Tải bản đầy đủ (.doc) (43 trang)

tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên trung học cơ sở môn lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.25 KB, 43 trang )

Lời nói đầu
Trước những đòi hỏi ngày càng cao của xã hội đối với chất lượng giáo dục nói
chung và đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý nói riêng. Với quan điểm giáo viên là một
trong những nhân tố quyết định chất lượng giáo dục của trường học. Đảng, Nhà nước ta
đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng và phát triển đội ngũ giáo viên. Một trong
những nội dung được chú trọng trong công tác này là bồi dưỡng thường xuyên (BDTX)
cho giáo viên, công tác bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên được coi là một trong
những giải pháp, nhiệm vụ trọng tâm, nó có vai trò rất quan trọng trong việc hoàn thiện
và phát triển nhân cách nghề nghiệp của mỗi giáo viên. Công cụ lao động của người
thầy giáo là tri thức khoa học, mà tri thức thì cần phải được thường xuyên cập nhật và
làm mới thì mới đáp ứng được yêu cầu của xã hội. Vì vậy, người giáo viên cần phải
được bồi dưỡng thường xuyên, trong bồi dưỡng phải được định hướng những vấn đề cơ
bản, cập nhật để có thể tự bồi dưỡng nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu trong
công việc của mình.
Thực hiện Quy chế bồi dưỡng thường xuyên giáo viên mầm non, phổ thông và
giáo dục thường xuyên của Bộ Giáo dục và Đào tạo (ban hành kèm theo Thông tư số
26/2012/TT-BGDĐT). Mỗi giáo viên phải bồi dưỡng 120 tiết/ năm học, với 3 khối kiến
thức chính tập trung vào phát triển năng lực chuyên môn theo yêu cầu chỉ đạo chuyên
môn và thực hiện nhiệm vụ năm học theo cấp học với dung lượng chiếm khoảng 25%
chương trình (khoảng 30 tiết/ năm học); tăng cường năng lực cho giáo viên trong việc
hiện các nhiệm vụ giáo dục theo cấp học ở từng địa phương với dung lượng khoảng
25% chương trình (khoảng 30 tiết/năm học) và phát triển các năng lực lao động nghề
nghiệp cho giáo viên để đáp ứng chuẩn nghề nghiệp với dung lượng khoảng 50%
(khoảng 60 tiết/ năm học).
Để đáp ứng tài liệu bồi dưỡng cho giáo viên THCS trong tỉnh, ban biên soạn giới
thiệu một số phương pháp, kĩ thuật dạy học môn Vật lí cấp THCS nhằm cung cấp cho
đội ngũ giáo viên Vật lí có cái nhìn đầy đủ và cụ thể hơn về phương pháp, kỹ thuật dạy
học này. Tài liệu được biên soạn thành 3 phần, mỗi phần có các hoạt động và các câu
hỏi gợi ý cho hoạt động để giáo viên tự tìm hiểu, nghiên cứu. Sau mỗi hoạt động, mỗi
câu hỏi có thông tin phản hồi cho hoạt động để giáo viên có thể tham khảo. Vì thời gian
có hạn và năng lực của ban biên soạn còn hạn chế nên chắc chắn tài liệu này sẽ không


tránh khỏi sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý xây dựng của các đồng chí đồng
nghiệp để nội dung của tài liệu ngày càng hoàn chỉnh hơn.
Nhóm biên soạn xin chân thành cảm ơn các bạn đồng nghiệp trong và ngoài tỉnh
trong thời gian qua đã giúp đỡ, góp ý tận tình để chúng tôi kịp thời hoàn thành tài liệu
này.
Nhóm biên soạn
1


MỤC LỤC

Nội dung
Phần 1: MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC VẬT LÍ
HOẠT ĐỘNG 1: TÌM HIỂU NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA VIỆC SOẠN
GIẢNG HIỆN NAY.

Trang
3
3

HOẠT ĐỘNG 2. TÌM HIỂU KĨ THUẬT DẠY HỌC GIỜ LÝ THUYẾT VẬT LÍ

4

HOẠT ĐỘNG 3. TÌM HIỂU KĨ THUẬT DẠY GIỜ BÀI TẬP VẬT LÍ

13

HOẠT ĐỘNG 4. TÌM HIỂU MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC KHÁC CÓ THỂ ÁP
DỤNG VÀO DẠY HỌC VẬT LÍ.


20

Câu hỏi ôn tập phần 1

30

Phần 2: DẠY HỌC KIỂU BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT MÔN VẬT
LÍ THCS

25

HOẠT ĐỘNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG KHI DẠY BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT
MÔN VẬT LÍ THCS.

25

HOẠT ĐỘNG 2. TÌM HIỂU NHỮNG BIỆN PHÁP ÁP DỤNG TRONG VIỆC ĐỔI
MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC KIỂU BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT VẬT LÍ CẤP

26

TRUNG HỌC CƠ SỞ.

Câu hỏi ôn tập phần 2
Phần 3: DẠY HỌC ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH YẾU KÉM

31

HOẠT ĐỘNG 1. TÌM HIỂU CÁCH NHẬN DIỆN HỌC SINH YẾU KÉM


31

HOẠT ĐỘNG 2. TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN HỌC SINH YẾU KÉM

32

HOẠT ĐỘNG 3. TÌM HIỂU GIẢI PHÁP DẠY HỌC ĐỐI TƯỢNG HỌC SINH YẾU
KÉM

Câu hỏi ôn tập phần 3

33
37

TÀI LIỆU THAM KHẢO

38

PHỤ LỤC

39

2


Phần 1
MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC VẬT LÍ
Muc tiêu:
- Xác định được những định hướng chung của việc soạn giảng hiện nay.

- Nêu được các kĩ thuật dạy học cơ bản bộ môn Vật lí cấp THCS; Kĩ thuật dạy học giờ
lý thuyết, kĩ thuật dạy học giờ bài tập và một số kĩ thuật dạy học khác.
- Biết áp dụng thành thạo các kĩ thuật dạy học vào các tiết dạy môn Vật lí một cách
linh hoạt để nâng cao chất lượng giờ dạy trên lớp.
HOẠT ĐỘNG 1: TÌM HIỂU NHỮNG ĐỊNH HƯỚNG CHUNG CỦA VIỆC SOẠN
GIẢNG HIỆN NAY.

Thông tin phản hồi:
- Đặt ra mục tiêu bài học thật rõ ràng: Mục tiêu chính là kết quả sau khi kết thúc
bài học học sinh cần nhớ, cần hiểu và cần vận dụng được những gì (3 mức độ ban đầu
trong thang nhận thức Bloom) Mục tiêu bài học phải chi tiết, cụ thể và được thể hiện
bằng các động từ cụ thể như nêu được, phát biểu được, giải thích được, áp dụng được,
tóm tắt được, so sánh được...Không viết mục tiêu chung chung không rõ ràng. Giáo
viên cần thuộc lòng mục tiêu bài dạy trước khi lên lớp. Sau mỗi tiết học giáo viên có thể
kiểm tra xem học sinh đã đạt được những mục tiêu mà mình đề ra chưa.
- Luôn chủ động linh hoạt tìm mạch lô gic để làm cho bài giảng được hay, hấp
dẫn, lô gic, không quá phụ thuộc vào sách giáo khoa, có thể sử dụng lô gic hình thành
kiến thức theo phương án khác sách giáo khoa hoặc đảo thứ tự các phần, các nội dung
trong bài học miễn sao đạt được mục tiêu bài dạy.
- Lựa chọn và cung cấp lượng kiến thức phù hợp với trình độ và khả năng nhận
thức của học sinh. Trên cơ sở mục tiêu đã biên soạn, giáo viên nên lựa chọn những vấn
đề kiến thức phù hợp với đối tượng, không quá nặng nề phức tạp (nhưng vẫn đảm bảo
là kiến thức trọng tâm, vẫn phải nằm trong mục tiêu của bài). Với những phép chứng
minh, giải thích quá phức tạp, rắc rối, học sinh không thể hiểu được thì có thể cho học
sinh công nhận kết quả rồi tìm cách áp dụng vào các trường hợp cụ thể, phần chứng
minh có thể yêu cầu những em học sinh khá về nhà đọc sách tự tìm hiểu.
- Trong mỗi giờ học sử dụng nhiều phương pháp giảng dạy: Có nhiều phương pháp
trong giảng dạy môn vật lí như thuyết trình, phát vấn, tổ chức thảo luận nhóm, tổ chức
làm việc cá nhân, trực quan (khai thác phương tiện dạy học)... Giáo viên cần căn cứ vào
nội dung kiến thức và đối tượng học sinh để lựa chọn các phương pháp phù hợp trong

giờ dạy (Xác định trong bài học và ứng với đối tượng học sinh cụ thể chỗ nào nên
thuyết trình, chỗ nào nên đặt câu hỏi dẫn dắt, chỗ nào nên tổ chức thảo luận nhóm, làm
3


việc cá nhân...) Những nội dung này cần được thể hiện thật cụ thể trong giáo án. Trong
mỗi giờ học phải sử dụng từ 2 đến 3 phương pháp trở lên để tránh sự nhàm chán đồng
thời phát huy tốt tính tích cực của học sinh.
HOẠT ĐỘNG 2 . TÌM HIỂU KĨ THUẬT DẠY HỌC GIỜ LÝ THUYẾT

Câu hỏi 1: Đối với một giờ dạy lý thuyết, những hoạt động nào giáo viên
thường tiến hành?
Thông tin phản hồi:
1. Dẫn dắt vào vấn đề (nêu vấn đề)
2. Đặt câu hỏi gợi mở, điều khiển sự trả lời của học sinh
3. Thuyết trình, phân tích, diễn giảng
4. Làm thí nghiệm
5. Khai thác các phương tiện dạy học
6. Chia nhóm, tổ chức thảo luận
7. Tạo sự hứng thú cho lớp học.
Bảy hoạt động này cần được kết hợp với nhau một cách chặt chẽ và khéo léo sao cho
đạt được 3 mục đích:
- Học sinh tích cực hoạt động;
- Học sinh đạt được những mục tiêu mà giáo viên đã đề ra;
- Học sinh hứng thú đối với giờ học.
Câu hỏi 2: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động “Dẫn dắt, nêu vấn đề”?
Thông tin phản hồi:
Đây là hoạt động thường tiến hành ở đầu bài học hoặc ở đầu mỗi phần trong bài.
Hoạt động này có tác dụng tập trung sự chú ý của học sinh vào nội dung mà giáo viên
sắp trình bày. Để hoạt động này tiến hành có hiệu quả thì cần phải làm cho học sinh

cảm thấy tò mò về vấn đề mà giáo viên sắp trình bày. Muốn vậy, vấn đề mà giáo viên
dẫn dắt phải mới, lạ và hứng thú đối với học sinh. Dưới đây là một số cách dẫn dắt vào
vấn đề mà giáo viên có thể tiến hành:
- Nêu một tình huống thực tế có liên quan đến bài học. Khẳng định học sinh sẽ
giải thích được hiện tượng nếu như học xong bài học.
- Đặt một câu hỏi thực tế liên quan đến bài mà học sinh chưa trả lời được (tình
huống mới lạ).
- Làm một thí nghiệm mà kết quả có một điểm mới, lạ đối với học sinh.
- Kể một câu chuyện có liên quan đến bài học...
4


Câu hỏi 3: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động “Đặt câu hỏi gợi mở,
điều khiển sự trả lời của học sinh”?
Thông tin phản hồi:
Việc chuyển đổi nội dung kiến thức bài học thành một hệ thống các câu hỏi sẽ khơi
dậy sự tò mò tìm hiểu về bài học, từ đó học sinh chủ động khám phá kiến thức dưới sự
hướng dẫn của giáo viên, giờ dạy trở nên hào hứng, sinh động, học sinh thực sự trở
thành chủ động nắm kiến thức của bài, chất lượng, hiệu quả giờ dạy tăng lên rất nhiều.
Hệ thống câu hỏi trong dạy học có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc làm cho bài
giảng thực sự tạo được tình huống có vấn đề từ đó phát huy tính tích cực của học sinh
trong học tập. Để xây dựng được một hệ thống câu hỏi đạt yêu cầu đòi hỏi người thầy
phải dành nhiều thời gian, công sức nghiên cứu, tìm tòi, cân chỉnh, rút kinh nghiệm qua
soạn bài, qua sự thể hiện ở các giờ lên lớp, qua nhiều năm công tác.
Mỗi tiết dạy đưa ra nhiều hay ít câu hỏi, còn tùy thuộc vào từng bài và đối tượng học
sinh. Điều quan trọng nhất là đưa ra được các câu hỏi cần thiết vừa đủ, có chất lượng,
có tác dụng thiết thực tạo được các tình huống có vấn đề, kích thích tư duy của học sinh
khám phá kiến thức. Có bài hầu như chỉ phù hợp với phương pháp thuyết trình, tuy
nhiên nếu chịu khó tìm tòi, cân nhắc chúng ta vẫn có cơ hội đưa ra được một số câu hỏi
tạo tình huống có vấn đề làm tăng hiệu quả giờ dạy.

a. Yêu cầu đối với câu hỏi
- Câu hỏi có tác dụng đòi hỏi học sinh phải suy nghĩ, động não mới làm sáng tỏ được
những điều mà giáo viên đặt ra.
- Câu hỏi dựa trên những kinh nghiệm hoặc kiến thức bài cũ mà học sinh đã học, đã
biết.
- Câu hỏi có tính định hướng đến nội dung kiến thức mà giáo viên muốn học sinh chiếm
lĩnh, tránh những câu hỏi vu vơ không liên quan.
- Câu hỏi cần có hệ thống gợi ý, dẫn dắt để học sinh trả lời các ý, từ đó hoàn chỉnh vấn
đề cần trả lời.
b. Những câu hỏi không nên dùng
Câu hỏi là phương tiện cần thiết cho việc dạy theo phương pháp nêu vấn đề. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy để đưa ra được các câu hỏi đạt yêu cầu quả không phải dễ dàng.
Có không ít câu hỏi sử dụng đã tạo ra tác dụng ngược lại làm cho giờ dạy nhạt nhẽo,
lũng cũng, tốn thời gian, tạo dấu ấn rất mờ nhạt, không có giá trị phát huy tính tích cực
của học sinh. Cụ thể:
- Câu hỏi không dựa trên kinh nghiệm hoặc nền kiến thức cũ: Những câu hỏi loại này
thường làm học sinh lúng túng và thường phản ứng bằng cách đoán mò hoặc đọc sách
giáo khoa tìm câu trả lời.
5


- Câu hỏi không định hướng: khó xác định hoặc xác định sai yêu cầu, điều này làm học
sinh rối trí, mất nhiều thời gian đồng thời không hoàn thành được yêu cầu thầy giáo đặt
ra. Dạng câu hỏi này thực tế dẫn tới người giải quyết vấn đề lại chính là giáo viên.
- Câu hỏi quá dài, học sinh không thể nhớ hết nội dung câu hỏi.
- Các câu hỏi quá đơn giản không có giá trị phát huy trí lực học sinh, các câu hỏi vụn
vặt với những trả lời như: có, không, đúng ạ… loại câu hỏi này đưa ra vừa làm mất thời
gian vừa làm cho giờ dạy đơn điệu nhạt nhẽo.
- Câu hỏi đưa ra mà nội dung trả lời có sẵn trong SGK, học sinh không cần phải động
não, không cần ghi nhớ, chỉ cần đọc đúng là trả lời được vấn đề mà giáo viên nêu lên.

c. Kĩ thuật đặt câu hỏi
Bên cạnh hệ thống câu hỏi đã chuẩn bị thì cách hỏi và điều khiển sự trả lời của học
sinh cũng rất quan trọng. Để việc khai thác hệ thống câu hỏi đạt kết quả cao chúng ta
lưu ý một số điểm sau:
- Câu hỏi nêu ra phải chỉ rõ đối tượng trả lời, tránh tình trạng hỏi chung chung rồi sau
đó giáo viên tự trả lời.
- Khi đặt câu hỏi phải cho học sinh thời gian suy nghĩ, tránh việc nêu câu hỏi ra rồi
bắt học sinh trả lời luôn (có thể nói từ từ, nhấn mạnh, lặp đi lặp lại một vài lần).
- Với một câu hỏi có thể gọi một vài học sinh trả lời, nhận xét trả lời để kiểm tra sự
nhận thức của các em.
- Khi học sinh trả lời câu hỏi xong thì dù trả lời đúng hay sai cũng nên khen học sinh.
Điều này làm học sinh tăng sự tự tin trong việc suy nghĩ và trả lời câu hỏi của giáo viên.
- Nếu học sinh không trả lời được thì có thể sử dụng gợi ý cho câu hỏi hoặc gọi học
sinh khác, tránh việc dừng quá lâu trước một học sinh sẽ làm ảnh hưởng đến tiến độ bài
giảng.
- Đối với việc sử dụng khai thác các câu hỏi gợi ý của sách giáo khoa, tránh việc dùng
cụm từ “các em hãy đọc C1 và trả lời C 1…” Giáo viên cần thoát ly sách giáo khoa, nêu
hẳn câu hỏi lên theo mạch kiến thức bài học và cho học sinh suy nghĩ trả lời.
- Nên có hệ thống câu hỏi chọn lọc phù hợp với đối tượng học sinh. Đối với học sinh
trung bình, yếu nên cho trả lời những câu hỏi đơn giản, dễ dàng. Còn đối với học sinh
khá giỏi nên cho trả lời những câu hỏi cần suy luận nhiều hơn.
- Nếu là câu hỏi có dạng đúng, sai thì phải yêu cầu học sinh giải thích cho câu trả lời
của mình.
- Không nên đưa ra quá nhiều câu hỏi trong một bài học: điều này sẽ làm cho bài giảng
bị loảng, mất tính hệ thống, giờ giảng bị căng, học sinh mệt mỏi, tốn nhiều thời gian,
các kiến thức cốt lõi ít được giảng giải phân tích.
6


Hệ thống câu hỏi là yếu tố rất quan trọng đối với bài giảng, Giáo viên cần đầu

tư thời gian, công sức biên soạn hệ thống câu hỏi thể hiện rõ trong giáo án đồng thời
nắm vững những kĩ thuật hỏi để việc khai thác câu hỏi đạt kết quả cao nhất.
Câu hỏi 4: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động “Thuyết trình, phân tích,
diễn giảng”?
Thông tin phản hồi:
Đây là hoạt động không thể thiếu và chiếm thời gian đáng kể trong giờ học. Hoạt
động này thường kết hợp với hoạt động phát vấn (đặt câu hỏi). Sau đây chúng ta cùng
phân tích đặc điểm cũng như những điểm lưu ý khi thực hiện hoạt động này.
a. Khi nào cần phân tích, thuyết trình, diễn giảng?
- Những khái niệm mới
- Những vấn đề khó
- Những hiện tượng vật lí mới
- Những định luật vật lí
- Những ứng dụng vật lí
- Những giả thuyết vật lí.
b. Để việc phân tích, thuyết trình, diễn giảng đạt hiệu quả cần lưu ý:
- Lời nói, trình bày của người thầy phải sinh động: việc tạo cho giờ dạy có tính sinh
động, thu hút được học sinh có ý nghĩa cực kì quan trọng, chúng ta đã từng chứng kiến
cùng một bài dạy được trình bày với cung cách và ngôn ngữ giống nhau song do sự
khác nhau trong trạng thái tâm lí mà có lớp giờ giảng rất sinh động, học sinh tiếp thu
hào hứng, đưa lại hiệu quả cao, người ta thường gọi đó là bài giảng có hồn. Có lớp giờ
giảng diễn ra một cách nhạt nhẽo, buồn tẻ, nặng nề, mặc dù hoàn thành nhưng hiệu quả
rất thấp, những dấu ấn của bài giảng để lại trong trí não học sinh rất mờ nhạt, đó là
những bài giảng không có hồn.
Sự sinh động trong tiết học liên quan đến rất nhiều yếu tố: chuẩn bị bài kĩ lưỡng, nắm
chắc, hiểu sâu, biết rộng những điều trình bày, lòng yêu nghề, tinh thần trách nhiệm đối
với học sinh. Giáo viên phải luôn có tâm thế hào hứng đón chờ giờ dạy, thả hồn vào giờ
dạy, có lòng bao dung, xử lí một cách mềm dẻo, có chừng mực đối với các tình huống
không bình thường mà học sinh có thể bộc lộ trong giờ dạy. Sự hào hứng trong lời
giảng của thầy sẽ khơi dậy, lôi cuốn sự hào hứng tiếp thu và xây dựng bài của học sinh.

Để tạo sự sinh động trong giảng bài thì cần sử dụng ngôn ngữ gần gũi với học sinh,
không nhất thiết chỉ toàn sử dụng những thuật ngữ khoa học khô khan, nên sử dụng
những hình ảnh gần gũi dễ nhận biết, so sánh sự tương đồng giữa hiện tượng vật lí với
hiện tượng trong cuộc sống, giọng điệu phải thay đổi tránh giữ chất giọng đều đều suốt
cả giờ học, đôi khi pha thêm một vài câu đùa vui hóm hỉnh.
7


- Tích cực khai thác, sử dụng kênh hình trong việc phân tích, thuyết trình: Kênh
hình ở đây có thể là hình vẽ trong SGK, hình vẽ chuẩn bị sẵn, các hình ảnh, video mà
giáo viên đã chuẩn bị hoặc hình vẽ do giáo viên vẽ lên bảng trong giờ học. Việc đưa ra
hình vẽ, hình ảnh rồi phân tích hiện tượng, quá trình ngay trên hình vẽ, hình ảnh có tác
dụng giúp học sinh dễ hình dung, tưởng tượng ra hiện tượng, quá trình từ đó nắm bài tốt
hơn so với việc giáo viên chỉ nói mà không có bất cứ hình vẽ, hình ảnh nào.
- Sử dụng mô hình tương đồng giữa khái niệm, hiện tượng trong vật lí với khái
niệm hiện tượng trong cuộc sống quen thuộc đối với học sinh. Ví dụ so sánh sự tương
đồng của dòng điện với dòng nước, hiệu điện thế với hiệu độ cao...
- Nêu ví dụ và phân tích ví dụ khi cần trình bày một khái niệm, định luật phức tạp:
Một khái niệm khó nếu học sinh chỉ đọc định nghĩa và công thức có thể chưa hiểu ngay,
giáo viên cần nêu và phân tích một vài ví dụ về khái niệm, định luật đó. Điều này không
những giúp học sinh hiểu ngay tại lớp mà còn giúp cho việc làm bài tập của học sinh.
- Kết hợp chặt chẽ việc thuyết trình, diễn giảng với việc đặt câu hỏi và điều khiển sự
trả lời của học sinh: không nên thuyết trình quá dài mà nên có câu hỏi xen giữa các nội
dung thuyết trình. Điều này giúp cho học sinh vừa phải lắng nghe, quan sát vừa phải
suy nghĩ để trả lời câu hỏi của giáo viên.
Câu hỏi 5: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động“Làm thí nghiệm”?
Thông tin phản hồi:
Trong dạy học vật lí, làm thí nghiệm là một hoạt động khá đặc trưng của bộ môn.
Đối với các giờ lý thuyết thì thí nghiệm bao gồm hai loại là thí nghiệm biểu diễn của
thầy và thí nghiệm đồng loạt của trò. Chúng ta phân tích đặc điểm và kĩ thuật tiến hành

các loại thí nghiệm trên.
a. Thí nghiệm biểu diễn của thầy: ở loại thí nghiệm này giáo viên sẽ tiến hành thí
nghiệm biểu diễn để khảo sát hoặc minh họa một hiện tượng, quá trình, định luật vật lí
nào đó. Để tiến hành một cách hiệu quả chúng ta lưu ý những điểm sau:
- Trước khi làm thí nghiệm:
+ Giới thiệu mục đích thí nghiệm: đây là điều đầu tiên giáo viên cần làm trước khi tiến
hành thí nghiệm. Học sinh phải biết là thí nghiệm này để làm gì, từ đó tập trung vào
những chỗ cốt lõi, chủ yếu trong kết quả thí nghiệm.
+ Giới thiệu dụng cụ thí nghiệm: nêu những bộ phận và tác dụng của từng bộ phận
trong thí nghiệm. Không cần quá đi sâu vào chi tiết kĩ thuật, chỉ cần giới thiệu tên gọi,
sơ lược cơ chế hoạt động và tác dụng của bộ phận.
+ Hướng dẫn học sinh tập trung quan sát vào kết quả cốt lõi của thí nghiệm, tránh tập
trung vào những kết quả không chủ yếu (xa mục đích).
- Khi làm thí nghiệm:
8


+ Kết hợp vừa thuyết trình, phân tích vừa tiến hành thí nghiệm.
+ Kết hợp vừa làm thí nghiệm vừa đặt câu hỏi cho học sinh: ví dụ như đang làm thí
nghiệm thì dừng lại, yêu cầu học sinh dự đoán điều sắp xảy ra, yêu cầu học sinh suy
nghĩ để lí giải kết quả thí nghiệm…
+ Hướng dẫn học sinh phân tích, xử lí số liệu thu được từ thí nghiệm.
+ Chốt lại kết luận sau khi làm xong thí nghiệm và xử lí xong dữ liệu.
Về mặt kĩ thuật cần lưu ý: Thí nghiệm phải bố trí cho cả lớp đều quan sát được. Nếu
dụng cụ quá nhỏ không thể quan sát cả lớp có thể gọi từng bàn lên quan sát lần lượt.
b. Thí nghiệm đồng loạt của trò: Hoạt động này thường tiến hành khi nội dung của thí
nghiệm là đơn giản và có đủ dụng cụ cho các nhóm trong lớp tiến hành đồng loạt. Khi
tổ chức cho học sinh làm thí nghiệm đồng loạt tại lớp cần lưu ý những điểm sau:
- Trước khi làm thí nghiệm: giáo viên cần chia nhóm, giới thiệu mục đích thí nghiệm,
dụng cụ thí nghiệm, hướng dẫn học sinh quan sát kết quả cốt lõi của thí nghiệm, nêu

khoảng thời gian cho thí nghiệm.
- Trong khi làm thí nghiệm: theo dõi hoạt động của các nhóm, hướng dẫn những nhóm
chưa làm được thí nghiệm, đặt câu hỏi cho các nhóm trong quá trình làm thí nghiệm.
- Kết thúc thí nghiệm: hướng dẫn học sinh xử lí số liệu, rút ra kết luận, giáo viên chốt
lại.
Câu hỏi 6: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động “Khai thác các phương
tiện dạy học”?
Thông tin phản hồi:
Đây là hoạt động tiến hành song song đồng thời với các hoạt động trên. Các phương
tiện dạy học cơ bản gồm Bảng, SGK của học sinh, bảng phụ, máy tính, máy chiếu, dụng
cụ thí nghiệm… Chúng ta cùng phân tích cách khai thác hiệu quả các phương tiện chủ
yếu hay dùng nhất trong các giờ dạy lí thuyết vật lí.
a. Sử dụng khai thác Bảng :
- Đảm bảo hài hoà giữa trả lời của học sinh với lời giảng và việc ghi bảng của
thầy. Điều này tưởng như đơn giản nhưng thực tế không ít giáo viên thực hiện không
thành công. Lỗi thường mắc phải trong trường hợp này là: thầy giáo nêu câu hỏi, học
sinh trả lời, thầy giảng giải, phân tích xong và cuối cùng là ghi bảng. Cung cách này tạo
ra sự khập khểnh, không hài hoà, không ăn khớp giữa hoạt động của thầy và trò, tốn
thời gian và làm cho giờ giảng giảm bớt tính sinh động. Để thực hiện sự hài hòa này
giáo viên có thể chốt ghi bảng theo sự trả lời của học sinh hoặc có thể cho học sinh lên
bảng ghi nội dung vừa kết luận.

9


- Những nội dung trình bày trên bảng là những nội dung cô đọng thể hiện chuẩn kiến
thức kĩ năng của bài. Thông thường ở trên bảng sẽ là các tiêu đề, các công thức, kết
luận quan trọng. Nội dung vừa đủ, không quá dài hoặc không quá ngắn.
- Nên có một phần trên bảng để tự do thể hiện ý tưởng của giáo viên hoặc học sinh
(viết, vẽ xong rồi xóa) bên cạnh phần cố định trình bày kiến thức theo nội dung.

b. Sử dụng, khai thác sách giáo khoa: Một trong những đổi mới trong phương pháp
dạy học hiện nay đó là rèn luyện khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh. Sách
giáo khoa trở thành một phương tiện dùng cho mục đích này và sử dụng trong các
trường hợp sau:
- Nghiên cứu SGK để rút ra các kết luận về mặt lí thuyết hoặc so sánh các kiến thức
các nội dung liên quan…
- Từ vốn kiến thức SGK để giải thích các tình huống lí thuyết hoặc thực tiễn đặt ra (ví
dụ trả lời các lệnh trong SGK).
- Từ các hình ảnh, biểu đồ học sinh phân tích so sánh và rút ra các kết luận cần thiết
theo yêu cầu của bài học.
- Hình ảnh, biểu đồ được sử dụng minh họa giúp học sinh hiểu thêm những điều mà
thầy giáo trình bày.
- Một số nội dung được nêu trong sách giáo khoa không phải là kiến thức cốt lõi và
đơn giản học sinh có thể tự đọc để hiểu.
Hiện trạng đáng lưu ý hiện nay đó là một bộ phận giáo viên lạm dụng SGK trong quá
trình giảng dạy, thường thể hiện:
- Câu hỏi đưa ra mà nội dung trả lời có sẵn trong SGK, học sinh không cần phải động
não, không cần ghi nhớ, chỉ cần đọc đúng là trả lời được vấn đề mà thầy giáo nêu lên.
- Giáo viên phát phiếu học tập, câu hỏi nêu lên trong phiếu học sinh chỉ cần dựa vào
sách giáo khoa chép lại nguyên xi là đạt yêu cầu…
Việc sử dụng SGK theo cung cách nêu trên sẽ dần dần hình thành tật xấu cho học
sinh đó là cứ mỗi khi giáo viên đưa ra câu hỏi học sinh không động não, không tư duy
mà nhanh chóng nhìn vào SGK để tìm câu trả lời. Với cách làm này giờ dạy diễn ra có
vẻ trôi chảy nhẹ nhàng và hình như một bộ phận đáng kể giáo viên và nhiều em học
sinh cũng thích cung cách này vì việc học tập diễn ra thật dễ dàng, giáo viên thậm chí
không cần đọc sách giáo khoa và soạn bài trước mà đến lớp cùng học trò đọc luôn thể.
Tuy nhiên hiệu quả giờ dạy rất thấp, dấu ấn các kiến thức được khắc họa trong trí não
học sinh rất mờ nhạt, không đạt được các yêu cầu và mục tiêu của việc dạy học. Các
câu hỏi mà giáo viên đưa ra không những không phát huy tính tích cực mà trái lại làm
cho học sinh có thói quen trông chờ ỷ lại, ít cố gắng, lười biếng. Đây là điều cần tránh

trong các giờ dạy.
10


Để khai thác sách giáo khoa một cách có hiệu quả giáo viên cần:
- Tạo ra cho học sinh nhu cầu muốn tìm hiểu, muốn đọc sách giáo khoa: Có thể thông
qua một hiện tượng thực tế, một câu hỏi định tính nào đó tạo sự tò mò mà câu trả lời sẽ
có sau khi đọc xong nội dung cần tìm hiểu trong sách giáo khoa. Điều này sẽ có tác
dụng kích thích học sinh ham muốn đọc sách để trả lời vấn đề mà giáo viên nêu ra.
- Thưởng điểm cho học sinh thông qua việc đọc sách giáo khoa để trả lời câu hỏi của
thầy.
- Hướng dẫn học sinh tự đọc những nội dung không cốt lõi, không quan trọng trong
sách giáo khoa.
- Câu lệnh hướng dẫn học sinh đọc, khai thác sử dụng sách giáo khoa phải rõ ràng,
chính xác.
c. Sử dụng dụng cụ thí nghiệm (xem phần làm thí nghiệm ở trên)
d. Sử dụng máy tính, máy chiếu, hình vẽ, bảng phụ nên tuân thủ các nguyên tắc
sau:
+ Kết hợp sử dụng các dụng cụ trên với thuyết trình phân tích và đặt hệ thống câu hỏi
hợp lí.
+ Sử dụng vừa đủ, không tràn lan, không lạm dụng, không biến việc sử dụng phương
tiện thành mục đích của bài dạy.
Câu hỏi 7: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động “Tổ chức hoạt động
nhóm”?
Thông tin phản hồi:
Tổ chức hoạt động nhóm là một hoạt động có thể phát huy rất tốt tính tích cực chủ
động của học sinh trong giờ học, tuy nhiên đó cũng là con dao 2 lưỡi. Nếu thực hiện tốt
thì học sinh sẽ rất tích cực, chủ động xây dựng và nắm kiến thức, hứng thú với tiết học;
còn nếu thực hiện không tốt thì có thể làm giờ học trở nên hỗn loạn, khó kiểm soát.
Chúng ta phân tích các đặc điểm của hoạt động này.

a. Tổ chức hoạt động nhóm với những hoạt động như thế nào?
Thường chúng ta tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh đối với các trường hợp sau:
- Sử dụng thí nghiệm đồng loạt để kiểm chứng, minh họa, khảo sát quy luật, hiện
tượng.
- Vấn đề nêu ra để thảo luận không quá trừu tượng phức tạp để học sinh có thể thảo
luận, để đi đến kết luận nhưng cũng không quá dễ dàng đối với học sinh.
b. Cách thức tổ chức hoạt động:
+ Chia nhóm: Giáo viên là người tiến hành chia nhóm. Số lượng nhóm và thành
viên trong các nhóm tùy vào tình hình cụ thể của lớp học, cử nhóm trưởng, thư kí, đặt
tên cho nhóm.
11


+ Giao nhiệm vụ cho các nhóm : nhiệm vụ giao cho các nhóm phải chi tiết, cụ thể rõ
ràng, giáo viên có thể hướng dẫn phân tích cách làm.
+ Dự kiến thời gian hoạt động của các nhóm, quan sát, bao quát hoạt động của các
nhóm.
+ Nghiệm thu sản phẩm của các nhóm, yêu cầu các nhóm nhận xét kết quả.
+ Kết luận và chốt lại.
Câu hỏi 8: Trình bày nội dung cơ bản của hoạt động “Tạo sự hứng thú trong
giờ học”?
Thông tin phản hồi:
Việc tạo sự hứng thú trong giờ học có vai trò khá quan trọng, nó giúp cho học sinh
cảm thấy yêu thích môn học hơn, từ đó việc chủ động lĩnh hội kiến thức sẽ đạt hiệu quả
hơn. Tuy vậy, vấn đề này thường không được nhiều giáo viên để tâm đến. Nhiều người
thường cố gắng hoàn thành bài giảng dưới dạng tròn vai mà không chú tâm đến các
biện pháp giúp tạo sự hứng thú cho học sinh trong giờ học. Vậy làm thế nào để học sinh
có hứng thú trong giờ học? thực ra để đạt được điều này dựa nhiều vào kinh nghiệm, sự
nhiệt tình của giáo viên và đặc điểm của học sinh. Chúng ta cùng phân tích một vài
biện pháp giúp tăng sự hứng thú của học sinh trong giờ học.

- Tạo điều kiện cho học sinh được làm thí nghiệm hoặc quan sát thí nghiệm: trong
quá trình học sinh tự làm hoặc quan sát, dự đoán, phân tích, lí giải thí nghiệm học sinh
sẽ tự xây dựng và chiếm lĩnh kiến thức cho mình đồng thời tăng thêm sự hứng thú đối
với môn học.
- Sử dụng các quá trình mô phỏng bằng hình ảnh, video, phần mềm, trình chiếu. Nếu
giáo viên khai thác tốt (kết hợp với kĩ thuật thuyết trình và phát vấn) và sử dụng hợp lí
(vừa mức, không sa đà) thì hiệu quả giờ học sẽ rất cao đồng thời học sinh sẽ rất hứng
thú.
- Trong quá trình giảng dạy sử dụng ngôn từ tự nhiên, sinh động, không khô khan,
cứng nhắc, không quá nhiều thuật ngữ phức tạp, khó hiểu (có thể thay thế bằng từ hoặc
cụm từ khác dễ hiểu hơn miễn là chính xác).
- Khen ngợi học sinh đúng lúc và đúng chỗ (sau khi học sinh trả lời câu hỏi, có thể cho
điểm thưởng). Tuyệt đối không chế diễu, xúc phạm học sinh.
- Kể thêm các câu chuyện bên ngoài có liên quan đến nội dung bài học như chuyện về
các danh nhân, lịch sử phát minh, hiện tượng thực tế …
- Tổ chức nhiều hoạt động học tập mới lạ dạng học mà chơi như mô phỏng các trò
chơi trên truyền hình.
- Hài hước và tế nhị trong nhắc nhở học sinh.
12


- Khuyến khích học sinh nêu câu hỏi để hỏi lẫn nhau hoặc hỏi ngược lại giáo viên (có
thể thưởng điểm nếu câu hỏi hay).
Các hoạt động gây hứng thú cho học sinh có thể tiến hành vào đầu buổi hoặc song song
cùng các hoạt động khác trong suốt cả buổi học. Vấn đề quan trọng nhất là tạo được sự
hứng thú cao đối với học sinh.
Trên đây là 7 hoạt động chủ yếu thường được tiến hành trong các giờ dạy lí thuyết
môn vật lí. Không phải bài nào cũng tiến hành đầy đủ cả 7 hoạt động này mà tùy từng
bài cụ thể chúng ta lựa chọn cách thức trình bày các hoạt động cho phù hợp. Những
hoạt động trên cần được kết hợp với nhau một cách khéo léo và hợp lí sao cho giờ dạy

đạt hiệu quả tốt nhất.
HOẠT ĐỘNG 3 . TÌM HIỂU KĨ THUẬT DẠY GIỜ BÀI TẬP VẬT LÍ

Câu hỏi 1: Trình bày những vấn đề còn tồn tại của tiết bài tập vật lí?
Thông tin phản hồi:
Một số vấn đề còn tồn tại của tiết bài tập vật lí:
- Tiết bài tập rất khó dạy, ở chỗ không có một thiết kế nào cụ thể, tuỳ thuộc vào khả
năng tiếp thu của học sinh, của chương trình. Nếu không xác định đúng mục tiêu rất dễ
đi vào sự đơn điệu.
- Một số giáo viên còn xem nhẹ tiết bài tập, chỉ dừng lại khi giải xong các bài tập ở
sách giáo khoa.
- Thiết kế tiết dạy thường không có sự khái quát, kết luận về từng vấn đề, nên học
sinh khó có thể nêu lên được phương pháp giải bài tập liên quan.
- Đa số bài tập ở sách giáo khoa chỉ dừng lại ở mức độ củng cố, còn thiếu so với
lượng kiến thức đã nêu trong lý thuyết. Do đó dẫn đến tình trạng học sinh khá giỏi
không thể phát huy được khả năng, học sinh ở mức độ trung bình trở xuống thì bế tắc
khi gặp dạng bài tập khác.
- Tiết bài tập trong phân phối chương trình còn ít.
- Kĩ năng vận dụng kiến thức Toán cho việc giải bài tập còn hạn chế đối với một bộ
phận không nhỏ học sinh.
- Trong bộ sách một số đơn vị kiến thức không trình bày nhưng lại cho bài tập trong
sách bài tập, nếu giáo viên không chịu tìm hiểu thì học sinh không biết đâu mà giải khi
gặp loại bài tập như vậy.
Câu hỏi 2: Phân loại và nêu phương pháp giải từng loại bài tập vật lí?
Thông tin phản hồi:
Bài tập vật lí có thể chia làm 4 loại như sau:
13


- Bài tập vật lí định tính (còn có các tên gọi khác như câu hỏi định tính, câu hỏi

thực tế..)
- Bài tập vật lí định lượng
- Bài tập đồ thị
- Bài tập thí nghiệm.
Chúng ta phân tích đặc điểm và phương pháp giải của từng dạng.
1. Bài tập vật lí định tính hay bài tập câu hỏi lý thuyết.
a. Đặc điểm
- Là bài tập mà học sinh không cần phải tính toán (Hay chỉ có các phép toán đơn
giản) mà chỉ vận dụng các định luật, định lý, qui luật để giải thích hiện tượng thông qua
các lập luận có căn cứ, có lôgic.
- Nội dung của các câu hỏi khá phong phú, và đòi hỏi phải vận dụng rất nhiều
các kiến thức vật lí.
b. Các bước chung để giải bài tập định tính
Thông thường để giải các bài toán này cần tiến hành theo các bước:
- Phân tích câu hỏi
- Phân tích hiện tượng vật lí có đề cập đến trong câu hỏi để từ đó xác định các
định luật, khái niệm vật lí hay một qui tắc vật lí nào đó để giải quyết câu hỏi.
- Tổng hợp các điều kiện đã cho với các kiến thức tương ứng để trả lời câu hỏi.
2. Bài tập vật lí định lượng
a. Đặc điểm
Đó là loại bài tập vật lí mà muốn giải quyết nó ta phải thực hiện một loạt các phép
tính. Dựa vào mục đích dạy học ta có thể phân loại bài tập dạng này thành 2 loại:
+ Bài tập tập dượt: Là bài tập đơn giản được sử dụng ngay khi nghiên cứu một khái
niệm hay một qui tắc vật lí nào đó để học sinh vận dụng kiến thức vừa mới tiếp thu.
+ Bài tập tổng hợp: Là những bài tập phức tạp mà muốn giải nó học sinh vận dụng
nhiều kiến thức ở nhiều phần, nhiều chương, nhiều cấp học và thuộc nhiều lĩnh vực.
Đặc biệt, khi các câu hỏi loại này được nêu dưới dạng trắc nghiệm khách quan thì yêu
cầu học sinh phải nhớ kết quả cuối cùng đã dược chứng minh trước đó để giải nó một
cách nhanh chóng. Vì vậy yêu cầu học sinh phải hiểu bài một cách sâu sắc để vận dụng
kiến thức ở mức độ cao .

b. Các bước chung để giải
+ Bước 1: Tìm hiểu bài
Đọc kỹ đầu bài, vừa đọc vừa tóm tắt các dữ kiện bài cho, những cái cần phải tính.
Trong bước này, chú ý phân tích kỹ để hiểu rõ những thuật ngữ đặc biệt của bài
14


(Bước này tất nhiên ai cũng phải thực hiện, nhưng nhiều học sinh mới đọc sơ qua đã vội
làm bài nên làm sai hoặc không thể làm được do chưa nắm hết dữ kiện của bài).
+ Bước 2 : Phân tích hiện tượng vật lí
Trong bước này phải vẽ hình, điền các thông số trên hình vẽ, phân tích xem quá trình
vật lí xảy ra như thế nào, liên quan đến hiện tượng, định luật nào đã học (Bước này vô
cùng quan trọng, nhờ nó mà ta mới xác định được hướng giải).
+ Bước 3 : Lập các phương trình liên quan và giải
Dựa vào các hiện tượng, định luật mà bài toán liên quan ta thiết lập các phương trình
tương ứng. Kiểm tra số ẩn và số phương trình lập được nếu bằng nhau thì đã đủ giải,
nếu thiếu dựa vào những dữ kiện chưa được sủ dụng lập thêm cho đủ.
Giải hệ phương trình để tìm những đại lượng mà bài yêu cầu (Chú ý: khi giải cần tuân
thủ đúng các quy tắc toán học, chẳng hạn khi khai căn phải lấy hai giá trị +,- ...)
+ Bước 4: Biện luận
Xét xem các nghiệm toán học tìm được có phù hợp với ý nghĩa vật lí không, loại bỏ
những nghiệm không phù hợp.
3. Bài tập đồ thị
a. Đặc điểm
Đó là bài tập mà dữ kiện đề bài cho dưới dạng đồ thị hay trong quá trình giải nó ta
phải sử dụng đồ thị, ta có thể phân loại dạng câu hỏi này thành các loại:
+ Đọc và khai thác đồ thị đã cho: Bài tập loại này có tác dụng rèn luyện cho học
sinh kỹ năng đọc đồ thị, biết cách đoán nhận sự thay đổi trạng thái của vật thể, hệ vật lí,
của một hiện tượng hay một quá trình vật lí nào đó. Biết cách khai thác từ đồ thị những
dữ liệu để giải quyết một vấn đề cụ thể.

+ Vẽ đồ thị theo những dữ liệu đã cho: bài tập này rèn luyện cho học sinh kỹ
năng vẽ đồ thị, nhất là biết cách chọn hệ tọa độ và tỉ lệ xích thích hợp để vẽ đồ thị chính
xác.
b. Các bước giải
Đọc kỹ đầu bài, xác định yêu cầu của bài, xác định thông tin dựa vào các trục,
đơn vị, dạng đồ thị, nhận xét về các cực trị, điểm đặc biệt để suy ra thông tin cần thiết.
Khi vẽ cần chọn tỉ lệ và đơn vị thích hợp.
4. Bài tập thí nghiệm (xây dựng phương án thực nghiệm)
a. Đặc điểm
Đây là loại bài tập yêu cầu học sinh xây dựng phương án thực nghiệm để xác định
một đại lượng hoặc kiểm tra một quy luật, một hiện tượng hoặc một điều kiện vật lí nào
đó. Loại bài tập này có 2 mức độ:
15


+ Mức độ 1: Chỉ xây dựng phương án (tính toán lập luận trên giấy, không đo đạc,
không làm thí nghiệm thực).
+ Mức độ 2: Tiến hành làm thí nghiệm thực theo phương án đã vạch ra.
Bài tập thí nghiêm tạo ra ở học sinh động cơ học tập, sự hăng say tò mò khám phá
xây dựng kiến thức mới, gây cho học sinh một sự hứng thú, tự giác tư duy độc lập, tích
cực sáng tạo.
Thông qua bài tập thí nghiệm, học sinh sẽ có khả năng tổng hợp kiến thức lý thuyết
và thực nghiệm, các kỹ năng hoạt động trí óc và thực hành một cách khéo léo, các vốn
hiểu biết về vật lí, kĩ thuật và thực tế cuộc sống nhằm phát huy tốt nhất khả năng suy
luận và tư duy lô gíc.
Với bài tập thí nghiệm, học sinh có thể đề xuất các phương án thí nghiệm khác nhau
gây ra không khí tranh luận sôi nổi trong lớp.
b. Các bước giải:
+ Bước 1: Đọc, hiểu đề bài
+ Bước 2: Phân tích nội dung bài tập thí nghiệm

+ Bước 3: Xác định phương án thí nghiệm
+ Bước 4: Tiến hành các thao tác thí nghiệm
+ Bước 5: Kiểm tra câu trả lời so với kết quả thí nghiệm.
Câu hỏi 3: Để thực hiện tốt một tiết dạy bài tập vật lí, giáo viên cần chuẩn bị
những gì?
Thông tin phản hồi:
1. Xác định những kiến thức kỹ năng cần củng cố cho học sinh thông qua giờ bài
tập.
Thông thường giờ bài tập thường được bố trí sau từ 2 đến 3 giờ lý thuyết, tác
dụng của giờ bài tập ở đây thường là củng cố những kiến thức kỹ năng đã học thông
qua những giờ học lý thuyết trước đó, do đó giáo viên cần phải xác định chính xác và cụ
thể những yêu cầu về kiến thức, kỹ năng cần củng cố cho học sinh (ví dụ kĩ năng áp
dụng định luật gì, kĩ năng giải thích hiện tượng gì, kĩ năng vẽ đồ thị, đọc đồ thị...) để
lựa chọn hệ thống bài tập thích hợp.
2. Lựa chọn hệ thống bài tập thích hợp.
Đây là một công việc rất quan trọng, để lựa chọn hệ thống bài tập phù hợp giáo
viên cần dựa vào việc xác định những kiến thức kỹ năng cần củng cố cho học sinh và
trình độ của học sinh. Sau đây là một số nguyên tắc về lựa chọn hệ thống bài tập:
+ Loại hình bài tập phải đa dạng: nên gồm nhiều loại bài tập trong giờ dạy (cả
bài tập định tính, bài tập định lượng, bài tập thí nghiệm...). Sử dụng kết hợp các loại bài
16


tập đó một cách khéo léo, tránh chỉ sử dụng một loại bài tập duy nhất gây đơn điệu
nhàm chán trong học sinh.
+ Hệ thống bài tập phải phù hợp với trình độ của đa số học sinh, tránh đưa ra
những bài tập quá dễ hoặc quá khó đối với trình độ chung của lớp.
+ Hệ thống bài tập phải trải đều khắp phạm vi kiến thức kĩ năng muốn củng cố
cho học sinh, tránh chỉ tập trung bài tập vào một chủ đề kiến thức rất hẹp nào đó.
Câu hỏi 4: Nêu những hoạt động thường được tổ chức trong một giờ bài tập

vật lí?
Thông tin phản hồi:
1. Gọi học sinh lên bảng trình bày lời giải.
Đây là hoạt động thường được giáo viên áp dụng nhiều nhất trong các giờ bài tập.
Ở hoạt động này giáo viên sẽ nêu bài tập (đã đưa ra cho học sinh về làm ở nhà), gọi học
sinh lên bảng tóm tắt và trình bày lời giải, gọi học sinh khác nhận xét lời giải, giáo viên
tổng kết bài giải và kết luận.
Hoạt động này có những ưu điểm và nhược điểm cụ thể như sau:
- Ưu điểm:
+ Kiểm tra và biết được khả năng hiểu và vận dụng kiến thức của học sinh lên bảng
chữa bài.
+ Có thể phân tích và chỉ ra lỗi của học sinh một cách trực tiếp.
+ Có thể rèn luyện cho học sinh kĩ năng trình bày bài tập.
- Nhược điểm:
+ Trong một giờ bài tập chỉ kiểm tra được một số ít học sinh của lớp.
+ Học sinh ở dưới lớp dễ mất trật tự nếu giáo viên không bao quát tốt.
Để hoạt động này được tiến hành một cách có hiệu quả giáo viên cần lưu ý những
nội dung sau:
- Giao bài tập phù hợp với trình độ của học sinh: đối với một lớp thông thường có
nhiều đối tượng học sinh với các mức độ học lực khác nhau, khi giao bài tập giáo viên
phải giao đúng đối tượng, bài tập đơn giản, dễ dành cho học sinh yếu và trung bình, bài
tập phức tạp, nâng cao dành cho học sinh khá giỏi.
- Bao quát lớp, tổ chức các hoạt động khác trong khi học sinh đang chữa bài trên
bảng: Trong khi học sinh đang chữa bài trên bảng giáo viên có thể kiểm tra bài tập về
nhà của học sinh dưới lớp, đặt câu hỏi định tính, hoặc ra bài tập bổ sung cho học sinh...
- Phân tích kĩ những chỗ lỗi của học sinh: qua việc phân tích chỗ lỗi trong bài tập của
học sinh để rèn cho cả lớp những kĩ năng còn yếu (kĩ năng đổi đơn vị, vẽ hình, tính
toán, suy luận...)
17



- Tổng kết bài tập và chốt lại phương pháp giải cho cả lớp.
2. Hướng dẫn cả lớp giải chung một bài tập.
Đây là một hoạt động cũng khả phổ biến trong các giờ bài tập. Ở hoạt động này
giáo viên hướng dẫn học sinh cả lớp cùng giải chung một bài tập thông qua hệ thống
câu hỏi. Hoạt động này thường được tiến hành khi có những bài tập phức tạp, phải giải
qua nhiều bước, ở trong lớp chỉ có một số ít học sinh giải được. Chúng ta cùng phân
tích đặc điểm của hoạt động này:
- Ưu điểm:
+ Nhiều học sinh trong lớp cùng tham gia vào quá trình giải bài.
+ Học sinh hiểu các bước suy luận giải bài toán thông qua các câu hỏi của giáo viên.
+ Giáo viên dễ bao quát lớp.
- Nhược điểm:
+ Không phát hiện được những lỗi và những chỗ vướng mắc của học sinh khi giải bài
tập.
Để hoạt động này được tiến hành một cách có hiệu quả giáo viên cần lưu ý những
nội dung sau:
+ Chuẩn bị hệ thống câu hỏi gợi ý dẫn dắt hợp lý: Đối với một bài tập giáo viên phải
dự đoán được những chỗ khó mà học sinh hay mắc khi giải bài tập để từ đó lựa chọn
câu hỏi, gợi ý dẫn dắt hợp lý. Sau đây là một ví dụ về hệ thống câu hỏi dẫn dắt chung:
* Đọc, tóm tắt đề bài, đổi đơn vị, vẽ hình?
* Mô tả và tưởng tượng về hiện tượng nêu trong bài toán?
* Hiện tượng nêu trong bài toán có liên quan đến công thức đã học?
* Viết ra các công thức và phương trình có liên quan?
* Với các phương trình trên ta có xác định được cái cần tìm không?
* Cụm từ "............." trong bài có nghĩa như thế nào? Với cụm từ đó ta có thể biểu
diễn bằng phương trình toán học như thế nào?
* Có thể giải phương trình, hệ phương trình trên như thế nào?
* Kết quả thu được có hợp lý không? ................
+ Linh hoạt trong quá trình đặt hệ thống câu hỏi gợi ý cho học sinh: Hệ thống câu

hỏi, các yêu cầu phải phù hợp với đối tượng, không cứng nhắc trong việc đặt câu hỏi
(nếu câu hỏi khó, lớp không trả lời được thì chia nhỏ câu hỏi đó thành những câu dễ
hơn hoặc sử dụng sự liên tưởng, tưởng tượng để học sinh có thể trả lời được); Sử dụng
khéo léo kĩ thuật đặt câu hỏi (hỏi có đối tượng trả lời, khen học sinh sau khi trả lời, có
thể cho điểm với những câu trả lời tốt...)

18


+ Kết hợp tốt phần trình bày trên bảng với phần trả lời câu hỏi gợi ý của học sinh:
Thông thường cứ sau những câu trả lời quan trọng có tác dụng định hướng lời giải của
học sinh GV nên chốt lại trong phần trình bày bài giải trên bảng.
+ Tổng kết và chốt lại phương pháp giải chung của bài toán.
3. Giao phiếu học tập và chia nhóm để học sinh giải bài tập tại lớp.
Ở hoạt động này, giáo viên chuẩn bị các bài tập ra phiếu, chia lớp thành các
nhóm để làm bài tập trong các phiếu. Hoạt động này thường tiến hành khi GV đã tiến
xong hoạt động 1 hoặc hoạt động 2 ở trên. Để hoạt động này tiến hành có hiệu quả GV
cần lưu ý:
- Số lượng bài tập trong phiếu phải phù hợp với trình độ của học sinh.
- Chia nhóm và giao nhiệm vụ thật cụ thể cho các nhóm (số lượng thành viên, nhóm
trưởng, các bài tập cần làm, thời gian hoàn thành...).
- Nên cho các nhóm làm bài tập trên bảng phụ, sau khi hoàn thành đem lên trình bày
trên bảng. Theo dõi, bao quát hoạt động của các nhóm trong quá trình giải bài.
- Cho các nhóm cử người lên trình bày bài tập của nhóm mình, các nhóm khác nhận
xét.
- Giáo viên tổng kết và chốt lại bài tập, đánh giá về hoạt động của các nhóm.
4. Các hoạt động khác.
Ngoài các hoạt động chính nói trên, trong giờ bài tập vật lí có thể tiến hành thêm
các hoạt động khác như sau:
- Nêu câu hỏi định tính cho cả lớp cùng suy nghĩ, thảo luận tìm câu trả lời. Để tăng sự

hứng thú cho học sinh giáo viên có thể ra điều kiện về điểm số cho câu trả lời.
- Ra các câu hỏi trắc nghiệm để cả lớp cùng làm chung. (có thể chuẩn bị trên bảng phụ,
số lượng câu hỏi và mức độ câu hỏi phù hợp, luôn yêu cầu học sinh lý giải cho câu trả
lời).
- Tổ chức đặt các câu hỏi dưới dạng hình thức giống như các trò chơi trên truyền hình
(Ai là triệu phú, đấu trường một trăm, đối mặt...): Hoạt động này có tác dụng rất lớn
trong việc kích thích sự hứng thú của học sinh. Tuy nhiên số lượng câu hỏi và thời gian
bố trí phải phù hợp.
- Ra bài tập thí nghiệm cho học sinh (có thể ra ở giờ trước): Yêu cầu học sinh nêu
phương án, GV chốt lại có thể yêu cầu học sinh về nhà làm thí nghiệm thực để kiểm tra
phương án mà mình nêu ra.
Câu hỏi 5: Khi tiến hành các hoạt động trong một giờ bài tập vật lí cần lưu ý
gì?
Thông tin phản hồi:
1. Sử dụng phối hợp nhiều hoạt động trong một giờ bài tập.
19


Nếu toàn bộ giờ học chỉ có một hoạt động duy nhất (ví dụ hoạt động chỉ gọi học
sinh lên bảng) thì dễ gây đơn điệu, nhàm chán cho học sinh đặc biệt là những lớp có sự
phân loại học sinh rõ nét. GV nên tiến hành ít nhất từ 2 đến 4 hoạt động nêu ở trên,
đồng thời kết hợp các hoạt động với nhau một cách hợp lý. Điều đó sẽ giúp cho giờ học
không còn đơn điệu, tạo điều kiện cho học sinh các loại đối tượng đều được tham gia
hoạt động.
2. Nên khen ngợi và khuyến khích học sinh, cho điểm hợp lý, tuyệt đối không chê
bai học sinh.
Theo tâm lý học thì con người ai cũng thích được khen, ghét bị chê. Do đó việc
khen ngợi học sinh sau khi làm được một bài tập (cho dù là dễ) hoặc trả lời được một
câu hỏi là rất cần thiết (kể cả khi học sinh trả lời sai ta cũng khen ngợi vì học sinh đã
suy nghĩ và nói lên suy nghĩ của mình). Việc khen ngợi và cho điểm hợp lý sẽ giúp cho

học sinh tăng thêm sự hứng thú trong môn học. Bên cạnh đó nếu có chê trách học sinh
thì nên thực hiện một cách khéo léo tế nhị, tránh làm học sinh bị tổn thương, tuyệt đối
không được mạt sát học sinh, điều này có thể dập tắt ngay sự hứng thú của học sinh đối
với môn học vừa mới được hình thành.
3. Luôn luôn tổng kết và chốt lại phương pháp giải của các dạng bài tập đã nêu ra.
Đây là thao tác rất cần thiết, nó giúp cho học sinh xác định được phương pháp
chung giải bài tập theo dạng và lần sau có thể làm bài tập tương tự.
HOẠT ĐỘNG 4. TÌM HIỂU MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC KHÁC CÓ THỂ ÁP DỤNG
VÀO DẠY HỌC VẬT LÍ.

1. Kĩ thuật dạy học: Các mảnh ghép
Mục tiêu

Nâng cao năng lực cho GV về kĩ thuật các mảnh ghép

Đối tượng
áp dụng

Học sinh học trong lớp, học nhóm

Nội dung

Là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác kết hợp giữa cá nhân, nhóm và
liên kết giữa các nhóm nhằm giải quyết một nhiệm vụ phức hợp, kích
thích sự tham gia tích cực cũng như nâng cao vai trò của cá nhân học
sinh trong quá trình hợp tác.

20



Vòng 1: “Nhóm chuyên gia”
- Lớp học được chia thành các nhóm (khoảng từ 3 - 6 người). Mỗi
nhóm được giao một nhiệm vụ với những nội dung học tập khác nhau.
Ví dụ: + Nhóm 1- Nhiệm vụ A
+ Nhóm 2- Nhiệm vụ B
+ Nhóm 3- Nhiệm vụ C
- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu
hỏi, chủ đề và ghi lại những ý kiến của mình;

Tổ chức
thực hiện

- Khi thảo luận nhóm phải đảm bảo mỗi thành viên trong từng nhóm
đều trả lời được tất cả các câu hỏi trong nhiệm vụ được giao và trở
thành “chuyên gia” của lĩnh vực đã tìm hiểu và có khả năng trình bày
lại câu trả lời của nhóm ở vòng 2.
Vòng 2: “Nhóm mảnh ghép”
- Hình thành nhóm mới khoảng từ 3 - 6 người ( bao gồm 1-2 người từ
nhóm 1; 1-2 người từ nhóm 2; 1-2 người từ nhóm 3...), gọi là “nhóm
mảnh ghép”.
- Các câu hỏi và câu trả lời của vòng 1 được các thành viên trong nhóm
mới chia sẻ đầy đủ với nhau.
- Khi mọi thành viên trong nhóm mới đều hiểu được tất cả nội dung ở
vòng 1 thì nhiệm vụ mới sẽ được giao cho các nhóm để giải quyết.
- Các nhóm mới thực hiện nhiệm vụ, trình bày và chia sẻ kết quả.
- Đảm bảo những thông tin từ các mảnh ghép ở vòng 1 khi được ghép
lại với nhau có thể hiểu được bức tranh toàn cảnh của một vấn đề và là
cơ sở để giải quyết một nhiệm vụ phức hợp ở vòng 2;

- Các “chuyên gia” ở vòng 1có thể có trình độ khác nhau, nên cần xác

định các yếu tố hỗ trợ kịp thời để tất cả mọi “chuyên gia” có thể hoàn
Những lưu ý
thành nhiệm vụ ở vòng 1, chuẩn bị cho vòng 2;
- Số lượng mảnh ghép không nên quá lớn để đảm bảo các thành viên
có thể truyền đạt lại kiến thức cho nhau;
- Đặc điểm của nhiệm vụ mới ở vòng 2 là một nhiệm vụ phức hợp và
chỉ có thể giải quyết được trên cơ sở nắm vững những kiến thức đã có
21


ở vòng 1. Do đó cần xác định rõ những yếu tố cần thiết về kiến thức, kĩ
năng, thông tin, … cũng như các yếu tố hỗ trợ cần thiết để giải quyết
nhiệm vụ phức hợp này;
- Khi thực hiện nhiệm vụ, cần phân công rõ ràng vai trò và nhiệm vụ
của các thành viên trong nhóm như sau:

Phạm vi áp
dụng

Vai trò

Nhiệm vụ

Trưởng nhóm

Phân công nhiệm vụ

Hậu cần

Chuẩn bị đồ dùng tài liệu cần

thiết

Thư kí

Ghi chép kết quả

Phản biện

Đặt các câu hỏi phản biện

Liên lạc với
nhóm khác

Liên hệ với các nhóm khác

Liên lạc với
thầy cô

Liên lạc với giáo viên để xin trợ
giúp

Có thể áp dụng được các hoạt động học tập trao đổi thảo luận về một
vấn đề nào đó thông qua câu hỏi.

2. Kĩ thuật dạy học: Khăn trải bàn
Mục tiêu

Nâng cao năng lực cho GV về kĩ thuật khăn trải bàn.

Đối tượng

áp dụng

Học sinh học theo nhóm: tương tác với các nhóm

Nội dung

Tổ chức
thực hiện

Là kĩ thuật dạy học mang tính hợp tác kết hợp giữa hoạt động cá nhân
và hoạt động nhóm nhằm kích thích, thúc đẩy sự tham gia tích cực,
tăng cường tính độc lập, trách nhiệm của cá nhân HS cũng như phát
triển mô hình có sự tương tác giữa HS với HS.
- Chia HS thành các nhóm và phát giấy A0 cho các nhóm;
- Chia giấy A0 thành phần chính giữa và phần xung quanh. Chia phần
xung quanh thành các phần theo số thành viên của nhóm (Ví dụ nhóm
4 người). Mỗi người ngồi vào vị trí tương ứng với phần xung quanh;
22


- Mỗi cá nhân làm việc độc lập trong khoảng vài phút, suy nghĩ về câu
hỏi, chủ đề và viết vào phần mang số của mình;
- Khi hết thời gian làm việc cá nhân, các thành viên trong nhóm chia
sẻ, thảo luận, thống nhất câu trả lời;
- Ý kiến thống nhất của nhóm được viết vào phần chính giữa.
- Nếu số HS trong một nhóm quá đông, có thể phát cho HS những
mảnh giấy nhỏ để HS ghi lại ý kiến cá nhân. Sau đó đính những ý kiến
vào phần khăn mang số của họ.
Những lưu ý - Trong quá trình thảo luận, có thể đính những ý kiến thống nhất vào
giữa khăn. Những ý kiến trùng nhau có thể đính chồng lên nhau. Nếu

có những ý kiến chưa thống nhất và cá nhân vẫn bảo lưu thì đính ở
phần xung quanh khăn trải bàn (khi trình bày có thể chia sẻ toàn lớp
hoặc với riêng giáo viên).
Phạm vi áp
dụng

Có thể áp dụng được các hoạt động học tập trao đổi thảo luận về một
vấn đề nào đó thông qua câu hỏi.

3. Kĩ thuật dạy học: Thảo luận nhóm
Mục tiêu

Nâng cao năng lực cho GV về kĩ thuật thảo luận nhóm.

Đối tượng áp dụng Học sinh.

Nội dung

Người học được tham gia, được tự phát hiện vấn đề, tự giải
quyết vấn đề, tự rút ra kết luận, được cùng nhau trao đổi, chia
sẻ kinh nghiệm, được tạo điều kiện để tự khám phá kiến thức,
dưới sự hướng dẫn, gợi ý của GV.
- Giới thiệu chủ đề, vấn đề cần thảo luận. Nêu rõ mục đích, yêu
cầu. Chia nhóm, phân công nhiệm vụ;
- Hướng dẫn, động viên, gợi ý các nhóm thảo luận;

Tổ chức thực hiện - Tổ chức cho các nhóm trình bày kết quả thảo luận của nhóm
mình và yêu cầu các nhóm khác nghe, trao đổi và bổ sung, góp
ý;
- Tóm tắt kết quả thảo luận của các nhóm.

Những lưu ý

Để thảo luận nhóm có hiệu quả, GV phải:
23


- Khuyến khích mọi người đều tham gia, trao đổi, không trừ
một ai;
- Nhắc nhở mọi người chú ý lắng nghe và có ý thức học hỏi lẫn
nhau;
- Tạo không khí thảo luận vui vẻ, nhẹ nhàng và tôn trọng lẫn
nhau;
- Tránh không được phê phán, chỉ trích, diễu cợt;
- Kiên trì lắng nghe, động viên, không cắt ngang lời nói của thành
viên;
- Không để nhiều người cùng nói một lúc;
- Không nên coi ý kiến của một người là ý kiến của cả nhóm;
Nên gợi cho mọi người đều phát biểu;
- Chú ý hướng thảo luận đúng trọng tâm;
- Cuối thảo luận cần có kết luận, tóm tắt những điều đã bàn bạc
và có kế hoạch hành động tiếp theo.
Phạm vi áp dụng

Có thể áp dụng được các hoạt động học tập trao đổi thảo luận
về một vấn đề nào đó thông qua câu hỏi.

Câu hỏi ôn tập Phần 1
1. Nêu những định hướng chung của việc soạn giảng hiện nay?
2. Nêu những nội dung cơ bản về kĩ thuật dạy học giờ lí thuyết vật lí?
3. Nêu những nội dung cơ bản về kĩ thuật dạy học giờ bài tập vật lí?

4. Nêu một số kĩ thuật dạy học có thể áp dụng vào dạy học vật lí?

24


Phần 2
DẠY HỌC KIỂU BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT MÔN VẬT LÍ THCS.
Mục tiêu:
- Hiểu được thế nào là dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết môn vật lí
- Nêu được cấu trúc của kiểu bài ôn tập, tổng kết; cách dạy một bài ôn tập, tổng kết
môn vật lí.
- Áp dụng thành thạo quy trình dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết môn vật lí để nâng
cao chất lượng dạy học.
HOẠT ĐỘNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG KHI DẠY BÀI ÔN TẬP, TỔNG KẾT
MÔN VẬT LÍ THCS.

1. Thế nào là dạy học kiểu bài ôn tập, tổng kết môn vật lí?
Thông tin phản hồi:
- Dạy học tiết ôn tập, tổng kết vật lí xét về bản chất là người giáo viên phải giúp
học sinh hệ thống được những kiến thức có liên quan đến nội dung đã học, qua đó lựa
chọn và hướng dẫn học sinh giải một số bài tập có tính chất điển hình trong phạm vi
những kiến thức đã được học ở một số bài trước đó hoặc của cả chương đó nhằm rèn
luyện cho học sinh khả năng vận dụng tổng hợp các kiến thức, kỹ năng một cách tích
cực, tự lực và sáng tạo.
Cần chú ý ở đây, tiết ôn tập không phải là nhắc lại các kiến thức đã học mà là để
giúp học sinh tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một nội dung đã được học.
2. Cấu trúc của kiểu bài ôn tập, tổng kết vật lí?
Thông tin phản hồi:
Các tiết dạy ôn tập hoặc tổng kết chương Vật lí ở cấp THCS đều có cấu trúc cơ bản
như sau:

- Định hướng mục tiêu, nhiệm vụ học tập cho học sinh.
- Tổ chức lớp học phù hợp với từng nội dung học tập.
- Tổ chức cho học sinh hệ thống hóa và khái quát hóa trên cơ sở đã được chuẩn bị trước
những kiến thức cần được ôn tập, tổng kết.
- Tổng kết bài học.
- Hướng dẫn công việc về nhà.
3. Vị trí, vai trò, tính chất của kiểu bài ôn tập, tổng kết?
Thông tin phản hồi:
25


×