Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

THAM GIA các HIỆP ĐỊNH THƯƠNG mại tự DO ASEAN (FTA) cơ hội và THÁCH THỨC đối với XUẤT KHẨU NÔNG sản của VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.05 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------*****---------

THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
ASEAN (FTA): CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM

Họ và tên sinh viên

Trương Thị Lan Anh 166
Nguyễn Minh Trang 164
Nguyễn Thị Yến Nhi 163
Bùi Tố Anh 165
Nguyễn Thị Doan 185

Hà Nội, tháng 05 năm 2015


i

MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
CHƯƠNG 2: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU NÔNG SẢN
CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO
(FTA)...................................................................................................................................10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..........................................................................25


1

LỜI MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Là một nước nông nghiệp, khoảng 70% dân số Việt Nam sống ở nông thôn
với hơn 10 triệu hộ nông dân, 30 triệu người trong độ tuổi lao động đang sống ở
nông thôn. Nông nghiệp Việt Nam có lợi thế cạnh tranh lớn do có điều kiện tự
nhiên thuận lợi và chi phí nhân công thấp nhưng những điều kiện này ngày càng
giảm do điều kiện cạnh tranh thương mại toàn cầu hiện nay. Sau khi tham gia ký kết
và đàm phán nhiều Hiệp định Thương mại Tự do song phương và khu vực, nông
sản Việt Nam đã giữ vị trí cao trên thị trường nông sản thế giới, những cam kết
được thực hiện nghiêm túc đúng với những quy định trong các AFTA và quy định
của WTO. Do đó, Việt Nam đã thu được một lượng ngoại tệ đáng kể từ hoạt động
xuất khẩu nông sản hàng năm, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tạo thêm
việc làm cho người dân. Mặt khác, các Hiệp định này cũng gây ra những thách thức
gay gắt cho các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế của Việt Nam. Nếu như khi gia
nhập WTO, sức ép lớn nhất là về mặt thể chế và dịch vụ, thì các Hiệp định Thương
mại Tự do song phương và khu vực lại gây khó khăn đến thương mại hàng hóa do
mức độ cắt giảm thuế sâu rộng trong hiệp định nội khối ASEAN. Ngoài ra, còn tồn
tại nhiều hạn chế về mặt chính sách của Nhà nước khiến cho việc đẩy mạnh tiêu thụ
về lượng nhưng chưa đi kèm với những lợi ích thiết thực mang về cho đất nước, cho
nông dân. Điều này ảnh hưởng sâu sắc đến hoạt động xuất khẩu nông sản Việt Nam
trong tiến trình gia nhập thị trường nông sản thế giới.
Mặc dù cơ hội và thách thức đều lớn nhưng việc tận dụng cơ hội đến đâu,
vượt qua thách thức thế nào lại phụ thuộc vào thể chế và chính sách của Nhà nước
cũng như hoạt động của các doanh nghiệp. Xuất phát từ những lý do trên đây, việc
nghiên cứu thực trạng và tìm ra các giải pháp vi mô và vĩ mô nhằm đẩy mạnh xuất
khẩu nông sản Việt Nam khi tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do (FTA) là
vấn đề có ý nghĩa lý luận và cấp thiết về thực tiễn.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu tổng quan về mặt hàng nông sản và thị trường nông sản thế giới.



2
- Đánh giá cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam khi
tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA).
- Đề xuất một số giải pháp đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam trong
bối cảnh tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng của đề tài: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu nông sản Việt
Nam trong bối cảnh tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA).
- Phạm vi nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu tình hình xuất khẩu nông
sản của Việt Nam trong 10 năm gần đây (2004-2014) sang các nước đã ký kết các
Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) với Việt Nam, cũng như triển vọng
xuất khẩu sang một số nước/khu vực sẽ ký Hiệp định Thương mại Tự do AFTA
trong thời gian tới. Các giải pháp đề xuất ở cả vĩ mô và vi mô cho những năm tới.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu và thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu, đề
tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích – tổng hợp,
phương pháp diễn giải – quy nạp, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh –
đối chiếu, ...
5. Kết cấu của đề tài
Nội dung tiểu luận gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát về mặt hàng nông sản và tình hình tham gia các Hiệp
định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA) của Việt Nam
- Chương 2: Cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu nông sản của Việt Nam
khi tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA)
- Chương 3: Giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu nông sản của Việt Nam khi tham
gia các Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN (AFTA)


3


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ MẶT HÀNG NÔNG SẢN
VÀ TÌNH HÌNH THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI
TỰ DO (FTA) CỦA VIỆT NAM
1. 1. Khái quát về mặt hàng nông sản
1.1.1. Khái niệm về mặt hàng nông sản
Theo WTO, hàng hóa được chia làm hai nhóm chính: nông sản và phi nông
sản. Nông sản được xác định trong Hiệp định nông nghiệp là tất cả các loại hàng
hóa có nguồn gốc từ hoạt động nông nghiệp như:
- Các sản phẩm nông nghiệp cơ bản: lúa gạo, lúa mỳ, bột mỳ, sữa, động vật
sống, cà phê, hồ tiêu, hạt điều, chè, rau quả tươi…
- Các sản phẩm phái sinh: bánh mỳ, bơ, dầu ăn, thịt…
- Các sản phẩm chế biến từ sản phẩm nông nghiệp: bánh kẹo, sản phẩm từ
sữa, xúc xích, nước ngọt, rượu, bia, thuốc lá, bông xơ, da động vật thô…
Theo Tổ chức Lương thực Thế giới (FAO), nông sản phẩm/sản phẩm có
nguồn gốc nông nghiệp là bất kỳ sản phẩm hay hàng hóa nào, dù là thô hay đã chế
biến, được trao đổi trên thị trường cho mục đích tiêu dùng của con người (không kể
nước, muối và các chất phụ gia) hay thức ăn cho động vật.
Theo định nghĩa của Hiệp định về chương trình thuế quan ưu đãi cho khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) thì sản phẩm nông nghiệp có nghĩa là: Nguyên
liệu nông nghiệp thô/các sản phẩm chưa chế biến được liệt kê trong các Chương 1
đến 24 của Hệ thống cân đối (HS) (gồm: Động vật sống và các sản phẩm từ động
vật; Các sản phẩm thực vật; Mỡ và dầu động vật hoặc thực vật, các sản phẩm lấy từ
mỡ hoặc dầu động vật hoặc thực vật, mỡ chế biến làm thực phẩm các loại, sáp động
hoặc thực vật; Thực phẩm chế biến, đồ uống, rượu mạnh và giấm; thuốc lá và các
chất thay thế thuốc lá chế biến) và các nguyên liệu nông nghiệp thô/các sản phẩm
chưa chế biến tương tự được nêu trong các đề mục của Hệ thống cân đối; và các sản
phẩm đã qua sơ chế nhưng hình thức không thay đổi nhiều so với sản phẩm gốc.
Tóm lại, khái niệm nông sản có thể hiểu một cách khái quát như sau: hàng
nông sản là những sản phẩm hàng hóa có nguồn gốc từ hoạt động sản xuất nông



4
nghiệp. Nông nghiệp thực hiện những công việc gì thì có những loại nông sản
tương ứng kể cả trong trồng trọt, chăn nuôi gia cầm, gia súc, bao gồm các sản phẩm
thu hoạch trực tiếp từ cây trồng, vật nuôi và các sản phẩm chế biến từ cây trồng, vật
nuôi đó.
1.1.2. Đặc điểm của mặt hàng nông sản
Thứ nhất, việc sản xuất và xuất khẩu nông sản có những điểm đặc biệt
- Hoạt động xuất khẩu nông sản phải đáp ứng đủ các tiêu chuẩn vệ sinh an
toàn thực phẩm.
- Giá cả sản phẩm nông sản xuất khẩu không ổn định.
- Hoạt động xuất khẩu nông sản cần được Nhà nước đưa ra chính sách quản
lý phù hợp.
Thứ hai, nông sản là một loại hàng hóa “nhạy cảm” trong thương mại
- Thương mại hàng nông sản liên quan đến lợi ích của một số bộ phận lao
động vốn có thu nhập thấp ở cả các nước phát triển và đang phát triển.
- Mỗi quốc gia đều có nhu cầu đảm bảo nguồn cung lương thực ổn định trong
hoàn cảnh thị trường nông sản thế giới thường xuyên có biến động về thu hoạch và
các nguy cơ đang rình rập nó.
Thứ ba, sản xuất nông sản có nhiều đặc điểm khác với các ngành sản
xuất khác
- Sản xuất nông sản mang tính thời vụ và tính khu vực rõ rệt.
- Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu của nông sản lại bị giới hạn về diện tích.
- Xu hướng sản xuất nông sản theo phương thức sản xuất hữu cơ, theo quy
trình sản xuất sạch, đảm bảo dinh dưỡng và an toàn vệ sinh thực phẩm phải được
đặt lên hàng đầu và sẽ trở thành một lợi thế nếu quốc gia nào biết nắm bắt và đầu tư
sản xuất theo hướng này.
Thứ tư, nông sản mang tính thiết yếu (hầu hết nông sản là những sản
phẩm phục vụ nhu cầu thiết yếu)
- Tính thiết yếu của nông sản thể hiện ở việc cung cấp lương thực, thực phẩm

cho nhu cầu cơ bản của con người. Đảm bảo nhu cầu về lương thực không chỉ là
yêu cầu duy nhất của nông nghiệp, mà còn là cơ sở phát triển các mặt khác của đời
sống kinh tế - xã hội.


5
Thứ năm, tiêu thụ nông sản có những khác biệt so với các sản phẩm khác
- Đặc điểm quan trọng của nông sản là tính chất tươi sống của sản phẩm
và sản xuất, thu hoạch theo mùa vụ và theo khu vực. Mỗi loại có một hình thức
tiêu thụ và chế biến riêng: yêu cầu tươi, sản phẩm chế biến đòi hỏi công nghệ
đặc thù và giữ được hương vị, màu sắc tự nhiên; yêu cầu chất lượng tiêu dùng
ngày càng cao, đòi hỏi thu hoạch, vận chuyển, bảo quản, chế biến theo những
quy trình công nghệ chặt chẽ.
Thứ sáu, nông sản là loại hàng hóa khó bảo quản, dễ hư hỏng và thối rữa.
- Công nghiệp chế biến nông sản tạo ra sự đa dạng về giá trị sử dụng, tăng
thời gian bảo quản, giảm tỷ lệ thất thoát sau thu hoạch và giảm sự phụ thuộc sản
xuất theo điều kiện tự nhiên,
Tóm lại, nông sản có nhiều đặc điểm khác biệt so với các sản phẩm khác, từ
việc sản xuất mang tính thời vụ, đến việc bảo quản và chế biến, tiêu thụ nông sản
đều có những đặc thù riêng. Vì thế, các doanh nghiệp Việt Nam cần có những chính
sách phù hợp để xuất khẩu nông sản Việt Nam có thể cạnh tranh với thị trường
nông sản thế giới trong bối cảnh Việt Nam tham gia các FTA.
1.2. Khái quát về Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN
1.2.1. Quá trình hình thành AFTA
ASEAN là một trong những khu vực có nền kinh tế tăng trưởng với tốc độ
nhanh nhất thế giới (tốc độ tăng trưởng kinh tế của ASEAN giai đoạn 1981-1991 là
5,4%, gần gấp hai lần tốc độ tăng trưởng trung bình của thế giới). Tuy vậy, trước
khi AFTA ra đời, những nỗ lực hợp tác kinh tế của ASEAN đều không đạt được
mục tiêu mong muốn. ASEAN đã có các kế hoạch hợp tác kinh tế như:
-Thoả thuận thương mại ưu đãi (PTA).

-Các dự án công nghiệp ASEAN (AIP).
-Kế hoạch hỗ trợ công nghiệp ASEAN (AIC) và Kế hoạch hỗ trợ sản xuất
công nghiệp cùng nhãn mác (BBC).
- Liên doanh công nghiệp ASEAN (AIJV)


6
Các kế hoạch hợp tác kinh tế kể trên chỉ tác động đến một phần nhỏ trong
thương mại nội bộ ASEAN và không đủ khả năng ảnh hưỏng đến đầu tư trong khối.
Sự ra đời của AFTA
Vào đầu những năm 90, khi chiến tranh lạnh kết thúc, những thay đổi trong
môi trường chính trị, kinh tế quốc tế và khu vực đã đặt kinh tế các nước ASEAN
đứng trước những thách thức lớn không dễ vượt qua nếu không có sự liên kết chặt
chẽ hơn và những nỗ lực chung của toàn Hiệp hội, những thách thức đó là :
-Quá trình toàn cầu hoá kinh tế thế giới diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ, đặc
biệt trong lĩnh vực thương mại, chủ nghĩa bảo hộ truyền thống trong ASEAN dần mất
đi sự ủng hộ của các nhà hoạch định chính sách trong nước cũng như quốc tế.
- Sự hình thành và phát triển các tổ chức hợp tác khu vực mới đặc biệt như
EU, NAFTA sẽ trở thành các khối thương mại khép kín, gây trở ngại cho hàng hoá
ASEAN khi thâm nhập vào những thị trường này.
- Những thay đổi về chính sách như mở cửa, khuyến khích và dành ưu đãi
rộng rãi cho các nhà đầu tư nước ngoài, cùng với những lợi thế so sánh về tài
nguyên thiên nhiên và nguồn nhân lực của các nước Trung Quốc, Việt Nam, Nga và
các nước Đông Âu đã trở thành những thị trường đầu tư hấp dẫn hơn ASEAN, đòi
hỏi ASEAN vừa phải mở rộng về thành viên, vừa phải nâng cao hơn nữa tầm hợp
tác khu vực. Để đối phó với những thách thức trên, tháng 01/1992 , theo sáng kiến
của Thái Lan, Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV họp tại Singapo đã quyết
định thành lập một Khu vực Mậu dịch Tự do ASEAN (ASEAN Free Trade Area,
gọi tắt là AFTA). Đây thực sự là bước ngoặt trong hợp tác kinh tế ASEAN ở một
tầm mới.

Mục tiêu của AFTA
AFTA đưa ra nhằm đạt được những mục tiêu kinh tế sau:
- Tự do hoá thương mại trong khu vực bằng việc loại bỏ các hàng rào thuế
quan trong nội bộ khu vực và cuối cùng là các rào cản phi thuế quan. Điều này sẽ
khiến cho các Doanh nghiệp sản xuất của ASEAN càng phải có hiệu quả và khả
năng cạnh tranh hơn trên thị trường thế giới. Đồng thời, người tiêu dùng sẽ mua


7
được những hàng hoá từ những nhà sản suất có hiệu quả và chất lượng trong
ASEAN, dẫn đến sự tăng lên trong thương mại nội khối.
- Thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào khu vực bằng việc tạo ra một khối
thị trường thống nhất, rộng lớn hơn.
- Làm cho ASEAN thích nghi với những điều kiện kinh tế quốc tế đang thay
đổi, đặc biệt là với sự phát triển của các thỏa thuận thương mại khu vực (RTA) trên
thế giới.
1.2.2. Nội dung cơ bản của AFTA
Theo kế hoạch ban đầu, AFTA được hoàn thành vào năm 2008 với mục đích
cơ bản là “tăng cường khả năng cạnh tranh của ASEAN như một cơ sở quốc tế
nhằm cung cấp hàng hóa ra thị trường thế giới”. Tuy nhiên, trước sự phát triển và
cạnh tranh mạnh mẽ của các liên kết kinh tế toàn cầu khác, cũng như do sự tiến bộ
của chính các quốc gia ASEAN, năm 1994, khối này quyết định đẩy nhanh thời hạn
lên năm 2003.
Sau đó, từ năm 1995 đến 1998, ASEAN kết nạp thêm 4 nước thành viên mới
là Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar.
Cơ chế chính để thực hiện AFTA là Hiệp định thuế quan ưu đãi có hiệu lực
chung (Common Effective Preferential Tariff – CEPT). Về thực chất, CEPT là một
thỏa thuận giữa các nước thành viên ASEAN về việc giảm thuế quan trong nội bộ
khối xuống còn 0-5% thông qua những kế hoạch giảm thuế khác nhau. Trong vòng
5 năm sau khi đạt mức thuế ưu đãi cuối cùng, các nước thành viên sẽ tiến hành xóa

bỏ các hạn ngạch nhập khẩu và những hàng rào phi quan thuế khác.
Thời hạn thực hiện CEPT của các nước có khác nhau. Cụ thể là: Với Brunei,
Indonesia, Philippines, Singapore, Thái Lan: từ 1993 đến 2003; Với Việt Nam: từ
1996 đến 2006; Với Lào, Myanmar và Campuchia: từ 1998 đến 2008.
Để thực hiện dần dần việc cắt giảm thuế quan, mỗi nước sẽ phải phân loại tất
cả hàng hóa của mình vào một trong các danh mục sau: Danh mục giảm thuế (IL);
Danh mục loại trừ tạm thời (TEL); Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL); Danh mục
nhạy cảm (SL); Danh mục nhạy cảm cao.


8
-Danh mục giảm thuế (IL): bao gồm những mặt hàng sẽ được cắt giảm thuế
quan để đến khi hoàn thành CEPT sẽ có thuế suất 0-5%. Ngay sau khi ký CEPT,
mỗi nước ASEAN phải đưa ra IL của mình để bắt đầu giảm thuế quan từ năm 1993.
Trên thực tế, không phải mặt hàng nào trong IL cũng thực sự phải giảm thuế quan, vì
có những mặt hàng trước khi đưa vào IL đã có thuế suất dưới 5%, thậm chí bằng 0%.
-Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): bao gồm những mặt hàng chưa đưa vào
giảm thuế quan ngay, do các nước thành viên ASEAN phải dành thêm thời gian để
điều chỉnh sản xuất trong nước thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế.
Sau ba năm kể từ khi tham gia CEPT, các nước ASEAN phải bắt đầu chuyển
dần các mặt hàng từ TEL sang IL, tức là bắt đầu giảm thuế quan đối với những mặt
hàng này. Quá trình chuyển từ TEL sang IL được phép kéo dài trong 5 năm, mỗi
năm phải chuyển được 20% số mặt hàng. Điều đó có nghĩa là đến hết năm thứ tám
thì IL đã mở rộng bao trùm toàn bộ TEL, và TEL không còn tồn tại. Khi đưa mỗi
mặt hàng vào IL, các nước đồng thời phải chỉ ra lịch trình giảm thuế quan của mặt
hàng đó cho đến khi hoàn thành CEPT.
Ví dụ: Khi tham gia CEPT vào năm 1993, IL của nước A bao gồm 50 mặt
hàng, TEL của nước này có 100 mặt hàng. Từ năm 1996, nước A phải bắt đầu
chuyển TEL sang IL. Nếu mỗi năm chuyển đều 20% thì năm 1996, IL của nước này
có 50 + (100*20%) = 70 mặt hàng và TEL giảm đi còn 100 – (100*20%) = 80 mặt

hàng. Năm 1997, IL sẽ là 90 và TEL sẽ là 60. Ba năm tiếp sau đó, các con số tương
ứng sẽ là 110/40, 130/20 và 150/0. Đến năm 2000, IL của nước A sẽ bao gồm cả
150 mặt hàng và TEL không còn mặt hàng nào nữa.
-Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL): bao gồm những mặt hàng không có
nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước thành viên ASEAN có quyền đưa ra danh
mục các mặt hàng này nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức
khỏe con người, động thực vật; bảo tồn các giá trị văn hóa, lịch sử, khảo cổ… GEL
không phải là danh mục các mặt hàng Chính phủ cấm nhập khẩu. Một số mặt hàng
có trong GEL vẫn được nhập khẩu bình thường, nhưng không hưởng thuế suất ưu
đãi như các mặt hàng trong danh mục giảm thuế.


9
-Danh mục các mặt hàng nông sản chưa chế biến nhạy cảm (SL): bao gồm 26
nhóm mặt hàng, chiếm 0,8% tổng số nhóm mặt hàng của Biểu thuế nhập khẩu và là
những mặt hàng cụ thể như: thịt, trứng gia cầm, động vật sống, thóc, gạo lứt,…,
được xây dựng căn cứ vào yêu cầu bảo hộ cao của sản xuất trong nước đối với một
số mặt hàng nông sản chưa chế biến và theo đề nghị của Bộ Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn đồng thời trên cơ sở tham khảo danh mục này của các nước ASEAN
khác. Các mặt hàng này đang được áp dụng các biện pháp phi thuế quan như quản
lý theo hạn ngạch hàng tiêu dùng, quản lý của Bộ chuyên ngành.
Ngoài cơ chế này, để hiện thực hóa AFTA, các nước ASEAN còn ký kết
hàng loạt các thỏa thuận về thống nhất và công nhận tiêu chuẩn hàng hóa giữa các
nước thành viên, công nhận việc cấp giấy xác nhận xuất xứ hàng hóa của nhau, tăng
cường hợp tác trong lĩnh vực hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, phát triển công
nghiệp và xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (ASEAN Investment Area – AIA).
1.2.3. Tình hình tham gia AFTA của Việt Nam
Ngày 28/07/1995, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 7 của
ASEAN và cam kết tham gia AFTA. Thời hạn hoàn thành AFTA của Việt Nam
năm 2006. Việt Nam bắt đầu thực hiện lộ trình giảm thuế quan tham gia AFTA từ

ngày 01/01/1996, khi đưa 875 mặt hàng đầu tiên vào thực hiện CEPT. Tất cả những
mặt hàng này đều đã nằm ở khung thuế suất 0-5%.
Đầu năm 1998, Việt Nam công bố lịch trình giảm thuế để thực hiện AFTA
vào năm 2006. Trên thực tế thì đến cuối năm 2002, 5.500 mặt hàng (chiếm khoảng
86% tổng số mặt hàng trong biểu thuế nhập khẩu) đã được vào chương trình cắt
giảm. Toàn bộ các mặt hàng này đã ở thuế suất dưới 20% và có lộ trình cắt giảm
trong thời kỳ 2002-2006. Trong số đó, 65% đã ở mức thuế 0-5%.
Theo số liệu của tờ Dow Jones, vào những ngày đầu năm 2003, mức thuế
suất trung bình của Việt Nam chỉ hơn 2% một chút, và Việt Nam đang là nước có
mức thuế suất trung bình thấp thứ 3 ASEAN, sau Singapore và Brunei. Theo đúng
lộ trình thì việc cắt giảm thuế tham gia AFTA đã được áp dụng chính thức tại Việt
Nam từ ngày 01/01/2003. Tuy nhiên, ngày 10/01/2003, Bộ Tài chính đã thông báo


10
việc cắt giảm đó sẽ được thực hiện lùi lại 7 tháng, vào ngày 1/7. Đến ngày 1/7,
1.416 mặt hàng thuộc TEL được chuyển sang IL. Đa số đó là những mặt hàng hiện
đang được bảo hộ với mức thuế suất rất cao (30-100%), hoặc đang được quản lý
bằng hạn ngạch như xi măng, giấy, hàng điện tử, điện gia dụng…

CHƯƠNG 2: CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI XUẤT KHẨU
NÔNG SẢN CỦA VIỆT NAM KHI THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO (FTA)
2.1. Đặc trưng của thị trường ASEAN về mặt hàng nông sản
2.1.1. Đặc trưng của thị trường ASEAN
• Về văn hóa
Các nước ASEAN đều có những điểm tương đồng về văn hóa. Đặc biệt các nước
ASEAN đều có nền văn hóa truyền thống đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, có lịch sử đấu
tranh dựng nước và giữ nước lâu đời. Văn hóa là di sản được kế thừa từ cha ông qua cả quá
trình lịch sử, là tổng thể những hiểu biết về phong tục tập quán, về trí tuệ và vật chất. Văn

hóa trong ASEAN có những đặc trưng sau:
- Đánh giá cao tính kiên nhẫn, lòng kính trọng với địa vị, thân thế (tuổi tác, danh
vọng), năng lực chuyên môn của con người.
- Rất tự hào về dân tộc mình và kính trọng truyền thông dân tộc: mỗi một nước đều
có một nghi thức, tập tục truyền thống khác nhau nhưng tất cả họ đều tự hào và kính trọng
truyền thống dân tộc của họ.
- Văn hóa kinh doanh mang tính cạnh tranh cao và có đạo đức trong kinh doanh.
- Đều có xuất phát điểm là nên văn minh lúa nước, con người cần cù chịu khó, có
tinh thần trách nhiệm với công việc, uy tín, thân thiện…
- Mỗi quốc gia đều có rất nhiều dân tộc anh em sinh sống, mỗi dân tộc đều sử dụng
một ngôn ngữ riêng, tạo nên sự đa dạng trong ngôn ngữ.
• Về địa lý sinh thái
Có vị trí địa lý nằm giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương và là đầu mối cửa ngõ
giao thông quan trọng, các nước ASEAN có điều kiện để phát triển mở rộng hợp tác giao
lưu văn hóa, kinh tế chính trị, xã hội với nhau và các nước trên thế giới. Chính vì vậy, việc
đi lại trao đổi mua bán rất thuận tiện, trở thành một trong những sợi dây liên kết trọng điểm
khu vực Đông Nam Á.
• Về kinh tế
Các nước thành viên ASEAN đã có chương trình về hợp tác kinh tế. thực tế cho
thấy về mặt kinh tế, tổ chức kinh tế khu vực có tác dụng thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, buôn


11
bán và phân công lao động. Kinh tế 5 nước ASEAN thuộc loại đang phát triển trừ
Singapore. Thu nhập bình quân đầu người giữa các nước chênh lệnh khá lớn. Đối với các
nước như Malaysia, Thái Lan, Singapore, Brunei là những nước phát triển nhất có thu nhập
bình quân đầu người trên 3000USD. 2 nước Philipin, Indonesia có thu nhập bình quân đầu
người trên 1000USD. 6 nước này có thu nhập bình quân đầu người cao hơn rất nhiều so
với các nước còn lại như Việt Nam, Lào, Campuchia, Mianma.
Trong những năm qua, Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) đã không

ngừng đẩy mạnh hợp tác giữa các nước thành viên. Tháng 1 năm 1992, các nước ASEAN
đã đi đến quyết định thành lập khu mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) thông qua việc kí kết
hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nhằm đưa nền kinh
tế khu vực này thành 1 cơ sở sản xuất thống nhất với 1 thị trường rộng lớn trên 500 triệu
dân, tỉ lệ tăng dân số trung bình 2,05% thì đây thực sự là một thị trường tiêu thụ lớn.
Mặc dù, AFTA chưa có hiệu lực trước năm 2003, xong thuế quan nhập khẩu giữa
các nước thành viên ASEAN đã được giảm dần từ năm 1997. Tính đến năm 2001, thuế
quan của 92,8 số sản phẩm trong danh mục cắt giảm ngay của 6 nước thành viên ban đầu
bao gồm Indonesia, Malaysia, Philipin, Singapore, Thái Lan, Brunei được giảm xuống
mức 0-5%. Việt Nam đã chính thức tham gia vào AFTA năm 2003 vào hoàn thành cắt
giảm thuế quan vào năm 2006. Đối với các nước thành viên Lào và Mianma sẽ bắt đầu
thực hiện hiệp định CEPT từ 1-1-1998 và kết thúc vào ngày 1-1-2008. Campuchia bắt đầu
thực hiện CEPT từ 1-1-2000 và kết thúc vào ngày 1-1-2010. Việc thực hiện CEPT đã làm
cho xuất khẩu nội khu vực ASEAN tăng từ 43 tỷ USD năm 1993 lên 84 tỷ năm 2001, tăng
hơn 90% trong vòng 8 năm qua. Thị trường ASEAN đã trở lên ngày càng quan trọng hơn
đối với các nước thành viên ASEAN. Do vậy, AFTA sẽ tiếp tục thúc đẩy các hoạt động
thương mại trong khu vực này.
Khi thực hiện hiệp định CEPT các hàng rào phi thuế quan như hạn chế số lượng,
hạn ngạch giá trị xuất nhập khẩu, giấy phép nhập khẩu có tác dụng hạn chế định lượng…
cũng bị loại bỏ trong vòng 5 năm sau khi một sản phẩm được hưởng ưu đãi thuế quan.
Việc xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan sẽ thúc đẩy thương mại và cải
thiện phúc lợi của các nước tham gia, tạo ra môi trường cạnh tranh hơn nhưng nó cũng làm
tăng năng suất lao động, đa dạng hóa các sản phẩm và giảm giá hàng hóa. Các hoạt động
thương mại ngày càng tăng cũng thúc đẩy các hoạt động kinh tế các nước này, việc làm
được tạo ra và các nền kinh tế có thể tăng trưởng nhanh hơn.
• Về chính trị


12
Về chính trị nó có tác dụng củng cố tinh thần đoàn kết, giúp đỡ các nước vừa và

nhỏ có tiếng nói mạnh mẽ và vai trò trong giải quyết vấn đề quốc tế, xã hội của các nước
thành viên. Phần lớn các nước trong khối ASEAN thực hiện theo chế độ đa đảng. Nhưng
nhìn chung chính trị trong khu vực ASEAN khá là ổn định, rất thuận lợi cho hoạt động trao
đổi buôn bán giữa các nước với nhau và với thế giới.
Tóm lại, thị trường ASEAN có đặc điểm tương đồng về văn hóa và gần gũi nhau về
địa lý, chính trị trong khối tương đối ổn định. ASEAN là một thị trường đầy tiềm năng với
trên 500 triệu dân và yêu cầu về chất lượng hàng hóa không phải là cao. Hầu hết các nước
ASEAN có xuất phát điểm là nền nông nghiệp lúa nước, đi lên từ nông nghiệp và lấy nông
nghiệp là điều kiện phát triển kinh tế. Do vậy, sự cạnh tranh về các sản phẩm đồng loại là
rất khóc liệt, bên cạnh đó có sự tự do hóa thương mại theo cả hướng đa phương và song
phương nên sự cạnh tranh trong 1 thị trường như vậy càng trở nên khắc nghiệt hơn.

2.1.2. Nhu cầu của thị trường ASEAN về nông sản Việt Nam
Với một thị trường hơn 500 triệu dân, ngoài các nhu cầu về mặc, ở, đi lại…
thì nhu cầu về ăn uống là rất lớn. Và so với các nước Singapore, Thái Lan,
Philipines, Malaysia, Indonesia thì Việt Nam có nền kinh tế kém phát triển hơn rất
nhiều. Do đó, ngoài nhu cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam về bổ sung cho nhu cầu
ăn uống. Các nước Singapore, Thái Lan, Philipines, Malaysia, Indonesia còn có nhu
cầu nhập khẩu nông sản Việt Nam về chế biến và tái xuất. Cùng sự phát triển mạnh
mẽ, các nước ASEAN đang được coi là khu vực hấp dẫn, sôi động nhất thế giới.
Tăng trưởng buôn bán giữa Việt Nam và các nước ASEAN đạt 20-25%/năm. Hàng
năm, ASEAN nhập khẩu một lượng khá lớn nông sản Việt Nam, kim ngạch trung
bình mỗi năm đạt khoảng 3.678 triệu USD. Hầu hết các nước ASEAN đều chú
trọng đến phát triển nông nghiệp. Các nước Indonesia, Thái Lan, Malaysia,
Philipines là các nước có nền nông nghiệp khá phát triển thế mà hàng năm
Indonesia phải nhập khẩu về từ 1.8-2 triệu tấn gạo của Việt Nam. Philipines,
Malaysia, Thái Lan cũng nhập khẩu một lượng khá lớn nông sản Việt Nam. Trung
bình tỷ trọng thị trường ASEAN trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt
Nam chiếm khoảng 18% với các mặt hàng chủ yếu như: gạo, hạt điều, lạc nhân, cao
su, long nhãn, hành, sắn, tỏi… Trong tổng kim ngạch xuất khẩu nông sản của Việt

Nam sang ASEAN thì có tới 60-70% được xuất sang Singapore. Đây là thị trường


13
tái xuất điển hình trong ASEAN. Năm 2000, Việt Nam có 21 thị trường xuất khẩu
nông sản (có kim ngạch xuất khẩu nông sản khoảng 100 triệu USD) thì có 3 nước là
Singapore đạt 886.7 triệu USD, Philipines đạt 477 triệu USD, Malaysia đạt 413.5
triệu USD. Ngoài ra, còn Indonesia và Campuchia cũng là thị trường nhập khẩu
nông sản lớn của Việt Nam.
Tóm lại, nhu cầu của thị trường ASEAN về hàng nông sản Việt nam là rất
lớn. Ngoài nhu cầu về hàng nông sản phục vụ cho tiêu dùng hàng ngày, các nước
ASEAN còn nhập khẩu nông sản của Việt Nam cho sản xuất chế biến trong nước
rồi tái xuất sang nước khác.
2.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến xuất khẩu nông sản Việt Nam sang thị
trường ASEAN
2.1.3.1. Các công cụ, chính sách của Nhà nước trong quản lý xuất khẩu
Hiện nay, trên thế giới, các nước sử dụng nhiều công cụ để thực hiện chính
sách thương mại quốc tế, trong đó công cụ quan trọng nhất là thuế đánh vào hàng
nhập khẩu. Hầu như tất cả các nước trong khối ASEAN đều áp dụng thuế nhập
khẩu đổi với hàng nông sản, chỉ riêng có Singapore là không. Đây là nhân tố phức
tạp và thường gây bối rối cho các nhà kinh doanh do hệ thống pháp luật, bảo hộ mỗi
nước khác nhau như Singapore thì 99% hàng nhập khẩu là miễn thuế. Thái Lan thì
khác, vẫn áp dụng mức thuế nhập khẩu khá cao và gạo vẫn được bảo hộ về nhập
khaair.
Ngoài ra, còn có công cụ hạn ngạch (Quota, cơ chế giấy phép nhập khẩu và
các công cụ phi thuế quan khác). Quota là công cụ chủ yếu của hàng rào phi thuế
quan, là những quy định hạn chế số lượng đối với từng thị trường, mặt hàng. Nó là
công cụ kinh tế phục vụ cho công tác điều tiết quản lý Nhà nước về xuất nhập khẩu
vừa nhằm bảo hộ sản xuất trong nước. Là quy định của Nhà nước về số lượng (hay
giá trị) của một mặc hàng được phép xuất khẩu trong một thời gian nhất đinh.

-Trợ cấp xuất khẩu: Là biện pháp Nhà nước hỗ trợ các doanh nghiệp sản xuất
kinh doanh hàng xuất khẩu nhằm khuyến khích tăng nhanh số lượng và giá trị kim
ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ bằng các biện pháp trợ cấp trực tiếp hoặc cho
vay với lãi suất thấp đối với nhà xuất khẩu trong nước.


14
-Chính sách tỉ giá hối đoái: Kết quả của hoạt động kinh doanh xuất khẩu rất
nhạy cảm với tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái tăng thường có lợi cho xuất khẩu. Vì
vậy, trong kinh doanh đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm bắt được sự biến động
của tỷ giá hối đoái trên thị trường, quan tâm chính sách hối đoái của Chính phủ,
nguồn huy động ngoại tệ của quốc gia…
2.1.3.2. Tác động của nền kinh tế trong nước và ASEAN
Nền kinh tế trong nước ảnh hưởng đến lượng cung của hàng xuất khẩu. Nếu
nền sản xuất chế biến trong nước phát triển thì khả năng cung ứng hàng xuất khẩu
cũng như chất lượng hàng xuất khẩu tăng lên, doanh nghiệp sẽ thuận lợi trong công
tác thu mua tại nguồn, cạnh tranh được với các sản phẩm trong khu vực và ngược
lại thì khó khăn và thất bại.
Các nước ASEAN đều có điểm tương đồng với Việt Nam, có xuất phát điểm
là nền văn minh lứa nước, nông nghiệp là chủ yếu, mặt khác hầu như các nước đều
có trình độ phát triển khoa học kỹ thuật, công nghệ chế biến hơn ta. Do đó, nhu cầu
về hàng nông sản cũng bị hạn chế, chủ yếu là để tái xuất sang nước khác. Nếu trình
độ phát triển là ngang nhau thì khả năng cạnh tranh sẽ thuận lợi hơn cho các doanh
nghiệp. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải cạnh tranh khốc liệt với các đối thủ trong
nước và ngoài khu vực ASEAN. Hơn nữa, nếu nền kinh tế ổn định về chính trị-văn
hóa sẽ là nhân tố thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, nó tạo lập những khuôn khổ
chung cho hoạt động kinh doanh diễn ra. Khi môi trường chính trị xã hội của nước
ta và ASEAN có bất kì sự thay đổi nào cũng đều ảnh hưởng đến kinh doanh xuất
khẩu. Môi trường chính trị-xã hội phải ổn định nếu không nó đồng nghĩa với những
rủi ro mà doanh nghiệp gặp phải.

Mặt khác, sự phát triển của hệ thống tài chính ngân hàng, cơ sở hạ tầng của
đất nuwocs cũng như nước bạn ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động xuất khẩu. Trong
xuất khẩu thì tính phức tạp trong thanh toán nguồn vốn và ngoại tệ cần huy động
lớn. Vì vậy khi hệ thống tài chính ngân hàng của nước xuất khẩu, nhập khẩu phát
triển thì nó sẽ tạo điều kiện cho các đơn vị kinh doanh xuất khẩu được dễ dàng huy
động vốn ngoại tệ, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán nhanh chóng, chính xác với
độ rủi ro thấp góp phần nâng cao uy tín của doanh nghiệp. Hiện nay trong các nước


15
ASEAN thì chỉ có Singapore, Indonesia, Thái Lan là có hệ thống ngân hàng phát
triển mạnh.
Hệ thống cơ sở hạ tầng trong đó đặc biệt là hệ thống thông tin liên lạc có tác
động rất lớn đến khả năng xuất khẩu. Ngày nay việc trao đổi mua bán giữa nước ta
và ASEAN chủ yếu là qua đường thông tin điện thoại, Internet. Thông qua khả năng
thu thập thông tin, cung cấp thông tin một cách chính xác, kịp thời, đầy đủ giúp
doanh nghiệp không bỏ sót các cơ hội kinh doanh hấp dẫn, giúp việc giao dịch đàm
phán diễn ra nhanh chóng thuận lợi với chi phí thấp. Việt Nam hiện nay có hệ thống
thông tin liên lạc khá phát triển, điều này tạo điều kiện rất lớn cho các doanh nghiệp
khi tham gia hoạt động xuất khẩu. Các nước Singapore, Thái Lan, Malaysia,
Philipines là những nước có hệ thống thông tin phát triển, điều đó tạo điều kiện
thuận lợi cho việc trao đổi thông tin giữa nước ta và các nước ASEAN. Bên cạnh đó
là hệ thống giao thông đường bộ, đường thủy, đường biển, đường không, nhà ga,
bến cảng, khu dự trữ được bố trí thuận lợi với máy móc hiện đại cũng tạo điều kiện
thuận lợi cho kinh doanh xuất khẩu.
2.1.3.3. Quan hệ kinh tế thương mại giữa nước ta và các nước ASEAN
Ngày nay, các xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa, hội nhập kinh tế ngày
càng phát triển, các nước trong khu vực đều có sự liên kết kinh tế, mở ra những cơ
hội kinhd oanh mới nhưng cũng làm gia tăng sự cạnh tranh mua bán giữa doanh
nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài.

Các quan hệ kinh tế thương mại ngày càng có tác động cực kì mạnh mẽ tới
hoạt động xuất khẩu của từng quốc gia nói chung và từng doanh nghiệp nói riêng.
Quan hệ kinh tế-thương mại giữa nước ta và các nước ASEAN có từ rất lâu. Và
hiện nay Việt Nam đã là thành viên của ASEAN vào 28/7/1995 và tham gia vòa khu
mậu dịch tự do AFTA năm 2003. Trong khuôn khổ khu vực mậu dịch tự do các
nước sẽ có đặc quyền buôn bán với nhau. Về lý thuyết, khi tham gia AFTA, các
thành viên có nhiều cơ hội xuất khẩu hàng sang các nước ASEAN khác nhờ hàng
rào bảo hộ của các nước đó được cắt giảm. Hiện nay, Việt Nam đã thực hiện
chương trình CEPT nghĩa là chúng ta hầu như hoàn tất việc cắt giảm thuế với mức
0-5% và dự kiến đến năm 2006 là hoàn thành.


16
Trong các năm qua trung bình các nước ASEAN tiêu thụ 23.7% giá trị hàng
xuất khẩu của Việt Nam. Singapore là nước nhập khẩu lớn nhất các hàng hóa xuất
khẩu của Việt Nam trong các nước ASEAN. Đứng sau Singapore trong ASEAN là
Thái Lan, Malaysia rồi Indonesia tiếp đó là Philipines, Lào. Nếu so sánh về giá trị
kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thì có thể khẳng định tầm quan trọng của các
nước ASEAN đối với quan hệ ngoại thương của Việt Nam.
2.1.3.4. Các yếu tố về dân số, văn hóa
Đây là yếu tố vô cùng phức tạp. Nó quyết định dung lượng của thị trường và
nhu cầu của thị trường. Khi nghiên cứu yếu tố dân số, văn hóa, xã hội các doanh
nghiệp cần nắm được quy mô, cơ cấu dân số, thị yếu tiêu dùng, thu nhập, phong tục
tập quan, tín ngưỡng của từng nước để từ đó đưa ra Marketing mix phù hợp.
2.1.3.5. Các yếu tố địa lý, sinh thái
Các yếu tốt địa lý, sinh thái phải được nghiên cứu, xem xét đẻ có quyết định
đúng đắn về cách thức, phương hướng, nội dung kinh doanh. Bởi vì, trong kinh
doanh xuất khẩu, chi phí vận tải chiểm tỷ trọng rất lớn trong hoạt động này. Trong
khu vực ASEAN việc đi lại, chuyên chở hàng hóa giữa các nước là rất thuận lợi,
vận chuyển hàng hóa trên nhiều phương thức: đường bộ, đường biển, đường sắt,

đường không, điều nay tạo điều kiện thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng hóa giữa các
nước ASEAN nhanh chóng, đúng thời gian quy định tạo được uy tín cho nhau.
Khí hậu thời tiết cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến xuất khẩu hàng hóa. Khi
hậu ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất, khả năng cung ứng, chi phí bảo quản, chế biến
hàng hóa ở nước xuất khẩu. Vì vậy, yêu cầu các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu
phải có kế hoạch thu mua, dự trữ, bảo quản, chế biến để bán hàng phù hợp với nhu
cầu thị trường.
2.2. Cơ hội và thách thức về xuất khẩu nông sản của Việt Nam sang các
nước ASEAN
- Cơ hội:
Việt Nam có điều kiện khí hậu thuận lợi cho phát triển các cây nông sản.
Đặc biệt là các vùng phía Nam có điều kiện khí hậu rất thuận lợi, nhiệt độ trung
bình vào khoảng 27.5 độ C thích hợp cho điều kiện sống của các cây như cà phê,
tiêu, điều, lạc,…


17
Người dân Việt Nam có truyền thống làm nong nghiệp, thông minh, sáng tạo,
nắm rõ đặc điểm của từng loại đất, từng loại cây trông, tạo ra được nhiều loại cây
trồng có năng suất cao, chất lượng tốt, chủng loại đa dạng phong phú thích hợp với
nhiều đối tượng khác nhau. Điều này tạo cho nông sản xuất khẩu của Việt Nam có
những ưu điểm hơn hẳn so với các nước khác.
Mặc dù nông sản Việt Nam có chất lượng tốt, chủng lại đa dạng, phong phú
nhưng giá bán nông sản của Việt Nam thường vẫn thấp hơn giá bán nông sản cùng
loại của các nước khác. Thêm vào đó, các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia xuất
khẩu luôn có tinh thần trách nhiệm cao, thực hiện đúng quy định về chất lượng,
chủng loại cũng như thời gian đã tạo ra được uy tín cho bạn hàng.
Việt Nam có vị trí địa lý thuận lợi, gần trung tâm trung chuyển hàng hóa, gần
hệ thống đường bộ và đường sắt cuyên Á và Việt Nam đã gia nhập và ASEAN,
tham gia vào chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) nên đã được

hưởng chế độ ưu đãi thuế quan khi hàng hóa của Việt Nam xuất khẩu sang thị
trường này. Đó là những lợi thế tạo cho hàng nông sản Việt Nam luôn giữ vững
được vị trí củ mình trong thị trường ASEAN.
Bên cạnh những thuận lợi thu được từ hoạt động thương mại trong nội bố
khối, khi gia nhập AFTA, Việt Nam sẽ có lợi thế hơn trong đàm phán thương mại
song phương và đa biên với các cường quốc kinh tế, cũng như các tổ chức thuwong
mại quốc tế lớn như Mỹ, Nhật, EU hay WTO...
Tuy có những trùng lặp giữa Việt Nam và các nước ASEAN, nhưng có nhiều
lĩnh vực mà Việt Nam có thể khai khác từ thị trường các nước ASEAN như Việt
Nam có thế mạnh trong xuất khẩu nông sản, hàng dệt và may mặc, và ta cũng có
nhu cầu nhập nhiều mặt hàng từ các nước ASEAN với giá thấp hơn từ các khu vực
khác trên thế giới.
Một mặt, doanh nghiệp được lợi do tăng được khả năng cạnh tranh so với các
nước ngoài ASEAN về giá cả, mặt khác người tiêu dungf được hưởng lợi do giá cả
rẻ hơn và chủng loại hàng hóa phong phú hơn.
Thu hút vốn đầu tư, tiếp thu công nghệ, tận dụng nhân công, sử dụng vốn và
kỹ thuật cao trong khu vực.


18
- Khó khăn:
Lợi ích trực tiếp của nhà nước là nguồn thu ngân sách về thuế xuất nhập
khẩu giảm.
Việc tham gia dẫn tới sự xóa bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan,
nghĩa là xóa bỏ sự bảo hộ của chính phủ đối với các doanh nghiệp, buộc các doanh
nghiệp phải tham gia thật sự vào cuộc chơi cạnh tranh khốc liệt trên thị trường khu
vực: cạnh tranh thúc đẩy sản xuất phát triển, nhưng đồng thời có thể làm điêu đứng
và phá sản hàng loạt các doanh nghiệp, thậm chí hàng loạt ngành. Dẫn tới việc thay
đổi cơ cấu kinh tế. Đây là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Tóm lại, gia nhập AFTA là bước tập duyệt đầu tiên cho nền kinh tế và các

doanh nghiệp Việt Nam để chuẩn bị cho siwj gia nhập thị trường thế giới rộng lớn
và đầy sự cạnh tranh hơn.


19
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU NÔNG SẢN CỦA
VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH THAM GIA CÁC HIỆP ĐỊNH
THƯƠNG MẠI TỰ DO
3.1. Giải pháp vĩ mô
3.1.1. Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch vùng sản xuất hàng
nông sản xuất khẩu
Trong bối cảnh tham gia các AFTA hiện nay, thì xuất khẩu hàng nông sản
của Việt Nam không thể cứ bám mãi các yếu tố lợi thế sẵn có trước đây là chi phí
thấp, giá nhân công rẽ, giá nông sản cạnh tranh, khối lượng nhiều…để tham gia vào
thị trường nông sản thế giới, mà cần phải xác định lại yếu tố cạnh tranh mới là chất
lượng sản phẩm, để từ đó nâng cao giá trị hàng nông sản trên một đơn vị sản phẩm.
Để đạt được mục đích trên, công việc đầu tiên và vô cùng quan trọng là công tác
quy hoạch phát triển vùng nông sản hàng hóa xuất khẩu và việc thực hiện nghiêm
các quy hoạch đó.Trong đó, Nhà nước cần phải rà soát, tiến hành điều tra tổng thể
trên cả nước các vùng hiện đang sản xuất loại nông sản gì? có phù hợp với điều
kiện đất đai, khí hậu, thổ nhưỡng tại vùng đó không? sản phẩm nông nghiệp đó có
giá trị kinh tế cao không? hay chỉ thực hiện việc các chính sách xã hội như giải
quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo?... từ đó có bản đồ quy hoạch hết sức chi tiết
đối với từng vùng phù hợp với loại cây gì? diện tích phát triển bao nhiêu?...
Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành trung ương và địa phương
trong việc xây dựng và triển khai thực hiện sản xuất hàng nông sản theo quy
hoạch. Nghiên cứu, ban hành các chính sách khuyến khích nông dân sản xuất
nông sản hàng hóa theo quy hoạch đã được phê duyệt và có chế tài đủ mạnh xử
phạt đối với các hộ nông dân vi phạm quy hoạch. Đây là công việc hết sức khó
khăn, đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố như: tuyên truyền vận động, chính sách

hỗ trợ của Nhà nước…Vì nếu thực hiện không nghiêm, người nông dân sẽ vì lợi
ích trước mắt do giá cả mặt hàng nông sản nào đấy đang ở mức cao sẽ sẵn sàng
chặt bỏ những cây đã trồng để đầu tư trồng loại cây khác hoặc sẽ phát triển một
cách tự phát. Như vậy, sẽ dẫn đến lãng phí tiền của, nguồn lực thiên nhiên và
phá vỡ các mục tiêu của quy hoạch.


20
Hiện nay hầu hết các quốc gia có nền nông nghiệp phát triển hiện nay đều có
quy hoạch rõ ràng về các vùng nguyên liệu, sản phẩm. Đây không chỉ là yếu tố
quan trọng tác động trực tiếp đến năng lực xuất khẩu mà còn là tiêu chí đánh giá
mức độ phát triển trong sản xuất nông nghiệp. Vì vậy, nhà nước cần đẩy mạnh thực
hiện biện pháp này trong thời gian tới để có thể cạnh tranh với các nước xuất khẩu
nông sản mạnh.
3.1.2. Nâng cao giá trị nông sản xuất khẩu thông qua tập trung đầu tư đổi
mới công nghệ, nâng cao chất lượng chế biến
Ta có thể khái quát hóa quá trình hoạt động như sau: hoạt động sản xuất, hoạt
động chế biến, bảo quản, và hoạt động dịch vụ; trong đó Việt Nam mới chỉ làm tốt
ở hoạt động sản xuất, còn lại các hoạt động chế biến, bảo quản và hoạt động dịch vụ
vẫn còn rất yếu, trong khi đó, với xu thế hiện nay các hoạt động sau mới đem lại giá
trị kinh tế lớn. Mặt khác, chất lượng hàng nông sản của chúng ta hiện nay vẫn bị
đánh giá là thấp so với các quốc gia khác trong khu vực ASEAN như Thái Lan,
Malaysia, … dẫn đến giá thấp và bị ép giá trên thị trường xuất khẩu. Trong khi sản
lượng gạo Thái Lan hàng năm chỉ tăng từ 1-2% thì giá trị kim ngạch vẫn tăng
trưởng trên 8% mỗi năm do giá cả có xu hướng tăng nhanh hơn sản lượng, còn Việt
Nam, sản lượng hàng năm tăng tới 3-4% nhưng kim ngạch vẫn kém hơn nước bạn.
Mặt khác, tăng trưởng sản lượng sẽ sớm đến ngưỡng khó có thể tăng tiếp thì tăng
giá trị mới là hướng đi đúng cho xuất khẩu nông sản. Do đó, việc đổi mới công
nghệ, nâng cao năng lực chế biến là một yêu cầu hết sức cần thiết hiện nay, nhất là
trong bối cảnh Việt Nam tham gia các Hiệp định Thương mại Tự do, tiếp cận nhiều

hơn với thị trường nông sản thế giới.
Yêu cầu của đổi mới công nghệ chế biến nông sản hiện nay là phải trang bị
lại và trang bị mới hệ thống dây chuyền đồng bộ, hiện đại để tạo ra những sản phẩm
đa dạng về chủng loại, mẫu mã, kiểu dáng, và giá thành thấp…, tạo ra sản phẩm đủ
sức cạnh tranh trên thị trường ngoài nước. Nhưng trong điều kiện khó khăn về vốn,
Nhà nước không nên đầu tư dàn trải cho toàn ngành, mà cần phải có sự lựa chọn các
mặt hàng và ngành hàng chủ lực để tập trung đầu tư chiều sâu, tạo ra các sản phẩm
mũi nhọn trong hoạt động chế biến xuất khẩu nông sản. Đó phải là những mặt hàng,


21
ngành hàng vừa có khả năng tăng trưởng nhanh trong một thời gian dài, vừa có kim
ngạch lớn, như gạo, cà phê, cao su, tiêu…
3.2. Giải pháp vi mô
3.2.1. Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến xuất khẩu
Các doanh nghiệp xuất khẩu với mục tiêu phát triển bền vững cần phải nỗ lực
đẩy mạnh xuất khẩu, khai thông thị trường trên cơ sở tận dụng cam kết ưu đãi của
AFTA. Các doanh nghiệp khi nắm rõ được các cam kết ưu đãi của các nước thành viên
cần tiến hành xúc tiến xuất khẩu phát triển thị trường.
Doanh nghiệp nên xây dựng chiến lược marketing và xúc tiến xuất khẩu hàng
hóa sang các nước thành viên AFTA như nâng cao năng lực tiếp thị, tích cực thực hiện
các hoạt động xúc tiến xuất khẩu sang thị trường này; chủ động tìm kiếm đối tác, chào
hàng thông qua việc tham gia các hội chợ, triển lãm được tổ chức tại Việt Nam hoặc tại
nước ngoài.
Hầu hết doanh nghiệp địa phương là doanh nghiệp xuất khẩu nhỏ nên bản
lĩnh thị trường còn nhiều hạn chế, kinh phí xúc tiến thương mại không đủ nên chủ
yếu dựa vào các chương trình xúc tiến thương mại quốc gia. Vì vậy, các doanh
nghiệp cần nắm bắt các hoạt động hỗ trợ xúc tiến thương mại quốc gia đặc biệt là
các hội chợ triển lãm và hội thảo chuyên đề được tổ chức cho doanh nghiệp.
Doanh nghiệp cần tăng cường nhận thức về tầm quan trọng của nhãn hiệu

thương mại và số lượng nhãn hiệu thương mại đối với sản phẩm xuất khẩu. Theo dự
đoán, trên 90% sản phẩm nông nghiệp của Việt Nam xuất khẩu ra thị trường nước
ngoài không có thương hiệu do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị trường xuất
khẩu, không nhận thức được tầm quan trọng của thương hiệu và không quen với thủ
tục và chi phí đăng ký thương hiệu, tên thương mại và nhãn hiệu thương mại. Do
vậy, các doanh nghiệp cần đầu tư hơn nữa về nhãn hiệu thương mại để có thể thuận
lợi hơn trong việc xúc tiến xuất khẩu.
3.2.2. Xây dựng liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp và hợp tác xã nông
nghiệp để có nguồn nông sản ổn định, lâu dài, có chất lượng, đạt các thông số kỹ
thuật quốc tế.
Các doanh nghiệp cần xây dựng, tạo lập vùng nguyên liệu sản xuất nông sản
bằng hình thức thông qua mối liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp với hợp tác xã


22
nông nghiệp. Thông qua hợp tác xã nông nghiệp, doanh nghiệp có thể thu mua nông
sản một cách ổn định, tránh được tình trạng tranh mua, tranh bán khi nông sản được
giá; và cũng thông qua hợp tác xã nông nghiệp các loại giống mới, tiến bộ khoa học
công nghệ mới cũng được chuyển giao đến người sản xuất một cách hiệu quả nhất.
Tuy nhiên, để thực hiện được việc này, cần có sự hỗ trợ chính sách từ phía
Nhà nước, trước nhất là: Cần sửa đổi chính sách nông nghiệp và Luật Hợp tác xã
cho phù hợp với yêu cầu hội nhập kinh tế thế giới, trong đó cần thể hiện rõ những
ưu điểm, quyền lợi của các xã viên khi tham gia hợp tác xã. Từ đó, nông dân có thể
tự nguyện hợp nhau thành những hợp tác xã đa năng, gắn với doanh nghiệp tiêu thụ
sản phẩm, những trang trại rộng lớn có thể sẵn sàng tham gia xuất khẩu.
3.2.3. Nâng cao tính cạnh tranh về giá và chất lượng cho sản phẩm
Muốn làm được điều này, các doanh nghiệp cần nỗ lực không ngừng trong
việc cải tiến công nghệ sản xuất, chế biến, đóng gói và bảo quản nông sản. Đặc biệt,
các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản Việt Nam cần quan tâm đến quy định về nông
sản nhập khẩu của các thị trường AFTA, để từ đó đảm bảo sản phẩm của mình đáp

ứng được các yêu cầu về chất lượng, vệ sinh an toàn thực phẩm. Từ đó, tránh tình
trạng các lô hàng xuất khẩu bị trả về như trong thời gian vừa qua, không chỉ gây tổn
thất nghiêm trọng cho doanh nghiệp mà còn làm mất uy tín của nông sản Việt Nam.
3.2.4. Xây dựng chữ tín và văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp
Trong kinh doanh, nhất là kinh doanh buôn bán với các đối tác nước ngoài
chữ tín rất quan trọng, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của doanh
nghiệp. Xây dựng chữ tín trong kinh doanh là cực kỳ quan trọng, các doanh nghiệp
không thể hô hào, quảng bá hình ảnh doanh nghiệp mình khắp nơi, trên các phương
tiện thông tin đại chúng theo kiểu nói suông được mà phải chứng minh cho đối tác
thấy rằng doanh nghiệp mình phải đáng được tin tưởng, trọng thị, là nơi mà các đối
tác có thể đặt niềm tin và làm ăn lâu dài. Chữ tín của doanh nghiệp không thể được
tạo ra trong một thời gian ngắn, mà phải có một quá trình và chiến lược rõ ràng, cụ
thể thông qua các hoạt động của doanh nghiệp như:
- Trong kinh doanh, buôn bán phải trung thực, rõ ràng không vì lợi ích trước
mắt mà làm tổn hại đến khách hàng;


23
- Chất lượng sản phẩm nông sản xuất khẩu phải bảo đảm với những gì đã thể
hiện trên bao bì, nhãn mác;
- Phải bảo đảm thực hiện đúng hợp đồng đã ký từ đầu vào thu mua của nông
dân đến đầu ra là các doanh nghiệp nhập khẩu, dù giá cả nông sản có thể giao động
gây bất lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu;
- Không được có thái độ xem nhẹ các thị trường nhỏ lẻ, các khách hàng tiềm
lực hạn chế, mà phải đối xử hết sức công bằng, phục vụ tận tình như các khách hàng
truyền thống, giàu tiềm năng... phải xem khách hàng thực sự là thượng đế.
Doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu hàng nông
sản nói riêng cần chú trọng giáo dục lề lối, tác phong văn hoá, lễ nghi cho cán bộ
trong giao tiếp, đàm phán. Thực hiện được nề nếp văn hoá kinh doanh chính là góp
phần nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và góp phần tích cực trong

việc tăng cường xuất khẩu nông sản phẩm hàng hoá sang các thị trường lớn AFTA.


×