LỜI CẢM ƠN
Trải qua một quá trình học tập và rèn luyện trong nhà trường, cùng với
sự giúp đỡ của các giảng viên em đã có được những kiến thức, kỹ năng cơ
bản phục vụ cho công tác sau này.
Để có được kết quả đó em xin gửi lời cảm ơn tới toàn thể cán bộ Lãnh
đạo của Học viện, các thầy cô trong Ban đào tạo, cùng toàn thể các giảng viên
đã giúp đỡ em có được kiến thức cũng như những trải nghiệm trong quá trình
học tập.
Em xin gửi lời cảm ơn tới ThS. Trịnh Ngọc Thu giảng viên Bộ môn
QLNN về đô thị và nông thôn của Học viện Hành chính, đã tận tình hướng
dẫn em để em hoàn thành tốt khóa luận tốt nghiệp của mình.
Em xin chân thành cảm ơn các đồng chí lãnh đạo cùng toàn thể cán bộ,
công chức của Ủy ban nhân dân tỉnh Viêng chăn đã tạo điều kiện cho em
được tìm hiểu, nghiên cứu về đề tài của mình tại Quý cơ quan. Đặc biệt cảm
ơn tới các chuyên viên tại Sở lao động xã hội Viêng chăn đã quan tâm giúp
đỡ, cung cấp tài liệu để em hoàn tất bản báo cáo này.
Trân trọng cảm ơn.
CÁC TỪ VIẾT TẮT
1
XĐGN:
Xóa đói giảm nghèo
XHCN:
Xã hội chủ nghĩa
CBCC:
Cán bộ công chức
CHDCND: Nước Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào
MỤC LỤC
2
3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở
mọi quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,3 tỷ người đang sống trong
cảnh đói nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân
số sống trong tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người
nghèo ở mỗi nước cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ
hơn các nước kém phát triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất
nhiều. Trong xu thế hợp tác và toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá đói giảm
nghèo (XĐGN) không còn là trách nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành
mối quan tâm của cả cộng đồng Quốc tế. Lào là một trong những nước có thu
nhập thấp trên thế giới, do đó chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN là một
chiến lược lâu dài cần được sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc tế kết
hợp chặt chẽ với tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết của cả dân tộc để đẩy lùi
đói nghèo tiến kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tiên tiến. Chúng ta
đều biết đói nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và phát triển của
Quốc gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã hội, bệnh
tật phát triển, trật tự an ninh chính trị không ổn định…
Trong thời kỳ phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN
càng khó khăn và phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Muốn đạt được hiệu quả
thiết thực nhằm giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho người
dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình XĐGN riêng phù hợp
với điều kiện kinh tế - xã hội của mình nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Viêng chăn là một tỉnh thuộc miền trung nước Lào, giáp thủ đô Viêng
chăn, trong những năm gần đây được sự quan tâm đầu tư của Đảng và Nhà
nước CHDCND Lào, sự nỗ lực cố gắng của lãnh đạo và nhân dân toàn tỉnh
4
nên tình hình kinh tế - xã hội đã có những bước chuyển biến tích cực, sản xuất
phát triển, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao, tỷ lệ hộ nghèo đói
hàng năm giảm từ 2-3%. Tuy nhiên, Viêng chăn vẫn là tỉnh nghèo, có tỷ lệ hộ
nghèo cao và thu nhập trung bình thấp so với các tỉnh khác trên đất nước.
Vấn đề đặt ra ở đây là: với tình hình, thực trạng nghèo đói của Viêng chăn
như vậy, Tỉnh đã có những chính sách gì, bằng cách nào, thực hiện các giải
pháp nào để đẩy mạnh quá trình xoá đói giảm nghèo, từng bước ổn định đời
sống của các hộ nghèo, từ đó tạo những điều kiện, tiền đề thuận lợi để các hộ
vươn lên thoát nghèo và không bị tái nghèo. Đây là vấn đề rất bức thiết đối
với tỉnh cần sớm được nghiên cứu giải quyết .Xuất phát từ thực tiễn đó em
chọn đề tài: “ Tìm hiểu công tác XĐGN ở tỉnh Viêng chăn nước CHDCND
Lào” làm khóa luận tốt nghiệp của mình, để từ đó có được đánh giá khách
quan, tạo cơ sở góp phần nâng cao hiệu quả XĐGN tại đây trong giai đoạn
tới.
2. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Hệ thống hoá và làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về công tác xoá đói
giảm nghèo
- Phân tích, đánh giá thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của tỉnh
Viêng chăn
- Nghiên cứu các nguyên nhân chủ yếu dẫn đến đói nghèo
- Đề xuất các định hướng và giải pháp chủ yếu cho công tác xoá đói
giảm nghèo của tỉnh Viêng chăn đến 2020.
3. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào đối tượng nghiên cứu là công tác XĐGN, khóa luận sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lý luận và thực tiễn; phân tích và
tổng hợp, tổng kết thực tiễn, thống kê và so sánh.
4. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, khóa luận được chia thành 3 chương:
5
Chương 1: Những vần đề lý luận về xóa đói giảm nghèo.
Chương 2: Thực trạng công tác xóa đói giảm nghèo ở tỉnh Viêng chăn.
Chương 3: Những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xóa đói
giảm nghèo ở tỉnh Viêng chăn hiện nay.
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
6
1. Lý luận về đói nghèo, xóa đói giảm nghèo
1.1. Khái niệm về đói nghèo
Trong mỗi một giai đoạn phát triển của lịch sử hay trong một thời kỳ,
trong mỗi nước, trong mỗi vùng miền khác nhau thì đều có quan niệm về
nghèo đói khác nhau. Lý do cơ bản có quan niệm khác nhau như vậy là do
trình độ phát triển kinh tế - xã hội ở trong mỗi một giai đoạn phát triển của
lịch sử, trong mỗi nước, mỗi vùng miền khác nhau quy định. Tuy nhiên có
một điểm chung nghèo đói đó là: không có khả năng thỏa mãn nhu cầu cơ
bản tối thiểu của con người.
Nghèo đói cũng chia ra hai cấp độ là nghèo và đói. Có rất nhiều quan
niệm khác nhau về nghèo:
Nghèo được định nghĩa theo "mức độ thích đáng, số tiền chi cho lương
thực" của Samuelson. Hay là "nghèo là nói đến một mức tối thiểu được sinh
tồn không được thỏa mãn" của ChantalEuzeby. Hoặc định nghĩa của công ty
ADUKI (Thụy Điển) "Họ là những người không có khả năng tiếp cận hoặc
kiểm soát các nguồn lực xã hội, kinh tế, chính trị và do đó không có khả năng
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người một cách có phẩm giá". Hoặc
một định nghĩa khác về nghèo "về cơ bản sự nghèo khổ được xác định trong
mối tương quan xã hội... Sự nghèo đói không phải hoàn toàn là mức sống
tuyệt đối. Cơ sở thực của nó là tâm lý. Người nghèo là những người cảm thấy
bị tước đoạt những cái mà người khác trong xã hội được hưởng thụ, những cái
mà họ cho rằng chính họ cũng có phần.
Ở Malaysia quan niệm về nghèo đó là các hộ gia đình có thu nhập thấp
hơn PLI (mức nghèo-những nhu cầu tối thiểu về thực phẩm, ăn, mặc, chỗ ở và
những chi tiêu thông thường khác cần thiết). Những hộ nghèo là những hộ gia
đình không tận dụng được những cơ hội của sự phát triển kinh tế, do không
được trợ cấp giáo dục hoặc có sở hữu đất đai hoặc các tài sản có thể đem lại
thu nhập.
7
Bănglađét, một trong những nước nghèo nhất lại có quan niệm về
nghèo với nghĩa bao quát hơn. Nghèo ở đây được quan niệm là bị tước đoạt
về kinh tế - xã hội và tâm lý xảy ra trong nhân dân hoặc trong các nước thiếu
khả năng quản lý và sử dụng các nguồn lực nhằm duy trì và tạo ra mức sống
tối thiểu cho từng cá nhân hoặc cộng đồng. Kết quả của nó là không có khả
năng hoặc làm suy yếu khả năng có được (đảm bảo được) mức tối thiểu về
khả năng dinh dưỡng, bảo vệ sức khỏe, nhà ở, giáo dục và phúc lợi khác.
Hội nghị bàn về giảm nghèo đói trong khu vực Châu á-Thái Bình
Dương do ESCAP tổ chức tháng 9 năm 1993 tại Băng Cốc (Thái Lan) đã đưa
ra khái niệm và định nghĩa về nghèo như sau:
Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư không được hưởng và
thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của con người, mà những nhu cầu này đã
được xã hội thừa nhận tùy theo trình độ phát triển kinh tế và phong tục tập
quán của địa phương.
Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư sống dưới mức trung
bình của cộng đồng
Có thể xem đây là hai định nghĩa chung nhất về nghèo, hai định nghĩa
có tính chất hướng dẫn về phương pháp đánh giá, nhận diện nét chính yếu,
phổ biến về nghèo. Các tiêu chí và chuẩn mực đánh giá còn để nhỏ về mặt
lượng hóa (định lượng), bởi nó chưa tính đến những khác biệt và độ chênh
lệnh giữa các vùng, các điều kiện lịch sử cụ thể qui định trình độ phát triển ở
mỗi nơi. Quan niệm hạt nhân có trong định nghĩa này là ở nhu cầu cơ bản của
con người. Căn cứ xác định nghèo là ở chỗ đối với những nhu cầu cơ bản ấy,
con người không được hưởng và thỏa mãn.
Quan niệm nghèo ở Việt Nam có hai loại là nghèo tuyệt đối và nghèo
tương đối. Nghèo tuyệt đối được hiểu là tình trạng một bộ phận dân cư không có
khả năng thỏa mãn các nhu cầu tối thiểu (ăn, mặc, ở, nhu cầu văn hóa, y tế, giáo
dục và giao tiếp) để duy trì cuộc sống. Còn nghèo tương đối được hiểu là tình
trạng một bộ phận dân cư có mức thu nhập dưới mực thu nhập của cộng đồng.
Ở Lào, nghèo được hiểu là vấn đề không đảm bảo được nhu cầu thiết
yếu cơ bản về sinh hoạt hàng ngày như: thiếu lương thực (chất lượng khẩu
8
phần thức ăn thấp dưới 2100kg/caloly/ngày/người); thiếu mặc, lối sống không
ổn định, không có khả năng tiếp cận về giáo dục, y tế và điều kiện đi lại gặp
khó khăn. Hoặc quan niệm khác, nghèo không chỉ là mức thu nhập, tiêu dùng
thấp và mức độ thấp của các thành quả trong giáo dục, y tế, trạng thái dinh
dưỡng mà còn bao gồm tủi nhục-bạo lực, rủi ro, không có tiếng nói và không
có quyền lực.
Quan niệm về đói (với ý nghĩa biểu hiện trực tiếp là đói ăn, thiếu lương
thực, thực phẩm để duy trì sự tồn tại của con người) thường chỉ có ở các nước
nghèo, chậm phát triển. Đói cũng có hai dạng: đói kinh niên và đói gay gắt
chỉ mức độ và tính chất của đói. Như vậy, đói là nấc thấp nhất của nghèo. Đã
lâm vào tình trạng đói thì đương nhiên ở vào tình trạng nghèo.
Đói theo quan niệm ở Lào là sự đói ăn, thiếu lương thực, thực phẩm để
nhằm duy trì nhu cầu tồn tại của con người. Trong cuộc sống hàng ngày, đói
bao giờ cũng gắn liền với nghèo, do nghèo mà không thể giải quyết được sự
thiếu ăn, thiếu lương thực, không có điều kiện trao đổi, mua bán với các cá
nhân khác trong cộng đồng, khi mà bản thân không tự đáp ứng đủ lương thực,
thực phẩm cho nhu cầu cần thiết.
Nhưng ở dạng nào đi chăng nữa thì nghèo vẫn có quan hệ mật thiết với
đói. Nghèo là một kiểu đói tiềm tàng và đói là một tình trạng hiển nhiên của
nghèo, nên nghèo kéo dài thì dễ lâm vào tình cảnh đói rách, khốn khó cùng
quẫn.
Việc đưa ra các khái niệm nghèo và đói cả về định tính và định lượng
nhằm phân định mức độ nghèo và tìm ra các giải pháp giảm nghèo. Tuy nhiên
trong xã hội, chúng ta thường hay gặp các khái niệm như đói nghèo; nghèo
khổ; giàu nghèo và phân hóa giàu nghèo... Các khái niệm nêu trên là các cách
tiếp cận khác nhau về nghèo đói.
Việc đánh giá nghèo đói chỉ có ý nghĩa trong phạm vi nhất định với
một không gian và thời gian nhất định như xét nghèo đói trong phạm vi một
nước, một vùng, miền và trong một giai đoạn lịch sử nhất định. Nó không
phải là chuẩn mực chung nhất, có tính tuyệt đối cho tất cả các quốc gia trong
tất cả các giai đoạn lịch sử. Khi các điều kiện trên thay đổi thì khái niệm và
9
quan niệm nghèo đói cũng có sự thay đổi. Bởi vì tác động của quy luật phát
triển không đồng đều về trình độ phát triển kinh tế-xã hội, về trình độ chính
trị giữa các quốc gia, nên sự giàu nghèo giữa các quốc gia, các khu vực, các
nhóm dân cư ở các giai đoạn lịch sử có sự khác nhau.
Ngay cả tầng lớp dân cư trong một vùng hay một quốc gia cũng có sự
khác nhau về nghèo đói. Sự khác nhau này là do nhiều yếu tố chi phối như
năng lực, sức khỏe, học vấn, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ thuật, vốn và
kể cả các cơ may trong công việc sản xuất-kinh doanh.
Tóm lại nghèo đói là một phạm trù lịch sử, có tính tương đối. Tính chất
và đặc trưng của nghèo đói phụ thuộc vào trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, trình độ phát triển kinh tế-xã hội của vùng, miền, quốc gia và khu vực.
Nghèo đói là một phạm trù kinh tế-xã hội phản ánh so sánh tính đa dạng cả về
không gian và thời gian sự tồn tại thế giới dưới dạng vật chất-tinh thần do
chính con người sáng tạo ra những quyền sở hữu, phân phối tiêu dùng những
của cải đó lại rất không đồng đều đối với mỗi quốc gia, mỗi con người khác
nhau.
1.2. Khái niệm về xóa đói, giảm nghèo
Đói nghèo có mối quan hệ mật thiết với nhau, do đó XĐGN cũng có
quan hệ với nhau, nói đến giảm nghèo đã bao hàm xóa đói.
Ở góc độ chung nhất, XĐGN chính là quá trình Nhà nước, cộng đồng hỗ
trợ, tạo điều kiện thuận tiện cho đối tượng đói nghèo vươn lên trong sản xuất,
cuộc sống, từ đó mà thoát khỏi đói, nghèo. Nói một cách khác XĐGN chính là
quá trình chuyển một bộ phận dân cư đói nghèo lên một mức sống cao hơn.
+ Xóa đói: Là làm cho bộ phận dân cư đói nâng cao thu nhập, nâng cao
mức sống từ đó mà vượt qua tiêu chí đói. Biểu hiện ở tỷ lệ phần trăm và số
lượng người đói giảm xuống bằng không trong một khoảng thời gian nhất định.
+ Giảm nghèo: Là làm cho một bộ phận dân cư nghèo nâng cao thu
nhập, nâng cao mức sống từng bước thoát khỏi tình trạng nghèo. Biểu hiện ở
tỷ lệ phần trăm và số lượng người nghèo giảm xuống theo thời gian.
+ XĐGN thực chất là cuộc tấn công chống nghèo đói. Cho đến nay trên
thế giới đã có nhiều quốc gia thành công trong cuộc chiến tranh chống đói
10
nghèo, song bài học kinh nghiệm rút ra từ những sự thành công đó lại rất
phong phú, đa dạng, thậm chí rất khác nhau.
1.3. Khái niệm về công tác xóa đói giảm nghèo
Nói về công tác XĐGN, đã có rất nhiều quan niệm đưa ra nhưng chủ
yếu tập trung vào một số quan niệm sau:
Công tác XĐGN là tổng thể các hoạt động trực tiếp hoặc gián tiếp
nhằm thực hiện mục tiêu hỗ trợ như điều kiện căn bản ( ăn, ở, đi lại, học
hành…) để người nghèo có thể tồn tại và phát triển để dần đạt tới mức trung
bình như các thành viên khác trong cộng đồng.
Công tác XĐGN là quá trình đưa chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước vào việc nâng cao chủ trương, chính sách cho người dân đặc biệt là
hộ nghèo, xã nghèo trên cả nước. Thông qua các chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước, các cơ quan, đoàn thể, các địa phương giúp đỡ người
nghèo, xã nghèo phát triển kinh tế, cải thiện đời sống, nâng cao mức thu nhập
và các nhu cầu thiết yếu khác, qua đó từng bước giúp hộ nghèo, từng bước rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giữa các vùng các địa phương, đặc biệt là giữa
thành thị và nông thôn, giữa các dân tộc trong cả nước.
Để làm tốt công tác này, chúng ta phải có nhận thức đúng đắn và thống
nhất quan điểm XĐGN là giúp đỡ người nghèo vươn lên để thoát khỏi nghèo,
đói chứ không phải trợ cấp hoặc mang tính chất bố thí cho người nghèo, cho
người nghèo "cái cần câu chứ không phải cho họ xâu cá". Để công tác XĐGN
đạt hiệu quả phải tích cực tuyên truyền vận động, giúp đỡ người nghèo, cung
cấp tiền vốn, phương tiện sản xuất, hướng dẫn họ cách thức làm ăn để họ tự
vươn lên xóa bỏ tư tưởng chông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, chính quyền địa
phương, đồng thời giúp họ xóa bỏ tâm lý tự ty, mặc cảm. Giúp người nghèo
có lòng tin vào Đảng và Nhà nước, cơ quan và tin vào chính mình, tin vào
cuộc sống tương lai.
1.4. Các tiêu thức và chuẩn mực đánh giá nghèo đói
Phương pháp xác định chuẩn nghèo chung nhất của các quốc gia cũng
như các tổ chức quốc tế là dựa vào nhu cầu chi tiết để đảm bảo các nhu cầu cơ
bản của con người.
11
Hiện nay có khá nhiều chuẩn nghèo dùng trên thế giới vì những mục
tiêu và lý do khác nhau, tuy nhiên chuẩn nghèo do Ngân hàng thế giới( WB)
được khuyến nghị áp dụng phổ biến ở hầu hết các nước.
Theo WB đưa ra khuyến nghị thang đo nghèo đói như sau:
- Đối với người nghèo: Các cá nhân được coi là nghèo đói khi mà có
thu nhập dưới 0,5 USD/ ngày
- Đối với nước đang phát triển là 1USD/ ngày
- Các nước thuộc châu Mỹ La tinh và Caribelaf 2 USD/ ngày
- Các nước Đông âu là 4 USD/ ngày
- Các nước công nghiệp phát triển là 14,4 USD/ ngày
Tuy vậy, các quốc gia đều tự đưa ra chuẩn nghèo riêng của mình, thông
thường nó thấp hơn thang nghèo đói của WB đưa ra, ví dụ Trung quốc đưa ra
chuẩn nghèo là 960 nhân dân tệ 1 năm/ người. Chuẩn nghèo của nước Mỹ
được xác định cho một gia đình gồm 2 bố mẹ và 2 con là 17.463 USD/ năm
tương đương 12 USD/ ngày.
Đa số các nước trong khu vực Châu Á gần Lào có một mức chuẩn
nghèo không cao, khoảng 5-6 USD/ người/ tháng. Chỉ có 3 nước là Malaysia,
Thái lan, Philippines có mức chuẩn cao hơn, riêng Singapo không sử dụng
chuẩn nghèo.
* Chuẩn nghèo ở Lào
Ở Lào chuẩn nghèo biến động qua 3 vùng sinh thái khác nhau đó là
vùng đô thị, vùng nông thôn đồng bằng và vùng nông thôn miền núi. Về thời
gian chuẩn nghèo cũng có sự biến động lớn và nó biến đổi theo trình độ phát
triển kinh tế xã hội và nhu cầu của con người theo từng giai đoạn lịch sử.
Căn cứ vào mức sống thực tế của các địa phương. Bộ Lao động và
Phúc lợi xã hội đã 3 lần công báo ( Pháp lệnh của thủ tướng chính phủ số 10
TTg) chuẩn nghèo được tính theo thu nhập bình quân đầu người giai đoạn
2006-2010 có mức chuẩn nghèo như sau: Những người có thu nhập đưới mức
12
quy định sau được xếp vào nhóm hộ nghèo (Quyết định số 43/2009/QĐKHĐT)
+ Vùng nông thôn miền núi: 180.000 kíp/ người/tháng( 2,16
triệu/người/ năm)
+ Vùng nông thôn đồng bằng: 240.000 kíp/người/tháng(2,88
triệu/năm/người)
Mức bình quân:192.000 kíp/người/tháng(2,304 triệu/ năm/ người)
Căn cứ vào tình hình phát triển kinh tế xã hội và kết quả thực hiện
chương trình XĐGN các tỉnh, thành phố có thể nâng chuẩn hộ nghèo cao hơn
so với quy định trên đây với 3 điều kiện:
Thu nhập bình quân đầu người của tỉnh, thành phố cao hơn thu nhập
bình quân đầu người cả nước.
Tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh, thành phố thấp hơn tỷ lệ hộ nghèo chung của
cả nước.
Sự cân đối được nguồn lực và đủ nguồn lực hỗ trợ hộ nghèo, người
nghèo.
Ngoài ra Lào còn có tiêu chí xác định huyện đặc biệt khó khăn nếu đáp
ứng được 5 yêu cầu sau:
Vị trí địa lý của huyện ở xa trung tâm kinh tế xã hội, xa đường quốc lộ,
giao thông đi lại khó khăn.
Môi trường xã hội chưa phát triển, trình độ dân trí thấp, còn nhiều tập
tục lạc hậu.
Trình độ sản xuất còn lạc hậu mang tính tự cung tự cấp, công cụ thô sơ.
Đời sống của nhân dân còn nhiều khó khăn thiếu thốn,mức sống thấp.
Hạ tầng cơ sở chưa phát triển chưa đủ các công trình thiết yếu như
đường giao thông, trường học, trạm xá, nước sạch, chợ.
1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến đói nghèo và xóa đói giảm nghèo
13
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế xã hội có tính lịch sử và phổ biến
ở mọi quốc gia dân tộc. Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến đói nghèo, nhưng
tập trung chủ yếu vào những nhân tố cơ bản sau:
- Các nhân tố tự nhiên:
+ Vị trí địa lý, địa hình tài nguyên, thiên tai khí hậu là những yếu tố,
điều kiện đầu tiên cho phát triển kinh tế, Nếu ở điều kiện địa lý, địa hình
thuận lợi thì rõ ràng, ở những nơi đó có điều kiện khác nhau như: nguồn nhân
lực lao động- cơ chế chính sách, nơi có điều kiện tự nhiên thuận lợi thì ở đó
có sự vượt lên trong phát triển kinh tế xã hội và đương nhiên ở nơi đó có tỷ lệ
đói nghèo có chiều hướng giảm so với những nơi không có sự ưu ái về điều
kiện tự nhiên.
- Các nhân tố về điều kiện kinh tế
+ Nếu như các yếu tố về tự nhiên là yếu tố khách quan ban đầu cho
phát triển kinh tế thì các yếu tố về kinh tế là yếu tố nền tảng có vai trò quan
trọng quyết định đến XĐGN. Nước Nhật là nước bị tàn phá sau chiến tranh
thế giới thứ 2, cũng là nước không có gì đáng kể. Nhưng với một cơ chế,
chính sách, một ý chí vươn lên của người Nhật đã xây dựng lên một Nhật bản
hiện tại thành một trong những cường quốc kinh tế thứ 3 trên thế giới. Một cơ
cấu kinh tế chưa cân đối thu nhập quốc dân chủ yếu từ khu vực sản xuất
nông, lâm, thủy sản. Đặc biệt là xuất khẩu tài nguyên khoáng sản, tài nguyên
rừng. Quy mô nền kinh tế còn quá nhỏ và manh mún, công nghệ trình độ sản
xuất còn lạc hậu lại xuất phát từ một nước có nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
lên đây là một trong những nguyên nhân vô cùng quan trọng tới năng lực của
nền kinh tế nói chung công tác XĐGN nói riêng của Lào cũng như tỉnh Viêng
chăn.
- Nhân tố thuộc về người nghèo
+ Trình độ dân trí, tỷ lệ tăng dân số và phong tục tập quán của bản thân
các hộ đói và nghèo là những nhân tố trực tiếp tác động đến đói nghèo.
14
+ Một sự thiếu hiểu biết về cung cách làm ăn và đương nhiên là thiếu
tự chủ trong định hướng hành động, trong cuộc sống của mỗi gia đình sẽ là hệ
quả của sự đói nghèo.
+ Chấp nhận mọi sự mặc cảm, tự ty phó thác cho số phận, và do đó sự
cố gắng trong việc chuyển giao tiến bộ kỹ thuật về sản xuất, đời sống, sinh đẻ
có kế hoạch, về văn hóa xã hội theo các chương trình quốc gia, các dự án kinh
tế- xã hội, hiệu quả mang lại không xứng về mức đầu tư.
+ Ngoài ba nhân tố cơ bản trên đói nghèo còn có những nhân tố khác
ảnh hưởng như: dịch bệnh, chiến tranh, tuy sự ảnh hưởng của từng nhân tố
còn phụ thuộc vào từng điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng vùng khác
nhau có sự ảnh hưởng khác nhau. Song giữa các nhân tố luôn là một sự hòa
quện gắn bó tác động đến đói nghèo.
+ Giảm đói nghèo không chỉ đối với hộ nghèo và người nghèo đói, mà
còn đối với cả quốc gia, do đó đối với mỗi quốc gia muốn XĐGN cần phải có
chiến lược tăng trưởng kinh tế tốc độ cao, bền vững và phân phối thu nhập
công bằng, tương đối bình quân, vì sự bình quân trong phân phối sẽ triệt tiêu
động lực phát triển làm cho xã hội nghèo đi.
+ Xóa đói giảm nghèo còn phụ thuộc vào sự tiếp cận của chính bản
thân những người đói nghèo. Sự tiếp cận đó chính là sự thay đổi về dân trí,
cung cách.
2. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
Cay Xỏn Phôm Vi Hản về chính sách xóa đói giảm nghèo
2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lê nin về xóa đói giảm nghèo.
Theo C. Mác và Ăngghen: "Nguồn gốc sâu xa của tình trạng đói nghèo
là ở chế độ tư hữu, tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, ở chế độ áp bức bóc
lột và tình trạng nô dịch con người. Do đó, chỉ có thể xóa bỏ chế độ tư hữu,
bóc lột ấy mới có thể giải phóng giai cấp vô sản và quần chúng lao động khỏi
cảnh đói nghèo, lầm than, làm cho họ trở thành người lao động tự do và người
15
làm chủ tiến tới một xã hội công bằng, văn minh, đạt được sự hài lòng giữa
lợi ích cá nhân và xã hội".
Đầu thế kỷ XX, V.I.Lênin đã tiếp tục phân tích những mâu thuẫn kinh
tế-xã hội gay gắt trên và vạch ra luận cương giải phóng toàn bộ giai cấp vô
sản và các dân tộc bị áp bức khỏi ách thống trị của chủ nghĩa tư bản bằng
cách mạng xã hội, mà đỉnh cao là cách mạng Tháng Mười năm 1917 do Đảng
của giai cấp công nhân lãnh đạo. Sau cách mạng thắng lợi, Lênin đã chuyển
từ "Chính sách kinh tế thời chiến" sang "Chính sách kinh tế mới" (NEP). Ông
là người chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa, dùng lợi ích vật chất, coi đó
như một nhân tố kích thích, một đòn bẩy kinh tế để khuyến khích mọi người
lao động, giải phóng sức sản xuất, phát triển kinh tế. Đó là một trong những
biện pháp để xóa bỏ căn bản tình trạng đói nghèo.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và Cay Xỏn Phôm Vi Hản về xóa đói giảm
nghèo.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo:
Giữa những năm 20 của thế kỷ XX, sau khi sơ thảo lần thứ nhất luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tiếp thu và vận dụng được kiến thức cốt lõi chủ nghĩa Mác-Lênin.
Người đã xây dựng nên lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc chống thực
dân. Hồ Chí Minh khẳng định con đường cứu nước của mình: "Giải phóng
dân tộc bằng con đường cách mạng vô sản, gắn việc giải phóng dân tộc với
giải phóng giai cấp vô sản". Người đã gắn liền độc lập dân tộc với CNXH,
ham muốn tột bậc của người là "Đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai
cũng được hưởng cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc". Người rất thương
yêu, quý trọng con người. Thương yêu con người ở Hồ Chí Minh theo tinh
thần làm cho nước nhà thoát khỏi ách áp bức, bóc lột của bọn thực dân pháp
bằng Cách mạng Tháng Tám năm 1945, do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh
đạo. Sau Cách mạng thắng lợi chủ tịch Hồ Chí Minh càng quan tâm đặc biệt
chăm lo đến đời sống của nhân dân. Theo Người, phải phát triển kinh tế,
không ngừng nâng cao đời sống vật chất của nhân dân, đi đối với thực hành
tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu. Người đã khẳng định chính sách
16
của Đảng và Chính phủ là: "Phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân.
Nhưng việc cải thiện đời sống của nhân dân phải do nhân dân tự làm, không ỷ
lại, chờ đợi Chính phủ"; "Nâng cao đời sống nhân dân đồng thời công bằng xã
hội" . Người đã kêu gọi toàn dân ra sức tăng gia sản xuất đối với thực hành
tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí, quan liêu, nhường cơm sẻ áo cho nhau,
quyên góp gạo để cứu đói. Nhất là trong kháng chiến chống Pháp (1947), Hồ
Chí Minh đã chủ trương phải đẩy mạnh tăng gia sản xuất, phát triển kinh tế,
vừa kháng chiến vừa kiến quốc. Ngay từ hồi ấy, Người đã có tư tưởng sâu sắc
với XĐGN. Do vậy, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước Việt
Nam, Đặc biệt từ Đại hội VI đến Đại hội X luôn luôn được kế thừa, bổ sung
sáng tạo, nâng cao để phù hợp với quy luật khách quan, tiếp cận được với xu
thế mới của thời đại và đến nay Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan
trọng về thực hiện chính sách XĐGN.
- Tư tưởng của Cay Xỏn Phôm Vi Hản về xóa đói giảm nghèo:
Cay Xỏn Phôm Vi Hản đã cố gắng không biết mệt mỏi trong nghiên
cứu lý luận cũng như thực tiễn. Ông đã tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và tìm hiểu những kinh nghiệm của các nước
anh em bè bạn để xây dựng nên lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc Lào
khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân Pháp và Mỹ bằng cách mạng dân
tộc dân chủ Tháng 12 năm 1975. Sau khi đất nước được giải phóng, Ông đã
tiếp tục lãnh đạo đất nước vượt qua mọi khó khăn, nhất là việc chăm lo đời
sống của nhân dân và chuẩn bị mọi điều kiện để đảm bảo cho đất nước phát
triển bền vững thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Đặc biệt Ông đã có quan điểm về đường lối
đổi mới đã thông qua Đại hội Đảng NDCM Lào lần thứ IV (1986), trong đó
có việc chủ trương thực hiện "Cơ chế quản lý kinh tế mới" nhằm đẩy mạnh sự
phát triển mọi cách có hiệu quả toàn bộ nền kinh tế, thông qua cơ chế thị
trường, có sự điều tiết của Nhà nước; thực hiện quá trình hội nhập và giao lưu
quốc tế.
Ông cho rằng "Cơ sở lý luận trong chính sách của Đảng là sử dụng
chính sách kinh tế mới của Lênin (NEP) ", trong đó có việc cải thiện đời sống
17
cho nhân dân phải bắt đầu từ gia đình nông dân, coi kinh tế hộ gia đình nông
dân là tế bào của toàn bộ nền kinh tế. Vì 90% dân số cả nước là nông dân và
sản phẩm nông nghiệp-lâm nghiệp còn chiếm 70% của GDP; phải chuyển từ
hình thức kinh tế của nền nông nghiệp tập trung quan liêu mang tính chất tự
nhiên, tự cấp, tự túc, sang sản xuất hàng hóa, theo cơ chế thị trường định
hướng XHCN.
Nhờ có quan điểm đúng đắn đã nêu trên, Đảng và Nhà nước Lào đã
tiếp tục nghiên cứu, đề ra và thực thi hàng loạt chính sách nhằm giải quyết
vấn đề nghèo đói cho nhân dân. Từ khi bước vào thời kỳ đổi mới đến nay,
nhiều chính sách đã thực sự phát huy tác động tích cực, như chính sách về
ruộng đất, nhân dân có quyền hoàn toàn tự chủ trong sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm; chính sách tạo vốn cho sản xuất nông nghiệp; chính sách thị trường;
chính sách giao đất, rừng; chính sách về đổi mới quá trình sản xuất nông
nghiệp; chính sách phát triển kết cấu hạ tầng nông thôn; chính sách phát triển
giáo dục và y tế khu vực nông thôn; chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài
trong khu vực kinh tế nông thôn … Những chính sách này, thực sự đã trở
thành những "đòn bẩy" thu hẹp dần khoảng cách về chất lượng cuộc sống của
người dân giữa nông thôn, vùng sâu, vùng xa và thành thị song cũng thực
hiện được sự công bằng xã hội, nhất là giải quyết được về công ăn việc làm
cho người lao động và thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động.
2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách
mạng Lào về xóa đói giảm nghèo.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói giảm nghèo
Tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện trong các
văn kiện Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX và X.
+ Cùng với quan điểm đổi mới tăng trưởng kinh tế phải tiến hành công
tác XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng giới, giảm sự phân hóa
giàu, nghèo;
+ Khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp, đi đối với XĐGN bền
vững, chủ động phát triển nông nghiệp nông thôn vì 90% người nghèo sống ở
vùng nông thôn;
18
+ XĐGN là một chủ trương lớn, một quyết sách lớn của Đảng và Nhà
nước, XĐGN là một cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, là phong trào của các
cấp, nhất là ở địa phương, cơ sở;
+ Hoàn thành được hệ thống chính sách và chương trình mục tiêu XĐGN;
+ Tập trung nguồn lực để xóa nhanh các hộ đói, các xã đặc biệt khó
khăn, giảm mạnh các hộ nghèo, xã nghèo;
+ Thực hiện xã hội hóa, công tác XĐGN, đa dạng hóa các nguồn lực
trong nước, phát huy nội lực tại chỗ và tranh thủ hợp tác, trợ giúp quốc tế, tạo
thành phong trào sôi động trong cả nước, lấy ngày 17 tháng 10 hàng năm là
"ngày vì người nghèo".
XĐGN là một trong những chương trình trọng điểm phát triển kinh tếxã hội, là chính sách xã hội cơ bản, là ưu tiên trong toàn bộ kinh tế xã hội, là
trách nhiệm của cấp ủy Đảng chính quyền, ban ngành, đoàn thể các cấp và
của cộng đồng xã hội. Đây là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa lâu dài, thường
xuyên liên tục của các cấp, các ngành và tổ chức đoàn thể, đặc biệt là trách
nhiệm của bản thân người nghèo đói.
Phát triển kinh tế đi đôi với XĐGN, gắn XĐGN với phát triển nông
nghiệp nông thôn, kinh tế, thương mại, dịch vụ, công nghiệp tiểu thủ công
nghiệp, chương trình XĐGN phải được lồng ghép với các chương trình kinh
tế-xã hội, phải có kế hoạch từng địa bàn, đối tượng ưu tiên để tập trung nguồn
lực có hiệu quả.
Chương trình XĐGN thực hiện theo phương châm xã hội hóa cao, phát
huy tính tự chủ sáng tạo, tự vươn lên của người nghèo, cấp ủy chính quyền các
cấp có vai trò quan trọng trong việc đề ra nhiệm vụ, mục tiêu, cơ chế, biện
pháp… Nhằm phát huy khả năng và trách nhiệm của các cấp, các ngành để tạo
nguồn lực thực hiện mục tiêu XĐGN. Xã hội hóa XĐGN để Nhà nước, nhân
dân và cộng đồng cùng hỗ trợ người nghèo vươn lên theo hướng tự lực, các
đoàn thể nhân dân các cấp là lực lượng nòng cốt để thực hiện chương trình.
Tạo mọi điều kiện cho xã nghèo, hộ nghèo từng bước vươn lên về kinh
tế, các loại hoạt động kinh tế hướng tập trung về xã nghèo, hộ nghèo.
- Quan điểm của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào về xóa đói giảm nghèo
19
Đói nghèo là một trong những vấn đề xã hội bức xúc của toàn cầu,
tồn tại ở mọi quốc gia, kể cả những quốc gia giàu có cũng có người nghèo,
nhưng đáng quan tâm hơn là tình trạng đói nghèo ở những nước nghèo. Đối
với nước CHDCND Lào để thực hiện chương trình XĐGN có hiệu quả cần
dựa trên một số quan điểm cơ bản của Đảng như sau:
Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà
nước là yếu tố quan trọng bảo đảm sự ổn định, phát triển kinh tế - xã hội, đó
cũng là nhiệm vụ rất nặng nề của toàn xã hội hiện nay.
Đảng, Nhà nước Lào đã đẩy mạnh cuộc vận động xóa đói giảm
nghèo, coi đó là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn xã hội. Hiện nay cần phải
tuyên truyền, giáo dục, nâng cao hơn nữa nhận thức của mọi cán bộ, đảng
viên ở tất cả các ngành, các cấp trong các tầng lớp dân cư về ý nghĩa kinh
tế, chính trị, xã hội của vấn đề xóa đói giảm nghèo. Với tầm cỡ to lớn và
khó khăn phức tạp của nó, xóa đói giảm nghèo không thể chỉ dùng ở các
chủ trương, đường lối chung, mà phải có sự phối hợp đồng bộ, nhất quán từ
chủ trương, đường lối của Đảng, các chính sách, biện pháp cụ thể của Nhà
nước các cấp, đến sự nỗ lực của mỗi cá nhân người lao động.
Thứ hai, xóa đói giảm nghèo là sự kết hợp, thống nhất giữa các biện
pháp về kinh tế với chính sách xã hội và giữ vững ổn định chính trị.
Đói nghèo trước hết là vấn đề kinh tế, đồng thời cũng là vấn đề xã
hội nhức nhối. Nó tác động sâu sắc vào các quan hệ xã hội, làm phát sinh
và lây lan các tệ nạn, làm mất ổn định xã hội và có thể làm mất ổn định về
chính trị. Đặc biệt nếu phân hóa giàu nghèo vượt quá giới hạn an toàn sẽ
biến thành phân hóa giai cấp và xung đột giai cấp, làm suy giảm sự bền
vững của chế độ chính trị, xã hội. Vì vậy, xóa đói giảm nghèo không phải
chỉ có các chính sách, biện pháp phát triển kinh tế mà còn gắn liền với các
chính sách xã hội, đặt trong tổng thể của sự ổn định chính trị.
Cần đặc biệt chú trọng bảo vệ lợi ích, quan tâm tới đời sống của các
tầng lớp cơ bản trong xã hội như công nhân, nông dân, trí thức các lực
lượng bảo vệ an ninh cho chế độ. Đây chính là cơ sở xã hội của chế độ
chính trị, không được để xảy ra hiện tượng người lao động bị bần cùng hóa,
20
không được để tái sinh tràn lan hiện tượng người lao động bị bóc lột,
ngược đãi, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường.
Thứ ba, xóa đói giảm nghèo bằng phát huy tính tự lực, tự chủ, tự
vươn lên của chính người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo.
Mặc dù xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ to lớn của Đảng, Nhà nước
và toàn xã hội, nhưng để vượt qua được nghèo đói, rút cuộc lại phải bằng
sự nỗ lực, sự vươn lên vượt qua nghèo đói của chính người nghèo, hộ
nghèo. Nếu mỗi người nghèo, hộ gia đình nghèo, vùng nghèo không tự
vươn lên, thì không thể xóa được đói, giảm được nghèo. Đây là mối quan
hệ qua lại giữa các hộ gia đình (đơn vị kinh tế cơ bản) với cộng đồng xã
hội. Cộng đồng xã hội chỉ có thể tạo mọi điều kiện thuận lợi, hỗ trợ cho
mỗi cá nhân người lao động, mỗi gia đình tiếp cận các nguồn lực, vượt lên
nghèo đói, mà không thể làm thay họ được.
Phải làm cho hộ nghèo, người nghèo tin vào triển vọng cuộc sống có
điều kiện và môi trường xã hội thuận lợi để phát triển bằng khả năng sẵn
có, bằng lao động, bằng đào tạo, bồi dưỡng để hình thành khả năng đó.
Tính chất trợ giúp, hỗ trợ phát triển là nét nổi bật của xóa đói giảm nghèo.
Cần quán triệt quan điểm này và thể hiện nó một cách toàn diện trong nội
dung và biện pháp xóa đói giảm nghèo. Đây chính là sự thực hiện xã hội
hóa vấn đề xóa đói giảm nghèo.
Thứ tư, huy động và khai thác hiệu quả mọi nguồn lực trong xã hội
để xóa đói giảm nghèo.
Xóa đói giảm nghèo là nhiệm vụ rất khó khăn và không thể thực hiện
được trong vài ngày, vài tháng, nó đòi hỏi các nguồn lực vật chất và tinh
thần rất to lớn, trong đó trước hết là các nguồn lực vật chất như: tài
nguyên, đất đai, vốn, kỹ thuật, công nghệ, thị trường, trình độ tay nghề của
người lao động và các môi trường chính trị, xã hội, kết cấu hạ tầng khác.
Nguồn tài chính của Nhà nước là rất quan trọng, song không thể chỉ trông
chờ vào một nguồn đó, nhất là trong điều kiện ngân sách quốc gia còn nghèo, mà
phải huy động mọi nguồn tài chính có thể cho xóa đói giảm nghèo. Nguồn đầu
tư của Nhà nước cho xóa đói giảm nghèo chỉ có kết quả và ý nghĩa tích cực, khi
21
nó được đặt trong tổng thể các nguồn lực vật chất huy động từ đóng góp của
toàn xã hội. Bằng cách phát triển sản xuất, tạo việc làm, tăng thu nhập, nâng cao
hiệu quả sản xuất, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ, chứ không phải
bằng bao cấp tiêu dùng cho người nghèo, hộ nghèo.
Thứ năm, mở rộng và khai thác hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài
cho xóa đói giảm nghèo.
Mở rộng khai thác hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài là sự bổ trợ
quan trọng cho các nguồn lực trong nước trong công cuộc xóa đói giảm
nghèo. Trong xu thế hội nhập, mở cửa với khu vực và thế giới, chúng ta có
nhiều khả năng tìm kiếm các đối tác, phát triển các dự án phối hợp, các tài
trợ và các viện trợ nhân dân đạo cho chương trình xóa đói giảm nghèo.
Trong quá trình hợp tác này, chúng ta phải biết quản lý điều phối khoa học,
kiểm tra chặt chẽ để sử dụng, khai thác nguồn lực bổ trợ này một cách có
hiệu quả. Như vậy, xóa đói giảm nghèo cũng được đặt trong quá trình mở
rộng hợp tác, tranh thủ khai thác và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực từ
các nước, các tổ chức quốc tế bằng nhiều hình thức đa dạng phong phú.
Thứ sáu, cần khuyến khích mọi người làm giàu, đồng thời ưu tiên
xóa đói giảm nghèo ở các đối tượng chính sách và các vùng đặc biệt.
Xóa đói giảm nghèo không phải là chủ trương riêng, tách biệt khỏi các
giải pháp phát triển kinh tế, xã hội mà luôn luôn nằm trong tổng thể của các
quá trình phát triển. Các hộ nghèo tồn tại bên cạnh các hộ không nghèo, các
vùng nghèo tồn tại bên cạnh các vùng không nghèo, giữa hai bộ phận này
luôn luôn có sự tác động qua lại lẫn nhau. Khuyến khích, tạo điều kiện thuận
lợi cho một bộ phận dân cư có điều kiện giàu lên, một mặt có tác dụng như
những hạt nhân, động lực thúc đẩy kinh tế trong vùng phát triển, mặt khác có
tác dụng lan tỏa, tác động đến sự phát triển của các hộ nghèo.
Đồng thời với khuyến khích các dân cư có điều kiện làm giàu, cần có
biện pháp ưu tiên mạnh đối với các hộ nghèo là đối tượng chính sách như:
gia đình liệt sĩ, thương binh, gia đình có công với cách mạng, để các hộ này
có thể nhanh chóng thoát khỏi tình trạng đói nghèo.
22
Đối với các vùng đặc biệt khó khăn cũng cần phải có những giải
pháp ưu tiên mạnh về nhiều mặt nhất là với các vùng căn cứ địa cách
mạng, những vùng đã chịu sự tàn phá nặng nề trong chiến tranh. Nếu để
các vùng này tự vươn lên thì sẽ rất khó khăn và lâu dài, thậm chí có những
vùng không thể tự vươn lên nếu không có sự hỗ trợ.
Trong sáu quan điểm đã nêu trên có mỗi liên hệ biện chứng, tác động
và chi phối lẫn nhau, hợp thành hệ quan điểm chỉ đạo ở cấp vĩ mô và trong
hoạt động cụ thể ở từng lĩnh vực, từng địa phương và cơ sở.
3. Quan điểm của Liên Hợp Quốc và chính sách của một số nước
đang phát triển trên thế giới về XĐGN
3.1. Quan điểm của Liên Hợp Quốc về XĐGN.
Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 2009-2010: Tấn công đói
nghèo (một chương trình tiếp theo báo cáo về tình hình phát triển thế giới về
đói nghèo của các năm 1990 và 2000) cho rằng, giảm mạnh trên tất cả các
phương diện trên thực tế là có thể thực hiện được và sự tương tác giữa thị
trường, các thể chế Nhà nước và tổ chức đoàn thể có thể khai mạc được sức
mạnh của sự hội nhập kinh tế và thay đổi công nghệ để mang lại lợi ích cho
người nghèo và nâng cao vị thế của họ trong tương lai của xã hội.
James D.Wolfenohn Chủ tịch ngân hàng thế giới (8-2009), dựa trên cơ
sở phân tích các ý tưởng và kinh nghiệm sắn có, báo cáo này kiến nghị các
hành động trên ba lĩnh vực sau:
+ Mở rộng cơ hội: Mở rộng cơ hội kinh tế cho người nghèo bằng cách
đẩy mạnh tăng trưởng nói chung và tích lũy tài sản cho họ (như đất đai hay
giáo dục); đồng thời tăng thêm mức lợi suất từ những tài sản này thông qua sự
kết hợp các hành động mang tính thị trường và phi thị trường.
+Tạo điều kiện thuận lợi cho người nghèo được tham gia vào đời sống
chính trị: Các thể chế nhà nước có trách nhiệm và nhạy bén hơn đối với người
nghèo, tăng cường sự tham gia của người nghèo vào các quá trình chính trị và
23
ra quyết định ở địa phương, dỡ bỏ các hàng rào xã hội là hậu quả của sự phân
biệt giới, chủng tộc, sắc tộc, tôn giáo và địa vị xã hội.
+Tăng cường an sinh: Giảm bớt nguy cơ dễ bị tổn thương cho người
nghèo trước sự ốm đau, các cú sốc kinh tế, mất mùa, những sai lầm do chính
sách gây ra, thiên tai, bạo lực, đồng thời giúp họ hạn chế được các cú sốc bất
lợi khi chúng xảy đến.
Một phần lớn của nội dung này là phải đảm bảo có được một mang lưới
an sinh hiệu quả để giảm thiểu tác hại của thiên tai định họa.
3.2. Quan điểm của một số nước đang phát triển trên thế giới về XĐGN.
Chính sách để giảm bớt đói nghèo ở các nước nói chung: Nhiều nước
đã sử dụng chính sách và biện pháp như sau:
Một là: Cải cách nông nghiệp và phân phối lại ruộng đất.
Ở nhiều nước đang phát triển đã thực hiện cải cách ruộng đất với các
biện pháp khác nhau. Khả năng tiếp cận đất đai đóng vai trò quan trọng trong
việc giảm đói nghèo; đồng thời việc cải cách ruộng đất đã góp phần hạn chế
sự chiếm hữu ruộng đất lớn của địa chủ. Một người đàn ông nghèo ở Nigiêria
nói: ''Tất cả khó khăn của chúng tôi bắt nguồn từ việc thiếu đất. Nếu chúng
tôi có đất, chúng tôi có thể sản xuất đủ lương thực cho gia đình, có thể xây
nhà ở và dạy dỗ con cái''. Mặc dù sự nghèo đói trong nông thôn không chỉ là
do sự phân phối ruộng đất bất công mà còn do năng suất nông nghiệp thấp.
nhiều công trình nghiên cứu gần đây cho thấy việc phân phối lại ruộng đất
cho những người nghèo thường làm tăng sản lượng nông nghiệp của các nước
đang phát triển vì hai lý do chủ yếu: (1) nông dân khi có quyền sở hữu ruộng
đất sẽ hăng hái hơn trong việc cải tạo, đầu tư vào đất đai, (2) nông dân có điều
kiện sử dụng nhiều lao động và áp dụng cộng nghệ mới vào sản xuất.
Ngoài những lợi ích trực tiếp trong cải cách nông nghiệp, tăng thu nhập
từ nông nghiệp dường như đặc biệt hiệu quả trong việc giảm đói nghèo ở
nông thôn, nhờ tác động lan tỏa của cầu trên các thị trường địa phương, nơi
gắn với nhiều người nghèo phi nông nghiệp ở nông thôn. Theo Uganđa và
24
Việt Nam thì: "Cải cách đã giúp tăng giá trị sản xuất đối với những nông hộ
nhỏ, thay đổi tỷ giá hối đoái thực tế thông qua các cải cách kinh tế sâu rộng
hơn, giảm thuế quan và xóa bỏ hạn ngạch".
Hai là: Vốn và tín dụng: nói chung, ở các nước kém phát triển, người
nghèo chủ yếu sống nhờ vào sức lao động của họ và người giàu sống trên những
khoản thu từ quyền sở hữu tài sản của họ. Người nghèo không chỉ có ít vốn, sự
nghèo đói của họ cũng hạn chế khả năng tiếp cận được các nguồn vốn để tận
dụng các cơ hội đầu tư tốt, ít được hưởng lợi từ các kết quả tăng trưởng kinh tế,
khả năng cạnh tranh trong kinh tế thị trường rất yếu kém về trình độ học vấn của
người nghèo thường rất hạn chế, thiếu kiến thức làm ăn, con cái của họ chỉ có
khả năng học ở bậc tiểu học, thậm chí không được học hành, thiếu những điều
kiện chăm sóc sức khỏe… Vì vậy, việc cung cấp vốn bằng hình thức khác nhau
là một điều kiện quan trọng để cải thiện đời sống cho người nghèo.
Ba là: Đầu tư cơ sở hạ tầng như xây dựng đường sá, trường học, các dự
án tưới tiêu và hạ tầng cơ sở khác cũng có thể đem lại lợi ích trực tiếp cho
người nghèo, làm tăng năng suất hoặc tạo ra việc làm cho họ.
Bốn là: Chính sách marketing, cải tiến các điều kiện thị trường là điều
kiện thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng nông thôn.
Năm là: Chính sách giá cả và hối đoái, Nhà nước thường can thiệp vào
hệ thống giá với mục tiêu giảm sự tách biệt giữa khu vực công nghiệp và
nông nghiệp.
Sáu là: Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất như khuyến khích xây
dựng các nông trại, các hình thức hợp tác xã, các tổ chức kinh tế tập thể.
Bảy là: Công nghiệp hóa nông thôn, xây dựng các công trình công
cộng, các cơ sở chế biến được coi là biện pháp quan trọng làm giảm sự phân
hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.
Tám là: Giáo dục và đào tạo, vốn nhân lực cũng như vốn vật chất có
thể đem lại nguồn thu nhập qua thời gian. Nền giáo dục tiểu học phổ cập
không mất tiền là cách thức chủ yếu để tái phân bổ nguồn nhân lực cho lợi ích
tương đối của người nghèo.
25