp
mà còn vắng bóng cả tầng lớp trí thức đại biểu cho khoa học. Kẻ sĩ trong xã hội truyền thống
làm quan (văn, võ) thảo binh thư, quốc pháp, lúc bãi triều thường làm thầy đồ, thầy thuốc và
thầy địa lý để dạy chữ, bốc thuốc chữa bệnh và trấn an tâm linh cho cộng đồng dân cư. Tư duy
lý luận, các khái niệm khoa học, phương pháp khoa học chưa được coi trọng trong nền văn hóa
truyền thống.
Nền văn hóa truyền thống của người Việt có hai dòng văn hóa rõ rệt. Dòng văn hóa dân
gian, văn hóa đại chúng thường phản ánh các kinh nghiệm sản xuất, tình cảm yêu thiên nhiên,
tình cảm trai gái, trữ tình. Nó không phải là những quan hệ, khuynh hướng văn hóa chính thống
và ưu tiên của xã hội, còn nền văn hóa bác học thường chịu ảnh hưởng nhiều của văn hóa Trung
Quốc.
Văn hóa Trung Hoa và các tư tưởng của hệ tư tưởng Nho-Phật-Lão ảnh hưởng rất mạnh
trong văn hóa truyền thống Việt Nam. Các tư tưởng này chi phối thiết chế văn hóa lao động, văn
hóa giao tiếp và các quan hệ khác, vừa ảnh hưởng lớn đến nhân cách làm người đặc biệt là nhân

cách kẻ sĩ.
II.

Đặc điểm, tính chất nền văn hóa Việt Nam:

Nội dung tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc của nền văn hóa mà chúng ta xây dựng trong
giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hóa cần phải thể hiện những đặc điểm sau:
1. Tính hiện đại: đó là tác phong công nghiệp, khoa học và thực tiễn; đạt trình độ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của khu vực Đông Nam Á và một số đạt trình độ quốc tế; sống và
làm việc theo hiến pháp và pháp luật.
2. Tính văn minh: đó là một lối sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung
“nhân đạo, dân chủ, tiến bộ” như “cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá
độ” đòi hỏi. Theo tinh thần trên thì đặc điểm văn minh được cụ thể hóa bằng các tính chất:
phong phú, đa dạng, dân chủ và tiến bộ tức là công bằng, dân chủ và bình đẳng.
Nội dung đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc là kế thừa, phát huy các đặc điểm tích cực của
truyền thống dân tộc trên lập trường của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Ý thức tự hào, tôn vinh quốc gia, dân tộc: tức chủ nghĩa yêu nước chân chính trong cuộc
đấu tranh dựng nước nhằm thoát khỏi tình trạng là một trong những quốc gia nghèo nhất
thế giới.


4. Nếp sống cộng đồng tình nghĩa: tối lửa tắt đèn có nhau, giúp đỡ, thăm hỏi nhau khi gặp
hoàn cảnh khó khăn, cùng chia sẻ niềm vui, nỗi buồn,…
5. Phong tục tập quán theo hướng thế tục và thuần hậu:
Những đặc điểm nêu trên của nội dung tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc sẽ dần dần hiện ra
rõ nét nếu chúng ta xây dựng được một chiến lược văn hóa quán xuyến suốt giai đoạn đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Và điều quyết định là ý tưởng xem văn hóa là nền tảng
tinh thần, mục tiêu, động lực công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được thấm sâu vào tất cả các
lĩnh vực hoạt động của con người từ sản xuất kinh doanh đến sinh hoạt gia đình, hưởng thụ cá
nhân. Đặc biệt, nó phải được thấm sâu vào tất cả các khâu của quá trình lãnh đạo và quản lý ở

các cấp ngành.
III.

Thực trạng nền văn hóa Việt Nam:

1. Những thành tựu đạt được:

Tư tưởng, đạo đức và lối sống là những lĩnh vực then chốt của vǎn hóa, đã có những
chuyển biến quan trọng.
Chủ nghĩa Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng và phát triển sáng tạo
ngày càng tỏ rõ giá trị vững bền làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng
và của cách mạng nước ta, nhân tố hàng đầu bảo đảm cho đời sống tinh thần xã hội phát triển
đúng hướng.
Ý thức phấn đấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm và nǎng lực
tổ chức thực tiễn của cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị vǎn
hóa và chuẩn mực đạo đức từng bước hình thành. Tính nǎng động và tính tích cực công dân
được phát huy, sở trường và nǎng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã
hội tǎng lên. Thế hệ trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới và có ý chí vươn lên lập thân, lập
nghiệp, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Những việc làm thiết thực hướng về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ
các anh hùng dân tộc, quý trọng các danh nhân vǎn hóa, đền ơn đáp nghĩa những người có công,
giúp đỡ những người hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng. Tự do tín ngưỡng và không
tín ngưỡng được tôn trọng.
Sự nghiệp giáo dục, khoa học thu được những thành tựu quan trọng, góp phần nâng
cao dân trí, trình độ học vấn của nhân dân, làm tǎng thêm sức mạnh nội sinh.


Sự nghiệp giáo dục có bước phát triển mới về quy mô, đa dạng hóa về loại hình trường lớp
từ mầm non, tiểu học đến cao đẳng, đại học.
Năm 2000, cả nước đã đạt chuẩn quốc gia về xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học; đến

giữa năm 2004, 20 tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn phổ cập trung học cơ sở. Tỷ lệ người lớn (từ 15
tuổi trở lên) biết chữ đã tăng từ 88% cuối năm 1980 lên 95% năm 2004.
Hầu hết xã, phường đã có trường mầm non, tiểu học và trung học cơ sở. Các huyện và khu
vực đã có trường phổ thông trung học. Các trường đại học được mở thêm nhiều, các trường dạy
nghề được khôi phục và ngày càng phát triển. Phong trào khuyến học, khuyến tài được phát
động rộng khắp, phong trào xã hội hoá giáo dục ngày càng toả rộng và được toàn dân tích cực
hưởng ứng. Nhờ những cố gắng đó mà nguồn nhân lực xã hội được nâng cao về chất lượng.
Tính đến giữa năm 2004, 22,5% số người lao động đã được đào tạo, trong đó số đào tạo nghề là
13,3%.
Khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ có bước phát triển nhất định.
Nhiều thành tựu khoa học và công nghệ đã được đưa vào áp dụng trong thực tế, mang lại
hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt đặc biệt là trong các lĩnh vực nông nghiệp, y tế, bưu chính viễn
thông...Kinh phí đầu tư cho khoa học và công nghệ được tăng lên. Nước ta đã có quan hệ hợp
tác về khoa học và công nghệ với trên 70 nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Đội ngũ cán
bộ khoa học và công nghệ (bao gồm Khoa học Xã hội, Khoa học Tự nhiên và Khoa học Kỹ
thuật) đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học phục vụ hoạch định đường lối, chủ trương chính
sách đổi mới của Đảng và Nhà nước; tham gia xây dựng các chương trình, dự án phát triển kinh
tế-xã hội; tiếp thu, làm chủ và ứng dụng có hiệu quả các công nghệ nhập từ nước ngoài.
Trên lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật, các hoạt động sáng tạo có bước phát triển mới. Các
tài năng văn hóa - nghệ thuật được khuyến khích. Nhiều bộ môn nghệ thuật truyền thống được
gìn giữ. Có thêm nhiều tác phẩm có giá trị về đề tài cách mạng và kháng chiến, về công cuộc đổi
mới. Nhiều bộ sưu tập công phu từ kho tàng vǎn hóa dân gian và vǎn hóa bác học Việt Nam
trong nhiều thế kỷ được xuất bản, tạo cơ sở cho việc nghiên cứu, bảo tồn và phát huy những giá
trị tư tưởng, học thuật và thẩm mỹ của dân tộc. Hoạt động lý luận, phê bình đã đạt được những
kết quả tích cực, khẳng định mạnh mẽ vǎn nghệ cách mạng và kháng chiến, đẩy lùi một bước
những quan điểm sai trái.
Số đông vǎn nghệ sĩ được rèn luyện và thử thách trong thực tiễn cách mạng, có vốn sống,
giàu lòng yêu nước; trước những biến động của thời cuộc và những khó khǎn của đời sống vẫn
giữ gìn được phẩm chất, kiên định quan điểm sáng tác phục vụ nhân dân, làm sứ mệnh người



nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhiều vǎn nghệ sĩ tuy tuổi cao, vẫn tiếp tục sự nghiệp sáng tạo, lớp trẻ có
nhiều cố gắng tìm tòi cái mới.
Những giá trị và đặc sắc văn hóa của 54 dân tộc anh em được kế thừa và phát triển,
góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Vǎn học,
nghệ thuật các dân tộc thiểu số có bước tiến đáng kể. Đội ngũ những nhà vǎn hóa người dân tộc
thiểu số phát triển cả về số lượng, chất lượng, đã có những đóng góp quan trọng vào hầu hết các
lĩnh vực vǎn học, nghệ thuật.
Thông tin đại chúng phát triển nhanh về số lượng và quy mô, về nội dung và hình
thức, về in, phát hành, truyền dẫn, ngày càng phát huy vai trò quan trọng trong đời sống
vǎn hóa tinh thần của xã hội. Hệ thống mạng thông tin trong nước và quốc tế được thiết lập,
tạo khả nǎng lựa chọn, khai thác các nguồn thông tin bổ ích phục vụ đông đảo công chúng. Đội
ngũ các nhà báo ngày càng đông và có bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và nghiệp vụ.
Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài từng bước được mở rộng. Chúng ta có dịp tiếp xúc
rộng rãi với những thành tựu vǎn hóa nhân loại, đồng thời giới thiệu với nhân dân các nước
những giá trị tốt đẹp, độc đáo của vǎn hóa Việt Nam. Hoạt động giao lưu, hợp tác quốc tế về văn
hoá thực sự khởi sắc, góp phần làm cho vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao;
văn hoá, con người và cuộc sống Việt Nam được bạn bè hiểu biết rõ hơn.
Hệ thống thể chế vǎn hóa được xây dựng tuy chưa hoàn chỉnh, nhưng về cǎn bản bảo
đảm được sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước. Thể chế vǎn hóa mới khuyến
khích nhân dân lao động tham gia sự nghiệp xây dựng vǎn hóa trên cả hai mặt sáng tạo và
hưởng thụ; giúp đội ngũ vǎn nghệ sĩ chuyên nghiệp làm tốt vai trò nòng cốt trong việc sáng tạo
các giá trị vǎn hóa mới; tạo điều kiện thực hiện tốt nhiệm vụ giữ gìn và phát huy bản sắc vǎn
hóa dân tộc kết hợp với tiếp thu tinh hoa vǎn hóa thế giới.
Đảng và Nhà nước đã quan tâm tǎng cường bộ máy tổ chức, ban hành những vǎn bản pháp
luật nhằm điều chỉnh hoạt động của ngành vǎn hóa.
Một bộ phận quan trọng thiết chế vǎn hóa (nhà vǎn hóa, câu lạc bộ, bảo tàng, thư viện, cửa
hàng sách báo, khu vui chơi giải trí...), gần đây đã có những phương thức hoạt động mới có hiệu
quả.
2. Những mặt hạn chế:


2.1. Về nhận thức tư tưởng, trong đạo đức và lối sống.


Trước những biến động chính trị phức tạp trên thế giới, một số người dao động, hoài nghi
về con đường xã hội chủ nghĩa, phủ nhận thành quả của chủ nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới,
phủ nhận con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta; phủ nhận lịch sử cách mạng Việt Nam
dưới sự lãnh đạo của Đảng. Không ít người còn mơ hồ, bàng quan hoặc mất cảnh giác trước
những luận điệu thù địch xuyên tạc, bôi nhọ chế độ ta.
Tệ sùng bái nước ngoài, coi thường những giá trị vǎn hóa dân tộc, chạy theo lối sống thực
dụng, cá nhân vị kỷ... đang gây hại đến thuần phong mỹ tục của dân tộc. Không ít trường hợp vì
đồng tiền và danh vị mà chà đạp lên tình nghĩa gia đình, quan hệ thầy trò, đồng chí, đồng
nghiệp. Buôn lậu và tham nhũng phát triển. Ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác gia tǎng.
Nạn mê tín dị đoan khá phổ biến. Nhiều hủ tục cũ và mới lan tràn, nhât là trong việc cưới, việc
tang, lễ hội...
Nghiêm trọng hơn là sự suy thoái về đạo đức, lối sống ở một bộ phận không nhỏ cán bộ,
đảng viên, trong đó có cả cán bộ có chức, có quyền. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước
tiêu xài phung phí, ǎn chơi sa đọa không được ngǎn chặn có hiệu quả. Hiện tượng quan liêu, cửa
quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ, địa phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ
biến. Những tệ nạn đó gây sự bất bình của nhân dân, làm tổn thương uy tín của Đảng, của Nhà
nước.
Nhiều biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực giáo dục, đào tạo làm cho xã hội lo lắng như sự suy
thoái đạo lý trong quan hệ thầy trò, bè bạn, môi trường sư phạm xuống cấp; lối sống thiếu lý
tưởng, hoài bão, ǎn chơi, nghiện ma túy... ở một bộ phận học sinh, sinh viên; việc coi nhẹ giáo
dục đạo đức, thẩm mỹ và các bộ môn chính trị, khoa học xã hội và nhân vǎn.
2.2 .Đời sống vǎn học, nghệ thuật còn những mặt bất cập.
Rất ít tác phẩm đạt đỉnh cao tương xứng với sự nghiệp cách mạng và kháng chiến vĩ đại
của dân tộc và thành quả của đổi mới. Trong sáng tác và lý luận, phê bình, có lúc đã nảy sinh
khuynh hướng phủ nhận thành tựu vǎn học cách mạng và kháng chiến, đối lập vǎn nghệ với
chính trị, nhìn xã hội với thái độ bi quan. Một vài tác phẩm viết về kháng chiến đã không phân

biệt chiến tranh chính nghĩa với chiến tranh phi nghĩa. Xu hướng "thương mại hóa", chiều theo
những thị hiếu thấp kém, làm cho chức nǎng giáo dục tư tưởng và thẩm mỹ của vǎn học, nghệ
thuật bị suy giảm.
Nghị quyết 04 của Trung ương (khóa VII) về vǎn hóa - vǎn nghệ được đại bộ phận vǎn
nghệ sĩ đồng tình. Một số có nhận thức lệch lạc đã trở lại với cái đúng; các khuynh hướng xấu
từng bước bị đẩy lùi. Tuy vậy, một số quan điểm sai trái vẫn xuất hiện. Các loại vǎn hóa phẩm
độc hại vẫn còn xâm nhập vào xã hội và các gia đình. Nhiều cơ sở in, quảng cáo, quán ǎn, khách
sạn, sàn nhảy mở tràn lan, chạy theo đồng tiền, hoạt động tùy tiện, không tuân thủ những quy
định của pháp luật; các cơ quan quản lý nhà nước không có biện pháp hữu hiệu để xử lý.


Tiềm lực đội ngũ sáng tác, nghiên cứu, lý luận, phê bình về vǎn học nghệ thuật còn yếu.
Nhà nước chậm ban hành các chính sách để phát huy những nǎng lực hiện có. Một số ngành
nghệ thuật như điện ảnh, sân khấu, đặc biệt là sân khấu truyền thống gặp rất nhiều khó khǎn.
Việc giáo dục thẩm mỹ, giáo dục thị hiếu nghệ thuật cho thanh niên, thiếu niên, nhi đồng, học
sinh chưa được coi trọng.
Lãnh đạo quản lý trong xuất bản vǎn học, nghệ thuật còn nhiều sơ hở. Thiếu sự đầu tư
trọng điểm và lâu dài cho sự ra đời những tác phẩm lớn, cho việc giữ gìn và phát triển những
ngành nghệ thuật truyền thống.
2.3.Về thông tin đại chúng: còn nhiều sản phẩm chất lượng thấp, chưa kịp thời phát hiện
và lý giải những vấn đề lớn do cuộc sống đặt ra. Báo chí chưa biểu dương đúng mức những điển
hình tiên tiến trên các lĩnh vực, cũng như thiếu sự phê phán kịp thời những việc làm trái với
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đạo đức xã hội. Không ít trường hợp thông tin
thiếu chính xác, làm lộ bí mật quốc gia. Khuynh hướng "thương mại hóa", lạm dụng quảng cáo
để thu lợi còn khá phổ biến. Một số ít nhà báo đã vi phạm đạo đức nghề nghiệp, thông tin thiếu
trung thực, gây tác động xấu đến dư luận xã hội, nhưng chưa được xử lý kịp thời theo pháp luật.
2.4.Giao lưu vǎn hóa với nước ngoài chưa tích cực và chủ động, còn nhiều sơ hở.
Số vǎn hóa phẩm độc hại, phản động xâm nhập vào nước ta còn quá lớn, trong khi đó, số
tác phẩm vǎn hóa có giá trị của ta đưa ra bên ngoài còn quá ít.
Lực lượng hoạt động vǎn hóa - vǎn nghệ trong cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài

hiện nay không nhỏ, đã có những công trình nghiên cứu, tác phẩm vǎn học, nghệ thuật tốt hướng
về Tổ quốc. Song chúng ta còn thiếu những biện pháp tích cực giúp đồng bào tìm hiểu sâu vǎn
hóa dân tộc, liên hệ mật thiết với quê nhà, góp phần đấu tranh với những hoạt động chống phá
đối với Tổ quốc.
2.5.Việc xây dựng thể chế vǎn hóa còn chậm và nhiều thiếu sót.
Chính sách xã hội hóa các hoạt động vǎn hóa chậm được ban hành. Bộ máy tổ chức ngành
vǎn hóa chưa được sắp xếp hợp lý để phát huy cao hơn hiệu lực lãnh đạo và quản lý.
Công tác đào tạo đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý vǎn hóa chưa đáp ứng yêu cầu, còn
hẫng hụt cán bộ vǎn hóa ở các vị trí quan trọng.
Chính sách khuyến khích và định hướng đầu tư xã hội cho phát triển vǎn hóa còn chưa rõ.
Hệ thống các thiết chế vǎn hóa cần thiết nói chung bị xuống cấp và sử dụng kém hiệu quả. Ở
nhiều vùng nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng cǎn
cứ cách mạng, kháng chiến trước đây, đời sống vǎn hóa còn quá nghèo nàn.
3. Nguyên nhân dẫn đến hạn chế:
Những thành tựu trong sự nghiệp xây dựng vǎn hóa một mặt chứng tỏ đường lối và chính
sách của Đảng và Nhà nước ta đã và đang phát huy tác dụng tích cực, định hướng đúng đắn cho


sự phát triển đời sống vǎn hóa xã hội; mặt khác đó là kết quả của sự tham gia tích cực của nhân
dân và những nỗ lực to lớn của các lực lượng hoạt động trên lĩnh vực vǎn hóa.
Tuy nhiên những mặt chưa được còn nhiều, thậm chí có mặt nghiêm trọng, nhất là trong lĩnh
vực tư tưởng, đạo đức và lối sống. Nguyên nhân của tình trạng yếu kém đó là:
Về nguyên nhân khách quan:
Trước hết, sự sụp đổ ở Liên Xô cũ và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đã gây xáo động
lớn về tư tưởng, tình cảm trong cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Bên cạnh đó, do sự mở cửa hội nhập, các thế lực thù địch tìm mọi cách tiến hành âm mưu
“diễn biến hòa bình”, nhất là trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng, văn hóa rất quyết liệt. Cơ chế thị
trường và hội nhập quốc tế, bên cạnh những tác động tích cực đối với văn hóa rất rõ. Và nước ta
còn nghèo, nhu cầu về văn hóa của người dân là rất lớn. Nhà nước mong đầu tư cao hơn cho văn
hóa nhưng ngân sách không cho phép.

Mặc dù hội nhập quốc tế là tất yếu, đã mang lại những giá trị văn hóa bổ sung cho bản sắc
văn hóa dân tộc của chúng ta như đã nói ở trên. Nhưng nó cũng có mặt trái, đó là xu thế đòi
“thống nhất văn hóa” toàn cầu, thực chất là sự áp đặt những giá trị văn hóa của các nước lớn, nước
giàu, dễ dẫn đến mất dần đi bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc mình, rất dễ bị lai căng, mất
gốc. Hội nhập kinh tế với các nước lớn, không khéo sẽ bị động trong việc ngăn ngừa những lối
sống tư bản không tốt của các nước đó.
Về nguyên nhân chủ quan:
Trong khi tập trung sức vào nhiệm vụ kinh tế, Đảng chưa lường hết những tác động tiêu
cực nói trên, từ đó chưa đặt đúng vị trí của vǎn hóa, chưa coi trọng công tác giáo dục về tư
tưởng, đạo đức và lối sống, thiếu các biện pháp cần thiết trên cả hai mặt "xây" và "chống" trên
lĩnh vực vǎn hóa. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến vǎn
hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị
mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và
quốc tế, vǎn hóa và chính trị, vǎn hóa và kinh tế... Chưa xây dựng được chiến lược phát triển
vǎn hóa song song với chiến lược phát triển kinh tế.
Việc xử lý những phần tử thoái hóa biến chất trong Đảng và bộ máy Nhà nước chưa
nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở nhiều cấp bộ đảng. Nội dung giáo dục tư
tưởng, chính trị trong sinh hoạt đảng và các đoàn thể rất yếu. Những điều đó làm suy giảm niềm
tin của nhân dân vào đội ngũ cán bộ, nhưng Trung ương và Bộ Chính trị, Chính phủ chưa có
những biện pháp khắc phục hữu hiệu.
Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông lỏng, né tránh, hữu khuynh. Trong
hoạt động kinh tế, chưa chú ý đến các yếu tố vǎn hóa, các yêu cầu phát triển vǎn hóa tương ứng.
Mức đầu tư ngân sách cho vǎn hóa còn thấp. Chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ


cán bộ làm công tác vǎn hóa còn nhiều bất hợp lý. Những lệch lạc và việc làm sai trái trong vǎn
hóa, vǎn nghệ chưa được kịp thời phát hiện, việc xử lý bị buông trôi hoặc có khi lại dùng những
biện pháp hành chính không thích hợp.
Đặc biệt, chưa xây dựng được phong trào “quần chúng xây dựng nếp sống văn hóa, bảo vệ
truyền thống văn hóa dân tộc”; Chưa có cơ chế và chính sách phát huy nội lực của nhân dân;

chưa tạo được phong trào quần chúng mạnh mẽ tham gia phát triển vǎn hóa, xây dựng nếp sống
vǎn minh, bảo vệ vǎn hóa dân tộc. Chưa coi trọng bồi dưỡng, giáo dục và phát huy khả nǎng của
tuổi trẻ là lực lượng chính, là đối tượng chủ yếu của hoạt động vǎn hóa.
Tóm lại, văn hóa Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi nhưng nguy cơ và thử thách
cũng nhiều. Làm sao giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc là vấn đề khó khăn. Vì vậy,
cần có những phương hướng, giải pháp đúng đắn để nền văn hóa Việt Nam trở thành động lực,
mục tiêu, góp phần vào sự phát triển của đất nước trong công cuộc hiện nay.
IV.
Phương hướng và giải pháp xây dựng:
1. Phương hướng:
1.1. Phương hướng xây dựng nền văn hóa Việt Nam tại các hội nghị TW Đảng:.
Trong quá trình lãnh đạo Cách mạng Việt Nam cho đén nay Đảng ta đã xây dựng được một
hệ quan điểm khá vững chắc về văn hóa và xây dựng nền văn hóa XHCN. Điều này thể hiện qua
những văn kiện quan trọng sau đây:
- Năm 1943 : “Đề cương văn hóa Việt Nam” đã xác định 3 phương châm: Dân tộc,
khoa học và đại chúng, trong đó có nguyên tắc “đại chúng” tức là tính nhân dân được coi là
phương châm quan trọng nhất để phát triển văn hóa. Trong đó, Đảng ta khẳng định nhân
dân là người sáng tạo và hưởng thụ văn hóa và văn hóa chỉ phát triển mạnh mẽ trong nhân
dân và thông qua nhân dân.
- Năm 1948 : Báo cáo “Chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam “đã xác định hệ tư tưởng
của nền văn hóa Việt Nam là chủ nghĩa Mác – Lênin và từ đại hôi VIII là chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Từ Đại hội II (1951), Đảng ta xác định nội dung XHCN của nền văn hóa mới đang
xây dựng ở Việt Nam. Đại hội V (1982) đã chỉ rõ nền văn hóa mới là nền văn hóa có nội
dung XHCN và tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ
nghĩa yêu nước và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Cùng với việc xác định đầy đủ nội dung của
nền văn hóa mới, lần đầu tiên tại Đại hội V, Đảng ta trình bày khái niệm “con người mới
XHCN” và “lối sống XHCN”, đồng thời đưa ra phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng
làm” văn hóa”.
- Đại hội VI : dành phần lớn tâm sức vào việc đổi mới kinh tế cho nên vấn đề văn hóa

chỉ được chú ý vừa phải. Đại hội VII của Đảng (1991) xác định rõ 2 đặc trưng của nền văn
hóa mới là tiên tiến và đậm đà bản sắc dân tộc. Còn các Đại hội trước đó thường xác định
nền văn hóa mới “có nội dung XHCN và hình thức dân tộc” (Đại hội III) hoặc “nội dung


XHCN và tính chất dân tộc” (Đại hội IV, V, VI). Cương lĩnh xây dựng XHCN trong thời
kỳ quá dộ được thông qua tại Đại hội đòi hỏi nền văn hóa mới có nội dung nhân đạo, dân
chủ và tiến bộ “nhằm tạo ra một đời sống tinh thần cao đẹp, phong phú và đa dạng”. Hiến
pháp năm 1992 thì xác định ba đặc điểm quan trọng của nền văn hóa mới là: dân tộc, hiện
đại, và nhân văn.
- Đại hội VII : Nghị quyết hội nghị lần thứ tư của Ban chấp hành Trung ương khoá VII,
đã khẳng định: "Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực
phát triển kinh tế xã hội". Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết 09 về các định hướng lớn
trong công tác tư tưởng hiện nay, xác định văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, là động
lực thúc đẩy sự phát triển, là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội. Trong 6 định hướng về
công tác tư tưởng, có một định hướng lớn là phát triển văn hoá với hai nội dung cơ bản:
phát huy bản sắc văn hoá dân tộc và tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại. Điều đó chứng tỏ
quan điểm đúng đắn về văn hoá và vai trò của văn hoá đối với phát triển.
- Đại hội lần thứ XIII: Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta chủ trương “xây
dựng nền Văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” (Nghị Quyết TW5, khoá
VIII, năm 1998). Nền văn hoá đó được xây dựng trên cơ sở kiên định Chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh với tinh thần chủ đạo là chủ nghiã yêu nước Việt Nam;
nhấn mạnh vai trò, chức năng quan trọng của văn hoá đối với sự tồn tại và phát triển xã hội
ngày nay; văn hoá vừa là nền tảng tinh thần, vừa là mục tiêu và động lực của sự phát triển
kinh tế xã hội. Phải nhận thức rõ nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất và đa
dạng trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, cho nên cần phát huy và bảo tồn từng bản sắc văn
hoá của mỗi dân tộc. Phải thấm nhuần quan điểm xây dựng văn hoá là sự nghiệp của toàn
dân trong đó đội ngũ trí thức do Đảng lãnh đạo có vai trò quan trọng. Văn hoá là một mặt
trận, xây dựng văn hoá là sự nghiệp cách mạng lâu dài cần phải có ý chí cách mạng đồng
thời phải kiên định và thận trọng, kết hợp giữa xây với chống và lấy xây làm chính
- Đại hội lần thứ IX: Trên cơ sở thực trạng văn hoá nước ta mà Hội nghị TW5 (khoá

VIII) đã đánh giá, Hội nghị TW10 (khoá IX) tiếp tục khẳng định: Văn hoá đã gắn kết chặt
chẽ hơn với các lĩnh vực của đời sống xã hội, đã góp phần quan trọng vào việc giữ vững ổn
định chính trị và tạo nên những thành tựu về kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối
ngoại… của đất nước. Đã có sự tham gia tích cực, tự giác của nhân dân vào các hoạt động
văn hoá, đặc biệt là cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống VH” đã tạo
được chuyển biến bước đầu và tiền đề rất quan trọng để văn hoá nước nhà tiếp tục phát
triển đúng hướng và vững chắc. Để đạt được kết quả bước đầu đó, chính là nhờ toàn Đảng,
toàn dân ta đã không ngừng học tập, thấm nhuần tư tưởng và những căn dặn trong Di chúc


thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc.
Về phương hướng, hội nghị đã nhấn mạnh ba cái mới:
Thứ nhất là đặt lại vị trí văn hóa nước ta, xác định văn hóa phải gắn kết chặt chẽ và phát
triển đồng bộ với kinh tế và xây dựng Đảng để hình thành ba trụ cột bảo đảm phát triển bền
vững.
Thứ hai là tăng đầu tư cho văn hóa, đạt ít nhất 1,8% tổng chi ngân sách nhà nước cho đến
năm 2010
Thứ ba là vấn đề văn hóa trong Đảng, phải gắn nhiệm vụ xây dựng văn hóa với xây dựng
chỉnh đốn Đảng. Đảng đối xử với nhau, với dân và với công việc đất nước phải thật văn hóa và
kiên quyết đưa ra khỏi Đảng những kẻ tha hóa, biến chất.
1.2. Phương hướng xây dựng nền văn hóa XHCN ở Việt Nam:
1.2.1. Về nội dung: cơ bản là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết
dân tộc, ý thức độc lập, tự chủ, tự cường,… xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp
thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
1.2.2. Về yêu cầu của sự tác động vào xã hội: là làm cho văn hóa thấm sâu vào toàn bộ
hoạt động đời sống xã hội của từng người, từng gia đình, tập thể và cộng đồng, từng địa bàn
dân cư và mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ của con người.
1.2.3. Về mục tiêu: thời đại ngày nay khi sự giao lưu kinh tế và văn hóa phát triển mạnh

mẽ ở khắp các châu lục thì việc xây dựng nền văn hóa không thể khép kín trong mỗi quốc
gia, mỗi dân tộc. Nhất định sẽ có sự tác động qua lại giữa các nền văn hóa của các dân tộc.
Sự tác động dẫn đến hai hệ quả khác nhau. Nếu biết tiếp thu có chọn lọc, nghĩa là tiếp thu
những tinh hoa văn hóa nhân loại thì càng làm tăng thêm, làm giàu bản sắc văn hóa dân tộc.
Ngược lại, nếu tiếp thu không chọn lọc sẽ làm mai một bản sắc văn hóa dân tộc. Bởi vậy,
việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc đi đôi với việc tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại là hai
mặt của một thể thống nhất. Chính vì vậy, Đảng ta đã xác định rõ mục tiêu xây dựng nền văn
hóa mới của chúng ta là xây dựng một xã hội “có nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc”.
2. Giải pháp thực hiện:
Để đạt được những phương hướng và mục tiêu đó, chúng ta cần tập trung thực hiện các
giải pháp chủ yếu sau:
2.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của văn hóa coi sự nghiệp văn hóa là
trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân; xem đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho con
người và cho phát triển kinh tế – xã hội bền vững.


Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội;
xây dựng và phát triển văn hóa vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy kinh tế – xã hội phát
triển là những quan điểm lớn, mang tầm chiến lược lâu dài, chỉ đạo toàn bộ quá trình xây dựng
đời sống văn hóa tinh thần của đất nước ta. Xây dựng và phát triển văn hóa chính là phát huy
nguồn lực con người – nguồn nội lực lớn nhất và quyết định nhất của đất nước ta để phát triển
kinh tế – xã hội bền vững. Nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của văn hóa phải được thể
hiện trong nội dung quy hoạch và phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, của từng cấp ngành,
từng lĩnh vực và địa phương; trong việc phân bổ ngân sách để giữ gìn và phát huy truyền thống
văn hóa dân tộc và xây dựng, phát triển các thiết chế văn hóa, công trình văn hóa mới; trong
việc thực hiện chính sách bồi dưỡng, phát huy các tài năng văn hóa nghệ thuật; trong việc nâng
cao mức hưởng thụ và năng lực sáng tạo văn hóa của nhân dân.
2.2. Nâng cao năng lực quản lý nhà nước là một trong những nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng của sự nghiệp xây dựng, phát triển văn hóa nghệ thuật, tạo điều kiện thuận lợi

cho mọi người hưởng thụ, tham gia hoạt động và sáng tạo văn hóa; ngăn chặn có
hiệu quả những sản phẩm văn hóa nghệ thuật độc hại, các tệ nạn xã hội xâm nhập
vào đời sống xã hội.
Nhanh chóng tăng cường nguồn lực và cơ sở vật chất – kỹ thuật cho hoạt động văn hóa.
Đặc biệt coi trọng công tác đào tạo nguồn nhân lực và các tài năng văn hóa nghệ thuật. Tăng
cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ tri thức văn hóa cho dân tộc thiểu số, có chế độ ưu đãi khuyến
khích họ trở về địa phương công tác. Nâng mức đầu tư và kinh phí cho sự nghiệp văn hóa thông
tin phù hợp với yêu cầu phát triển của ngành và đòi hỏi của nhân dân. Triển khai mạnh mẽ chủ
trương văn hóa, bao gồm thu qua tham quan di tích, bảo tàng, đào tạo, biểu diễn nghệ thuật,…
khuyến khích sự đóng góp của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và nhân dân cho các hoạt động
văn hóa.
2.3. Không ngừng tăng cường sự lãnh đạo của ĐCS và vai trò quản lý của nhà nước
XHCN đối với hoạt động văn hóa
Công tác văn hóa cơ sở tiếp nối bước đi của công tác văn hóa quần chúng trong công
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam . Trong hệ thống quan điểm chỉ đạo xây dựng và
phát triển đất nước của Đảng và Nhà nước ta, văn hóa nói chung, văn hóa cơ sở nói riêng giữ
một vai trò và vị trí quan trọng. Mục tiêu phát triển văn hóa đã được xác định trong Nghị quyết
các kỳ Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam . Văn hóa gắn với mục tiêu nhân văn, xây dựng cuộc
sống tươi đẹp, “xã hội công bằng, dân chủ và văn minh”. Văn hóa có vai trò “là nền tảng tinh
thần xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội” (Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII). Trong Nghị quyết Hội nghị Ban chấp
hành Trung ương Đảng lần 5 khóa VIII chỉ rõ: “Nhiệm vụ của công tác văn hóa cơ sở là tạo ra


các đơn vị cơ sở (gia đình, làng, bản, xã, phường, khu tập thể, cơ quan, xí nghiệp, lâm trường,
nông trường, trường học, đơn vị bộ đội,…); Các vùng dân cư (đô thị, nông thôn, miền núi,…) có
đời sống văn hóa lành mạnh, đáp ứng nhu cầu văn hóa đa dạng và không ngừng tăng lên của
các tầng lớp nhân dân”; “xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc”.
Văn hóa cơ sở hiện nay phát triển chưa đồng đều giữa các khu vực thành phố, thị trấn,

nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa,… Tình trạng đời sống văn hóa thấp
còn tồn tại phổ biến ở nhiều vùng nông thôn nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng
xa. Đối với đơn vị cơ sở, đây là nơi có khả năng lưu giữ và phát triển văn hóa truyền thống, giữ
gìn tốt bản sắc văn hóa dân tộc. Tuy nhiên, đây cũng là địa bàn dân cư trực tiếp với các âm mưu
phá hoại về tư tưởng, chính trị thông qua các hoạt động tuyên truyền phản văn hóa; đồng thời,
dễ tiếp cận với các tệ nạn xã hội. Sự phát triển kinh tế thị trường ảnh hưởng đến tổ chức hoạt
động văn hóa cơ sở. Bởi vì mặt trái của kinh tế thị trường là đề cao giá trị vật chất, dễ làm lệch
lạc nhận thức của quần chúng trong việc gìn giữ và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc.
Sự phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh
giao lưu và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi mọi lĩnh vực đời sống xã hội; đời sống kinh tế
được phát triển, đời sống tinh thần được nâng cao, các phương tiện thông tin đại chúng, sách,
báo, ấn phẩm, băng hình,… phát triển đa dạng, công nghệ bùng nổ đã và đang tác động mạnh
mẽ đến diện mạo đời sống văn hóa cơ sở. Mở cửa giao lưu và hội nhập quốc tế trên phương diện
văn hóa, bên cạnh những ảnh hưởng tích cực, chúng ta không tránh khỏi những ảnh hưởng tiêu
cực của lối sống, quan niệm đạo đức, xác lập giá trị của nhiều luồng văn hóa tác động đan xen
vào cách cảm, cách nghĩ của con người Việt Nam, đặt ra sự lựa chọn, sức đề kháng của bản lĩnh
truyền thống văn hóa Việt Nam. Chính sách mở cửa của Nhà nước ta đã tạo ra sự tiếp xúc rộng
rãi chưa từng có của dân tộc với nước ngoài. Lợi dụng chính sách này, kẻ thù cũng sử dụng
những vũ khí văn hóa để tấn công phá hoại công cuộc đổi mới của chúng ta.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã có nhiều văn bản pháp quy nhằm quản lý và định
hướng phát triển văn hóa cơ sở và đã thu được những thành tựu quan trọng, đã góp phần nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân, làm cho văn hóa phát triển, tác động có hiệu quả đến phát
triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, có nhiều cơ chế chính sách không còn phù hợp với sự phát
triển văn hóa ở cơ sở; có nhiều văn bản pháp quy chưa đáp ứng thực tiễn hoạt động văn hóa cơ
sở. Khi đó, trong cơ chế thị trường, kinh tế và văn hóa giống nhau ở chỗ phải có tiền mới hoạt
động được, nhưng khác ở chỗ: kinh tế thì tất cả vì lợi nhuận, ở văn hóa thì tất cả vì đời sống tinh
thần, nó tồn tại hiển nhiên không vì tiền mà hoạt động. Điều này, ở khu vực văn hóa cơ sở là
biểu hiện rõ nhất. Hơn nữa, khi mở cửa sẽ dẫn đến những cạnh tranh về hoạt động văn hóa, sẽ
có những đơn vị, cá nhân hoạt động văn hóa nước ngoài tại Việt Nam; sẽ có những tổ chức, cá



×