Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Đánh giá tính hợp lí của các quy định hiện hành về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.02 KB, 12 trang )

Đề Bài: Đánh giá tính hợp lí của các qui định hiện hành
về thẩm quyền và thủ tục xử phát vi phạm hành chính.
Đặt vấn đề
Xử phạt vi phạm hành chính hoạt động áp dụng pháp luật hành chính, là quá
trình các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền căn cứ vào các quy định pháp
luật hiện hành, tính chất, mức độ vi phạm, nhân thân người vi phạm, các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ… để ban hành các quyết định xử phạt. Tuy nhiên, để đạt
được mục đích của xử phạt vi phạm hành chính thì những quy định của pháp luật
về xử phạt vi phạm hành chính nói chung và thẩm quyền cũng như thủ tục xử phạt
vi phạm hành chính nói riêng phải thực sự phù hợp với thực tế.

Nội dung
1. Một số khái niệm:
a. Vi phạm hành chính và xử phạt vi phạm hành chính:
Vi phạm hành chính được định nghĩa một cách gián tiếp tại khoản 2, Điều 1
Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008) như
sau: “Xử phạt vi phạm hành chính được áp dụng đối với cá nhân, cơ quan, tổ chức
(Sau đây gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi cố ý hoặc vô ý vi phạm các quy
định của pháp luật về quản lý nhà nước mà không phải là tội phạm và theo quy
định của pháp luật phải bị xử phạt”.
Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền,
căn cứ vào các quy đinh pháp luật hiện hành, quyết định các biện pháp xử phạt
hành chính và các biện pháp cưỡng chế hành chính khác (trong trường hợp cần
thiết) đối với các tổ chức, cá nhân vi phạm hành chính.
b. Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Có vi phạm hành chính và theo quy định của pháp luật phải bị xử phạt hành
chính. Tuy nhiên, cơ quan nào, những chức danh nào cho các cơ quan quản lý
1


thuộc bộ máy nhà nước được quyền nhân danh nhà nước để phán xét và quyết


định xử phạt đối với vi phạm hành chính của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Cơ sở
pháp lý của vấn đề này là các quy định tại chương IV của Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm 2008).
c. Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại chương VI Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính 2002. Pháp lệnh quy định hai loạit hủ tục: thủ tục đơn
giản và thủ tục lập biên bản.
Thủ tục đơn giản là loại thủ tục được áp dụng trong trường hợp xử phạt vi
phạm hành chính bằng hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10000 đồng đến
200000 nghìn đồng.
Thủ tục lập biên bản áp dụng đối với những vi phạm tương đối nghiêm
trọng mà hành vi vi phạm được quy định mức phạt tiền từ 200.000 đồng trở lên.
2. Đánh giá tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi
phạm hành chính:
a. Tính hợp lý của pháp luật về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
* Điểm hợp lý:
Thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khá nhiều văn
bản pháp luật khác nhau như Luật, Pháp lệnh, các Nghị định. Nhưng vấn đề này
được quy định chủ yếu tại Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm năm 2002
(sửa đổi, bổ sung năm 2008).
Tại Chương IV của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính 2002 (sửa đổi, bổ
sung năm 2008) quy định có 75 chức danh có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính (XPVPHC). Có thể nói, Pháp lệnh được ban hành đã tháo gỡ được nhiều
khó khăn, vướng mắc trong xử phạt vi phạm hành chính nói chung và về thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính nói riêng. Các nguyên tắc xác định thẩm quyền
xử phạt trong Pháp lệnh được xác định rõ ràng hơn, các quy định về thẩm quyền
2


xử phạt được áp dụng thống nhất hơn trong thực tiễn thi hành, có ý nghĩa lớn

trong việc đấu tranh và phòng chống vi phạm hành chính. Thể hiện:
Thứ nhất, pháp lệnh quy định tăng thẩm quyền phạt tiền cho các chức danh
ở cơ sở nhằm thực hiện chủ trương phân cấp mạnh cho cơ sở trong thực hiện xử lý
vi phạm hành chính, đồng thời cũng quy định tăng thẩm quyền phạt tiền cho các
chức danh thuộc cơ quan chuyên ngành nhằm khắc phục tình trạng thực tế là vụ
việc bị dồn đẩy lên cấp trên và ủy ban nhân dân các cấp quá nhiều, dẫn đến tình
trạng quá tải và ùn tắc trong xử phạt vi phạm hành chính những năm qua. Ngoài
ra, nói chung các chức danh có thẩm quyền xử phạt đều được tăng thẩm quyền
phạt tiền là xuất phát từ thực tế yêu cầu đấu tranh phòng chống vi phạm hành
chính trong các lĩnh vực cụ thể.
Thứ hai, bổ sung một số chức danh có thẩm quyền xử phạt. Ví dụ: Cảnh sát
biển, Giám đốc cảng vụ hàng hải, Giám đốc cảng vụ hàng không, giám đốc cảng
vụ Đường thủy nội địa,… Việc bổ sung những chức danh này phù hợp với yêu cầu
của thực tiễn thi hành pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính trong các lĩnh vực
này.
Thứ ba, bổ sung thẩm quyền áp dụng hình thức xử phạt trục xuất cho Bộ
trưởng Bộ Công an để áp dụng với người nước ngoài. Bởi trên thực tế, không ít
trường hợp người nước ngoài có hành vi vi phạm hành chính và việc buộc họ dời
khỏi nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là cần thiết.
Thứ tư, mức phạt tiền tối đa mỗi chủ thể đước áp dụng được hiểu là giới
hạn mức phạt tiền đối với từng hành vi cụ thể. Cách hiểu này được xác định rõ
trong nguyên tắc xác định thẩm quyền xử phạt khi một người thực hiện nhiều
hành vi đều thuộc thẩm quyền xử phạt vẫn thuộc người đó (Điều 42, pháp lệnh xử
lý vi phạm hành chính năm 2002). Quy định này ra đời nhằm khắc phục tính thiếu
rõ ràng trong quy định về xử phạt vi phạm hành chính và đảm bảo cho việc thực
hiện đúng thẩm quyền xử phạt. Bởi thực tế có nhiều trường hợp tổ chức, cá nhân
thực hiện nhiều vi phạm hành chính cùng một lúc và mức phạt tiền tổng hợp đối
3



với mỗi tổ chức, cá nhân này vượt quá mức mà pháp luật quy định cho thẩm
quyền của người xử phạt. Trong những trường hợp này đã xảy ra những cách hiểu
không thống nhất, dẫn đến khó khăn trong việc áp dụng.
* Một số điểm chưa hợp lý:
XPVPHC là hoạt động hết sức phức tạp, các vi phạm hành chính là những
vi phạm pháp luật nhỏ, chưa đến mức hình sự, diễn ra hết sức thường xuyên trên
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, đặc biệt trong điều kiện đất nước đang có
những bước phát triển mạnh về kinh tế, xã hội theo hướng phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế. Các quan
hệ xã hội, vì thế, ngày càng trở nên đa dạng, phức tạp, trong đó, các vi phạm hành
chính cũng ngày càng trở nên tinh vi, khó lường. Chính vì vậy, các quy định của
pháp luật về vấn đề này cũng bộc lộ những điểm chưa hợp lý trong đó có bất cập
về thẩm quyền xử phạt. Thể hiện:
Thứ nhất, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại khá
nhiều văn bản pháp luật khác nhau Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính, trong
Luật Thanh tra và trong rất nhiều nghị định quy định chi tiết các luật chuyên
ngành. Điều này dẫn đến một hệ quả đó là gây ra sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa
các văn bản này. Ví dụ như Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính không quy định
thẩm quyền của Chánh thanh tra tổng cục, thanh tra cục, nhưng các nghị định lại
quy định, ví dụ như Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài
nguyên môi trường.
Ngoài ra, về thẩm quyền xử phạt của các chức danh ở cấp cơ sở . Mặc dù
quy định hiện nay đã nâng dần thẩm quyền xử phạt của chủ tịch UBND cấp xã từ
500.000 lên 2 triệu đồng, cấp huyện từ 10 triệu lên 20 triệu nhưng hầu hết các
trường hợp cấp xã vẫn không phạt được vì phần lớn các hành vi vi phạm đều có
mức phạt cao hơn, nên lại phải chuyển lên cấp quận, huyện. Như vậy, việc tăng
thẩm quyền phạt tiền của cấp xã đã không đạt được mục đích của nó vì hầu hết các
trường hợp vi phạm cấp cơ sở chỉ kiểm tra, phát hiện vi phạm và lập biên bản, báo
4



cáo cấp trên, dẫn đến tình trạng quá tải ở cấp trên trong khi cấp dưới hầu hết chỉ
thực hiện chức năng lập biên bản, từ đó dẫn đến nhiều trường hợp không xử lý
được hành vi vi phạm do hết thời hiệu, thời hạn pháp luật quy định. Các cơ quan
cấp trên luôn lâm vào tình trạng không đủ thời gian và nhân lực để thực hiện việc
xử phạt trong thời hạn pháp luật quy định, không có quỹ thời gian đầu tư vào các
hoạt động quản lý vĩ mô.
Thứ hai, sự bất hợp lý trong quy định về thẩm quyền tịch thu tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu
quả.Theo quy định của Pháp lệnh, thì các chức danh có thẩm quyền xử phạt ở cấp
cơ sở hầu như không có thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính và áp dụng các biện pháp khắc phục hậu quả. Ví dụ chiến sĩ công an nhân
dân, cảnh sát viên Đội nghiệp vụ Cảnh sát biển, Đội trưởng Đội nghiệp vụ hải
quan, Kiểm lâm viên… chỉ có thẩm quyền phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền mà không
có thẩm quyền tịch thu hoặc áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả. Điều này đã
dẫn đến trường hợp xử lý không triệt để hoặc không xử lý được vi phạm phải
chuyển vụ việc lên cấp trên.
b. Tính hợp lý của pháp luật về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
* Điểm hợp lý:
Thủ tục xử phạt vi phạm hành chính được quy định tại chương VI Pháp lệnh
xử lý vi phạm hành chính năm 2002. Pháp lệnh này vẫn duy trì hai loại thủ tục:
Thủ tục đơn giản và thủ tục lập biên bản. Mặc dù vậy, có thể thấy Pháp lệnh xử lý
vi phạm hành chính năm 2002 đã có nhiều sửa đổi, bổ sung quan trọng để đảm
bảo tính cụ thể, rõ ràng, chặt chẽ, vừa không bó tay cơ quan nhà nước vừa không
gây khó khăn, phiền hà cho cá nhân, tổ chức vi phạm. Việc chia thủ tục thành hai
loại có ý nghĩa rất lớn: đối với những vụ việc đơn giản thì người có thẩm quyền có
thể ra quyết định xử phạt ngay; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể xử phạt tại chỗ;
vụ việc được giải quyết nhanh chóng, đơn giản, tạo điều kiện thuận lợ cho cơ quan
nhà nước, công chức thi hành công vụ và cho cả cá nhân, tổ chức vi phạm.
5



-Thủ tục đơn giản:
Thủ tục đơn giản là loại thủ tục được áp dụng trong trường hợp xử phạt vi phạm
hành chính bằng hình thức phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10000 đồng đến 200.000
đồng. Có thể thấy, mức phạt tiền được xử phạt theo thủ tục đơn giản được nâng từ
20.000 đồng lên 200.000 đồng là nhằm giải quyết nhanh chóng đối với vụ vi phạm
nhỏ, đơn giản, rõ ràng. Ngoài ra, trong trường hợp này thì người có thẩm quyền
xử phạt có thể ra quyết định xử phạt ngay; cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể nộp
tiền phạt tại chỗ, vụ việc được giải quyết nhanh, đơn giản. Điều đó không chỉ tạo
điều kiện thuận lợi cho cơ quan nước và người thi hành công vụ mà còn cho cả cá
nhấn, tổ chức vi phạm.
-Thủ tục lập biên bản:
+ Về đình chỉ hành vi vi phạm: việc đình chỉ hành vi vi phạm là bước đầu tiên và
được áp dụng đối với thủ tục đơn giản cũng như thủ tục lập biên bản. Để phù hợp
với thực tế đa dạng, phong phú của cuộc sống, đảm bảo tính linh hoạt, không “bó
tay” cơ quan nhà nước, Pháp lệnh không quy định cụ thể hình thức của lệnh mà
người có thẩm quyền xử phạt phải ban hành để đình chỉ ngay hành vi vi phạm.
+ Về việc lập biên bản về hành vi vi phạm:
Vấn đề này được pháp lệnh quy định rất cụ thể vì biên bản trong xử phạt vi phạm
hành chính có ý nghĩa quan trọng, là cơ sở cho việc xử phạt và giải quyết khiếu
nại, tố cáo cũng như việc khởi kiện ra Tòa án hành chính.
Để phù hợp với thực tế Pháp lệnh bổ sung một điểm mới là vi phạm hành chính
xảy ra trên tàu bay, tàu biển thì người chỉ huy tàu bay, tàu biển có trách nhiệm lập
biên bản để chuyển cho cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt khi người có tàu
bay, tàu biển về đến sân bay, bến cảng. Quy định này là cần thiết bởi thực tế vẫn
có nhiều vi phạm hành chính xảy ra ở tàu bay, tàu biển nhưng không thể giải
quyết do không được pháp luật quy định thủ tục xử phạt.
+ Về việc quyết định xử phạt:
6



Việc quy định thời hạn ra quyết định xử phạt là rất cần thiết vì trong quản lý hành
chính nói chung, việc xử phạt vi phạm hành chính nói riêng cần phải giải quyết
nhanh chóng, kịp thời, những vi phạm trật tự quản lý cần được nhanh chóng ngăn
chặn, chấm dứt, hậu quả gây ra (nếu có) cần được khắc phục ngay để đảm bảo
hoạt động bình thường của xã hội. Quy định này cũng nhằm bảo đảm quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân vì việc quyết định xử phạt không thể kéo dài, gây ảnh
hưởng đến hoạt động bình thường của cá nhân, tổ chức mà phải trong thời hạn do
pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 quy định. Quy định này còn nâng
cao tính tích cực, chủ động, tinh thần trách nhiệm của người có thẩm quyền xử
phạt.
+ Về việc thi hành quyết định xử phạt:
Theo quy định tại Điều 64 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002, cá
nhân, tổ chức bị xử phạt phải thi hành quyết định xử phạt trong thời hạn 10 ngày
kể từ ngày ra quyết định xử phạt. Như vậy, so với pháp lệnh xử lý vi phạm hành
chính năm 1995, thời hạn tự nguyện thi hành quyết định xử phạt được quy định
dài gấp đôi . Sở dĩ Pháp lênh kéo dài thời hạn như trên là vì trong rất nhiều trường
hợp cá nhân, tổ chưc bị xử phạt ở ngoài địa bàn cư trú hoặc địa bàn đóng trụ sở
hoặc trong trường hợp bị phạt một khoản tiền rất lớn cần có thời gian để cá nhân,
tổ chức bị phạt có thể chuẩn bị tiền để nộp phạt, không bị cưỡng chế thi hành bằng
các biện pháp mạnh và kiên quyết. Đây là quy định tạo thuận lợi cho đối tượng vi
phạm hành chính có điều kiện để tự nguyện thi hành quyết định xử phạt.
+ Về nơi nộp tiền phạt:
Theo pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 1989 người vi phạm hành chính
bị phạt tiền phải nộp tiền phạt cho người có thẩm quyền xử phạt. Trên thực tế,
điều này đã làm phát sinh tiêu cực trong xử phạt vi phạm hành chính. Để hạn chế
tiêu cực, pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 1995 nghiêm cấm việc thu tiền
phạt tại chỗ, trong mọi trường hợp, tiền phạt phải nộp tại nơi thu tiền phạt của kho
bạc nhà nước. Tuy nhiên, trong những trường hợp vi phạm hành chính đơn giản,

7


vi phạm hành chính tại những vùng xa xôi, hẻo lánh, trên song, trên biển, những
vùng đi lại khó khăn hay vi phạm ngoài giờ hành chính thì việc nộp tiền phạt tại
thu tiền phạt của kho bạc nhà nước lại gây không ít khó khăn cho người bị xử
phạt.
Qua thực tế thi hành hai pháp lệnh trên, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002 đã có những sửa đổi, bổ sung quan trọng nhằm phù hợp với yêu cầu của thực
tiễn. Cụ thể, một mặt quy định tiền phạt phải nộp tại kho bac nhà nước, mặt khác
cho phép người bị phạt nộp tiền tại chỗ trong những trường hợp nhất định vừa có
khả năng ngăn ngừa tiêu cực, vừa tạo điều kiện cho người nộp tiền phạt.
+ Về việc hoãn thi hành quyết định phạt tiền:
Xuất phát từ thực tiễn thi hành pháp luật: trong một số trường hợp cá nhân vi
phạm chưa thể thi hành quyết định xử phạt do chưa có điều kiện thi hành. Chính
vì vậy Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 sửa đổi năm 2008 đã bổ
sung quy định mới về việc hoãn thi hành quyết định xử phạt. Theo quy định này,
khi cá nhân bị xử phạt tiền 500.000 đồng trở lên, có thể được tạm hoãn thi hành
quyết định xử phạt nếu gặp khó khăn đặc biệt về kinh tế; những khó khăn này có
thể do thiên tai hoặc gia đình có người ốm nặng,…
+ Việc chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành chính:
Vi phạm hành chính có thể diễn ra ở nhiều nơi, do nhiều đối tượng thực hiện;
người ở địa phương này có thể vi phạm hành chính ở nơi khác. Vì vậy, việc
chuyển quyết định xử phạt vi phạm hành chính để thi hành đã được Pháp lệnh quy
định tai Điều 68.
* Một số điểm chưa hợp lý:
- Thủ tục lập đơn giản:
Việc Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính nâng mức tiền phạt theo thủ tục đơn
giản là phù hợp, khắc phục tình trạng vụ việc vi phạm phải dồn lên cấp trên giải
quyết. Tuy nhiên, mức tiền được xử phạt là 200.000 đồng vẫn còn thấp, nhiều vụ

vi phạm chưa thể xử phạt theo thủ tục này.
8


3. Một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về thẩm quyền và thủ
tục xử phạt vi phạm hành chính:
* Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính:
Một là, tăng thẩm quyền xử phạt của cấp cơ sở bởi như đã phân tích ở trên
thì quy định về thẩm quyền xử phạt của các chức danh cấp cơ sở như hiện nay đã
bộc lộ những điểm không phù hợp với thực tiễn. Cụ thể cần tăng thẩm quyền xử
phạt với mức tương ứng cho các chức danh: chiến sĩ công an nhân dân, bộ đội
biên phòng, đội trưởng Hải quan, nhân viên Kiểm lâm, Thuế vụ, Đội trưởng Đội
nghiệp vụ Cảnh sát biển... và cấp trên quản lý trực tiếp những chiến sĩ, nhân viên
nói trên. Tăng thẩm quyền xử phạt của Chủ tịch UBND cấp xã, Trưởng Công an
cấp xã, Thanh tra viên chuyên ngành.
Hai là, về vấn đề ủy quyền xử phạt vi phạm hành chính. Quy định về uỷ
quyền trong Pháp lệnh hiện nay còn cứng nhắc (chỉ được uỷ quyền trong trường
hợp vắng mặt và bằng văn bản). Quy định như vậy dẫn đến việc thẩm quyền
XPVPHC được dồn hết vào cấp trưởng (chỉ khi cấp trưởng vắng mặt mới được uỷ
quyền cho cấp phó), trong khi thực tiễn quản lý hiện nay là cấp trưởng phụ trách
chung, các cấp phó được giao chỉ đạo, quản lý những lĩnh vực nhất định. Chính vì
vậy, cấp trưởng không đủ thời gian xem xét, ra quyết định xử phạt đối với tất cả
các vụ vi phạm hành chính.
Ba là, bổ sung thẩm quyền tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính và thẩm quyền áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả của một số chức danh
như đã nêu ở trên.
*Về thủ tục xử phạt vi phạm hành chính:
- Thủ tục đơn giản:
Thủ tục đơn giản được áp dụng để xử lý nhanh chóng đối với một số vụ vi phạm
đơn giản, rõ ràng, không cần thời gian để xác minh thêm như: những hành vi vi

phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, an toàn giao thông đường bộ. Tuy nhiên,
do mức tiền xử phạt theo thủ tục đơn giản được quy định thấp nên phần lớn các vụ
9


vi phạm bị xử phạt theo thủ tục có lập biên bản. Do đó, để thủ tục đơn giản thực
sự phát huy được hiệu quả và đảm bảo được yêu cầu của cải cách hành chính thì
pháp luật nên tăng mức phạt tiền theo thủ tục đơn giản.
- Thủ tục lập biên bản:
Về vấn đề ra quyết định xử phạt quy định tại Điều 56 Pháp lệnh xử lý vi phạm
hành chính 2002 chưa quy định cụ thể thủ trưởng trực tiếp có quyền gia hạn thêm
thời hạn ban hành quyết định xử phạt vi phạm. Trong trường hợp Chủ tịch UBND
cấp tỉnh cần gia hạn thời hạn ban hành quyết định xử phạt thì cần xin phép Thủ
tướng Chính phủ hay Bộ trưởng. Đây là vấn đề cần được xem xét và quy định rõ.

Kết luận
Qua phân tích, có thể thấy yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất để đạt được
hiệu quả cao trong việc đấu tranh và phòng ngừa vi phạm hành chính là sự hợp lý
của các quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính, đặc biệt là vấn đề
thẩm quyền và thủ tục xử phạt vi phạm hành chính. Điều này đòi hỏi các nhà làm
luật phải luôn tổng kết thực tiến áp dụng pháp luật để có thể tìm ra điểm hợp lý và
chưa hợp lý của pháp luật về vấn đề này.

10


Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình Luật hành chính Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb
CAND.
2. Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002 (sửa đổi, bổ sung năm

2008).
3. Số chuyên đề về Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002; Bộ tư
pháp, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật; Hà Nội, tháng 9 – 2002.
4. Đặc san về xủ lý vi phạm hành chính, tạp chí luật học, tháng 9/2003.
5. website: hanh-chinh-va-viec-xay-dung-bo-luat-xu-ly-vi-pham-hanh-chinh.

11


Mục lục

12



×