Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

đảng bộ tỉnh vĩnh phúc lãnh đạo thực hiện quy chế dân chủ cơ sở tu nam 1998 den nam 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (874.11 KB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------***--------

ĐINH NGỌC CHÍNH

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2007

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Hà Nội – 2012

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

--------***--------

ĐINH NGỌC CHÍNH

ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI BÌNH LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
TỪ NĂM 1998 ĐẾN NĂM 2007

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số



: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học : PGS.TS. Trần Kim Đỉnh

Hà Nội – 2012

2


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa …………………………………………………………………….
Lời cam đoan …………………………………………………………………….
Mục lục …………………………………………………………………………..
Danh mục các chữ viết tắt ……………………………………………………….
MỞ ĐẦU………………………………………………………………………. 1
Chƣơng 1: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ ở cơ
sở và quy chế dân chủ ở cơ sở……………………………………………… 11
1.1. Về dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ ở cơ sở………………………… 11
1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa………………………………………….........11
1.1.2. Dân chủ ở cơ sở………………………………………………..….. .......18
1.1.3. Quy chế dân chủ ở cơ sở……………………………………………… 19
1.2. Tình hình nông thôn tỉnh Thái Bình trước khi thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở…………………………………………………………………... 25
1.2.1. Khái quát đặc điểm tỉnh Thái Bình…………………………………….. 25
1.2.2. Thực trạng phát triển nông dân, nông nghiệp, nông thôn của tỉnh…….. 26
Chƣơng 2: Chủ trƣơng và quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ
sở của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2007……………... 35

2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Bình triển khai thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính
trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở……………………… 35
2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
từ năm 1998 đến năm 2007………………………………………………….. 40
2.2.1.Trong lĩnh vực chính trị………………………………………………… 40
2.2.2. Trong lĩnh vực kinh tế…………………………………………………. 58
2.2.3. Trong lĩnh vực văn hóa, xã hội………………………………………… 64
Chƣơng 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm………………………………. 71

3


3.1. Nhận xét chung…………………………………………………………... 71
3.1.1 Những thành công………………………………………………………. 71
3.1.2 Những tồn tại cần khắc phục…………………………………………… 75
3.2. Những kinh nghiệm …………………………………………………….. 77
Kết luận………………………………………………………………………. 81
TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………………….. 84

4


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

HĐND

Hội đồng nhân dân

UBND


Uỷ ban nhân dân

VAC

Vườn, ao, chuồng

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân chủ là một phạm trù lịch sử xuất hiện cách đây hàng ngàn năm.
Trong ngôn ngữ Hy Lạp cổ đã xuất hiện khái niệm: Democratia, là từ ghép của
Demos (nhân dân) và Cratos (quyền lực). Như vậy, dân chủ là quyền lực thuộc
về dân.
Cuộc đấu tranh của nhân dân lao động trải qua hàng ngàn năm nhằm
giành dân chủ, giành quyền lực, trước hết là quyền lực nhà nước. C.Mác, từ năm
1875, đã nói, dân chủ theo tiếng Đức là chính quyền của nhân dân. Về sau,
Lênin, trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, năm 1917, cho rằng: Dân chủ là
một hình thái của nhà nước, nghĩa là có nhà nước dân chủ, cũng có nhà nước
không dân chủ. Kế thừa những tư tưởng của nhân loại và của dân tộc, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quan niệm dân chủ là dân là chủ và dân làm chủ. Dân là chủ có
nghĩa là xác định vị thế của dân, dân làm chủ nghĩa là xác định quyền, nghĩa vụ
của dân. Người khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân…” [74, tr.698].
Dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân là bản chất của chế độ
xã hội chủ nghĩa, thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa vừa là mục tiêu vừa là
động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng, để phát triển xã hội. Nền dân

chủ mà chúng ta đang hướng tới là nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nền dân chủ
của đại đa số nhân dân lao động, trong đó con người được giải phóng khỏi áp
bức, bất công và được thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa - xã hội…được thể chế hóa bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm.
Nhằm cụ thể hóa những tư tưởng, quan điểm về phát huy quyền làm chủ
của nhân dân theo tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, ngày 18 - 2 1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ban hành Chỉ thị số 30/CT - TW về thực hiện
6


quy chế dân chủ ở cơ sở. Đây là một chủ trương đúng đắn hợp lòng dân, được
ban hành đúng lúc đã đáp ứng được sự mong đợi của nhân dân và sớm đi vào
cuộc sống. Chấp hành Chỉ thị của Bộ Chính trị, Chính phủ đã ban hành Nghị
định số 29/1998/NĐ - CP ngày 11 - 5 - 1998 về thực hiện quy chế dân chủ ở xã
(phường, thị trấn). Tiếp đến, ngày 28 - 3 - 2002, Ban bí thư Trung ương Đảng
(khóa IX) ban hành Chỉ thị số 10/CT - TW, về tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Ngày 7 - 7 - 2003, Chính phủ tiếp tục ra
Nghị định số 79/2003/NĐ - CP ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở xã (phường,
thị trấn) thay cho Nghị định số 29/1998/NĐ - CP trước đó. Đến năm 2007, Ủy
ban Thường vụ Quốc hội đã có Nghị quyết nâng Quy chế dân chủ ở cơ sở thành
Pháp lệnh dân chủ cơ sở, đáp ứng yêu cầu thực hiện dân chủ và phát huy quyền
làm chủ của nhân dân ở cơ sở, nhất là ở nông thôn làng xã. Đặc biệt, trong
Cương lĩnh của Đảng tại Đại hội XI (năm 2011), đã đưa nội dung dân chủ lên
trước nội dung công bằng, văn minh nhằm nhấn mạnh bản chất của xã hội xã hội
chủ nghĩa mà Việt Nam xây dựng là xã hội dân chủ, dân chủ thực sự chứ không
phải dân chủ hình thức. Khi xây dựng, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội,
trước hết phải quan tâm đến dân chủ, phát huy sức mạnh của nhân dân. Điều đó
cho thấy, Đảng đã xác định vấn đề dân chủ có một vị trí quan trọng đặc biệt
trong xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trước khi có Quy chế dân chủ ở cơ sở, tỉnh Thái Bình đã xảy ra nhiều
“điểm nóng”, hệ thống chính trị cơ sở nhiều nơi hầu như bị tê liệt, bị vô hiệu hóa

dẫn đến tình trạng mất ổn định. Qua “điểm nóng” ở tỉnh Thái Bình cho thấy,
việc để xảy ra mất ổn định ở nông thôn không phải chỉ có nguyên nhân kinh tế
mà còn do hiện tượng mất dân chủ kéo dài, làm người dân mất lòng tin, gây bất
bình trong nhân dân, dẫn đến khiếu kiện đông người kéo dài nhiều ngày, thậm
chí có những nơi đã xảy ra xô sát giữa người dân với cán bộ…
Quán triệt các văn bản của Bộ Chính trị và Chính phủ về thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Bình đã ban hành
nhiều Chỉ thị, hướng dẫn tổ chức triển khai thực hiện quy chế này trên địa bàn
7


toàn tỉnh. Thực hiện nội dung các văn bản trên, dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của
các cấp ủy đảng, chính quyền, mặt trận, các tổ chức đoàn thể và sự đồng tình
ủng hộ của nhân dân, trong khoảng 10 năm triển khai thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở, tỉnh Thái Bình đã thu được những kết quả tích cực. Quy chế dân chủ
từng bước đi vào cuộc sống góp phần ổn định trật tự an toàn xã hội, phát triển
kinh tế, văn hóa, xã hội... Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của tỉnh Thái Bình vẫn còn những thiếu sót, hạn
chế. Để Quy chế dân chủ ở cơ sở được thực hiện nghiêm túc, rộng khắp, trở
thành nề nếp, thường xuyên, lâu dài, hiệu quả, là động lực mạnh của sự nghiệp
đổi mới, góp phần tích cực vào xây dựng thành công mô hình nông thôn mới ở
Thái Bình, cần phải tăng cường hơn nữa sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng - nhất
là đảng bộ cơ sở - trong việc tổ chức triển khai thực hiện Quy chế dân chủ. Xuất
phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng về sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng bộ cơ
sở, tác giả chọn vấn đề “Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện quy chế
dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007” làm đề tài Luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Vấn đề dân chủ là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa xã hội trên
thế giới. Ở Việt Nam, mặc dù quy chế dân chủ ở cơ sở mới được ban hành thực

hiện từ năm 1998, nhưng đến nay đã có nhiều công trình nghiên cứu khoa học
và bài viết đề cập đến vấn đề này. Dựa trên cách tiếp cận có thể chia ra thành hai
nhóm nhỏ như sau:
- Nhóm thứ nhất, tiếp cận theo hướng đi từ góc độ nghiên cứu về vị trí,
vai trò và tầm quan trọng của dân chủ và dân chủ ở cơ sở để tìm hiểu thực tiễn
việc thực hiện vấn đề này ở cơ sở, tiêu biểu là các bài viết:
+ Dân chủ và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở do TS. Lương Gia Ban
(Chủ biên), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003.
+ Quy chế thực hiện dân chủ ở cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
của PGS.TS. Dương Xuân Ngọc, nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
8


+ Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay, một số
vấn đề lý luận và thực tiễn của Nguyễn Cúc (Chủ biên), nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002…
- Nhóm thứ hai, tiếp cận theo hướng đi từ tìm hiểu thực tiễn việc thực hiện
vấn đề dân chủ ở cơ sở để khẳng định tính cần thiết phải cụ thể hóa về mặt chế
tài pháp lý của Nhà nước nhằm bảo đảm cho việc thực hiện dân chủ ở cơ sở có
tính khả thi, với các bài viết:
+ Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của Đỗ Quang Tuấn
(Chủ biên), nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
+ Phát huy dân chủ ở xã, phường do PGS.TS. Vũ Văn Hiển (Chủ biên).
+ Sự lãnh đạo của Đảng bộ xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
cơ sở - Thực trạng và giải pháp do Đinh Văn Tư - Phó Trưởng ban Dân vận
Trung ương làm chủ nhiệm, năm 2001…
Những công trình nghiên cứu trên đã đề cập đến vấn đề xây dựng và thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, góp phần bổ sung lý luận về vấn đề dân chủ ở cơ
sở, làm cho Quy chế dân chủ ở cơ sở ngày càng hoàn thiện và áp dụng có hiệu
quả trong đời sống, nhằm xây dựng một nền dân chủ thực sự của dân, do dân, vì

dân. Những công trình nghiên cứu kể trên cũng đã góp phần làm rõ nội dung,
bản chất, tính chất và cơ chế thực hiện dân chủ. Đặc biệt, đề tài khoa học về “Sự
lãnh đạo của Đảng bộ xã đối với việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở - Thực
trạng và giải pháp” của Đinh Văn Tư - Phó Trưởng ban Dân vận Trung ương
làm chủ nhiệm, đã đi sâu vào tìm hiểu bản chất của nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa; vị trí, vai trò của vấn đề dân chủ trong công cuộc xây dựng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam. Tác phẩm cũng đã nêu những vấn đề lý luận chung về thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở và thực trạng của việc thực hiện Quy chế dân chủ
ở nông thôn nước ta. Tuy nhiên, tác phẩm chưa đi sâu vào từng lĩnh vực cụ thể ở
địa phương từ khi Quy chế dân chủ ở cơ sở được ban hành thực hiện như thế
nào? Từ thực tiễn thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của địa phương đã mang

9


lại những kinh nghiệm gì để thực hiện tốt vấn đề dân chủ ở cơ sở trong tiến trình
sau đó?...
Vấn đề dân chủ có nội dung rộng lớn và phong phú, mỗi môn khoa học
tiếp cận ở những góc độ khác nhau. Từ góc độ khoa học Lịch sử Đảng, đề tài
này vừa đề cập về mặt lý luận của vấn đề dân chủ ở cơ sở, vừa đi sâu vào tìm
hiểu quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở (chủ yếu ở đơn vị xã, phường, thị trấn) từ khi Trung ương ban hành và triển
khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007, cùng với
những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn đó. Những công trình nghiên cứu ở trên là
cơ sở để tôi kế thừa và phát triển luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích
Làm rõ sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong việc lãnh đạo thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007, trên cơ sở đó rút ra
một số kinh nghiệm thực tiễn.

3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích một số vấn đề lý luận về dân chủ, dân chủ xã hội chủ nghĩa và
dân chủ ở cơ sở để làm rõ sự cần thiết phải thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
trong giai đoạn hiện nay.
- Phân tích quá trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở từ năm 1998 đến năm 2007.
- Đánh giá những kết quả bước đầu (thành công và hạn chế) trong quá
trình Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ
năm 1998 đến năm 2007.
- Một số kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn triển khai thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở của tỉnh Thái Bình.
4. Đối tƣợng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
4.1. Đối tượng

10


- Những chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thái Bình trong
việc triển khai thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở (chủ yếu ở đơn vị hành chính
cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã)).
- Kết quả thực hiện (bao gồm những thành công và hạn chế).
4.2. Phạm vi - giới hạn nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu việc Đảng bộ tỉnh Thái Bình vận dụng
những quan điểm của Đảng về dân chủ ở cơ sở trên địa bàn tỉnh (đơn vị hành
chính cấp xã) trong các lĩnh vực nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Tác giả lấy thời gian từ năm 1998 đến năm 2007 vì: năm 1998, Ban Chấp
hành Đảng bộ tỉnh Thái Bình ra Nghị quyết số 06-NQ/TU về những chủ trương,
giải pháp ổn định tình hình trong tỉnh nhằm thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ
sở; năm 2007, là mốc thời gian 10 năm tỉnh Thái Bình triển khai các giải pháp
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đồng thời năm 2007, là năm Uỷ ban Thường

vụ Quốc hội khóa XI ban hành Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH về thực hiện
dân chủ ở xã, phường, thị trấn thay cho Nghị định số 29/1998/NĐ-CP về thực
hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn của Chính phủ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ; các văn kiện, các chủ trương, chính
sách của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo việc thực thi Quy chế dân chủ ở cơ sở.
Bên cạnh đó, tác giả có kế thừa, chọn lọc những kết quả nghiên cứu của một số
nhà khoa học đã được công bố về vấn đề dân chủ ở cơ sở.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Tác giả sử dụng tổng hợp những nguyên tắc phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, trong đó chú trọng sử
dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgic, phân tích và tổng hợp kết hợp
với phương pháp so sánh và điều tra xã hội học để nghiên cứu và trình bày kết
quả nghiên cứu.
11


6. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
- Góp phần làm rõ Đảng bộ tỉnh Thái Bình lãnh đạo thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở.
- Bước đầu rút ra một số kinh nghiệm thực tiễn từ thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở của tỉnh Thái Bình.
- Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể cung cấp thêm những cơ sở
khoa học nhằm góp phần thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và danh mục
chữ viết tắt, luận văn được kết cấu thành 3 chương, 7 tiết:
- Chương 1: Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ ở cơ sở
và Quy chế dân chủ ở cơ sở.

- Chương 2: Chủ trương và quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở
của Đảng bộ tỉnh Thái Bình từ năm 1998 đến năm 2007.
- Chương 3: Một số nhận xét và kinh nghiệm.

12


Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ VÀ QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ.
1.1. Về dân chủ xã hội chủ nghĩa và dân chủ ở cơ sở.
1.1.1. Dân chủ xã hội chủ nghĩa
Dân chủ là một phạm trù lịch sử xuất hiện sớm trong xã hội loài người.
Ngay từ thời cổ đại, thuật ngữ dân chủ (demo cratic) trong ngôn ngữ của người
Hy Lạp, là một từ ghép bao gồm hai từ Demos (nhân dân) và Cratos (quyền lực).
Như vậy, có thể hiểu ngắn gọn dân chủ là chính quyền của nhân dân. Dân chủ
gắn bó chặt chẽ với quyền sống của con người, là nhu cầu thiết yếu của từng cá
nhân cũng như của mỗi cộng đồng người trong xã hội. Dân chủ gắn liền với tiến
bộ xã hội và sự phát triển của lịch sử loài người qua các thời đại và chế độ xã
hội khác nhau. Dân chủ là một trong những hình thái tổ chức chính trị nhà nước
của xã hội thể hiện nguyên tắc thiểu số phục tùng đa số, thừa nhận quyền tự do
bình đẳng của công dân, thừa nhận nhân dân nắm mọi quyền lực. Như vậy, dân
chủ được hiểu theo hai nghĩa: nghĩa hẹp, chỉ bản chất của dân chủ, dân chủ là
quyền lực thuộc về dân; theo nghĩa rộng, dân chủ là chế độ chính trị, chế độ nhà
nước. Cùng với sự phát triển của xã hội, dân chủ trở thành những giá trị văn hóa,
thành những nguyên tắc hoạt động, nguyên tắc tập trung dân chủ.
Với tư cách là quyền lực, dân chủ là sản phẩm của lịch sử. Qúa trình hình
thành và phát triển dân chủ luôn gắn liền với cuộc đấu tranh của nhân dân lao
động nhằm hướng tới một xã hội công bằng, bình đẳng giữa người với người.
Trong xã hội nguyên thủy, các cá nhân có quyền như nhau, quan hệ thân ái, bình

đẳng, tự do. Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm cho xã hội cộng sản
nguyên thủy tan rã. Chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất dẫn tới nhà
nước ra đời để bảo vệ quyền lợi cho một số ít người trong xã hội. Sự phân hóa
giàu nghèo và tình trạng bất công, bất bình đẳng xuất hiện. Cuộc đấu tranh để
khắc phục tình trạng đó nhằm xác lập một xã hội dân chủ bắt đầu diễn ra. Vấn
đề dân chủ ra đời từ đó.
13


Dân chủ được xác định là giá trị của xã hội, dân chủ thuộc về thành quả
mà loài người sáng tạo ra và giành được qua các cuộc đấu tranh để cải biến tự
nhiên và xã hội. Dân chủ là kết quả của một quá trình lịch sử mà con người đạt
được thông qua lao động, đấu tranh và sáng tạo để biểu hiện vai trò, sức mạnh
của mình, khẳng định vị thế của mình trong đời sống xã hội. Đó cũng là thước
đo để đánh giá tiến bộ xã hội. Dân chủ gắn với tự do, bình đẳng và công bằng
trong các mối quan hệ xã hội, giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với cộng đồng,
giữa các dân tộc. Sự phát triển của dân chủ mang tính xã hội gắn liền với quá
trình nâng cao dân sinh, dân trí, dân luật, bảo đảm cho con người tiến dần tới tự
do.
Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam “Dân chủ là hình thức tổ chức thiết
chế chính trị của xã hội dựa trên việc thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của
quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận
dụng vào tổ chức và hoạt động của những tổ chức và thiết chế chính trị nhất
định” [98, tr.653].
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng dân chủ là một phạm trù lịch sử có quá
trình hình thành và phát triển lâu dài. Với nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, nhân
dân thực sự được giải phóng, thực sự làm chủ xã hội. Chỉ có trong chế độ dân
chủ vô sản, quyền làm chủ của nhân dân mới được phát huy mạnh mẽ. Lênin
khẳng định: “Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, nhiều mặt của chế độ dân chủ
nguyên thủy tất nhiên sẽ sống lại, vì lần đầu tiên trong lịch sử những xã hội văn

minh, quần chúng nhân dân vươn lên tham gia một cách độc lập không những
vào việc bầu cử và tuyển cử, mà cả vào việc quản lý hàng ngày nữa” [67,
tr.143]. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: Bản chất chính trị của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa là sự lãnh đạo chính trị của giai cấp công nhân thông qua đảng của nó
đối với toàn xã hội, nhưng không phải chỉ để thực hiện quyền lực và lợi ích
riêng cho giai cấp công nhân, mà chủ yếu là để thực hiện quyền lực và lợi ích
cho toàn thể nhân dân, trong đó có giai cấp công nhân.

14


Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chế độ dân chủ vô sản hay
dân chủ xã hội chủ nghĩa so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào cũng dân chủ
gấp triệu lần, nhà nước xã hội chủ nghĩa so với bất cứ nước cộng hòa dân chủ tư
sản nhất cũng dân chủ hơn gấp triệu lần vì dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên
những cơ sở kinh tế, chính trị, xã hội vững chắc.
Thứ nhất, về kinh tế, dân chủ xã hội chủ nghĩa dựa trên chế độ công hữu
về tư liệu sản xuất.
Thứ hai, trong chủ nghĩa xã hội mọi người đều được tham gia vào các
công việc của nhà nước.
Thứ ba, lãnh đạo nhà nước và xã hội là đảng cộng sản - đội tiên phong của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Đây là nhân tố có ý nghĩa quyết định
đối với thắng lợi của cuộc đấu tranh cho dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, đối tượng cần phải chuyên chính của dân chủ xã hội chủ nghĩa là
thiểu số các lực lượng thù địch chống lại lợi ích của nhân dân lao động và cả dân
tộc. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ trong khi chú trọng thực hành và phát huy dân
chủ của nhân dân cần kiên quyết đấu tranh chống mọi âm mưu, hành động đi
ngược giá trị dân chủ chân chính. Theo các nhà kinh điển, dân chủ xã hội chủ
nghĩa không loại trừ đấu tranh giai cấp, chuyên chính nhất thiết có nghĩa là thủ
tiêu dân chủ đối với giai cấp bị chuyên chính. Lênin khẳng định: “Dưới chế độ

xã hội chủ nghĩa nhiều mặt của chế độ dân chủ nguyên thủy tất nhiên sống lại vì
lần đầu tiên trong lịch sử xã hội văn minh quần chúng nhân dân vươn lên tham
gia một cách độc lập không những vào việc bầu cử mà cả việc quản lý hàng
ngày nữa. Dưới chế độ xã hội chủ nghĩa, mọi người sẽ lần lượt quản lý và sẽ
mau quen với tình hình là không cần ai quản lý cả” [64, tr.143].
Những quan điểm trên đây của chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ được
chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng kế thừa vận dụng và phát triển sáng tạo phù
hợp với điều kiện ở Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Ngay từ năm 1927, trong tác
15


phẩm “Đường Cách mệnh” Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - đã chỉ rõ: Chúng
ta đã hy sinh làm cách mệnh thì làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách mệnh rồi
thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một bọn ít người, thì
mới khỏi hy sinh nhiều lần, thì dân chúng mới được hạnh phúc. Năm 1930,
trong “Chánh cương vắn tắt” của Đảng trình bày tại Hội nghị thành lập Đảng,
Hồ Chí Minh đã đề ra chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa
cách mạng để đi tới xã hội cộng sản, trong đó dân chúng được tự do tổ chức;
Nam nữ bình quyền…Đã cho thấy, ngay từ đầu trong việc hoạch định đường lối
cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã xác định xây dựng một xã hội do nhân
dân làm chủ.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa ra đời. Tiêu chí đầu tiên để phân biệt nhà nước Việt Nam được thành
lập từ Cách mạng Tháng Tám với nhà nước thuộc địa nửa phong kiến trước đó
là dân chủ. Điều I trong Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa, do Hồ Chí Minh là Trưởng ban soạn thảo và được Quốc hội khóa I kỳ họp
thứ nhất thông qua ngày 09-11-1946 viết: Nước Việt Nam là một nước dân chủ
cộng hòa. Toàn bộ lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946 gồm 235 từ, trong đó

cụm từ dân chủ được nói tới 4 lần: Cuộc Cách mạng Tháng Tám đã lập nên nền
dân chủ cộng hòa. Nhiệm vụ của dân tộc ta trong giai đoạn hiện nay là kiến thiết
quốc gia trên nền tảng dân chủ. Một trong những nguyên tắc để xây dựng hiến
pháp là bảo đảm các quyền tự do dân chủ, dưới một chính thể dân chủ rộng rãi.
Hồ Chí Minh luôn luôn khẳng định: Nhà nước của ta là Nhà nước của dân, do
dân, vì dân, mọi quyền bính thuộc về nhân dân, do nhân dân nắm giữ. Đây là
nhà nước kiểu mới, do khác về bản chất với nhà nước phong kiến, tư sản nên
việc tổ chức, nắm giữ và sử dụng quyền lực là thuộc về đại đa số nhân dân và do
đại đa số nhân quyết định. Bộ máy nhà nước từ Quốc hội đến Chính phủ do
nhân dân bầu ra, được nhân dân ủy thác, thay mặt nhân dân để quản lý và điều
hành đất nước theo ý chí và lợi ích của đại đa số nhân dân. Điều đó cho thấy,
ngay từ bước đầu thành lập nước, Hồ Chí Minh đã đặc biệt coi trọng tính dân
16


chủ của nhà nước kiểu mới. Từ đó trở đi, Hồ Chí Minh nhiều lần khẳng định chế
độ ta là chế độ dân chủ, nước ta là một nước dân chủ. Hồ Chí Minh cho rằng:
Nước ta là nước dân chủ, nghĩa là nước nhà do nhân dân làm chủ; Chế độ ta là
chế độ dân chủ - tức là nhân dân làm chủ; Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao
nhất là dân, vì dân là chủ. Với Hồ Chí Minh, trong một nhà nước dân chủ, một
chế độ dân chủ, người dân được đặt ở vị trí cao nhất, dân là chủ, dân làm chủ,
nhiệm vụ của chính quyền nhà nước dân chủ là phục vụ nhân dân, việc gì có lợi
cho dân dù nhỏ cũng phải ra sức làm, việc gì có hại cho dân dù nhỏ cũng phải ra
sức tránh. Người chỉ rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ
toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh vác việc
chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền
thống trị của Pháp, Nhật.
Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm.
Việc gì có hại đến dân, ta phải hết sức tránh.
Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta, kính ta” [73, tr.5657].

Người căn dặn: “Phải làm cho dân mến, khi sắp tới dân mong, khi đi dân
tiếc, chớ vác mặt làm quan cách mạng cho dân ghét, dân khinh, dân không ủng
hộ” [73, tr.101].
Dân là gốc của nước. Hồ Chí Minh luôn tâm niệm: Phải làm cho dân có
ăn, phải làm cho dân có mặc, phải làm cho dân có chỗ ở, phải làm cho dân được
học hành. Trong một số trường hợp Hồ Chí Minh chỉ rõ, dân là chủ thì chính
phủ là công bộc, là đầy tớ của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, từ Chủ tịch nước
đến công chức bình thường đều phải làm công bộc, làm đầy tớ cho nhân dân chứ
không phải làm quan cách mạng để đè đầu cưỡi cổ nhân dân. Hồ Chí Minh nhấn
mạnh: “Dân là chủ thì chính phủ là đầy tớ…Nếu chính phủ làm hại dân thì dân
có quyền đuổi chính phủ đi” [70, tr.270]. Hồ Chí Minh nói tiếp, khi dân dùng
đầy tớ làm việc cho mình thì dân phải giúp đỡ chính phủ. Nếu chính phủ sai thì
dân phải phê bình, phê bình không có nghĩa là chửi bới vì nấu cơm cũng phải
17


mất 15 phút mới chín, huống chi là sửa chữa cả một nước đã 80 năm nô lệ,
người tốt có, người xấu có, một đám ruộng có lúa, lại có cỏ, muốn nhổ cỏ thì
cũng vài ba giờ mới xong. Hồ Chí Minh nhận thức được rằng, trong một nhà
nước dân chủ, mọi quyền hành lực lượng đều ở nơi dân, nhưng dân phải sử dụng
quyền lực đó một cách đúng đắn với tinh thần trách nhiệm và ý thức công dân
cao nhất.
Hồ Chí Minh cho rằng dân chủ vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự
phát triển xã hội. Với Hồ Chí Minh, dân chủ là một thiết chế chính trị, là sản
phẩm của tiến bộ xã hội, trong đó dân chủ xã hội chủ nghĩa là bước phát triển
mới về chất. Suốt đời mình, Hồ Chí Minh phấn đấu cho một nước Việt Nam hòa
bình, độc lập, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh. Mục tiêu này được Người khái
quát lần cuối cùng trong Di chúc: “Điều mong muốn cuối cùng của tôi là: Toàn
Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình,
thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”.

Hồ Chí Minh chỉ rõ, dân chủ không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực
của sự phát triển. Thực hiện dân chủ sẽ phát huy mọi tiềm năng của nhân dân
phục vụ sự nghiệp cách mạng. Theo Hồ Chí Minh, dân chủ, sáng kiến, hăng hái
ba điều đó rất quan hệ với nhau. Giữa việc thực hành dân chủ, sự tham gia của
quần chúng và thành công của cách mạng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Việc thực hành dân chủ rộng rãi sẽ thu hút đông đảo quần chúng tham gia và
quần chúng tham gia càng đông thì thành công càng đầy đủ. Quán triệt quan
điểm mácxít về vai trò động lực của dân chủ, từ thực tế xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc ở Việt Nam, Hồ Chí Minh rút ra kết luận mang tính khái quát: “Thực hành
dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn” [72, tr.249].
Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, trong tư duy lý luận và chỉ đạo
hoạt động thực tiễn của Hồ Chí Minh, việc thực hành và phát huy dân chủ không
thể tách rời chấp hành nghiêm chỉnh kỷ cương luật pháp, quyền công dân không
tách rời nghĩa vụ công dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nhà nước bảo đảm quyền tự
do, dân chủ cho công dân, nhưng nghiêm cấm lợi dụng các quyền tự do, dân chủ
18


để xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, trong
chế độ dân chủ nhân dân, lợi ích của Nhà nước, của tập thể cùng lợi ích của cá
nhân căn bản là nhất trí. Vì vậy, trong khi được hưởng những quyền lợi do Nhà
nước và tập thể mang lại cho mình thì mọi người công dân phải tự giác làm tròn
nghĩa vụ đối với nhà nước, đối với tập thể. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân dân
có quyền làm chủ nhưng phải có nghĩa vụ của người làm chủ, việc nước là việc
chung… Bất kỳ già trẻ, gái trai, giàu nghèo…đều phải gánh vác một phần. Như
vậy, theo quan niệm của Người, dân chủ là sự thống nhất biện chứng giữa quyền
lợi và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm.
Tiếp thu những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về dân chủ xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm đến việc
đảm bảo và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Đảng và Nhà nước

luôn khẳng định: dân chủ là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của cách mạng nước ta. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, Đảng ta ngay từ
ngày thành lập dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã xác định mục
tiêu cao cả và duy nhất của mình là đấu tranh vì hạnh phúc của nhân dân. Đảng
không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao
động và của dân tộc. Đảng là người lãnh đạo, người đầy tớ thực sự trung thành
của nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng đều chỉ nhằm
phục vụ đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Các cơ quan Nhà nước dưới
sự lãnh đạo của Đảng cũng chỉ có một mục tiêu duy nhất là phục vụ nhân dân.
Lịch sử dân tộc ta trên 80 năm qua do Đảng lãnh đạo, những mục tiêu do Đảng
và Nhà nước đề ra không ngừng được thực hiện đã trở thành ngọn cờ tập hợp và
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân, trở thành động lực to lớn cho cuộc đấu
tranh của toàn dân giành và giữ nền độc lập tự do, thống nhất Tổ quốc và xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Để có được những thành tựu to lớn đó, Đảng đã không ngừng thực hiện
dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ II của Đảng (1951) đã xác định: “Chính quyền Nhà nước dân chủ nhân dân
19


Việt Nam phải là chính quyền nhà nước tiêu biểu cho lợi ích của tất cả các giai
cấp, các tầng lớp nhân dân yêu nước và dân chủ…” [50, tr.17-18]. Điều 4 Hiến
pháp 1959 khẳng định: Tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình thông qua
Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm
trước nhân dân… Tiếp đó, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của
Đảng (1976) đã xác định: “Điều kiện quyết định trước tiên là thiết lập và không
ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy
quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động” [33, tr.49]. “Quyền làm chủ tập
thể của nhân dân bằng nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng phải được xác định

bằng Hiến pháp và pháp luật. Sức mạnh và nội dung cơ bản của pháp chế xã hội
chủ nghĩa chính là quyền làm chủ tập thể của nhân dân. Cần tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa làm cho mọi hoạt động của các cơ quan Nhà nước đi vào
khuôn phép và quy chế nghiêm chỉnh, thật sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể và
bảo đảm quyền lợi cho công dân” [33, tr.146-147].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng (1982) khẳng định lại
những chủ trương về phát huy quyền làm chủ tập thể của Đại hội IV và nhấn
mạnh: Trong công tác vận động quần chúng của Đảng phải tôn trọng và phát
huy hơn nữa quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động bằng chủ trương thực
hiện khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” được ghi trong chỉ thị
53 CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa V) ngày 28/11/1984. Chỉ thị
nêu rõ “phải thực sự tôn trọng quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động,
thực hiện tốt khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trong sản
xuất, phân phối cũng như trong tất cả các công tác quan hệ trực tiếp đến quần
chúng”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng mở đầu công cuộc đổi
mới đất nước với tinh thần, thái độ nghiêm túc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật” [34, tr.12] đã chỉ rõ: Đối với những chủ trương có
quan hệ trực tiếp tới đời sống nhân dân trên phạm vi cả nước cũng như ở các địa
20


phương và đơn vị cơ sở, cấp ủy đảng hoặc cơ quan chính quyền phải trưng cầu ý
kiến nhân dân trước khi quyết định. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, đó
là nền nếp hàng ngày của xã hội mới, thực hiện chế độ nhân dân lao động tự
quản lý nhà nước của mình [34, tr.112].
Đại hội VI đã rút ra 4 bài học, trong đó bài học đầu tiên là: trong toàn bộ
hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt quan điểm “Lấy dân làm gốc”, “Xây
dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”. Báo cáo chính trị tại
Đại hội còn phân tích thêm: “Bài học lớn rút ra từ những năm qua là trong điều

kiện đảng cầm quyền, phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và
nhân dân; tiến hành thường xuyên cuộc đấu tranh ngăn ngừa và khắc phục chủ
nghĩa quan liêu. Mỗi đảng viên cộng sản phải thật sự vừa là người lãnh đạo, vừa
là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân. Mọi chủ trương, chính sách của
Đảng phải xuất phát từ lợi, nguyện vọng và khả năng của nhân dân lao động,
phải khơi dậy được sự đồng tình, hưởng ứng của quần chúng” [34, tr.29]. Đại
hội VII của Đảng (1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định: “Nhà nước có liên hệ thường xuyên và
chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám
sát của nhân dân. Có cơ chế và biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ
quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ
của công dân” [36, tr.309-310]. Tiếp đó, trong Nghị quyết của Hội nghị Trung
ương tám (khóa VII) tháng 1 năm 1995 nhấn mạnh: Hoàn thiện những quy định
về bầu cử, ứng cử, hiệp thương giới thiệu người ứng cử. Tăng thêm đại biểu là
người ngoài đảng vào các cơ quan dân cử; Bảo đảm quyền của nhân dân giám
sát hoạt động của Nhà nước; Cải tiến chế độ tiếp xúc, báo cáo của đại biểu Quốc
hội và Hội đồng nhân dân với cử tri; Phát huy vai trò nhân dân tham gia quản lý
nhà nước, vừa nâng cao chế độ dân chủ đại diện vừa mở rộng và phát huy chế
độ dân chủ trực tiếp, nhất là ở cơ sở...Nghị quyết Hội nghị Trương ương tám
(khóa VII) là bước đột phá trong việc đổi mới hệ thống chính trị mà trọng tâm,
trụ cột là nhà nước. Nhiệm vụ trọng tâm cải cách một bước nền hành chính nhà
21


nước, chính là đáp ứng yêu cầu bức xúc của nhân dân trong các giao dịch dân
sự, phát triển kinh tế, tổ chức đời sống - xã hội trong công cuộc đổi mới.
Văn kiện Đại hội VIII của Đảng (1996) xác định: “Xây dựng Nhà nước xã
hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân,

giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích
của Tổ quốc và nhân dân” [37, tr.19]. Như vậy, đến Đại hội Đảng lần thứ VIII,
cụm từ Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”được chính thức đưa vào văn kiện
Đại hội. Đại hội VIII tiếp tục xác định “xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa
là một nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta. Phải có cơ chế
và cách làm cụ thể để thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra” đối với các chủ trương, chính sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực
hiện tốt cơ chế làm chủ của nhân dân: làm chủ thông qua đại diện, làm chủ trực
tiếp cùng các hình thức tự quản tại cơ sở” [37, tr.44].
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã thông
qua Nghị quyết về “Phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết
đề ra nhiệm vụ đầu tiên là: “Mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền
làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước”. Với tinh thần:
“Nâng cao chất lượng chế độ dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế từng bước
thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực, đúng hướng và có hiệu
quả”.
Như vậy, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương để bảo đảm quyền
làm chủ của nhân dân trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều 11, Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) khẳng định “Công dân
thực hiện quyền làm chủ của mình ở cơ sở bằng cách tham gia công việc của
Nhà nước và xã hội, có trách nhiệm bảo vệ của công, bảo vệ quyền và lợi ích

22


hợp pháp của công dân, giữ gìn an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội, tổ
chức đời sống công cộng”.
1.1.2. Dân chủ ở cơ sở
Trong việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, dân chủ ở cơ sở có ý

nghĩa đặc biệt quan trọng. Thực hành dân chủ đòi hỏi công tác tổ chức thực tiễn
hết sức rộng lớn bắt đầu từ cơ sở, nơi trực tiếp giải quyết các nhu cầu, lợi ích của
nhân dân. Đây là nơi biểu hiện dân chủ hết sức rõ ràng. Lênin khẳng định: “Hãy
học tập việc thực hiện các chế độ dân chủ trong thực tiễn từ cơ sở. Hãy phát
động quần chúng để mọi người đều thực sự tham gia trực tiếp vào quản lý.
Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố và ra sắc lệnh về dân chủ là
đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân chủ cho những người
đại diện nhân dân trong những cơ quan đại diện là đủ. Cần xây dựng ngay chế
độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở, dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự
tham gia thực sự của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước. Dân chủ cho
quần chúng nhân dân thực hành dân chủ rộng rãi chính là sức mạnh của cuộc
cách mạng xã hội chủ nghĩa” [65, tr. 249].
Cơ sở là nơi hàng ngày diễn ra mọi hoạt động đời sống của nhân dân, là
nơi trực tiếp giải quyết các nhu cầu và lợi ích của nhân dân lao động. Cơ sở là
nền tảng của xã hội, là địa bàn mà mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước được đưa vào cuộc sống của nhân dân, được tổ
chức thực hiện một cách trực tiếp. Cơ sở cũng là nơi thẩm định, đánh giá tính
chuẩn xác, hiệu lực, hiệu quả của những chủ trương, đường lối, chính sách pháp
luật. Cơ sở là nơi trực tiếp giải quyết mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân,
là nơi mọi quyền lực của nhân dân dễ bị xâm phạm, nơi mà nhân dân đang có
nhiều đòi hỏi về dân chủ, cũng là nơi có điều kiện thực hiện quyền dân chủ một
cách trực tiếp rộng rãi nhất.
Ở nước ta hiện nay, cơ sở được xác định ở các loại hình: loại hình địa bàn
hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Dưới đó là thôn, làng, ấp, tổ dân phố,
trong đó chủ yếu là thôn, làng, xã vì: nông thôn, làng, xã Việt Nam là nơi sinh
23


sống của giai cấp nông - lực lượng xã hội đông đảo nhất trong cơ cấu dân cư xã hội ở nước ta; loại hình cơ quan gồm: các cơ quan nghiên cứu tham mưu, các
đơn vị hành chính sự nghiệp; loại hình doanh nghiệp gồm những đơn vị sản xuất

kinh doanh của các thành phần kinh tế.
Thực hiện dân chủ ở cơ sở là thực hiện những nội dung về dân chủ một
cách trực tiếp và rộng rãi đối với từng người dân, nhằm phát huy cao độ quyền
làm chủ của nhân dân lao động trong phát triển sản xuất, tổ chức đời sống, quản
lý xã hội, giữ gìn an ninh trật tự cộng đồng. Cơ sở là nơi diễn ra các trạng thái
dân chủ về chính trị, tư tưởng, kinh tế, tổ chức, văn hóa xã hội…một cách trực
tiếp, sinh động và rất nhạy cảm đối với con người.
Dân chủ ở cơ sở được thực hiện thông qua các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở cơ sở và trình độ nhận thức đúng đắn với khả năng tổ chức thực hiện
của mỗi người. Dân chủ ở cơ sở được thực hiện dưới hai hình thức: dân chủ trực
tiếp và dân chủ đại diện. Dân chủ trực tiếp là mọi người dân đều được tham gia
vào các hoạt động chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, các công việc của đất nước,
tất cả công dân được tham gia một cách bình đẳng không phân biệt giới tính, địa
vị xã hội, tôn giáo… và được tham gia trực tiếp vào các quyết định liên quan
đến chính trị, kinh tế, xã hội, đời sống dân sinh, được tham gia đóng góp ý kiến
hay biểu quyết theo đa số. Dân chủ trực tiếp còn được thể hiện qua việc bầu cử
những người đại diện cho mình như bầu hội đồng nhân dân các cấp, Quốc hội.
Dân chủ đại diện là hình thức nhân dân thể hiện quyền làm chủ của mình tham
gia quản lý nhà nước và xã hội thông qua hoạt động của những người đại diện,
cơ quan đại diện của chính quyền, hội đồng nhân dân, Quốc hội, Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Hai hình thức dân chủ trực tiếp và dân
chủ đại diện kết hợp, bổ sung lẫn nhau nhằm thực hiện quyền làm chủ của nhân
dân.
Dân chủ ở cơ sở là nói tới sự làm chủ của nhân dân ở thôn, làng, xã,
phường trong việc ban hành và thực hiện các quyết định quan trọng về chính trị,
kinh tế, xã hội trước hết trong phạm vi thôn, xã. Đối với cấp chính quyền cơ sở,
24


việc thực hiện dân chủ ở cơ sở có nghĩa là cán bộ ở đây phải nhận thức và hành

động như những công bộc của dân, lắng nghe tôn trọng ý kiến của dân, tạo điều
kiện để tâm tư, tiếng nói của người dân được thể hiện trong những quyết định
của chính quyền.
Dân chủ ở cơ sở là quá trình hiện thực hóa cơ chế hoạt động của hệ thống
tổ chức quyền lực ở cơ sở cho nhân dân được bảo đảm một cách trực tiếp và
rộng rãi nhất những quyền được biết, được bàn, được làm, được kiểm tra ở
chính nơi mà người dân đang sinh sống hàng ngày. Thực hiện tốt dân chủ ở cơ
sở sẽ phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của người dân, động viên sức mạnh
vật chất và tinh thần to lớn của nhân dân vào phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện
dân sinh, nâng cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường khối đoàn kết toàn dân
góp phần xây dựng các tổ chức đảng, chính quyền và đoàn thể ở cơ sở trong
sạch, vững mạnh, ngăn chặn và khắc phục tình trạng quan liêu, tham nhũng của
một số cán bộ, đảng viên và các tệ nạn xã hội, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Phát huy dân chủ và thực hiện dân chủ ở cơ sở không chỉ góp phần củng
cố, kiện toàn tổ chức đảng, chính quyền, các đoàn thể nhân dân ở cơ sở, không
chỉ là giải pháp để hạn chế sự tha hóa quyền lực, chống lại nạn quan liêu, tham
nhũng trong bộ máy chính quyền nhà nước, củng cố niềm tin của nhân dân vào
Đảng, vào Nhà nước mà còn khơi dậy và phát huy cao độ sức mạnh tiềm tàng
của quần chúng nhân dân vào xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
1.1.3. Quy chế dân chủ ở cơ sở
a. Bối cảnh ra đời
Một trong những thành quả vĩ đại của cách mạng nước ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng là lập nên Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á.
Ngay từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
trịnh trọng tuyên bố: “Nước Việt Nam là nước dân chủ. Nhà nước Việt Nam là
nhà nước do nhân dân lao động làm chủ”. Trong suốt chặng đường dài của cuộc
25



×