Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

quy định về hội thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.02 KB, 72 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan: Luận văn này là công trình nghiên cứu thực sự
của cá nhân, được thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Ths.
Nguyễn Ngọc Kiện.
Các số liệu, những kết luận nghiên cứu được trình bày trong khóa luận
này trung thực và chưa từng được công bố dưới bất cứ hình thức nào. Tôi xin
chịu trách nhiệm về nghiên cứu của mình.
Sinh Viên
Lê Doãn Toàn


THỐNG KÊ TRÍCH DẪN
STT

Tác giả tài liệu trích dẫn

1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Chấp hành Trung
ương (2005), Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6 của
Bộ Chính trị, Hà Nội.
Đề tài khoa học cấp Bộ: “Đổi mới chế định Hội thẩm
trong cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do tác
giả Nguyễn văn Sản làm Chủ nhiệm, được nghiệm thu
năm 1999
Bài viết “Đổi mới chế định hội thẩm nâng cao hiệu
quả hoạt động của Toà án” của PGS – TS Nguyễn Tất
Viễn đăng trên Thông tin khoa học pháp lý Số 1/1999
Bài viết “Hiệu quả của công tác xét xử nhìn từ khía
cạnh hoạt động và tiêu chuẩn của Hội thẩm” của tác
giả Chu Hải Thanh đăng trên Thông tin khoa học pháp


lý Số 1/1999
Bài viết “Sự hình thành và phát triển của chế định hội
thẩm ở Việt Nam” của tác giả Lê Thu Hương đăng
trên Thông tin khoa học pháp lý Số 1/1999
Bài viết “Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả
hoạt động của hội thẩm” của tác giả Hoàng Hùng Hải
đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân Số 6/2005
Bài viết “Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ
Hội thẩm nhân dân” của tác giả Phạm Văn Chung đăng
trên Tạp chí Pháp lý Số 7/2006
Bài viết “Quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho
Hội thẩm Toà án - thực trạng và giải pháp” của tác
giả Nguyễn Quang Lộc đăng trên Tạp chí Toà án nhân
dân tháng 8/2006 - Số 15
/>
2

3

4

5

6

7

8

9


1

Tần
suất
trích
dẫn
1

2

1

2

1

3

1

3

1

3

1

3


1

3

1

6

1

Trang
khóa
luận


10
11

12
13
14

15

16
17

18
19


20
21
22
23
24

Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam , nhà xuất
bản Công an nhân dân Hà Nội năm 2011 , Trang 109
Từ điển luật học nhà xuất bản tư pháp , nhà xuất bản
từ điển bách khoa thuộc viện khoa học pháp lý của Bộ
tư pháp . trang 238
Bài viết một số nhận thức về hội thẩm nhân dân Tác
giả : Bùi Thị Hoa - TK Nhà nước pháp luật trang 38
/> /> /> />Nghị quyết số 10 /NQ-HĐND nghị quyết về việc xác
nhận kết quả bầu cử hội thẩm nhân dân - toà án nhân
dân tỉnh
Tạp chí tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị Kỳ 1 tháng 05
-2014 (Số 9) trang 27
Theo thông tư của thủ tướng chính phủ Số:
41/2012/QĐ-TTG quyết định về chế độ bồi dưỡng đối
với người tham gia phiên tòa, phiên họp giải quyết
việc dân sự
Báo cáo công tác năm 2012 và phương hướng nhiệm
vụ năm 2013 (tại kỳ họp thứ 6 HĐND tỉnh khóa VI)
Báo cáo công tác năm 2013và phương hướng nhiệm
vụ năm 2014 (tại kỳ họp thứ 10 HĐND tỉnh khóa VI)
Báo cáo công tác năm 2014và phương hướng nhiệm
vụ năm 2015 (tại kỳ họp thứ 14 HĐND tỉnh khóa VI)
/>Tạp chí Khoa học pháp luật số 6/2004


6

1

6

1

7

1

9

1

17

1

17

1

25

1

33


1

37

1

39

1

41

1

42

1

42

1

42

1

52

1




BẢNG VIẾT TẮT
Stt
1
2
3
4
5
6
7
8

Từ viết tắt
PGS – TS
UBMT
HTND
TAND
HĐBT
BLTTHS
HĐXX
PLTP&HTND

Nghĩa từ
Phó giáo sư – Tiến sĩ
Uỷ ban mặt trận
Hội thẩm nhân dân
Toà án nhân dân
Hội Đồng Bộ Trưởng

Bộ luật tố tụng hình sự
Hội đồng xét xử
Pháp lệnh thẩm phán và hội thẩm nhân dân


A.MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trước yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp “xây dựng nền tư pháp
trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước
hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa;
hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu
quả và hiệu lực cao”[1] thì nhiệm vụ của ngành Toà án là rất quan trọng. Có
thể nói, đây là công tác có vai trò quyết định của hoạt động cải cách tư pháp.
Tuy nhiên, khâu quan trọng nhất trong hoạt động tố tụng nói chung và công
tác xét xử nói riêng vẫn là con người, mà cụ thể trong công tác xét xử là đội
ngũ Thẩm phán, Hội thẩm và Thư ký.
Lịch sử phát triển của nền tư pháp nước ta từ năm 1945 đến nay cho
thấy Hội thẩm giữ vai trò rất quan trọng trong hoạt động xét xử của Toà án.
Đội ngũ Hội thẩm qua nhiều thế hệ đã cùng với các Thẩm phán luôn luôn
đứng trên tuyến đầu thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý. Sự hiện diện của Hội
thẩm trong xét xử, kết quả hoạt động của họ đã khẳng định rằng nhân dân có
thể và cần phải có tiếng nói của mình trong hoạt động tư pháp. Sự tham gia
tích cực và có hiệu quả của Hội thẩm đã tôn vinh thêm vị trí, vai trò và uy tín
của Toà án trong chế độ ta.
Mặc dù Thẩm phán và Hội thẩm đều là những người có vị trí rất quan
trọng trong Toà án nhưng việc nghiên cứu lại mới chỉ tập trung vào pháp luật
về Thẩm phán mà chưa tập trung vào pháp luật về Hội thẩm.
Hơn 60 năm qua, pháp luật về Hội thẩm nhân dân trong những điều
kiện và hoàn cảnh lịch sử khác nhau đã phát huy được yếu tố tích cực, làm
cho nhân dân thực sự có tiếng nói trong hoạt động tư pháp. Tuy nhiên, trước

tình hình mới, pháp luật về Hội thẩm nhân dân đã bộc lộ những hạn chế và
1


nhược điểm cần sớm được khắc phục như: chưa được hoàn thiện, thiếu đồng
bộ, còn mang tính chất chắp vá, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. Các
nhà khoa học, các cán bộ thực tiễn và các cơ quan chức năng đã nhiều lần đề
cập đến những hạn chế, nhược điểm đó nhưng chưa thật sâu sắc và toàn diện,
chưa có những kiến nghị, đề xuất mang tính chất lâu dài để pháp luật về Hội
thẩm nhân dân phát huy thực sự tác dụng của mình.
Với những lý do trên, em đã chọn đề tài “các quy định về hội thẩm nhân
dân theo tố tụng hình sự việt nam và thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật tại
Tỉnh Quảng Trị” để nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp ngành Luật học nhằm
góp phần thực hiện nâng cao chất lượng xét xử của Toà án trong giai đoạn hiện
nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài :
Liên quan đến đề tài khóa luận này đã có một số công trình nghiên cứu
sau
- Đề tài khoa học cấp Bộ: “Đổi mới chế định Hội thẩm trong cải cách
tư pháp ở Việt Nam hiện nay” do tác giả Nguyễn văn Sản làm Chủ nhiệm,
được nghiệm thu năm 1999. Đề tài đưa ra những kiến nghị về cơ chế tổ chức,
hoạt động và những kiến nghị về hoàn thiện pháp luật nhằm củng cố, kiện
toàn tổ chức và hoạt động của Hội thẩm.[2]
- Một số bài tham luận, bài viết trong các Hội thảo và bài viết đăng trên
các tạp chí chuyên ngành luật học:
+ Bài viết “Đổi mới chế định hội thẩm nâng cao hiệu quả hoạt động
của Toà án” của PGS – TS Nguyễn Tất Viễn đăng trên Thông tin khoa
học pháp lý Số 1/1999 bàn về vấn đề Hội thẩm tham gia xét xử - một chế
định pháp luật thể hiện tư tưởng lấy dân làm gốc trong hoạt động tư pháp,
đưa ra những biện pháp cụ thể nâng cao chất lượng hoạt động của Hội

thẩm.[3]

2


+ Bài viết “Hiệu quả của công tác xét xử nhìn từ khía cạnh hoạt động
và tiêu chuẩn của Hội thẩm” của tác giả Chu Hải Thanh đăng trên Thông tin
khoa học pháp lý Số 1/1999, bàn về vấn đề hiệu quả mà Hội thẩm đóng góp
cho hoạt động xét xử của Toà án, tiêu chuẩn của Hội thẩm và đưa ra số giải
pháp để Hội thẩm phát huy được tác dụng, xét xử có hiệu quả.[4]
+ Bài viết “Sự hình thành và phát triển của chế định hội thẩm ở Việt
Nam” của tác giả Lê Thu Hương đăng trên Thông tin khoa học pháp lý Số
1/1999 đã khái lược lịch sử hình thành và phát triển của chế định Hội thẩm ở
Việt Nam.[5]
+ Bài viết “Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của
hội thẩm” của tác giả Hoàng Hùng Hải đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân Số
6/2005, đưa ra một số ý kiến về việc đổi mới và nâng cao hiệu quả hoạt động
của Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm quân nhân.[6]
+ Bài viết “Các giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân
dân” của tác giả Phạm Văn Chung đăng trên Tạp chí Pháp lý Số 7/2006, đưa
ra các kiến nghị để nâng cao chất lượng đội ngũ Hội thẩm nhân dân.[7]
+ Bài viết “Quản lý công tác bồi dưỡng nghiệp vụ cho Hội thẩm Toà
án - thực trạng và giải pháp” của tác giả Nguyễn Quang Lộc đăng trên Tạp
chí Toà án nhân dân tháng 8/2006 - Số 15, kiến nghị một số giải pháp nâng
cao công tác quản lý bồi dưỡng Hội thẩm.[8]
Nhìn chung, kết quả đề tài và các bài viết trên rất đáng trân trọng, đã lý
giải một số vấn đề khá sâu sắc về chế định Hội thẩm nhân dân, và đề ra một
số giải pháp cho việc hoàn thiện pháp luật về Hội thẩm nhân dân. Nhưng
trong điều kiện mới và tư duy mới hiện nay đã phát sinh nhiều vấn đề cần tiếp
tục nghiên cứu, đồng thời những vấn đề về thực tiễn cũng cần được tổng kết

sâu sắc hơn, do vậy khóa luận này của em nghiên cứu là không trùng lặp, và
đã đi sâu nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn hoàn thiện pháp luật về Hội
3


thẩm nhân dân trong tố tụng hình sự, góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực
của hoạt động xét xử.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1 Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Đề tài nghiên cứu pháp luật và thực tiễn thực hiện trong địa bàn tỉnh
Quảng Trị trực tiếp đến tổ chức và hoạt động của Hội thẩm nhân dân trong tố
tụng hình sự
3.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Phạm vi của luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu những quy định của
pháp luật về Hội thẩm nhân dân (không đề cập Hội thẩm quân nhân). Việc
nghiên cứu đề tài căn cứ vào thực tiễn thực hiện pháp luật về Hội thẩm nhân
dân tại tỉnh Quảng Trị
4. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
4.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích, làm rõ những
vấn đề lý luận và thực tiễn pháp luật về Hội thẩm nhân dân tại tỉnh Quảng Trị,
đề tài đưa ra các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt lập pháp và trên
phương diện thực tiễn tại tỉnh Quảng Trị về Hội thẩm nhân dân
4.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện mục đích nêu trên, đề tài có những nhiệm vụ sau đây:
- Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và hoàn thiện về nguyên tắc
hoạt động của Hội thẩm nhân dân; khái niệm, đặc điểm và nội dung của pháp
luật về Hội thẩm nhân dân, tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về
Hội thẩm nhân dân trong bộ luật tố tụng hình sự
- Đánh giá thực trạng pháp luật về Hội thẩm nhân dân và thực tiễn tổ

chức thực hiện pháp luật về Hội thẩm nhân dân tại tỉnh quảng trị; làm rõ
những mặt được, những mặt còn hạn chế, vướng mắc bất cập trong pháp luật

4


về Hội thẩm nhân dân và tổ chức thực hiện pháp luật về Hội thẩm nhân dân,
nêu các nguyên nhân và bài học kinh nghiệm;
- Phân tích các các quy định của pháp luật về hội thẩm nhân dân trong
bộ luật tố tụng hình sự 2003 và đề xuất các giải pháp hoàn thiện pháp luật về
Hội thẩm nhân dân ở Việt Nam
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở sở vận dụng phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đồng thời sử dụng
các phương pháp nghiên cứu cụ thể, như: phương pháp phân tích , phương
pháp tổng hợp,phương pháp lịch sử,phương pháp thống kê,phương pháp so
sánh, tổng kết thực tiễn.
6. Cơ cấu của khóa luận :
Chương 1 : những vấn đề chung về hội thẩm nhân dân
Chương 2 : các quy định về hội thẩm nhân dân theo luật tố tụng hình sự
việt nam và thực tiễn hoạt động áp dụng pháp luật tại tỉnh quảng trị và đề
xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HỘI THẨM NHÂN DÂN
1.1 Khái niệm hội thẩm nhân dân :
Như chúng ta đều biết một trong những biểu hiện dân chủ của nền tư

pháp kiểu mới là có đại diện nhân dân tham gia vào việc xét xử của tòa án .
Lênin đã từng khẳng định rằng “ sau khi giai cấp vô sản giành được chính
quyền . Chúng ta phải tự mình xét xử , toàn thể công dân không trừa một ai
đều phải tham gia xét xử và quản lý đất nước ”[9]. Ở nước ta , nguyên tắc “
việc xét xử tòa án có hội thẩm có hội thẩm nhân dân tham gia ” và “ khi xét
xử , thấm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật ” đã
được ghi nhận qua các bản hiến pháp năm 1946 , 1959 , 1980 , 1992 và tiếp
tục được khẳng định tại khoản 1 , khoản 2 điều 103 hiến pháp năm 2013
Có nhiều khái niệm về Hội thẩm nhân dân ,Tác giả phân tích một số
khái niệm về hội thẩm nhân dân như sau:
Khái niệm thứ nhất cho rằng:
“hội thẩm nhân dân là người được bầu hoặc cử theo quy định của pháp luật
để làm nhiệm vụ xét xử những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án”[10,tr. 109]
Khái niệm đã nói lên được việc hình thành lên hội thẩm nhân dân là
qua bầu hoặc cử và đã khoanh vùng được phạm vi hoạt động của hội thẩm
nhân dân trong thẩm quyền của tòa án. Tuy nhiên điểm hạn chế là
Khái niệm đã không nói rõ được đối tượng để được bầu và cử làm hội
thẩm nhân dân là ai và khái niệm cũng không nói rõ cơ chế bầu và cử hội
thẩm nhân dân như thế nào
Khái niệm thứ hai theo qua điểm từ điển
Từ điển việt nam thì “hội thẩm là người do hội đồng nhân dân bầu ra
trong một thời gian nhất định cùng với thẩm phán làm nhiệm vụ xét xử các vụ
án xảy ra ở địa phương”[11,tr. 238]
6


Khái niệm đã nói lên được cơ chế hình thành lên hội thẩm là do hội
đồng nhân dân bầu ra và cũng có nói lên được phạm vi hoạt động của hội
thẩm nhân dân là xét xử các vụ án xảy ra ở địa phương
Tuy nhiên khái niệm vẫn chưa đưa ra được đối tượng hội thẩm nhân

dân được bầu hoặc cử là ai.
Khái niệm thứ ba cho rằng:
“Hội thẩm nhân dân là người có uy tín, được nhân dân tín nhiệm bầu
ra trong các tầng lớp nhân dân tham gia vào công tác xét xử”[12,tr. 38]
Khái niệm là đã đưa ra được đối tượng để bầu và cử làm hội thẩm đó là
người có uy tính. Tuy nhiên
Khái niệm đã có quá nhiều thiếu sót đó là về cơ chế để bầu và cử hội
thẩm nhân dân . khái niệm cũng chưa đề cập rõ ràng về bản chất và phạm vi
hoạt động của hội thẩm nhân dân
Như vậy hội thẩm nhân dân có các đặc điểm sau :
- Bản Chất
- Cơ Chế
- Phạm Vi Hoạt Động
- Đối Tượng
Từ việc làm rõ các khái niệm về hội thẩm nhân dân ở trên em đã xây
dựng được khái niệm khoa học về hội thẩm nhân dân như sau :
“Hội thẩm nhân dân là công dân Việt Nam , có phẩm chất đạo đức tốt ,
có uy tính trong cộng đồng dân cư ,có kiến thức pháp luật có hiểu biết xã hội
và được Ủy ban mặt trận tổ quốc việt nam giới thiệu cho hội đồng nhân dân
cùng cấp có thẩm quyền theo luật định bầu hoặc cử để thực hiện nhiệm vụ xét
xử những vụ án thuộc thẩm quyền của tòa án nhân dân ”
1.2 Vị trí vai trò của hội thẩm nhân dân :
Các vị Hội thẩm Toà án nhân dân có vai trò rất quan trọng, đã tích cực
tham gia công tác xét xử của Toà án đã thể hiện được vị trí của mình là đại

7


diện của nhân dân để bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp của các cơ
quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và của công dân, đã thể

hiện được trách nhiệm của Hội thẩm nhân dân trong việc bảo vệ sự công bằng
xã hội, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Trong hoạt động xét xử đã đảm bảo nguyên tắc xét xử đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật góp phần giữ gìn kỷ cương xã hội, không để các
quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức xã hội và Nhà nước bị xâm
phạm. Hội thẩm Toà án nhân dân với tư cách là đại diện của nhân dân tham
gia vào các công tác xét xử, các vị Hội thẩm nhân dân là đại biểu của các
đoàn thể, các giới, các ngành, các tổ chức xã hội được UBMT Tổ quốc lựa
chọn giới thiệu và được Hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra đã bổ sung thêm
những kinh nghiệm thực tế, tri thức nghề nghiệp trong công tác xét xử của
Toà án. Khi xét xử các vị Hội thẩm nhân dân đã đóng góp nhiều ý kiến xác
đáng và quan trọng thông qua việc hiểu rõ tình hình thực tế các hiểu biết về
phong tục tập quán, tâm tư nguyện vọng và dư luận quần chúng có liên quan
đến vụ án góp phần quan trọng cho việc vận dụng đường lối xét phù hợp với
từng vụ án cụ thể. Ngoài việc trực tiếp tham gia vào công tác xét xử, các vị
Hội thẩm nhân dân đã tích cực chú trọng đến công tác tuyên truyền pháp luật
nhằm góp phần đảm bảo an ninh trật tự, xã hội, đồng thời góp 1 phần vào việc
nâng cao ý thức pháp luật trong nhân dân, tăng cường ý thức sống và làm
việc theo hiến pháp và pháp luật. Từ đó góp phần hạn chế những vi phạm
pháp luật. Các vị Hội thẩm nhân dân bằng hoạt động tích cực của mình đã
cùng Toà án Góp phần giáo dục công dân trung thành với tổ quốc, chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật, tôn trọng những quy tắc của cuộc sống xã hội, ý thức
đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vi phạm pháp luật khác. Do vừa
tham gia vào các công vịêc đoàn thể, công việc chuyên môn nghề nghiệp của
mình có vốn sống thực tế phong phú, nên khi tham gia xét xử các Hội thẩm
8


nắm được tâm tư nguyện vọng, dư luận của nhân dân; từ đó có quan điểm,
chính kiến phù hợp thực tế khách quan sát với cuộc sống xã hội, đóng góp

vào phán quyết của Hội đồng xét xử thấu tình đạt lý. Là những người đại biểu
của dân, các vị Hội thẩm có quan hệ mật thiếtt với quần chúng nhân dân ở cơ
sở như cơ quan, xí nghiệp, đoàn thể xã hội, làng xóm, khu phố, trường học...
Đồng thời với tư cách là người tham gia hoạt động xét xử các vị Hội thẩm
nhân dân có điều kiện tiếp cận trực tiếp đối với người thật, việc thật nên hiểu
được tính chất và các tình tiết cụ thể của từng vụ án do vậy khi tham gia xét
xử phán quyết của Hội đồng xét xử đảm bảo được tính khách quan, toàn diện
đúng với các quy định của pháp luật.
Các vị Hội thẩm bằng sự gương mẫu của bản thân, gương mẫu trong
sinh hoạt, trong việc tuân thủ pháp luật và trong ý thức tự bồi dưỡng những
kiến thức pháp luật cho bản thân đã góp phần nâng cao uy tín của Hội thẩm
Toà án góp phần nâng cao uy tín của cơ quan xét xử.
1.3 Nhiệm vụ , quyền hạn và trách nhiệm của hội thẩm nhân dân :
Hội thẩm nhân dân là những người kiêm nhiệm giữ nhiệm vụ xét xử
không chuyên, chịu sự quản lý của Chánh án Tòa án nhân dân địa phương
theo Quy chế về tổ chức và hoạt động của Hội thẩm. Cũng nhưThẩm phán
“Hội thẩm nhân dân làm nhiệm vụ theo sự phân công của Chánh án Tòa án
nơi mình được bầu làm Hội thẩm” (Điều 32 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội
thẩm Tòa án nhân dân 2002)[13]. Hội thẩm nhân dân được thực hiện tất cả
các quyền và nghĩa vụ do pháp luật quy định kể từ khi nhận được quyết định
phân công xét xử của Tòa án. Theo quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm
2003 tại điều 40 có quy định “1. Hội thẩm được phân công xét xử vụ án hình
sự có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây:
a) Nghiên cứu hồ sơ vụ án trước khi mở phiên toà;
b) Tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm, phúc thẩm;

9


c) Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc

thẩm quyền của Hội đồng xét xử.
2. Hội thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và
quyết định của mình.”
1.3.1 Quyền nghiên cứu hồ sơ :
Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án tạo điều kiện cho Hội thẩm hiểu rõ nội
dung vụ án, nắm bắt được cụ thể các vấn đề đang đòi hỏi được giải quyết giúp
cho Hội Thẩm có quan điểm độc lập, khách quan, vô tư và chuẩn bị tốt cho
công tác xét xử. theo quy định tại khoản 1 điều 176 bộ luật tố tụng hình sự có
quy định “Sau khi nhận hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ tọa
phiên tòa có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu
của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho
việc mở phiên tòa” như vậy quy định này đã nói lên nhiệm vụ của thẩm phán
được phân công chủ tọa phiên tòa là phải nghiên cứu hồ sơ và giải quyết các
công việc khác . ở quy định này không hề nhắc đến hội thẩm nhân dân .
Nhưng như chúng ta đã biết theo điểm a khoản 1 điều 40 cũng có quy định
nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ cho hội thẩm nhân dân vì vậy để kết hợp điều 40
và điều 176 thì hội thẩm nhân dân sẽ được nghiên cứu hồ sơ khi nhân được hồ
sơ vụ án . Để ra quyết định phù hợp với pháp luật. Nếu Hội thẩm nhận thấy
chứng cứ không có giá trị chứng minh hoặc thiếu tính chính xác thì nên chủ
động đề nghị Thẩm phán trả hồ sơ để điều tra bổ sung, thu thập thêm chứng
cứ.
- Hội thẩm có quyền từ chối tham gia Hội đồng xét xử nếu thấy sự
tham gia của mình là không khách quan trong khi giải quyết vụ án.
- Hội thẩm có quyền đề nghị Chánh án Tòa án, Thẩm phán ra các
quyết định cần thiết thuộc thẩm quyền.
- Trong khi nghị án Hội thẩm có quyền thảo luận, tranh luận, tham
gia đưa ra ý kiến quyết định của Hội đồng xét xử. Những ý kiến khác nhau
10



của các thành viên trong Hội đồng xét xử được ghi lại một cách trung thực,
khách quan trong biên bản nghị án, nếu có ý kiến cần bảo lưu thì được ghi
nhận bằng văn bản riêng và được lưu vào trong hồ sơ vụ án.
Hội thẩm phải tuân thủ đạo đức nghề nghiệp, phải giữ bí mật theo quy
định của pháp luật, phải tôn trọng nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân.
Hội thẩm có nhiệm vụ vận động giải thích cho nhân dân thực hiện pháp luật,
đồng thời đóng vai trò hòa giải viên nhân dân trong việc giữ gìn trật tự xã hội,
văn hóa tại địa phương. Hội thẩm còn phải chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
thường xuyên rèn luyện, nâng cao kiến thức, phấn đấu để luôn bảo đảm
những tiêu chuẩn khi được bầu. Cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân dân
có người được bầu hoặc cử làm Hội thẩm Tòa án nhân dân có trách nhiệm tạo
điều kiện để Hội thẩm làm nhiệm vụ. Trong thời gian Hội thẩm làm nhiệm vụ
theo sự phân công của Chánh án thì cơ quan, tổ chức, đơn vị vũ trang nhân
dân có Hội thẩm đó không được điều động, phân công Hội thẩm làm việc
khác, trừ trường hợp đặc biệt (Điều 40 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm
Tòa án nhân dân2002).
1.3.2 Tham gia xét xử :
Theo điểm b khoản 1 điều 40 bộ luật tố tụng hình sự 2003 có quy định
“hội thẩm tham gia xét xử các vụ án hình sự theo thủ tục sơ thẩm , phúc thẩm
” việc tham gia của Hội thẩm nhân dân giúp cho Tòa án xét xử không chỉ
đúng pháp luật mà còn phù hợp với nguyện vọng của nhân dân. Hội thẩm
nhân dân có đời sống chung trong cộng đồng, trong tập thể lao động, nên họ
hiểu sâu hơn tâm tư nguyện vọng, nắm bắt được dư luận quần chúng nhân
dân. Khi được cử hoặc bầu làm Hội thẩm nhân dân, Hội thẩm không tách khỏi
hoạt động lao động sản xuất của cơ quan, đơn vị mình. Với vốn hiểu biết thực
tế, kinh nghiệm trong cuộc sống, sự am hiểu về phong tục tập quán địa
phương, Hội thẩm nhân dân sẽ bổ sung cho Thẩm phán những kiến thức xã
hội cần thiết trong quá trình xét xử để có được một phán quyết đúng pháp
luật, được xã hội đồng tình ủng hộ.
11



1.3.3 Tiến hành các hoạt động tố tụng :
Theo điểm c khoản 1 điều 40 của bộ luật tố tụng hình sự 2003 có quy định
“Tiến hành các hoạt động tố tụng và biểu quyết những vấn đề thuộc thẩm quyền
của hội đồng xét xử” Vậy tiến hành các hoạt động tố tụng ở đây như là hoạt
động xét hỏi và nghe ý kiến như điều 184 bộ luật tố tụng hình sự cũng có quy
định.
“1. Tòa án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án bằng cách
hỏi và nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án hoặc người đại diện hợp pháp
của họ, người làm chứng, người giám định, xem xét vật chứng và nghe ý kiến
của Kiểm sát viên, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự. Bản
án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa.
2. Việc xét xử phải tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ.”
Áp dụng các biện pháp được Bộ luật tố tụng hình sự quy định để xem
xét, đánh giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, toàn diện, nhằm
xác định sự thật của vụ án, đồng thời loại bỏ những tình tiết không liên quan
đến vụ án.
Xét hỏi là giai đoạn trung tâm của hoạt động xét xử và cũng là giai
đoạn quan trọng nhất để xác định sự thật vụ án, có thể những câu hỏi và
những câu trả lời tại phiên toà không khác với những câu hỏi và câu trả lời ở
giai đoạn điều tra, nhưng nó có một ý nghĩa vô cùng quan trọng ở chỗ: Việc
hỏi và trả lời được diễn ra công khai, nó là hình thức kiểm nghiệm kết quả
điều tra của Cơ quan điều tra. Ngoài việc xét hỏi, Hội đồng xét xử còn xem
xét vật chứng, xem xét hiện trường xảy ra vụ án và những nơi khác, công bố
các tại liệu .Cũng chính vì vậy mà Hội đồng xét xử còn có những hoạt động
khác ngoài việc xét hỏi nên nhiều ý kiến cho rằng chương XX Bộ luật tố tụng
hình sự nên có tiêu đề là: “Thủ tục điều tra xét hỏi tại phiên toà”. ý kiến này


12


theo chúng tôi là hợp lý và nó phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 273 Bộ
luật tố tụng hình sự về căn cứ kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, đó là:
“Việc điều tra xét hỏi tại phiên toà phiến diện hoặc không đầy đủ”.
Như vậy, xét hỏi tại phiên toà là một hoạt động tố tụng rất quan trọng,
nếu bỏ qua giai đoạn này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Từ khi có
Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 2-1-2002 Bộ chính trị về một số nhiệm vụ
trọng tâm của công tác tư pháp thì vấn đề xét hỏi tại phiên toà hình sự lại càng
được quan tâm hơn, đặc biệt đối với vai trò của Kiểm sát viên tham gia phiên
toà. Một trong những nội dung quan trọng của Nghị quyết số 08-NQ/TW
ngày 2-1-2002 Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư
pháp là: “Bảo đảm tranh tụng dân chủ với Luật sư, người bào chữa và những
người tham gia tố tụng khác...; việc phán quyết của Toà án phải căn cứ chủ
yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên toà”.
Như vậy, vấn đề tranh tụng tại phiên toà hình sự vừa là một trong
những nội dung rất quan trọng trong hoạt động tố tụng hình sự, vừa là một
vấn đề có tính thời sự trong giai đoạn hiện nay.
Hội đồng xét xử không phải là người tham gia tranh tụng, mà chỉ là
người tổ chức, điều khiển việc tranh tụng tại phiên toà giữa những người có
quyền và lợi ích đối lập nhau.
1.3.4 Trách nhiệm :
Được quy định tại khoản 2 điều 40 bộ luật tố tụng hình sự 2003 “ hội
thẩm phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những hành vi và quyết định
của mình” Cũng như các cán bộ, công chức khác, Hội thẩm vẫn phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ-quyền hạn của mình,
kể cả trách nhiệm hình sự. Điều 295 Bộ Luật hình sự 1999 sửa đổi bổ sung
2009 đã quy định những chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với Hội thẩm vi
phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp: “Hội thẩm nào ra bản án mà mình


13


biết rõ là trái pháp luật, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm;Phạm tội gây
hậu quả nghiêm trọng thì bị phạt tù từ ba năm đến mười năm; Phạm tội gây
hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng thì phạt tù từ bảy năm
đến mười lăm năm; Người phạm tội còn bị cấm đảm nhiệm chức vụ nhất định
từ một năm đến năm năm”. Mặt khác, theo Điều 8 Pháp lệnh Thẩm phán và
Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002 thì: “Thẩm phán, Hội thẩm trong khi thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình mà gây thiệt hại thì Tòa án nơi Thẩm
phán, Hội thẩm đó thực hiện nhiệm vụ xét xử phải có trách nhiệm bồi thường
và Thẩm phán, Hội thẩm đã gây thiệt hại có trách nhiệm bồi hoàn cho Tòa án
theo quy định của pháp luật”. Quy định này nhằm nhắc nhở các Hội thẩm
phải có tinh thần trách nhiệm, phải thận trọng và cân nhắc để phán quyết sự
việc vì lẽ công bằng chứ không vì vị nể hay vụ lợi. “Hội thẩm được bồi
dưỡng về nghiệp vụ, tham gia hội nghị tổng kết công tác xét xử của Tòa án.
Kinh phí bồi dưỡng về nghiệp vụ cho Hội thẩm được dự toán trong kinh phí
hoạt động của Tòa án nhân dân, có sự hỗ trợ của ngân sách địa phương”
(Khoản 1 Điều 33 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002).
Trình độ nghiệp vụ của Hội thẩm được nâng cao là điều kiện tiên quyết để
Hội thẩm thực hiện quyền Hiến định . Đồng thời để tạo điều kiện cho Hội
thẩm khi làm nhiệm vụ, Điều 34 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án
nhân dân 2002 quy định: “Hội thẩm được cấp trang phục, Giấy chứng minh
Hội thẩm để làm nhiệm vụ xét xử…, Khi làm nhiệm vụ xét xử Hội thẩm được
hưởng phụ cấp theo quy định của pháp luật”. Hội thẩm sẽ được hưởng phụ
cấp cho từng phiên tòa, riêng đối với trang phục thì sẽ được cấp phát vào đầu
và giữa nhiệm kỳ để sử dụng theo niên hạn. Mặt khác, nếu “Hội thẩm là cán
bộ, công chức, quân nhân tại ngũ, công nhân quốc phòng thì thời gian làm
nhiệm vụ Hội thẩm được tính vào thời gian làm việc ở cơ quan, đơn vị”

(Khoản 2 Điều 33 Pháp lệnh Thẩm phán và Hội thẩm Tòa án nhân dân 2002).

14


1.4 NGUYÊN TẮC HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI THẨM NHÂN DÂN
1.4.1 Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nguyên tắc này được hiến pháp năm 2013 quy định tại điều 8 với nội
dung nguyên tắc
Điều 8
1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ.
2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, viên chức phải tôn trọng
Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng
nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống
tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.
Mặt khác nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự là
những quy định cơ bản chung nhất được ghi nhận trong bộ luật tố tụng hình
sự và mang ý nghĩa chỉ đạo đối với toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự theo đó
các cơ quan tiến hành tố tụng , những người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng trong khi thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng phải triệt để
tuân theo những quy định của pháp luật tố tụng hình sự
Nguyên tắc bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa trong tố tụng hình sự
được quy định tại Điều 3 bộ luật tố tụng hình sự năm 2003: “Mọi hoạt động
tố tụng hình sự của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và
người tham gia tố tụng phải được tiến hành theo quy định của Bộ luật này”
Như vậy với tính chất là nguyên tắc hiến định và của pháp luật , pháp
chế xã hội chủ nghĩa luôn luôn giữ vai trò chỉ đạo định hướng cho toàn bộ cơ
chế điều chỉnh pháp luật , có ảnh hưởng rất lớn tời ý thức pháp luật , trật tự

pháp luật và văn hóa pháp lý trong xã hội . Ngoài ra nguyên tắc pháp chế còn
ảnh hưởng sâu sắc tới chất lượng và hiệu quả của pháp luật .

15


Đây là nguyên tắc chỉ đạo, bao trùm nhất, được thể hiện trong tất cả các
hoạt động của các cơ quan nhà nước nói chung và trong hoạt động xét xử của
Toà án nhân dân nói riêng. Trong hoạt động xét xử, để bảo đảm cho nguyên
tắc này không bị vi phạm, đòi hỏi Hội thẩm nhân dân (HTND) phải tuân thủ
nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật trong khi thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, từ các quy định của pháp luật tố tụng đến các quy định của
pháp luật về nội dung.
1.4.2 Nguyên tắc xét xử của tòa án nhân dân có hội thẩm nhân dân
tham gia
Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có quy định tại
“Điều 15. Thực hiện chế độ xét xử có Hội thẩm tham gia
Việc xét xử của Toà án nhân dân có Hội thẩm nhân dân, của Toà án
quân sự có Hội thẩm quân nhân tham gia theo quy định của Bộ luật này. Khi
xét xử, Hội thẩm ngang quyền với Thẩm phán.” , việc tham gia của hội thẩm
nhân dân là một trong những yêu cầu bắt buộc trong quá trình xét xử sơ thẩm
các vụ án. Từ quy định như vậy, có thể thấy vai trò của hội thẩm nhân dân là
hết sức quan trọng trong việc xét xử sơ thẩm các vụ án ở nước ta.
Và để đi tìm lời giải cho câu hỏi là: Vì sao phải sử dụng tới 2 hội thẩm
nhân dân mà chỉ cần 1 thẩm phán trong phiên toà sơ thẩm, em đã tìm hiểu và
so sánh quy định này trong hệ thống pháp luật của nhiều nước khác nhau và
thấy rằng việc đưa hội thẩm nhân dân (có nơi tổ chức theo mô hình bồi thẩm
đoàn) vào Hội đồng xét xử sơ thẩm chính là việc đưa tiếng nói từ phía xã hội
vào trong quá trình xét xử. Họ lập luận rằng, pháp luật chỉ là những khuôn
mẫu chung khá cứng nhắc được xây dựng trên sự đồng thuận theo tỷ lệ mà xã

hội chấp nhận được chứ đó không phải là đồng thuận tuyệt đối, cho nên pháp
luật cũng không phải là một giá trị tuyệt đối đúng để có thể áp dụng chung
cho mọi trường hợp.

16


Thứ hai, pháp luật cũng chỉ là một loại quy phạm xã hội có giá trị áp
dụng cao nhất chứ không phải là toàn bộ các quy phạm xã hội và có thể thay
thế các quy phạm xã hội khác trong đời sống hàng ngày. Do đó, cần có những
tiếng nói từ thực tiễn xã hội trong việc đưa ra các phán quyết có tính quyết
định đối với một quan hệ xã hội nào đó.
Ở nước ta, đã có nhiều cách giải thích khác nhau về sự ra đời của chế định
hội thẩm nhân dân trong Hội đồng xét xử. Có ý kiến cho rằng, với sự giao thoa
và tiếp nhận văn hoá pháp lý Trung Quốc thì các tư tưởng về pháp luật của nho
giáo Trung Quốc ảnh hưởng khá đậm nét văn hóa pháp lý Việt Nam. Do đó, các
chế định pháp luật của nước ta cũng mang đậm dấu ấn của tư tưởng nho giáo đó
là tính trọng tình: “Trăm cái lý không bằng tí cái tình”[14] … Cho nên, pháp
luật chưa phải là quy tắc cao nhất để phán xét đối với hành vi của xã hội. Vì vậy,
cần phải có tiếng nói từ phía người dân, từ phía xã hội thì mới coi đó là các phán
xét “thấu tình, đạt lý”[15] và những người góp phần mang lại tiếng nói đó chính
là các hội thẩm nhân dân được đề cử.
Hay cũng có cách lý giải rằng, trong một Nhà nước pháp quyền của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì việc quy định về số lượng của hội
thẩm nhân dân trong thành phần Hội đồng xét xử cũng là thể hiện tính nhân
dân của Nhà nước pháp quyền đó…
Tuy nhiên, nhìn từ khía cạnh Nhà nước pháp quyền thì các cách lý giải
trên đều có vẻ là chưa thoả đáng. Bởi lẽ, vấn đề mấu chốt của Nhà nước pháp
quyền là bảo đảm tính thượng tôn pháp luật. Pháp luật chỉ được thượng tôn
khi mà mọi quy định của pháp luật phải được nghiêm chỉnh tuân thủ một cách

triệt để, việc này đồng nghĩa với việc Nhà nước pháp quyền không có đất cho
“tí cái tình” (tí cái tình có thể làm thay đổi bản chất vụ án) trong các phán xét
của toà án, hay việc đảm bảo tuân thủ triệt để pháp luật cũng không còn chỗ
cho những phán xét nhiều tính “nhân dân” nhưng thiếu tính pháp lý trong đó.

17


Bên cạnh đó, từ thực tiễn chúng ta thấy, nguồn của các hội thẩm nhân
dân ở nước ta hiện nay thường là các cán bộ, công, viên chức của các cơ quan
nhà nước hoặc đương chức hoặc đã về hưu, do Mặt trận Tổ quốc giới thiệu
nên có lẽ tính nhân dân trong đó cũng không quá nhiều.
Vậy vấn đề đặt ra đối với các hội thẩm nhân dân là họ giữ vai trò như
thế nào trong Hội đồng xét xử ở nước ta hiện nay mới được coi là đúng? Theo
em nếu việc xét xử chỉ thuần tuý là việc áp dụng một cách cơ học các quy
phạm pháp luật vào vụ án thì có lẽ chúng ta nên sử dụng một Hội đồng xét xử
gồm 3 thẩm phán chứ không nên sử dụng Hội đồng xét xử gồm 2 hội thẩm
nhân dân và 1 thẩm phán. Vì rõ ràng những Thẩm phán được đào tạo về kiến
thức pháp luật một cách thành thạo hơn và chuyên nghiệp hơn sẽ là những
người áp dụng pháp luật tốt hơn.
Xét ở khía cạnh xã hội và khía cạnh lập pháp trong Nhà nước pháp
quyền, chúng ta cần lưu ý đến hai khía cạnh khá quan trọng trong các lý
thuyết cũng như thực tiễn pháp lý. Đó là, tính “trễ” của các quy phạm pháp
luật so với thực tiễn. Nghĩa là, các quy phạm pháp luật chỉ được xây dựng
trên cơ sở các vấn đề đã có trên thực tiễn một hoặc nhiều lần hay bằng cách
dự liệu nó sẽ xảy ra trên thực tiễn.
Thứ hai, ngoài các quy phạm pháp luật thực định pháp luật còn chứa đựng
trong đó một giá trị lớn hơn đó là tinh thần pháp luật. Tinh thần pháp luật có thể
hiểu một cách đơn giản là cái đích mà pháp luật mong muốn hướng đến. Từ các
khía cạnh trên, có thể thấy rằng việc quy định về hội thẩm nhân dân trong Hội

đồng xét xử là hoàn toàn có cơ sở và không trái với các nguyên tắc của Nhà
nước pháp quyền.
1.4.3 Nguyên tắc khi xét xử thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật
Hoạt động xét xử của Tòa án là hoạt động nhân danh quyền lực của
Nhà nước, phán quyết của Tòa án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của Nhà

18


nước, tổ chức xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy, công
tác xét xử phải khách quan, toàn diện, tuân thủ pháp luật, đúng người, đúng
tội, không để lọt tội phạm nhưng cũng không xử oan người vô tội. Muốn vậy,
khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật. Đây là một nguyên tắc hiến định được ghi nhận trong bốn bản Hiến pháp
và trong Bộ luật tố tụng hình sự.
Nguyên tắc này cũng được bộ luật tố tụng hình sự quy định tại Điều 16:
“Khi xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.”
- Thứ nhất, các cơ quan nhà nước khác không được can thiệp vào việc
xét xử của Tòa án, vì chỉ có Tòa án là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao
cho thực hiện chức năng xét xử;
- Thứ hai, hoạt động xét xử của Tòa án không lệ thuộc vào ý kiến của
cơ quan điều tra, Viện kiểm sát. Nếu qua phiên tòa xét xử, Tòa án xét thấy
cần thiết xử lý khác với ý kiến của các cơ quan đó thì Tòa án sẽ căn cứ vào
các quy định của pháp luật để đưa ra quyết định xử lý.
- Thứ ba, trong nội bộ ngành Tòa án, Tòa án cấp trên hướng dẫn Tòa án
cấp dưới về áp dụng thống nhất pháp luật, đường lối xét xử, nhưng Tòa án cấp
trên không quyết định trước về chủ trương xét xử cụ thể một vụ án buộc Tòa án
cấp dưới phải tuân theo. Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm không chỉ độc lập với
các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát mà còn độc lập với chính các thành viên của

Hội đồng xét xử với nhau. Cá nhân mỗi thẩm phán, hội thẩm phải độc lập trong
suy nghĩ, phán xét. Hội đồng làm việc theo nguyên tắc xét xử tập thế và quyết
định theo đa số.
- Khi xét xử Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập không có nghĩa
là xét xử tùy tiện mà phải độc lập trong khuôn khổ pháp luật, phải tuân theo
pháp luật

19


Như vậy việc quy định cho thẩm phán và hội thẩm được độc lập và chỉ
tuân theo pháp luật trong xét xử là để nâng cao trách nhiệm của hội đồng xét
xử, chủ động nghiên cứu mọi tình tiết của vụ án, nghiêm chỉnh tuân thủ pháp
luật , ra quyết định phù hợp với bất cứ ai không lệ thuộc vào bất cứ cơ quan tổ
chức hay cá nhân nào. Song không có nghĩa là mọi quyết định của hội đồng
xét xử lại không có sự giám sát nào. Pháp luật là cơ sở để kiểm tra tính hợp
pháp của các quyết định ấy và loại bỏ mọi hành vi tuỳ tiện có thể xảy ra.
Thẩm phán và hội thẩm tham gia giải quyết vụ án có thể bị thay đổi nếu vi
phạm quy định của điều 42 Bộ luật tố tụng hình sự về những trường hợp phải
thay đổi người tiến hành tố tụng.

20


×