Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT 1 VỤ TRANH CHẤP VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.74 KB, 20 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ - HÀNH CHÍNH QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
LỚP BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
CHƯƠNG TRÌNH CHUYÊN VIÊN CHÍNH
TỔ CHỨC CHO CB-CC CỦA BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

(Từ 06/5/2008 đến 15/10/2008)

TIỂU LUẬN
PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT 1 VỤ TRANH CHẤP
VỀ THỪA KẾ QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Họ và tên: TẠ VĂN ĐẠI
Chức vụ : THANH TRA VIÊN
Đơn vị

: BỘ VĂN HOÁ, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

Hà Nội, tháng 9 năm 2008


MỞ ĐẦU
Nói đến vai trò to lớn của đất đai đối với kinh tế Mác đã khái quát:
“Đất là mẹ, sức lao động là cha sản sinh ra mọi của cải vật chất”. Đúng
như vậy đất đai là một tài sản đặc biệt và cực kỳ quan trọng của mỗi quốc
gia. Nó không phải là sản phẩm từ lao động của con người mà là tặng
phẩm vô giá của thiên nhiên trao cho loài người. Đất đai là yếu tố cần
thiết và không thể thiếu được của mọi quá trình sản xuất và tái sản xuất
xã hội “Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống”. Lịch sử phát triển nông, lâm nghiệp của


loài người cũng là lịch sử khai thác và bảo vệ đất đai ngày càng có hiệu
quả.
Đất đai là địa điểm để đặt máy móc, kho tàng, bến bãi, nhà xưởng,
tạo chỗ đứng cho công nhân trong sản xuất công nghiệp.
Đối với đời sống, đất là nơi trên đó con người xây dựng nhà cửa,
các công trình văn hoá, là nơi phân bố các ngành kinh tế quốc dân, các
khu dân cư... Đất đai là cở để phát triển các hệ sinh thái, yếu tố hàng đầu
của môi trường sống, là nơi duy trì sự sống của con người và sinh vật.
Dưới góc độ chính trị - Pháp lý, đất đai là một bộ phận không thể
tách rời của lãnh thổ quốc gia gắn liền với chủ quyền quốc gia. Đất đai
được coi là dấu hiệu cơ bản nhất của một quốc gia, một dân tộc, một
cộng đồng.
Đất đai là một trong những yếu tố cấu thành nên lãnh thổ quốc gia.
Cho nên, xâm phạm đất đai là xâm phạm lãnh thổ và chủ quyền quốc gia.
Trải qua 4000 năm lịch sử dựng nước và giữ nước, có được vốn đất như
ngày nay là do nhân dân ta đã dũng cảm và quật cường chiến đấu chống
nhiều kẻ thù ngoại xâm và đấu tranh với thiên nhiên. Vốn đất đai là
xương máu, là công sức lao động của hàng trăm thế hệ người Việt Nam
trong dựng nước và giữ nước.
Việt Nam với diện tích tự nhiên khoảng 331.000 km2 (33.104.200
ha) và dân số trên 80 triệu người, khoảng 20% diện tích đất đai được sử

-2-


dụng vào mục đích nông nghiệp. So với thế giới thì Việt nam là một
trong những nước có số bình quân ruộng đất vào loại thấp nhất.
Chính sách đất đai luôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng
và Nhà nước ta, đặc biệt là vào những giai đoạn chuyển biến có tính chất
lịch sử vì nó không chỉ liên quan đến lợi ích của hàng chục triệu người,

nhất là đối với nông dân mà còn là một khâu then chốt trong điều hành vĩ
mô của Nhà nước với mục tiêu ổn định và phát triển.
Thấy rõ tầm quan trọng của đất đai cho nên ngay sau khi giành
được chính quyền năm 1945 Đảng và Nhà nước ta đã luôn quan tâm đến
vấn đề liên quan đến đất đai. Luật pháp của Việt Nam đã quy định “Đất
đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”. Nhà nước
chỉ giao đất cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân trên cơ sở các quy định
của Luật đất đai ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993 và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Đất đai ngày 2 tháng 12 năm 1998.
Ngày nay chúng ta càng phải trân trọng sự quý giá của đất, cần
phải có kế hoạch khai thác tiềm năng của đất. Chúng ta cần sử dụng đất
không những hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả mà phải sử dụng đất theo mô
hình bền vững đáp ứng được nhu cầu hiện tại song không làm ảnh hưởng
đến việc khai thác sử dụng đất của các thế hệ mai sau.
Trong giai đoạn hiện nay, đất đai đang là những vấn đề hết sức
nhạy cảm của xã hội. Để quản lý đất đai được tốt, sử dụng đất đúng mục
đích, đạt hiệu quả cao đòi hỏi mỗi cấp, mỗi ngành, mỗi địa phương, mỗi
tổ chức, mỗi đơn vị và từng cá nhân phải thực hiện nghiêm chỉnh Luật
Đất đai, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và các văn bản
dưới luật khác trong việc quản lý và sử dụng đất đai.
Thực tế thời gian qua cho thấy những cố gắng của Đảng và Nhà
nước, việc quản lý và sử dụng đất đai đã và đang đi vào nền nếp. Tuy
nhiên ở một số địa phương việc quản lý đất đai có những biểu hiện buông
lỏng, giao đất trái thẩm quyền, vượt thẩm quyền, nghiêm trọng hơn là
một số cán bộ lợi dụng chức vụ quyền hạn, thiếu tinh thần trách nhiệm
trong việc giải quyết tranh chấp đất đai hoặc cấp đất gây những hậu quả
-3-


nghiêm trọng làm mất lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước

ta. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các vụ tranh
chấp đất đai, và khiếu kiện kéo dài gây ảnh hưởng xấu đến an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Là học viên của lớp Bồi dưỡng kiến thức quản lý Nhà nước
chương trình chuyên viên chính, tôi chọn tình huống phải xử lý trong lĩnh
vực quản lý đất đai đê xây dựng tiểu luận kết thúc khoá học với mục đích
học hỏi, tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm trong công tác quản lý Nhà nước
cho bản thân, hy vọng tình huống này sẽ là nguồn tài liệu cho tham khảo
để xem xét, giải quyết các tình huống tương tự khác.

I- CÂU CHUYỆN TÌNH HUỐNG

1. Hoàn cảnh ra đời của câu chuyện của tình huống:
Năm 1955, ông Trần Quốc P và bà Hoàng Vũ N cưới nhau và sau
10 năm chung sống (1965) họ đã có với nhau 3 người con (2 trai, 1 gái)
đó là:
- Trần Quang Hà
- Trần Quốc Hải
- Trần Minh Hồng
Năm 1977, bà Hoàng Vũ N lâm bệnh hiểm nghèo và qua đời để lại
chồng là ông Trần Quốc P và 3 người con chung sống trong cùng 1 gia
đình ở thôn K, xã T, huyện A, tỉnh H, trong số 3 người con của ông P thì
có anh Trần Quốc Hải đi lao động học tập ở Đức từ năm 1991.
Uỷ ban nhân dân xã T đã thực hiện Nghị định 64/CP và Nghị định
số 02/CP ngày 15 tháng 1 năm 1994 của Chính phủ về việc giao đất lâm
nghiệp cho các tổ chức cá nhân và hộ gia đình sử dụng ổn định lâu dài
vào mục đích lâm nghiệp và gia đình ông P đã được UBND xã T làm thủ
tục giao cho sử dụng 480 m2 đất vườn và thổ cư, 2.700 m2 đất trồng lúa
và 45. 000 m2 đất đồi rừng để trồng cây ăn quả và cây lâm nghiệp.


-4-


Tháng 1 năm 2002 do tuổi cao, sức yếu ông P lâm bệnh nặng và
qua đời, trong di chúc để lại ông P ghi rõ: “Nay để lại cho anh Hà Văn
Thao 1.200 m2 đất trồng lúa và 6000 m2 đất lâm nghiệp” trong tổng số
đất mà UBND xã T giao cho ông P khi bà còn sống theo Nghị định
64/CP và Nghị định 02/CP ngày 15/1/19994 của Chính phủ.
Được biết anh Hà Văn Thao là con trai của người bạn thân với ông
P sống cùng thôn K, xã T và theo Nghị dịnh 64/CP và Nghị định 02/CP
thì anh Thao cũng được UBND xã T cấp đủ diện tích trồng lúa và đất lâm
nghiệp theo tiêu chuẩn đã quy định. Ngoài ra trong di chúc để lại ông P
không đề cập gì đến việc phân chia tài sản thừa kế cho các con của ông.
Tháng 5 năm 2002, sau khi ông P mất được 4 tháng thì anh Trần
Quang Hà là con trai trưởng của ông P tự ý đứng ra phân chia tài sản, đất
đai không theo di chúc của ông P để lại, cụ thể là:
- Phân chia đều 2.700 m2 đất trồng lúa và 45.000 m2 đất cho 2 anh
em là Trần Quang Hà và Trần Minh Hồng. Trường hợp anh Trần Quốc
Hải không được chia đất với lý do là đi nước ngoài, không có hộ khẩu ở
nhà.
- Riêng đối với diện tích đất vườn 480 m2, vì đây là diện tích đất có
cả đất thổ cư, do đó anh Hà đã phân chia đều cho cả 3 anh em (Trần
Quang Hà, Trần Quốc Hải và Trần Minh Hồng) mỗi người 160 m2.
Đối với anh Hà Văn Thao thì anh Trần Quang Hà không chia đất
cho anh này (theo di chúc của ông P để lại thì anh Thao được chia) với lý
do: Anh Thao không phải là con trong gia đình ông P.
Tháng 10 năm 2002, anh Trần Quốc Hải từ nước ngoài trở về thăm
quê hương (anh Hải không có ý định ở lại quê hương sinh sống), sau khi
nghe người anh cả là Trần Quang Hà trình bày lại việc phân chia tài sản,
đất đai trong gia đình, anh Hải đã không đồng tình với cách phân chia của

anh Hà và cũng từ đó anh em nảy sinh mâu thuẫn, sau nhiều lần được
chính quyền địa phương hoà giải, nhưng tình hình vẫn không được cải
thiện mà có phần xấu hơn.

-5-


2. Diễn biễn câu chuyện tình huống.
Ngày 15 tháng 11 năm 2002, anh Hải đã có đơn khiếu nại lên
UBND xã T đề nghị chính quyền giải quyết cho anh được 1/3 diện tích
đất trồng lúa và đất lâm nghiệp mà UBND xã đã giao cho gia đình ông P
theo Nghị định 64/CP và Nghị định 02/CP.
Vào thời gian này cùng với đơn khiếu nại của anh Trần Quốc Hải
thì anh Hà Văn Thao cũng gửi đơn lên UBND xã T đòi được hưởng
1.200 m2 đất trồng lúa và 6000 m2 đất lâm nghiệp theo như di chúc của
ông P để lại.
Khi nhận được đơn khiếu nại của của 2 công dân Trần Quốc Hải và
Hà Văn Thao, UBND xã T đã tiến hành giải quyết như sau:
- Đối với anh Trần Quốc Hải: UBND xã đã bác đơn khiếu nại về
việc đòi hưởng 1/3 diện tích đất trồng lúa và đất lâm nghiệp vì các lý do
sau:
+ Anh Hải đi lao động học tập ở nước ngoài, không có hộ khẩu ở
địa phương do vậy không có quyền được sử dụng diện tích đất mà địa
phương giao cho gia đình ông P theo Nghị định 64/ CP và Nghị định
02/CP.
+ Đối với anh Hoàng văn Thao: UBND xã đã giải quyết cho được
hưởng 1.200 m2 đất trồng lúa và 6000m2 đất lâm nghiệp theo di chúc của
ông P để lại.
Khi UBND xã T giải quyết như vậy thì mối quan hệ giữa 3 anh em
trong gia đình lại trở lên căng thẳng hơn. Đồng thời mâu thuẫn giữa 2 gia

đình anh Hà và anh Thao ngày càng trở lên căng thẳng, tình cảm hàng
xóm thấy khó có thể hàn gắn như trước được.
Với sự việc này phần lớn nhân dân ở thôn K xã T đã có quan điểm
đồng tình ủng hộ đối với những quyết định của UBND xã T, tuy nhiên
cũng có một số ít không đồng tình với quyết định của UBND xã với các
lý do: UBND xã T đã giải quyết vụ việc chưa thấu tình, đạt lý và chưa
đúng thẩm quyền... để vụ việc giải quyết vừa đúng pháp luật, ổn thoả,
vừa giữ được tình cảm anh em trong gia đình và mối quan hệ hàng xóm,
-6-


láng giềng, thì từ những vấn đề đặt ra, chúng ta nên xử lý như thế nào cho
phù hợp và đúng pháp luật hiện tại.

II- PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG:

1. Mục tiêu đề ra khi giải quyết câu chuyện tình huống:
Như vậy, để giải quyết vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
ở xã T được đúng theo các trình tự mà pháp luật quy định, đảm bảo đúng
đắn, nhanh chóng, kịp thời chúng ta cần chú ý một số vấn đề sau:
1.1- Việc ông P lập bản di chúc trao quyền sử dụng 1.200 m2 đất
trồng lúa và 6000 m2 đất lâm nghiệp cho anh Hà văn Thao có đúng với
quy định của pháp luật không?
1.2 - UBND xã T đứng ra giải quyết đơn khiếu nại của công dân
Trần Quốc Hải và Hà Văn Thao có đúng thẩm quyền được pháp luật quy
định không ?
1.3 - Những quyết định của UBND xã T đưa ra để giải quyết khiếu
nại 2 trường hợp trên có vấn đề nào đúng hoặc vấn đề nào sai so với quy
định của pháp luật không?


2. Cơ sở lý luận để xử lý:
Luật đất đai của Nước ta ban hành ngày 14 tháng 7 năm 1993 và
mới đây Luật Đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003 vẫn khẳng định: Đất
đai là một loại tài sản có giá trị đặc biệt và đất đai thuộc sở hữu toàn dân
do nhà nước thống nhất quản lý. Và tính đặc biệt của sở hữu nhà nước
đối với đất đai thể hiện ở những điểm sau:
+ Trước hết đất đai là một tài nguyên quý giá, nó không phải là tài
sản thông thường mà là một tư liệu sản xuất đặc biệt trong sản xuất và
đời sống. Dù rằng Nhà nước xác định giá các loại đất, ban hành khung
giá các loại đất để Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương quy định bảng giá đất nhưng không vì thế mà có quan niệm
coi đất đai như một hàng hoá thông thường. Đất đai là một loại hàng hoá
đặc biệt, được lưu chuyển một cách đặc biệt.
-7-


+ Nhà nước là chủ sở hữu, vì thế có trọn vẹn các quyền năng chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt đất đai mà các chủ thể khác tham gia vào quan hệ
pháp luật đất đai không thể có đầy đủ các quyền đó được.
+Toàn bộ đất đai dù trên đất liền hay hải đảo, dù do bất cứ ai sử
dụng vào mục đích nào thì đất đó vẫn là của Nhà nước.
+ Vì đất đai thuộc sở hữu toàn dân nên không còn khái niệm đất vô
chủ, đất vắng chủ, không còn quan niệm tranh chấp về quyền sở hữu đất
đai.
Như vậy ngoài Nhà nước ra không đối tượng nào có đầy đủ 3
quyền: chiếm hữu, sử dụng, và định đoạt đất đai; người được Nhà nước
giao quyền sử dụng đất được hưởng các quyền do pháp luật quy định.
Trong thực tế, xét về bản chất thì quyền sử dụng đất cũng là quyền năng
dân sự (quyền dân sự đặc thù). Bên cạnh đó, luật pháp là cơ sở pháp lý
cho việc hình thành quá trình lưu thông về đất đó là: (khi đất có giá trị

cao) chính vì lẽ đó đất đai trở thành tài sản quý giá của con người có thể
chuyển đổi, chuyển nhượng, thế chấp, thừa kế, cho thuê... Trong khuôn
khổ bài viết này khi ông P lập di chúc trao quyền thừa kế quyền sử dụng
đất sao cho đúng các quy định của pháp luật. Tuy nhiên mỗi loại đất thì
có vai trò và giá trị khác nhau. Luật đất đai quy định: Quyền sử dụng đất
đai khi trao quyền thừa kế được chia làm 2 loại như sau:
+ Đất nhóm 1: Bao gồm đất sản xuất nông nghiệp hàng năm và đất
nuôi trồng thuỷ sản.
+ Đất nhóm 2: Là đất nông nghiệp trồng cây lâu năm, đất lâm
nghiệp và đất thổ cư.
Về vấn đề thừa kế có 2 loại:
- Thừa kế theo pháp luật: Là thừa kế theo hàng thừa kế, điều kiện
và trình tự thừa kế do pháp luật quy định.
- Thừa kế theo di chúc: Có nghĩa là người chết viết lại bản di chúc
giao lại toàn bộ hoặc một phần tài sản của mình cho người còn sống,
người còn sống được toàn quyền sở hữu tài sản đó.
-8-


1. Theo quy định của pháp luật dân sự và pháp luật đất đai thì
những người được hưởng thừa kế đối với đất đai thuộc nhóm 1 được quy
định như sau:
Điều 679 và 680 của Bộ luật Dân sự quy định tại khoản 1 những
người được hưởng thừa kế bao gồm:
- Hàng thừa kế thứ nhất: Vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
- Hàng thừa kế thứ 2 gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết;
- Hàng thừa kế thứ 3 gồm: Cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác
ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của

người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột.
- Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng
nhau.
- Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu
không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di
sản, bị truất quyền hưởng thừa kế hoặc từ chối nhận di sản.
- Điều 680 của Bộ luật Dân sự đã quy định về thừa kế thế vị:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước người để
lại di sản, thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu
được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng đã chết trước người để lại di
sản, thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được
hưởng nếu còn sống.
2. Đối với đất thuộc nhóm 2: Theo quy định của Bộ luật Dân sự thì
người được hưởng thừa kế là bất cứ ai.

3. Phân tích tình huống:
Căn cứ vào những quy định của pháp luật thì ông P (người được
Nhà nước trực tiếp giao đất) trước khi chết đã lập di chúc để lại quyền sử

-9-


dụng đất cho anh Hà Văn Thao (là con trai của người bạn thân với ông P)
được sử dụng 1.200 m2 đất trồng lúa là trái với quy định của pháp luật.
Riêng đối với 6000 m2 đất lâm nghiệp (Đất loại 2) mà ông P viết
trong di chúc trao lại quyền sử dụng cho anh Thao là hoàn toàn đúng với
quy định của pháp luật.
Thừa kế quyền sử dụng đất là một quan hệ của pháp luật dân sự:
Căn cứ vào điều 10 của Pháp lệnh giải quyết các vụ án dân sự được
ban hành ngày 7/12/1989 thì: “Thẩm quyền giải quyết tranh chấp thừa

kế quyền sử dụng đất do Toà án nhân dân giải quyết”. UBND xã T chỉ
có chức năng phối hợp với các tổ chức, đoàn thể tổ chức hoà giải giúp
cho những cá nhân khiếu kiện hiểu rõ được những quy định của pháp luật
(cụ thể trong vụ việc này là anh Hải và anh Thao) đồng thời tạo sự thông
cảm, đoàn kết giữa các anh em trong gia đình, giữ mối quan hệ tốt giữa
gia đình anh Hà và anh Hải để từ đó anh Hà và anh Hải tự mình rút đơn
khiếu nại.
Trong trường hợp hoà giải không thành thì UBND xã hướng dẫn
anh Trần Quốc Hải và anh Hà Văn Thao gửi đơn khiếu kiện lên Toà nhân
dân để yêu cầu giải quyết.
Như vậy, việc UBND xã T đứng ra giải quyết đơn khiếu kiện của
anh Hải và anh Thao là không đúng thẩm quyền, trái với các quy định
của pháp luật hiện hành.
d) Đối với trường hợp UBND xã T giải quyết cho anh Hà Văn
Thao được quyền thừa kế sử dụng 1.200 m2 đất trồng lúa và 6000 m2 đất
lâm nghiệp theo di chúc của ông P có thể giải đáp như sau:
- Đối với diện tích 1.200 m2 đất trồng lúa (đất nhóm 1) tại điều 740
Bộ luật Dân sự quy định: Người được quyền thừa kế phải có đủ 2 điều
kiện:
+ Có nhu cầu sử dụng đất, trực tiếp sử dụng đất đúng mục đích.
+ Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức quy định của
Luật Đất đai.
- 10 -


Từ các căn cứ trên đây ta thấy rằng UBND xã T giải quyết cho anh
Hà Văn Thao được thừa kế sử dụng 1.200 m 2 đất trồng lúa theo di chúc
của ông P là trái với quy định của pháp luật (vì anh Thao đã được giao đủ
diện tích đất trồng lúa theo quy định).
- Đối với diện tích 6000 m 2 đất lâm nghiệp (đất nhóm 2) như trên

chúng ta đã biết đối với đất nhóm 2 pháp luật dân sự quy định: là quyền
hưởng thừa kế là bất kỳ ai. Do đó, việc giải quyết cho anh Hà Văn Thao
được thừa kế 6000 m2 đất lâm nghiệp là hoàn toàn đúng theo quy định
của pháp luật hiện hành.
- Đối với anh Trần Quốc Hải: UBND xã T không chấp nhận quyền
được phân chia đất theo yêu cầu ghi trong đơn có thể hiểu như sau:
Trên diện tích đất 2700 m2 trồng lúa là đất nhóm 1 anh Hải không
được hưởng như các anh em khác trong gia đình với các lý do:
+ Anh Hải đang học tập, công tác ở nước ngoài.
+ Anh Hải không có nhu cầu sử dụng đất.
Vì thế hướng giải quyết của UBND xã T là đúng.
Đối với 480 m2 đất vườn và đất thổ cư (là đất nhóm 2) thì theo quy
định của pháp luật cần được chia đều, như vậy theo cách giải quyết của
UBND xã T cho mỗi người hưởng 190 m2 đất là hoàn toàn đúng với các
quy định của pháp luật.

4. Các phương án, biện pháp giải quyết tình huống:
4.1. Chọn phương án giải quyết:
Căn cứ vào những quy định của pháp luật và phong tục tập quán,
truyền thống đạo lý của dân tộc ta, việc xử lý tình huống trên cần theo các
phương án sau:
- Di sản của ông P sau khi chết được phân chia thành 2 loại sau:
+ Thứ nhất: Ngôi nhà trên đất thổ cư và đất vườn 480 m2, 45.000
m2 đất lâm nghiệp.
+ Thứ 2: Diện tích đất nông nghiệp (trồng lúa) là 2700 m2.
- 11 -


- Người thừa kế thuộc 3 đối tượng: Con đẻ sống trong nước và con
đẻ sống ở nước ngoài, con của bạn bè... Vì thế khi phân chia tài sản thừa

kế chúng ta cần phân loại di sản, đối tượng để áp dụng theo đúng quy
định của pháp luật.
Tại khoản 3 điều 76 Luật Đất đai và điều 743 Bộ luật Dân Sự quy
định, đối với diện tích đất trồng cây lâu năm và đất ở 480 m2, cần phải
được phân chia đều cho các người con kể cả người ở trong nước và người
ở nước ngoài. Nếu trong trường hợp anh Hải từ chối không nhận di sản ở
Việt nam thì mới đem chia cho 2 người ở trong nước như vậy mới đảm
bảo đúng các quy định của pháp luật.
Đối với diện tích 45. 000 m2 đất lâm nghiệp theo di chúc của ông P
thì chia 6000 m2 đất cho anh Hà Văn Thao, số còn lại là 39.000 m 2 thì
chia đều cho 3 anh em (Hà, Hải, Hồng) trong gia đình.
- Đối với đất nông nghiệp (trồng lúa) tại khoản 1 điều 679, 680 Bộ
luật Dân sự (Như đã nêu ở trên) và điều 470 Bộ luật Dân sự quy định
người thừa kế phải có 2 điều kiện:
+ Có nhu cầu sử dụng đất, có điều kiện trực tiếp sử dụng đất đúng
mục đích.
+ Chưa có đất hoặc đang sử dụng đất dưới hạn mức theo quy định
của pháp luật về đất đai.
Như vậy việc anh Hà Văn Thao đòi quyền thừa kế 1.200 m 2 đất
nông nghiệp theo di chúc của ông P là không đúng vì anh Thao đã được
UBND xã T cấp đủ diện tích đất đai theo quy định của pháp luật.
Đối với việc đòi chia đất của anh Trần Quốc Hải do anh Hải đang
đi lao động và học tập ở nước ngoài và không có nhu cầu sử dụng đất do
vậy anh Hải không đủ điều kiện để hưởng thừa kế loại đất này. Chính vì
thế cách giải quyết đúng pháp luật là chia 2700 m 2 đất trồng lúa này cho
2 người con đang sinh sống ở trong nước là Trần Quang Hà và Trần
Minh Hồng (mỗi người 1300 m2).

- 12 -



Tuy nhiên nếu sự việc này xảy ra sau ngày 1 tháng 7 năm 2004
(ngày luật đất đai năm 2003 có hiệu lực) thì theo điều 121 Luật đất đai
năm 2003 (điểm d khoản 1) nếu anh Hải có nhu cầu về sống ổn định tại
Việt Nam thì anh Hải vẫn được hưởng thừa kế đối với loại đất này.
4.2. Kế hoạch thực hiện:
Theo điều 38 Luật Đất đai năm 1993 và sau này tại điều 135 Luật
đất đai năm 2003 đã quy định:
UBND xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp với các tổ
chức đoàn thể như : Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội liên hiệp phụ
nữ, các tổ chức thành viên của MTTQ tiến hành hoà giải các vụ tranh
chấp đất đai trong nhân dân vì vậy UBND xã T cần chu động phối hợp
với các tổ chức đoàn thể xã hội tiến hành mở hội nghị hoà giải giữa các
nguyên đơn trên nguyên tắc dân chủ, công bằng xã hội. Không gây mất
đoàn kết đảm bảo an ninh trật tự xã hội ở địa phương.
- Trong trường hợp UBND xã T đã tổ chức hoà giải mà các nguyên
đơn thống nhất với các phương án giải quyết thì UBND xã T tiến hành
làm các thủ tục theo quy định của pháp luật và đề nghị UBND huyện cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, như vậy vừa bảo đảm quyền lợi hợp
pháp lâu dài của các nguyên đơn đồng thời cũng tránh được những tranh
chấp và khiếu kiện xảy ra sau này gây ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã
hội ở địa phương.
- Trong trường hợp UBND xã T hoà giải không thành, có nghĩa là
các bên khiếu kiện không thoả thuận được với nhau, thì anh Trần Quốc
Hải và anh Hà Văn Thao có đơn khiếu kiện lên Toà án nhân dân Huyện
để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự và Toà án sẽ thụ lý và giải quyết
theo thẩm quyền.

- 13 -



III- KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN

1- Kiến nghị:
Các vấn đề liên quan đến đất đai đã, đang và sẽ luôn là một trong
những vần đề nhạy cảm và phức tạp của đời sống xã hội nói chung. Khi
phát sinh các tranh chấp về đất đai các cơ quan quản lý Nhà nước ở địa
phương phải có trách nhiệm, nghĩa vụ giải quyết 1 cách dứt điểm trên cơ
sở các quy định của pháp luật sao cho mọi quyền lợi chính đáng, hợp
pơháp của mọi công dân về đất đai được tôn trọng, đảm bảo, tránh phát
sinh những “điểm nóng” như đã từng xảy ra ở 1 số địa phương gây ảnh
hưởng đến trật tự xã hội, an ninh Quốc gia và sự phát triển của đất nước.
Khi giải quyết các vấn đề về đất đaiđòi hỏi những cơ quan Nhà nước và
người có trách nhiệm phải thực sự công tâm, phải nắm vững và áp dụng 1
cách chính xác, khoa học các quy định của pháp luật về đất đai; quá trình
điều tra, xác minh, thu thập tài liệu, tìm hiểu vụ việc phải đầy đủ, toàn
diện.
Xuất phát từ những tồn tại trong quá trình xử lý một vụ tranh chấp
về thừa kế quyền sử dụng đất ở xã T năm 2002, tôi xin có một số kiến
nghị sau:
- Trước hết phải khẩn trương xây dựng 1 nền hành chính thực sự
dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại hoá , hoạt động
có hiệu lực, hiệu quả tuân theo nguyên tắc Nhà nước pháp quyền XHCN
dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có phẩm
chất đạo đức,, có trình độ, năng lực, đáp ứng yêu cầu của công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Kiện toàn bộ máy và đẩy
nhanh cải cách hành chính trong quản lý đất đai, nâng cao năng lực công
tác và trách nhiệm của các cơ quan quản lý Nhà nước về đất đai, thường
xuyên tham mưu đề xuất kịp thời các giải pháp với các cấp chính quyền
để từng bước giải quyết dứt điểm những tồn tại, vướng mắc trong quản lý

đất đai.
- Cần tăng cường hơn nữa tính khả thi của pháp luật, đảm bảo pháp
luật ban hành phải được đi vào thực tế cuộc sống, được thực hiện có hiệu
- 14 -


quả trên thực tế. Muốn được như vậy các nhà làm luật, các cơ quan nhà
nước cần có các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật phù hợp với điều
kiện thực tế. Tránh sự chồng chéo, sơ hở hoặc quá chậm trễ trong việc
ban hành các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật vì như vậy sẽ tạo
điều kiện cho một số đối tượng lợi dụng để vi phạm dẫn đến tình trạng
quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm pháp luật. Với việc Nhà nước ta
ban hành Luật đất đai năm 2003 và có hiệu lực từ ngày 1 tháng 7 năm
2004 và các Nghị định hướng dẫn thi hành đã thể hiện rất rõ vấn đề này.
Rà soát, ban hành mới và sửa đổi các văn bản luật, các quy
định pháp luật khác về lĩnh vực đất đai để xây dựng hệ thống văn bản
quy phạm pháp luật về đất đai thống nhất, bảo đảm mọi quan hệ trong
lĩnh vực đất đai phát sinh trong đời sống xã hội đều được pháp luật
điều chỉnh một cách đúng đắn, khoa học và triệt để, đảm bảo lợi ích
của Nhà nước, của tập thể và công dân, đặc biệt là những căn cứ pháp
lý cho việc áp dụng giải quyết các tranh chấp về quyền sử dụng đất
chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, một vấn đề phức
tạp trong việc giải quyết tranh chấp đất hiện nay. Tạo ra một hệ thống
pháp luật vững chắc là cơ sở pháp lý thống nhất cho cơ quan quản lý
Nhà nước áp dụng để thực hiện công tác quản lý Nhà nước về lĩnh
vực đất đai trong đời sống xã hội một cách có hiệu quả.
Cần sớm hoàn thiện công tác quy hoạch tổng thể về đất đai, kế
hoạch sử dụng đất, đặc biệt là khắc phục tình trạng quy hoạch “treo”,
rà soát quỹ đất hiện có; có biện pháp để đẩy nhanh tiến độ việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các chủ thể sử dụng đất.

- Trong cơ chế thị trường cần chú ý đến vấn đề quy hoạch và kế
hoạch sử dụng đất; đó là thể hiện sự tính toán khoa học, hợp lý phù hợp
với quy luật vận động và phát triển kinh tế xã hội vừa mang tính chất
chiến lược vừa có tính khả thi và thực sự là công cụ pháp lý để Nhà nước
quản lý đất đai có hiệu quả...
Mặt khác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải tạo điều kiện cho
người sử dụng đất chủ động trong việc lựa chọn phương án khai thác, sử
dụng đất sao cho đem lại lợi ích kinh tế cao nhất.
- 15 -


- Đối với những quyết định liên quan đến quyền lợi và lợi ích của
nhân dân phải được nhân dân thảo luận cụ thể với phương châm: “Dân
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Phát huy triệt để quyền làm chủ
của nhân dân lao động trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
- Cần tiến hành đồng bộ việc cải cách bộ máy hành chính nhà nước từ
trung ương đến địa phương, đặc biệt là bộ máy chính quyền cơ sở, xây
dựng bộ máy nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, đoàn kết, tránh quan
liêu, hách dịch, cửa quyền, buông lỏng quản lý và gây phiền hà cho nhân
dân, gây ách tắc trong khâu quản lý và thực hiện các chủ trương chính sách
của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
- Phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật bằng
nhiều hình thức như bằng các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức
các cuộc thi... cần xác định đây là công tác thường xuyên liên tục, không
ngừng nâng cao sự hiểu biết và chấp hành luật pháp cho mọi cán bộ,
đảng viên và nhân dân.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra đảm bảo vừa phát huy
quyền làm chủ của nhân dân vừa tăng cường thiết lập kỷ cương của pháp
luật. Xây dựng bộ máy chính quyền vững mạnh. Tiến hành thanh tra,
kiểm tra kịp thời không để vụ việc (Đặc biệt là những vụ việc tranh chấp

về đất đai) xảy ra phức tạp dẫn đến việc khiếu kiện kéo dài vừa gây lãng
phí thời gian công sức, vừa gây mất đoàn kết và mất trật tự an toàn xã hội
ở địa phương.
- Cần có chiến lược bảo vệ đất nông nghiệp và đất có rừng: Một
điều rất đáng lo ngại là diện tích đất nông nghiệp là đất trồng lúa bị mất
đi ngày càng tăng do quá trình công nghiệp hoá, đô thị hoá, mà việc khai
hoang mở rộng thêm diện tích canh tác không bù đắp kịp; mặt khác diện
tích đất có rừng ngày càng bị thu hẹp mặc dù Nhà nước và người dân đã
đầu tư rất nhiều công của vào việc trồng rừng... Tình trạng chặt phá rừng
tràn lan nhất là rừng đầu nguồn đã làm cho môi trường bị ô nhiễm và suy
thoái nghiêm trọng. Hiện tượng ENIUNO xảy ra không những làm ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống của hàng chục triệu nông dân mà còn để lại
hậu quả lâu dài đối với nhiệm vụ bảo đảm an toàn an ninh lương thực
- 16 -


quốc gia và an toàn môi trường sống cho nhiều thế hệ mai sau. Để góp
phần ngăn chặn có hiệu quả xu thế này, pháp luật cần có quy định
nghiêm ngặt trong các trường hợp sử dụng đất nông nghiệp, nhất là đất
trồng lúa vào mục đích khác, xử lý thật nghiêm những trường hợp đốt
phá rừng; cần chuyển hướng quy hoạch phát triển các khu công nghiệp,
các khu dân cư mới, đô thị mới đến các vùng đất xấu ít có khả năng phát
triển nông nghiệp. Vì lợi ích lâu dài và toàn cục Nhà nước chủ trương ưu
tiên đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để khai thác vùng đất phi nông
nghiệp, hạn chế tối đa đến việc xâm phạm quỹ đất nông nghiệp, đất trồng
lúa, đất có rừng. Chủ trương này cần được sự quan tâm thường xuyên của
Nhà nước và được thể hiện đồng bộ không chỉ trong chính sách đất đai
mà còn trong các chính sách kinh tế và mở rộng ra mọi hoạt động của
toàn xã hội bao gồm cả các hoạt động khoa học, văn hoá, giáo dục và
hoạt động của các đoàn thể quần chúng.

Chú trọng công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ quản lý nhà nước cấp
cơ sở đây là việc làm thường xuyên và lâu dài, chọn lọc ra đội ngũ cán bộ
đủ đức, đủ tài, có chuyên môn nghiệp vụ giỏi đủ sức hoàn thành tốt
nhiệm vụ được giao góp phần bình ổn trật tự xã hội ở địa phương, phát
triển kinh tế địa phương nói riêng và đất nước ta nói chung theo hướng
công nghiệp hoá và hiện đại hoá; thực hiện được mục tiêu “Dân giàu,
Nước mạnh xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” .

2- Kết luận:
Qua việc giải quyết vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
trên đây tại xã T chúng tôi thấy:
- Thực tế hiện nay về cơ chế quản lý đất đai còn buông lỏng, những
quy định của pháp luật chưa đồng bộ. Sự hiểu biết pháp luật, đặc biệt là
pháp luật về đất đai của người dân còn hạn chế, 1 số người dân có ý thức
pháp luật chưa cao, chưa tuân thủ nghiêm túc các quy định của pháp luật,
có lúc còn coi nhẹ đạo đức xã hội, mới chỉ xem trọng lợi ích cá nhân nên
đã xâm phạm lợi ích hợp pháp của người khác; công tác thanh tra, kiểm
tra chưa được tiến hành thường xuyên, liên tục. Đội ngũ cán bộ quản lý
- 17 -


làm công tác quản lý, giải quyết tranh chấp đất đai nhìn chung còn yếu
về chuyên môn nghiệp vụ.
- Về công tác quản lý, sử dụng đất còn tuỳ tiện, thiếu cơ sở pháp lý,
không đảm bảo cho trước mắt và lâu dài.
- Có một thực tế đáng lo ngại là hiện nay một số cán bộ trong bộ
máy quản lý của chính quyền địa phương còn thiếu tinh thần trách nhiệm
trong quản lý đất đai gây hậu quả nghiêm trọng, làm mất lòng tin của
nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
- Mặt khác việc giải quyết các vụ khiếu kiện liên quan đến đất

đai còn thiếu khách quan, thiếu cơ sở pháp lý, rất nhiều trường hợp
người khiếu kiện chưa thấy thoả đáng với những kết luận của các cơ
quan chức năng, họ tiếp tục khiếu kiện lên cơ quan cấp trên gây nên
tình trạng khiếu kiện kéo dài và làm mất ổn định tình hình an ninh
chính trị trật tự an toàn xã hội ở địa phương. Do đó khi giải quyết
các tranh chấp về đất đai phải tuân thủ pháp luật, nhanh chóng ,
triệt để và có tình, có lý.
Với vốn kiến thức học 3 tháng lớp bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà
nước chương trình chuyên viên chính của Học viện Hành chính Quốc gia
và quá trình nghiên cứu, tìm hiểu thực tiễn, thông qua tiểu luận cuối khoá
“Phương án giải quyết một vụ tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng
đất”. Tôi mong muốn góp phần nâng cao kiến thức trong việc quản lý,
xử lý và sử dụng đất đai ngày một tốt hơn mang lại hiệu quả thiết thực
trong cuộc sống. Tuy nhiên, do trình độ, năng lực và sự hiểu biết của bản
thân còn hạn chế nên bản tiểu luận này không tránh khỏi những thiếu sót,
vì vậy kính mong được sự giúp đỡ và chỉ dạy của thầy cô giáo và các
đồng nghiệp.
Xin chân trọng cảm ơn.

- 18 -


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hiến pháp Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam.
2. Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ về việc
giao đất lâm nghiệp cho các tổ chức, cá nhân sử dụng lâu dài vào
mục đích nông nghiệp.
3. Bộ luật Dân sự ngày 28/10/19953.
4. Luật đất đai ngày 14/7/1993; Luật sửa đổi bổ sung một số

điều của Luật đất đai năm 1998; Luật sửa đổi bổ sung một số điều của
Luật đất đai năm 2001.
5. Luật đất đai ngày 26 tháng 11 năm 2003.
6 Các văn bản khác có liên quan.

- 19 -


MỤC LỤC
MỞĐẦU................................................................................................................2
I- CÂU CHUYỆN TÌNH HUỐNG........................................................................4
1. Hoàn cảnh ra đời của câu chuyện của tình huống:...................................4
2. Diễn biễn câu chuyện tình huống..............................................................6
II- PHÂN TÍCH, XỬLÝ TÌNH HUỐNG:..............................................................7
1. Mục tiêu đề ra khi giải quyết câu chuyện tình huống:............................7
2. Cơ sở lý luận để xử lý:................................................................................7
3. Phân tích tình huống:.................................................................................9
4. Các phương án, biện pháp giải quyết tình huống:..................................11
III- KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN.........................................................................14
1- Kiến nghị:..................................................................................................14
2- Kết luận:....................................................................................................17
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................19

- 20 -



×