Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Tiểu luận trình tự giao kết hợp đồng dân sự và một số vấn đề lí luận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.38 KB, 8 trang )

Trong cuộc sống hiện nay, việc trao đổi hàng hóa, tài sản giữa chủ thể này với chủ thể
khác là không thể thiếu. Vì vậy chế định về hợp đồng dân sự đã sớm ra đời nhằm tạo điều
kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hóa, tài sản giữa các chủ thể với nhau. Trong đó,
giao kết hợp đồng dân sự là một phần quan trọng, đó là việc các bên bày tỏ ý chí với nhau
theo những nguyên tắc và trình tự nhất định để qua đó xác lập với nhau các quyền và
nghĩa vụ dân sự. Vậy, trình tự giao kết hợp đồng dân sự được pháp luật quy định như thế
nào? Để trả lời cho câu hỏi này em đã chọn đề tài “ Trình tự giao kết hợp đồng dân sự và
một số vấn đề lí luận” để nghiên cứu làm bài tập của mình.
I. TRÌNH TỰ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN:
1. Khái niệm giao kết hợp đồng dân sự:
Giao kết hợp đồng dân sự là việc các bên có liên quan bày tỏ, thống nhất ý chí, nguyện
vọng của mình để qua đó xác lập các quyền và nghĩa vụ dân sự với nhau theo hình thức,
nội dung, nguyên tắc và trình tự nhất định được pháp luật thừa nhận.
2. Trình tự giao kết hợp đồng dân sự:
2.1. Đề nghị giao kết hợp đồng:
2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của đề nghị giao kết hợp đồng:
Đề nghị giao kết hợp đồng là bước đầu tiên cũng là bước quan trọng nhất trong quá trình
giao kết hợp đồng.
Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 quy định:
“ Đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng
buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể.”
Như vậy, thực chất đề nghị giao kết hợp đồng là việc một bên bày tỏ ý chí của mình cho
phía bên kia biết ý muốn tham gia giao kết hợp đồng với người đó.
Tuy nhiên, trên thực tế rất khó phân biệt giữa đề nghị giao kết hợp đồng với các hành vi
khác như: lời mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, báo giá, quảng cáo, giới thiệu hàng
hóa, dịch vụ,…Trong khi đó, đề nghị giao kết hợp đồng tạo ra hậu quả pháp lý quan trọng
đối với cả bên đề nghị và bên được đề nghị. Vì vậy một đề nghị giao kết hợp đồng cần
phải thỏa mãn các điều kiện cần và đủ sau đây:


Thứ nhất, phải thể hiện rõ ý định của bên đề nghị muốn ký kết hợp đồng với bên được


đề nghị và nội dung của hợp đồng tương lai phải được thể hiện cụ thể và rõ ràng, gần như
là các điều khoản trong hợp đồng đó.Ví dụ như quảng cáo hàng hóa hay catalog giới
thiệu sản phẩm thì chỉ được coi là lời mời chào giao kết hợp đồng hoặc lời mời bàn bạc
để thỏa thuận giao kết, vì chúng không chứa nội dung của một hợp đồng tương lai.
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện rõ sự ràng buộc của bên đề nghị với lời
đề nghị của mình trong trường hợp có sự trả lời chấp thuận. Có nghĩa là, đề nghị giao kết
hợp đồng phải chứa nội dung sao cho khi đọc lời đề nghị thì bên được đề nghị biết được
rằng, chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý với lời đề nghị thì hợp đồng sẽ được ký kết. Ngoài ra,
tính ràng buộc còn thể hiện ở chỗ: trong trường hợp nội dung lời đề nghị ghi rõ thời hạn
có giá trị của lời đề nghị và quy định rõ thời hạn trả lời thì trong thời hạn chờ bên được
đề nghị trả lời, nếu bên đề nghị giao kết hợp đồng với bên thứ ba thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên được đề nghị nếu có thiệt hại phát sinh ( Khoản 2 Điều 390 BLDS 2005).
Thứ ba, lời đề nghị giao kết hợp đồng phải gửi cho một hoặc một số người xác định. Có
nghĩa, đề nghị giao kết hợp đồng phải chỉ rõ người đề nghị muốn giao kết hợp đồng với
ai và xác định rõ ràng địa chỉ gửi đến là đâu. Ngoại lệ cũng có những lời đề nghị không
gửi cho ai cụ thể, gọi là đề nghị giao kết hợp đồng công cộng. Ví dụ: Trung mới mở một
cửa hàng bán hoa và thông báo công khai rằng, ai đến mua đầu tiên sẽ được giảm giá
70%. Hợp đồng sẽ được giao kết khi có một khách hàng bất kỳ trong số những người
không xác định đến mua hoa đầu tiên.
2.1.2. Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực:
Thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có hiệu lực là thời điểm phát sinh nghĩa vụ của bên
đề nghị với bên được đề nghị. Tức là thời điểm mà bên đề nghị bắt đầu bị ràng buộc về
mặt pháp lý bởi chính lời đề nghị của mình.
Theo Khoản 1 Điều 391 BLDS 2005 quy định thì thời điểm đề nghị giao kết hợp đồng có
hiệu lực được xác định như sau:
-

Do bên đề nghị ấn định: đối với trường hợp này thời điểm có hiệu lực hoàn toàn
phụ thuộc vào ý chí của bên đề nghị.



-

Trong trường hợp bên đề nghị không ấn định thì thời điểm đề nghị giao kết hợp
đồng có hiệu lực từ khi bên được đề nghị nhận được lời đề nghị. Vậy như thế nào
được coi là đã nhận được đề nghị giao kết hợp đồng?

Khoản 2 Điều 391 BLDS 2005 quy định các trường hợp được coi là đã nhận được đề
nghị giao kết hợp đồng:
a) Đề nghị được chuyển đến nơi cư trú, nếu bên được đề nghị là cá nhân; được

chuyển đến trụ sở, nếu bên được đề nghị là pháp nhân;
b) Đề nghị được đưa vào hệ thống thông tin chính thức của bên được đề nghị;
c) Khi bên được đề nghị biết được đề nghị giao kết hợp đồng thông qua các phương
thức khác.
2.1.3. Thay đổi, rút lại, hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng:
Việc người đề nghị xác định thời hạn hiệu lực của lời đề nghị thể hiện sự ràng buộc của
họ đối với lời đề nghị của mình. Thông qua đó thể hiện sự uy tín của mình và lấy được sự
tin cậy của bên đối tác. Như vậy, trong trường hợp lời đề nghị có ấn định thời hạn trả lời
thì người đề nghị không được rút lại hoặc thay đổi lời đề nghị trong thời hạn đó. Tuy
nhiên, để tạo sự linh động của pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các chủ thể tham
gia quan hệ hợp đồng pháp luật cũng có những điều khoản về thay đổi, rút lại đề nghị
giao kết hợp đồng.
Khoản 1 Điều 392 BLDS 2005 quy định bên đề nghị có thể thay đổi, rút lại lời đề nghị
giao kết hợp đồng trong các trường hợp sau:
-

Khi thông báo về việc thay đổi, rút lại đề nghị đến tay bên được đề nghị trước

-


hoặc cùng lúc với lời đề nghị giao kết hợp đồng.
Khi điều kiện về việc được thay đổi hoặc rút lại đề nghị giao kết hợp đồng được
bên đề nghị ghi rõ trong lời đề nghị phát sinh.

Bên đề nghị cũng có thể hủy bỏ đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, việc hủy bỏ đề
nghị không được áp dụng một cách tùy tiện. Điều 393 BLDS 2005 quy định khi lời đề
nghị đã có giá trị pháp lý thì bên đề nghị chỉ được quyền hủy bỏ đề nghị chỉ khi thỏa mãn
được hai điều kiện cần và đủ sau:
-

Điều kiện cần: trong lời đề nghị giao kết hợp đồng bên đề nghị phải ghi rõ trong
trường hợp, điều kiện nào thì có quyền hủy bỏ đề nghị.


-

Điều kiện đủ: bên đề nghị phải thông báo cho bên được đề nghị về việc hủy bỏ đề
nghị và thông báo này phải đến tay bên được đề nghị trước khi bên được đề nghị
trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.

2.1.4. Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng:
Chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng là dựa trên sự thể hiện ý chí của các bên tham gia
trong quá trình giao kết hợp đồng. Điều 394 BLDS 2005 quy định cụ thể các trường hợp
đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chấm dứt:
-

Bên được đề nghị trả lời về việc không chấp nhận đề nghị.
Hết thời hạn trả lời chấp nhận.
Khi bên đề nghị có thông báo về việc thay đổi, rút lại hoặc hủy bỏ đề nghị giao kết


-

hợp đồng và thông báo này đã có hiệu lực.
Theo thỏa thuận giữa các bên về việc chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng.

2.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
2.2.1. Khái niệm và đặc điểm chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Điều 396 BLDS 2005 quy định: “Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của
bên được đề nghị đối với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.”
Theo quy định này thì sự trả lời đề nghị được coi là sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng khi thỏa mãn hai điều kiện cần và đủ sau:
-

Điều kiện cần: trong câu trả lời đề nghị phải thể hiện ý chí của bên được đề nghị

-

đồng ý với toàn bộ điều kiện mà bên đề nghị nêu trong đề nghị giao kết hợp đồng.
Điều kiện đủ: bên đề nghị phải nhận được câu trả lời trong thời hạn hiệu lực của
đề nghị giao kết hợp đồng.

Trong thực tế, nhiều trường hợp bên được đề nghị trả lời chấp nhận tuy nhiên trong câu
trả lời có đề xuất sửa đổi, bổ sung đề nghị sao cho phù hợp với mong muốn, nguyện vọng
của họ. Tức có sự thay đổi, không phụ thuộc vào sự thay đổi này là đáng kể hay không
đáng kể, chỉ cần có sự thay đổi thì coi như bên được đề nghị không chấp thuận lời đề
nghị và đã đưa ra lời đề nghị mới (Điều 395 BLDS 2005).
Khoản 2 Điều 404 BLDS 2005 có quy định: “Hợp đồng dân sự cũng xem như được giao
kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận được đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im
lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng.”



Như vậy, nếu các bên có thỏa thuận trước hoặc bên đề nghị có ghi rõ trong lời đề nghị
giao kết hợp đồng thì im lặng cũng có thể được coi là hình thức chấp nhận đề nghị giao
kết hợp đồng.
2.2.2. Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng:
Thời hạn trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng là một khoảng thời gian hoặc một thời điểm
cụ thể mà trong khoảng thời gian hoặc tại thời điểm đó bên được đề nghị trả lời chấp
nhận giao kết hợp đồng.
Điều 397 BLDS 2005 quy định hai trường hợp:
Thứ nhất, khi bên đề nghị có ấn định thời hạn trả lời thì việc trả lời chấp nhận chỉ có
hiệu lực khi được thực hiện trong thời hạn đó; trường hợp bên đề nghị nhận được trả lời
khi đã hết thời hạn trả lời thì đây được coi là một đề nghị mới của bên chậm trả lời; nếu
thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng đến chậm vì lý do khách quan mà bên đề nghị
biết hoặc phải biết về lý do đó thì thông báo chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có hiệu
lực, trừ trường hợp bên đề nghị trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó của bên được
đề nghị.
Thứ hai, khi các bên trực tiếp giao tiếp với nhau, kể cả trong trường hợp qua điện thoại
hoặc qua các phương tiện khác thì bên được đề nghị phải trả lời ngay có chấp nhận hoặc
không chấp nhận , trừ trường hợp có thỏa thuận khác về thời hạn trả lời.
2.2.3. Rút lại thông báo chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Theo Điều 400 BLDS 2005, bên được đề nghị có thể rút lại thông báo chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng, nếu thông báo này đến trước hoặc cùng với thời điểm mà bên đề nghị
nhận được trả lời chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
2.2.4. Hậu quả pháp lý của việc chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng:
Người chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng có quyền rút lại thông báo chấp nhận trong
trường hợp người đề nghị chưa nhận được trả lời chấp nhận, nhưng một khi chấp nhận đề
nghị đã được người đề nghị tiếp nhận sẽ không được rút lại hay thay đổi theo ý chí đơn
phương của người chấp nhận đề nghị, trừ trường hợp chấp nhận đề nghị được gửi trễ hạn
và trở thành một đề nghị mới ( Khoản 1 Điều 397 BLDS 2005).



BLDS 2005 cũng quy định rõ hậu quả pháp lý của việc chấp nhận giao kết hợp đồng
trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự
(Điều 398) và trường hợp bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực
hành vi dân sự (Điều 399). Nếu sau khi đề nghị giao kết hợp đồng được chấp nhận hợp lệ
mà bên đề nghị hoặc bên được đề nghị chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự , thì việc đề
nghị và chấp nhận đề nghị vẫn có giá trị. Khi đó, việc giao kết, thực hiện hợp đồng được
đảm bảo thông qua vai trò của người thừa kế hoặc người đại diện.
II. MỘT SỐ HẠN CHẾ VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
TRÌNH TỰ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG DÂN SỰ:
Thứ nhất, về khái niệm đề nghị giao kết hợp đồng:
Khái niệm về đề nghị giao kết hợp đồng tại Khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 còn chung
chung, so với các văn bản pháp luật về hợp đồng trước đây, BLDS 2005 đã đề cập đến
các điều kiện của một đề nghị giao kết hợp đồng, giúp các chủ thể dễ dàng hơn khi xác
định một thông tin là đề nghị giao kết hợp đồng. Nhưng hiện nay, BLDS 2005 chưa quy
định một cách cụ thể, rõ ràng về các điều kiện để một thông tin được coi là đề nghị giao
kết hợp đồng. Vì vậy, rất khó để phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị giao
dịch. Chúng thường bị nhầm lẫn vì đều có sự ràng buộc của người đưa ra đề nghị với nội
dung đã đưa ra. Sự khác biệt cơ bản là hậu quả pháp lý của chúng. Việc bên được đề nghị
chấp nhận đề nghị giao dịch không dẫn đến sự ra đời của một hợp đồng mà chỉ dẫn đến
sự hình thành một đề nghị giao kết hợp đồng, trong khi đó chấp nhận đề nghị giao kết
hợp đồng dẫn đến sự hình thành một hợp đồng.
Pháp luật Việt Nam chưa có quy định về đề nghị giao dịch khiến cho thực tế có nhiều
trường hợp nhầm lẫn giữa đề nghị giao kết hợp đồng với đề nghị giao dịch. Ví dụ: các tờ
rơi, báo giá, thư mời thầu,…có được coi là đề nghị giao kết hợp đồng không?
Vì vậy, để tránh sự nhầm lẫn khi ký kết hợp đồng, BLDS 2005 cần quy định cụ thể, rõ
ràng hơn những dấu hiệu nhận diện đề nghị giao kết hợp đồng và phân biệt đề nghị giao
kết hợp đồng với đề nghị giao dịch.
Thứ hai, về thời hạn có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng:



Hiện nay, BLDS 2005 không quy định về thời hạn trả lời đối với trường hợp bên đề nghị
giao kết hợp đồng không xác định thời hạn trả lời. Do vậy, thời hạn trả lời chỉ kết thúc
nếu thông báo thay đổi, rút lại, hủy bỏ đề nghị có hiệu lực hoặc các bên có thỏa thuận.
Nếu 1 bên đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng nhưng không xác định thời hạn hiệu lực của
đề nghị, thì đề nghị này có hiệu lực trong bao lâu? Nếu sau một vài năm, bên được đề
nghị mới trả lời chấp nhận thì giá trị của lời chấp nhận đó như thế nào?
Do đó, BLDS 2005 cần quy định về thời hạn có hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng
trong trường hợp bên đề nghị không xác định thời hạn trả lời.
Thứ ba, bổ sung thêm một số trường hợp làm chấm dứt đề nghị giao kết hợp đồng
dân sự:
Điều 394 BLDS 2005 quy định về các trường hợp làm đề nghị giao kết hợp đồng chấm
dứt. Tuy nhiên, trên thực tế có nhiều trường hợp khác cũng làm chấm dứt đề nghị giao
kết hợp đồng như: Một trong hai bên (bên đề nghị và bên được đề nghị giao kết hợp
đồng) hoặc cả hai bên chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị phá sản trước khi bên
được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng; đối tượng của hợp đồng dân sựu dự
kiến không còn do nguyên nhân bất khả kháng ( như hợp đồng thuê nhà ở nhưng nhà bị
hư hại do bão, lũ lụt,…)
Thứ tư, về trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng hoặc bên được đề nghị chết
hoặc mất năng lực hành vi dân sự:
BLDS 2005 có quy định, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất
năng lực hành vi dân sự sau khi bên được đề nghị trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì
đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị tại Điều 398, hoặc bên được đề nghị giao kết hợp
đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng
thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị tại Điều 399. Như vậy, hợp
đồng được coi là đã hình thành và ràng buộc các bên mặc dù một trong hai bên chết hoặc
mất năng lực hành vi dân sự.
Quy định trên của pháp luật là không hợp lý trong trường hợp hợp đồng bắt buộc phải do
cá nhân thực hiện. Ví dụ: công ty X gửi đề nghị giao kết hợp đồng với ông A, theo đó ông

A sẽ thiết kế tòa nhà văn phòng cho công ty X. Ông A chết sau khi đã trả lời chấp nhận


giao kết hợp đồng. Trong trường hợp này hợp đồng vẫn được hình thành và ràng buộc
các bên nhưng thực tế, việc thực hiện hợp đồng là không thể nếu ông A không có người
thừa kế hoặc có nhưng người thừa kế không thể thiết kế. Bên cạnh đó, quy định này cũng
mâu thuẩn với Khoản 3 điều 424 BLDS 2005 chấm dứt hợp đồng dân sự trong trường
hợp cá nhân giao kết hợp đồng chết mà hợp đồng phải do chính cá nhân đó thực hiện.
Pháp luật nên có quy định hợp lý và thống nhất hơn về hậu quả pháp lý của việc chấp
nhận giao kết hợp đồng trong trường hợp một hoặc hai bên giao kết chết hoặc mất năng
lực hành vi dân sự.
III. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
- Nguyễn Thị Ngọc Linh, Phương hướng hoàn thiện pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam
hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 2 năm 2012.
- PGS.TS. Nguyễn Ngọc Điện – TS. Đoàn Thị Phương Diệp – ThS. Lê Nguyễn Gia
Thiện, Giáo trình Luật dân sự tập 2, NXB ĐHQG Tp.HCM.
- TS. Dương Anh Sơn, Các quy định của bộ luật dân sự 2005 về đề nghị giao kết hợp
đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng – nhìn từ góc độ luật học so sánh.



×