Tải bản đầy đủ (.pdf) (119 trang)

đảng bộ tỉnh cao bằng lãnh đạo công tác xóa đói giảm nghèo tu nam 2001 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.45 MB, 119 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

HOÀNG THỊ NGỌC HÀ

ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số

: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Đỗ Ngọc Ninh

HÀ NỘI - 2012

1


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chƣơng 1: ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 .................. 10
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng và
công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh trƣớc năm 2001 ........................ 10
1.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng
................................................................................................................. 10

1.1.2. Công tác xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng trước năm


2001......................................................................................................... 16
1.2. Chủ trƣơng của Đảng về xóa đói giảm nghèo từ năm 2001 đến năm
2005 ............................................................................................................. 21
1.3. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng về xóa đói,
giảm nghèo từ 2001 đến 2005 ................................................................... 25
1.3.1. Chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh về xóa đói, giảm
nghèo ...................................................................................................... 25
1.3.2. Sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh về thực hiện xóa đói, giảm nghèo30
1.3.3. Kết quả lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh từ năm
2001 đến năm 2005 ................................................................................ 49
Chƣơng 2: ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC
XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010 ................... 53
2.1. Chủ trƣơng của Đảng về xóa đói, giảm nghèo từ năm 2006 đến
năm 2010 .................................................................................................... 53

2


2.2. Chủ trƣơng, sự chỉ đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ
tỉnh Cao Bằng ............................................................................................ 57
2.2.1. Chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh về xóa đói, giảm nghèo 57
2.2.2. Sự chỉ đạo của Tỉnh ủy thực hiện xóa đói, giảm nghèo ............ 59
2.3. Kết quả và hạn chế ............................................................................. 85
2.3.1. Kết quả .......................................................................................... 85
2.3.2. Hạn chế ......................................................................................... 87
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ........................... 92
3.1. Một số nhận xét .................................................................................. 92
3.2. Một số kinh nghiệm............................................................................ 98
KẾT LUẬN .................................................................................................. 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109

PHỤ LỤC ..................................................................................................... 115

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới đang đứng trước thời khắc trọng đại của lịch sử là đang tiến
vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI với một nền văn minh rực rỡ nhưng
cũng xuất hiện không ít những vấn đề gay gắt, mang tính toàn cầu. Một trong
những vấn đề đó là đói nghèo. Nó tồn tại như một thách thức lớn đối với sự
phát triển bền vững của các chế độ xã hội, của mỗi quốc gia, dân tộc. Cuộc
chiến chống đói, nghèo luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu của các nước
trên thế giới, đặc biệt là trong giai đoạn hiện nay, khi toàn cầu hóa, quốc tế
hóa nền kinh tế đang là xu hướng chủ đạo, chi phối sự phát triển của mỗi quốc
gia, dân tộc. Một số quốc gia, tổ chức quốc tế đã tổ chức các diễn đàn quốc tế
và các hoạt động chống đói, nghèo. Coi đó là một trong những mục tiêu quan
trọng hàng đầu trong chương trình hoạt động của mình.
Ở nước ta, công tác xóa đói, giảm nghèo được xác định là một trong
những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và Nhà nước, đã và đang trở thành một
nội dung quan trọng của chương trình công tác của các cấp ủy đảng, chính
quyền, đoàn thể. Công tác này được bắt đầu từ khi xuất hiện xu hướng phân
hóa giàu, nghèo trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Trong
quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống của
nhân dân nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng và được thế giới
biết đến. Đó là nhờ từ rất sớm (từ năm 1991), vấn đề xóa đói, giảm nghèo đã
được đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu và triển khai thành phong trào
xóa đói giảm nghèo sâu rộng trong cả nước. Theo tổng kết của Chương trình
Phát triển Liên hợp quốc (UNDP), trong điều kiện kinh tế, xã hội của mình so
với những nước có cùng mức GDP, Việt Nam đã sử dụng những nguồn lực có


4


được một cách hiệu quả vào việc nâng cao mức sống người dân, trình độ dân
trí, tuổi thọ, bình đẳng giới…Điều này nói lên những nỗ lực của Đảng và Nhà
nước ta trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo. Báo cáo Chính trị Đại
hội X của Đảng đã chỉ rõ: “công tác xóa đói, giảm nghèo được đẩy mạnh
bằng nhiều hình thức…đến cuối năm 2005, tỷ lệ hộ nghèo (theo tiêu chuẩn
Việt Nam cho giai đoạn 2001 - 2005) còn 7% (năm 2001 là 17,5%, kế hoạch
là 10%)[27, tr.157]. Đến cuối năm 2010, tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ
22% năm 2005 (theo chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006 - 2010) xuống
còn 9,45%). Có được những thành công này là nhờ sự nỗ lực của toàn dân
trong đó phải kể tới nhân tố quan trọng hàng đầu là chủ trương, đường lối
đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam với chiến lược phát triển kinh tế gắn
với tiến bộ và công bằng xã hội; đó là sự giúp đỡ của cộng đồng quốc tế và sự
nỗ lực của các tỉnh thành trong cả nước.
Cao Bằng là một tỉnh miền núi phía Bắc còn gặp nhiều khó khăn, có tới
95% đồng bào là dân tộc thiểu số và hơn 70% số xã nằm trong diện đặc biệt
khó khăn, trình độ dân trí thấp và chưa đồng đều giữa các dân tộc, nền kinh tế
chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Là một trong những tỉnh có tỷ lệ hộ đói, nghèo
cao (gần 47,82%, trong đó vùng đặc biệt khó khăn còn tới trên 70%, có xã
trên 90%, ở các vùng dân tộc thiểu số còn trên 80% đói nghèo, năm 2006),
đời sống của người dân còn nhiều khó khăn, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng
đặc biệt khó khăn, cơ sở hạ tầng kỹ thuật còn thấp kém. GDP bình quân đầu
người chỉ đạt 602 USD/người/năm (vào năm 2010). Cao Bằng hiện vẫn đang
là một trong những tỉnh có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất cả nước.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo,
ngay từ những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX, Đảng bộ tỉnh Cao Bằng đã
lãnh đạo công tác xóa đói giảm nghèo nhằm nâng cao đời sống vật chất và

tinh thần cho nhân dân. Từ đó đến nay, dưới sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng
bộ tỉnh, sự nỗ lực phấn đấu của các ngành, các cấp và toàn thể nhân dân, Cao

5


Bằng đã đạt được những thành tựu lớn trong công tác xóa đói giảm nghèo: tỷ
lệ hộ nghèo năm 2006 là 47,82% đã giảm xuống còn 23% vào năm 2010. Tuy
nhiên, công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh vẫn còn gặp nhiều khó khăn cả
về khách quan và chủ quan, những nguồn lực sẵn có chưa phát huy hết hiệu
quả nên thành tựu đạt được còn khá khiêm tốn so với khả năng hiện có của
tỉnh. Để lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo trong những năm tới đạt kết quả cao
hơn, vấn đề quan trọng hàng đầu cần thực hiện tốt là tổng kết thực tiễn, rút ra
những bài học kinh nghiệm để công tác xóa đói giảm nghèo của tỉnh đạt kết
quả cao hơn. Nhằm góp phần đáp ứng đòi hỏi cấp bách đó, tôi chọn và thực
hiện đề tài luận văn thạc sỹ: “Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lãnh đạo công tác xóa
đói, giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2010”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Đói, nghèo và xóa đói, giảm nghèo là vấn đề lớn, bức thiết ở nước ta
hiện nay, đã và đang thu hút các cơ quan, các nhà khoa học nghiên cứu tìm
giải pháp. Kết quả nghiên cứu của các công trình, các nhà khoa học đã được
đăng tải trong các sách, tạp chí và trong các luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ
và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Sau đây là các công trình khoa
học liên quan trực tiếp đến đề tài:
- “Xóa đói giảm nghèo” của Bộ Lao động – Thương binh xã hội (1993).
- “Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay” của
Nguyễn Thị Hằng (NXB chính trị quốc gia Hà Nội - 1997)

- “Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xoá đói giảm nghèo
ở Viêt Nam” chủ biên GS. PTS Vũ Thị Ngọc Phùng (NXB chính trị quốc gia

Hà nội - 1999);
- “Đói nghèo ở Việt Nam” chủ biên: Chu Tiến Quang (NXB Nông
nghiệp Hà nội - 2001);
- “Một số chính sách quốc gia về việc làm và xoá đói giảm nghèo” của
Lê Quyết (NXB lao động, Hà nội - 2002);

6


- “Đánh giá chương trình Mục tiêu quốc gia về xoá đói giảm nghèo và
chương trình 135” của Bộ LĐ- TB & XH và UNDP - 2004.
- “Tăng trưởng, đói nghèo và bất bình đẳng ở Việt Nam” (Tạp chí Lao
động và Xã hội, 2004, số 240 – 241 – 242).
- “Cuộc chiến chống đói nghèo ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp”
(Tạp chí Lao động và Xã hội, 2005, số 272).
- “Đói nghèo và tách biệt xã hội ở Việt Nam hiện nay” (Tạp chí Kinh tế
và Dự báo, 2006, số 3).
- “Giải pháp tài chính cho chống đói nghèo một cách bền vững” (Tạp
chí Kinh tế và Dự báo, 2006, số 1).
- “Tác động của chính sách xóa đói, giảm nghèo đối với sự phân hóa xã
hội ở nước ta” của Trần Văn Phong (Tạp chí Lý luận chính trị, 2006, số 4).
- “Đảng bộ tỉnh Kon tum lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn
hiện nay”, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng
Cộng sản Việt Nam của Lê Như Nhất, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh (2007).
- “Hoàn thiện các chính sách xóa đói, giảm nghèo chủ yếu của Việt
Nam đến năm 2015” (Luận án Tiến sĩ Kinh tế - Nguyễn Thị Hoa, 2009).
- “Các huyện ủy ở tỉnh Hà Giang lãnh đạo công tác xóa đói, giảm
nghèo trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sỹ khoa học chính trị, chuyên
ngành Xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam của Trịnh sơn, Học viện Chính trị

- Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh (2010)…
Nhìn chung từ cách tiếp cận và nghiên cứu của các chuyên ngành khác
nhau các công trình trên đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn
của vấn đề đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay. Kết quả nghiên cứu của các công trình đó có giá trị tham khảo
tốt để thực hiện đề tài luận văn. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa
học nào nghiên cứu một cách toàn diện dưới góc độ của khoa học chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam về sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Cao

7


Bằng đối với công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh từ năm 2001 đến
năm 2010 (từ Đại hội Đảng tỉnh lần thứ XV đến kết thúc nhiệm kỳ Đại hội
Đảng tỉnh lần thứ XVI).
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Cao Bằng quán triệt chủ
trương, đường lối và chính sách của Đảng và Nhà nước ta vào việc lãnh đạo
công tác xóa đói giảm nghèo ở Tỉnh từ năm 2001 đến năm 2010, qua đó rút ra
những kinh nghiệm để vận dụng vào giai đoạn cách mạng tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Luận văn trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo thực hiện
xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng từ năm 2001 đến năm 2010.
- Rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm từ công tác lãnh đạo
xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng trên địa bàn tỉnh.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lãnh
đạo công tác xóa đói giảm nghèo trên địa bàn tỉnh từ năm 2001 đến năm 2010.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận văn nghiên cứu sự lãnh đạo công tác xóa đói,
giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng trên địa bàn của tỉnh.
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2001 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước ta về
xóa đói, giảm nghèo.
5.2. Nguồn tài liệu

8


Để thực hiện luận văn này tác giả đã sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu là
các tác phẩm kinh điển, Hồ Chí Minh toàn tập, các Văn kiện, Nghị quyết
Đảng Cộng sản Vịêt Nam liên quan đến đói nghèo và thực hiện xóa đói, giảm
nghèo. Các văn kiện, Nghị quyết, Báo cáo của Đảng bộ Cao Bằng trong thời
kỳ 2001 - 2010. Các Báo cáo tổng kết Chương trình xóa đói, giảm nghèo qua
các năm của các Ban, ngành và Sở Lao động Thương binh - xã hội tỉnh Cao
Bằng và một số bài viết về Cao Bằng. Đây là nguồn tư liệu cơ bản để thực
hiện đề tài và được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau nhưng chủ yếu là tại
Trung tâm Lưu trữ của Tỉnh ủy Cao Bằng, Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng,
Sở Lao động Thương binh - xã hội tỉnh Cao Bằng, Thư viện tỉnh Cao Bằng...
5.3. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu nhưng pháp chủ yếu
là phương pháp lịch sử, phương pháp logic và sự kết hợp hai phương pháp đó.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như phân tích, tổng
hợp, so sánh, thống kê, điều tra, khảo sát thực tiễn.
6. Dự kiến đóng góp của luận văn

- Góp phần làm sáng tỏ những thành công, hạn chế và những bài học
kinh nghiệm trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh
Cao Bằng những năm 2001 – 2010.
- Kết quả nghiên cứu của Luận văn có thể là nguồn tư liệu tham khảo
để công tác xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ tỉnh đạt kết quả lớn hơn trong
những năm tới.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương, 8 tiết.
CHƢƠNG 1. ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÓA
ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
CHƢƠNG 2. ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÓA
ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2010

9


CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM

Chƣơng 1
ĐẢNG BỘ TỈNH CAO BẰNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÓA ĐÓI,
GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng
và công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh trƣớc năm 2001

1.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội tỉnh Cao Bằng
*Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý, Cao Bằng là tỉnh miền núi, vùng cao biên giới, phía
Đông Bắc của tổ quốc. Nằm ở tọa độ địa lý 22o22’ - 23o07’ vĩ Bắc, 105o40’ 106o40’ kinh Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Tây - Trung
Quốc, có đường biên giới dài 311 km2. Phía Tây giáp tỉnh Tuyên Quang và

Hà Giang, phía Nam giáp tỉnh Bắc Kạn và phía Đông giáp tỉnh Lạng Sơn.
Tỉnh Cao Bằng có 12 huyện, 01 thị xã với 189 xã, phường, thị trấn. Diện tích
tự nhiên là 6.690,72km2 chiếm 2,12% diện tích tự nhiên của cả nước. Có 3
cửa khẩu (Tà Lùng, Hùng Quốc, Sóc Hà) là lợi thế quan trọng tạo cho Cao
Bằng điều kiện thuận lợi giao lưu kinh tế với nước ngoài, nhất là với Trung
Quốc. Cao Bằng là tỉnh nằm sâu trong nội địa, xa các trung tâm kinh tế lớn
của vùng Đông Bắc và cả nước (Thị xã Cao Bằng cách thủ đô Hà Nội 286 km
theo Quốc lộ 3), giao lưu chỉ có duy nhất theo đường bộ. Do hạn chế về điều
kiện giao thông nên việc giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh, các vùng trong
cả nước còn nhiều khó khăn.
Về địa hình, địa hình tỉnh Cao Bằng chia cắt mạnh và phức tạp hình
thành 4 tiểu vùng kinh tế sinh thái:

10


Tiểu vùng đá vôi ở phía Bắc và Đông Bắc chiếm 32% diện tích tự nhiên
của tỉnh, phần lớn nằm dọc biên giới Việt - Trung thuộc các huyện Bảo lâm,
Bảo Lạc, Thông Nông, Hà Quảng, Trà Lĩnh, Trùng Khánh, Hạ Lang, Quảng
Uyên, Phục Hòa, Thạch An. Đặc trưng chủ yếu là xen kẽ giữa các dãy núi đá
vôi là những thung lũng hẹp, thiếu nước về mùa khô, độ cao trung bình 700 1000m. Tiềm năng thế mạnh của tiểu vùng này là: ngô, đỗ tương, dược liệu,
khoáng sản.
Tiểu vùng núi đất ở phía Tây và Tây Nam chiếm 18% diện tích tự nhiên
của cả tỉnh thuộc các huyện Bảo Lạc và Nguyên Bình. Đặc trưng chủ yếu là
địa hình chia cắt mạnh, dốc lớn, độ cao trung bình 700 - 1100m. Tiềm năng
thế mạnh của tiểu vùng này là: lâm nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, khoáng sản.
Tiểu vùng núi đất thuộc thượng nguồn sông Hiến chiếm 38% diện tích
tự nhiên của tỉnh. Đặc trưng chủ yếu là thoải dần xuống bồn địa Cao Bằng,
địa hình vẫn còn chia cắt mạnh, độ dốc vẫn còn lớn, xen kẽ giữa các dãy núi
cao là những thung lũng hẹp, độ cao trung bình 200 - 600m. Tiềm năng thế

mạnh của tiểu vùng này là: chăn nuôi và lâm nghiệp.
Tiểu vùng bồn địa thị xã Cao Bằng và huyện Hòa An dọc sông Bằng
chiếm 12% diện tích tự nhiên của tỉnh. Đây là vùng trồng lúa nước lớn nhất
của tỉnh. Tiềm năng thế mạnh của tiểu vùng này là: lúa, thuốc lá, thủy sản.
Về khí hậu, Cao Bằng có khí hậu mang tính chất đặc thù của dạng khí
hậu lục địa miền núi cao (khí hậu Châu Á nhiệt đới) thể hiện 4 mùa trong năm
nhưng rõ rệt nhất là mùa hè và mùa đông, biên độ nhiệt thay đổi lớn, lượng
mưa ít và phân bố không đều. Mưa, bão tập trung từ tháng 5 đến tháng 8 với
lượng mưa trung bình hàng năm 1.500mm. Vùng mưa nhiều gồm các huyện
Nguyên Bình, bắc Hà Quảng, Thông Nông, Trà Lĩnh, Quảng Hòa, Hạ Lang là
1.500 - 1.900mm; vùng mưa trung bình: Hòa An, nam Hà Quảng, Trùng
Khánh là 1.300 - 1.500mm. Các hiện tượng gió lốc, gió bấc, tuyết rơi, sương

11


muối, mưa đá xảy ra thường xuyên. Nhiệt độ trung bình hàng năm cao nhất
350oC, thấp nhất 0oC. Hàng năm có 3 tháng mùa hè (từ tháng 6 đến tháng 8)
nhiệt độ trung bình là 30 - 34oC; tháng nóng nhất là tháng 7; mùa đông, nhiệt
độ trung bình là 5 - 6oC, tháng lạnh nhất là tháng 1. Tần suất sương muối
thường xảy ra vào tháng 1 và tháng 2. Với đặc điểm khí hậu đặc thù, đã tạo
cho Cao Bằng những lợi thế để hình thành các vùng sản xuất cây con phong
phú đa dạng, trong đó có những cây đặc sản như dẻ hạt, hồng không hạt, đậu
tương có hàm lượng đạm cao, thuốc lá, chè đắng…mà nhiều nơi khác không
có điều kiện phát triển
Về nguồn lao động: theo tổng điều tra dân số 1/4/1999, dân số Cao
Bằng có 490.335 người, trong đó có 421.999 người sống ở nông thôn, chiếm
86,06% tổng dân số; gồm có các dân tộc chủ yếu sau: dân tộc Tày 208.822
người, chiếm 42,58%; dân tộc Nùng 161.134 người, chiếm 32,86%; dân tộc
Dao 47.218 người, chiếm 9,63%; dân tộc Mông 41.437 người, chiếm 8,45;

dân tộc Kinh 22.956 người, chiếm 4,68%. Ngoài ra là các dân tộc: Sán Chỉ,
Lô Lô, Hoa, Mường, Thái, người nước ngoài và một số ít dân tộc khác. Dân
số từ 13 tuổi có 335.746 người, chiếm 68,47%, trong đó có trình độ chuyên
môn kỹ thuật là 36.670 người chiếm 10,92%. Trong số này số người có trình
độ Cao Đẳng và Đại học là 7.306 người, chiếm 2,76%. Lao động nông - lâm nghiệp chiếm 79%. Như vậy, lực lượng lao động đã qua đào tạo mới chỉ
chiếm khoảng 15,1% tổng số lao động, thấp hơn nhiều so với trung bình của
cả nước (22%), còn thiếu lao động có kỹ thuật và tay nghề cao, hệ số sử dụng
lao động ở nông thôn mới đạt khoảng trên 70%, năng suất lao động thấp.
Về tài nguyên đất, Cao Bằng có 598.735,1 ha đất nông - lâm nghiệp,
chiếm 89,1% diện tích đất tự nhiên. Trong đó đất nông nghiệp truyền thống
có diện tích trên 85,3 nghìn ha (chiếm 12,5%), đất lâm nghiệp gần 514,9
nghìn ha (chiếm 76,6%), đất nuôi trồng thủy sản là 313,33 ha (chiếm 0,05%).

12


Hệ số sử dụng đất đạt 1,3 lần. Đất phi Nông nghiệp chiếm 3, 18% diện tích
đất tự nhiên (khoảng 21.340,7 ha), bao gồm đất thổ cư, đất dành cho công
trình hạ tầng và quốc phòng – an ninh. Ngoài ra, Cao Bằng còn có 51.880 ha
đất chưa sử dụng, chủ yếu là đất trống đồi núi trọc, với diện tích đất phù sa,
bằng phẳng, tuy chỉ chiếm 10% diện tích tự nhiên toàn tỉnh nhưng cũng có
những cánh đồng nhỏ, mầu mỡ dọc theo triền các dòng sông, hoặc trên những
thung lũng như: Sóc Hà, Đôn Chương, Phù Ngọc, Đồng Mu, Bó Bạch, Thạch
Bình, Cổ Nông, Thông Huề, Pò Tấu, Tiên Thành…mà trong số đó lớn nhất là
cánh đồng của huyện Hòa An trải dài trên 20km, đất đai phì nhiêu, tiện lợi canh
tác, vì thế những nơi này dân cư rất đông đúc và có cuộc sống sung túc hơn.
Về tài nguyên rừng, thế mạnh của tỉnh Cao Bằng trước hết là rừng và
đất rừng, tỷ lệ che phủ rừng năm 2001 có quy mô là 286.363 ha, trong đó
rừng tự nhiên là 271.531 ha, chiếm 94,8%. Rừng của Cao Bằng có giá trị kinh
tế cao với nguồn lâm thổ sản phong phú, trong đó phải kể đến các loại: Sa

Nhân, Mộc Nhĩ, Nấm Hương, Cánh Kiến…và các loại hạt có dầu (Trẩu, Sở,
Lạc…) các cây dược liệu, thuốc bổ đông y quý hiếm như Nhân Sâm, Tam
Thất, Ngũ Gia Bì…Trong rừng còn có nhiều Mây, Song và nhiều loại gỗ quý
như Trai, Nghiến, Lim, Lát, Đinh, Dổi…Đây là một trong những lợi thế tiềm
năng của Cao Bằng.
Về tài nguyên khoáng sản, Cao Bằng là một trong những tỉnh miền núi
có nguồn tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng, trong đó có những
khoáng sản có tiềm năng lớn, giá trị kinh tế cao, đã và đang được khai thác
phục vụ các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Qua khảo sát, có tới
150 điểm mỏ với 22 loại khoáng sản có trữ lượng khá lớn và chất lượng tốt
như mỏ Quặng sắt (Nà Lủng - thị xã); Thiếc (Tĩnh Túc - Nguyên Bình); Măng
Gan (Trà Lĩnh, Trùng Khánh)… Đáng kể nhất là Sắt trữ lượng khoảng 60
triệu tấn, Bôxít trữ lượng khoảng 180 triệu tấn, Măng Gan trữ lượng khoảng

13


2,7 triệu tấn, Thiếc trữ lượng khoảng 11,5 nghìn tấn. Ngoài ra còn có Vàng,
Đồng, Niken, Chì, Urani, Berili, Barit, Fluorit, Photphorit, đá quý Rupi,
Saphia…có thể khai thác trong vài chục năm tới; đá Vôi có trữ lượng hàng
ngàn triệu tấn, có nhiều công dụng trong sản xuất vật liệu xây dựng. Đây là
điều kiện thuận lợi cho sự phát triển ngành công nghiệp trong tương lai.
Như vậy, với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và những nguồn tài
nguyên sẵn có, Cao Bằng có những nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế
- xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tạo những thuận
lợi nhất định trong công tác xóa đói, giảm nghèo của tỉnh. Song điều kiện tự
nhiên của Cao Bằng cũng gây nên những khó khăn nhất định trong công tác
xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là đối với các xã vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
*Điều kiện kinh tế - xã hội
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, Cao Bằng có nhiều thuận lợi nhất định

trong phát triển kinh tế - xã hội với cơ cấu ngành nghề đa dạng.
Về nông - lâm nghiệp: Cao Bằng có gần 95.000 ha (chiếm 14,12% đất
tự nhiên toàn tỉnh) đất dành cho sản xuất nông nghiệp, trên 534.000 ha (trên
80% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh) đất lâm nghiệp có rừng và trên 400 ha
đất nuôi trồng thủy sản. Là một tỉnh biên giới, chịu nhiều ảnh hưởng của điều
kiện thời tiết khắc nghiệt song ngành nông nghiệp của Cao Bằng vẫn khá phát
triển. Giá trị sản xuất của ngành liên tục tăng qua các năm. Cơ cấu ngành
nông nghiệp chia thành 3 ngành chính là trồng trọt (chiếm trên 65% trong
tổng giá trị ngành nông nghiệp), chăn nuôi (chiếm trên 30%) và dịch vụ (dưới
5%). Cây trồng chủ yếu của tỉnh gồm các cây lương thực (lúa, ngô, khoai,
sắn); cây công nghiệp ngắn ngày (đỗ tương, lạc, mía, thuốc lá); cây ăn quả (lê,
mận, cam, hạt dẻ); cây rau, đậu và gia vị; và cây công nghiệp (chè đắng).
Ngành chăn nuôi của Cao Bằng tập trung vào các loại gia súc lớn như trâu,
bò, ngựa; gia súc nhỏ như lợn, dê, và các loại gia cầm. Cao Bằng có 2 giống

14


bò địa phương là bò Cỏ và bò U H’Mông, trong đó bò U H’Mông có trọng
lượng lớn, chất lượng tốt. Đồng thời, tỉnh cũng đầu tư xây dựng trại lợn giống
có tỷ lệ nạc cao và tập trung phát triển các dịch vụ nông nghiệp. Về lâm
nghiệp, là một trong những ngành có đóng góp tương đối lớn cho sự tăng
trưởng GDP của tỉnh Cao Bằng. Tỷ lệ che phủ rừng năm 1996 là 21,4% đến
năm 2000 đã tăng lên 40%. Trong tổng số 534.000 ha đất lâm nghiệp có rừng,
rừng sản xuất chiếm 26.700 ha, rừng phòng hộ chiếm gần 497.000 ha và rừng
đặc dụng chiếm trên 10.800 ha, tập trung chủ yếu ở các huyện Bảo Lâm, Bảo
Lạc, Nguyên Bình, Thạch An và Hòa An. Giá trị sản xuất của ngành lâm
nghiệp có xu hướng tăng dần qua các năm. Bên cạnh đó, tuy là tỉnh miền núi
nhưng Cao Bằng còn có tiềm năng tương đối lớn về ngư nghiệp. Sản xuất ngư
nghiệp Cao Bằng đang chuyển dịch từ tập quán nuôi quảng canh, năng suất

thấp sang nuôi công nghiệp, nuôi bán công nghiệp và kết hợp nuôi cá trên
ruộng trồng lúa nước. Giá trị sản xuất ngư nghiệp của Cao Bằng đang từng
bước tăng lên. Trong những năm tới, Cao Bằng tập trung nâng cao năng suất
nuôi trồng thủy sản, phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân ngành thủy
sản khoảng 30%/năm.
Về Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp: Theo số liệu thống kê năm
2002, trên địa bàn tỉnh Cao Bằng có 1.965 cơ sở sản xuất công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp. Hầu hết các cơ sở sản xuất đều được đặt ở Thị xã, tỷ lệ tập trung
chiếm khoảng 80%. Đã xây dựng và đưa vào sản xuất Lò cao luyện gang
22m3, nhà máy xi măng 3,5 vạn tấn/năm, nhà máy Đường 700 tấn mía/ngày,
nhà máy sản xuất vật liệu xây dựng 20 triệu viên gạch/năm…Thời kỳ 1996 2000 giá trị sản xuất công nghiệp tăn g bình quân hàng năm là 23,5%. Mạng
lưới điện quốc gia đã được xây dựng đến trung tâm tất cả các huyện, 105/189
xã, phường, thị trấn đã có điện đến trung tâm với 55% hộ dân được dùng điện.
Các trục đường giao thông quan trọng được nâng cấp, hệ thống đường giao

15


thông nông thôn được quan tâm đầu tư, đến hết năm 2001 chỉ còn 5 xã chưa có
đường ô tô đến trung tâm. Hệ thống thông tin liên lạc đã tự động hóa đến tất cả
các huyện và địa bàn trọng yếu với 125/189 xã có điện thoại.
Về kinh tế du lịch, với lịch sử hình thành lâu đời và trải qua nhiều thời
đại, Cao Bằng đã để lại nhiều di tích lịch sử văn hóa có giá trị. Theo báo cáo
của sở văn hóa - thông tin, toàn tỉnh có 37/226 di tích đã được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng. Đây là nguồn tài nguyên quan trọng có khả năng thu hút
cao khách du lịch trong và ngoài nước. Bao gồm nhóm di tích lịch sử - văn
hóa như đền Kỳ Sầm, thành nhà Mạc; nhóm di tích lịch sử cách mạng trong
đó đáng chú ý nhất là cụm di tích lịch sử Pác Bó - một trong 9 di tích đặc biệt
quan trọng có ý nghĩa lịch sử quốc gia; các danh lam thắng cảnh như: thác
Bản Giốc, động Ngườm Ngao…Ngoài ra, lễ hội các dân tộc thiểu số cũng là
một loại hình du lịch nhân văn, hấp dẫn, lôi cuốn khách du lịch.

Với điều kiện kinh tế - xã hội nêu trên, Cao Bằng có những thuận lợi
nhất định trong việc thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo. Song bên cạnh
đó Cao Bằng cũng còn có những khó khăn nhất định, đặc biệt là sự chênh lệch
trong mức sống của các bộ phận dân cư còn rất lớn. Đây là vấn đề đang đặt ra
cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh cũng như các cấp, các ngành có
liên quan để thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo.
1.1.2. Công tác xóa đói, giảm nghèo ở tỉnh Cao Bằng trước năm 2001
Xóa đói, giảm nghèo là một trong những chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nghèo,
thu hẹp khoảng cách về trình độ phát triển giữa các vùng, địa bàn và giữa các
dân tộc, nhóm dân cư. Với Cao Bằng, nhận thức rõ thực trạng của một tỉnh
miền núi biên giới đời sống xã hội còn ở mức thấp, kinh tế chưa phát triển,
còn có tới 138/189 xã đặc biệt khó khăn nên chương trình xóa đói, giảm
nghèo đã được tỉnh xây dựng, triển khai từ năm 1995.

16


Tỉnh đã thành lập ban chỉ đạo xóa đói, giảm nghèo các cấp từ tỉnh đến
cơ sở xã, và đi vào hoạt động, xây dựng chương trình và tổ chức thực hiện
chương trình theo nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh đã đề ra. Đại hội
Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV nhiệm kỳ 1996 - 2000 đã xác định nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội trong những năm tới là “Chủ động, tích cực khai thác các
điều kiện thuận lợi, nỗ lực vượt qua những khó khăn, thử thách, đẩy mạnh
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đảm
bảo tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững, cải thiện đời sống nhân dân, hạ thấp
tỷ lệ nghèo, nâng cao một bước trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe của nhân
dân, làm lành mạnh đời sống xã hội, trong đó xóa đói giảm nghèo là một
nhiệm vụ cấp bách của tỉnh” và đề ra mục tiêu: trong 5 năm tới toàn tỉnh phấn
đấu xóa được đói, giảm được nghèo, toàn bộ số hộ giàu chính đáng, các cấp

ủy, chính quyền cần xây dựng chương trình, kế hoạch cụ thể để xóa đói, giảm
nghèo. Để thực hiện thắng lợi mục tiêu này, Ủy ban nhân dân tỉnh đã xây
dựng Chương trình xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm giai đoạn
(1996 - 2000). Trong quá trình thực hiện đã triển khai việc lồng ghép các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội trên các địa bàn huyện, xã. Xây dựng
các dự án, thu hút nguồn vốn tập trung cho công tác xóa đói, giảm nghèo, kể
cả các nguồn vốn của nước ngoài như: Dự án ngân hàng Bò của tổ chức
ADRA (Úc), dự án tín dụng cho người nghèo vay vốn để phát triển sản xuất
của tổ chức MISEREOR (CHLB Đức) tài trợ…
Với những nỗ lực đó, sau 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội lần thứ
XIV và chương trình xóa đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, trên địa bàn
tỉnh đã đạt kết quả đáng khích lệ. Tỷ lệ đói nghèo theo tiêu chí cũ quy định
giai đoạn (1996 - 2000) năm 1996 là 39,3% đã giảm xuống còn 11,03% vào
cuối năm 2000, bình quân mỗi năm giảm 5,6% (khoảng 5.500 hộ), hàng vạn
hộ đã vượt qua đói nghèo. Đời sống của những vùng nghèo, hộ nghèo được

17


cải thiện bớt khó khăn hơn, hạ tầng cơ sở các vùng đặc biệt khó khăn được
đầu tư, đổi mới đáng kể. Trong 5 năm, từ 1996 - 2000 toàn tỉnh đã giảm được
27.500 hộ đói nghèo; Tổng nguồn vốn huy động cho các chương trình, dự án
liên quan đến mục tiêu Quốc gia xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm
khoảng trên 620 tỷ đồng, riêng trong 2 năm 1999 - 2000 là 292 tỷ đồng; Các
dự án thuộc chương trình mục tiêu Quốc gia xóa đói giảm nghèo theo quyết
định số 133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ như: dự
án đầu tư cơ sở hạ tầng; dự án tín dụng; dự án hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc
biệt khó khăn; dự án định canh, định cư, ổn định dân cư, kinh tế mới; dự án
hướng dẫn cách làm ăn và khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư cho người
nghèo; dự án đào tạo, nâng cao năng lực cán bộ làm công tác xóa đói giảm

nghèo và cán bộ xã nghèo; dự án hỗ trợ về y tế; dự án hỗ trợ người nghèo về
giáo dục; dự án hỗ trợ sản xuất, phát triển ngành nghề đều đạt được những kết
quả quan trọng trong 2 năm 1999 - 2000. Đồng bào đã có nhận thức bước đầu
về chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi, về sản xuất hàng hóa. Đồng thời
qua thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo, sự lãnh đạo của các cấp ủy
Đảng, điều hành của chính quyền và vai trò của các tổ chức đoàn thể có sự
đổi mới, gắn bó hơn với cơ sở, với nhân dân.
Về giải quyết việc làm, trong 5 năm (1996 - 2000) đã có gần 40.000
người được giải quyết việc làm mới và có thêm việc làm, đã đào tạo nghề và
dạy nghề gắn với việc làm cho gần 3.000 người, trong số đó có gần 70% số
người được đào tạo đã có việc làm, Trung tâm dịch vụ việc làm đã tư vấn giới
thiệu việc làm cho 2.542 người, gửi học sinh đi học tại các trường công nhân
kỹ thuật trung ương. Những kết quả đó đã góp phần vào tăng trưởng kinh tế
bền vững và thực hiện công bằng xã hội trên địa bàn của tỉnh.
Được sự chỉ đạo sát sao và triển khai thực hiện tích cực của cấp ủy,
chính quyền các cấp và sự hỗ trợ của các đoàn thể, lực lượng vũ trang, phong

18


trào xóa đói giảm nghèo của Cao Bằng trong 5 năm (1996 - 2000) đã phát
triển sâu rộng, động viên được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo nhân dân và
giúp cho nhiều hộ vượt qua đói nghèo, một số hộ vươn lên khá giả, có tác
dụng thiết thực làm giảm đáng kể số hộ đói và giúp cho các hộ còn nghèo, đói
giảm bớt khó khăn.
Tuy nhiên, tình trạng đói nghèo của tỉnh còn rất gay gắt, số hộ phát sinh
nghèo mới còn cao (trên 1%/năm), chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng và
các nhóm dân cư chưa được thu hẹp, tiến độ xóa đói giảm nghèo chuyển biến
chậm, kết quả đạt được chưa bền vững, còn nhiều yếu tố có khả năng dẫn đến
đói nghèo. Theo kết qủa điều tra khảo sát hộ nghèo theo tiêu chí mới của Bộ

Lao động - Thương binh xã hội quy định giai đoạn 2001 - 2005 tại thời điểm
tháng 3 năm 2001, tỷ lệ nghèo toàn tỉnh chiếm 25% với 24.435 hộ nghèo. Số
hộ nghèo tập trung chủ yếu ở khu vực III chiếm 37,7% với 18.708 hộ, khu
vực II chiếm 14,13%. Mức sống của nhân dân nói chung, thu nhập của người
lao động nói riêng vẫn còn thấp.
Tình trạng thiếu việc làm, lao động dôi dư của các doanh nghiệp còn
nhiều, lao động có sức khỏe ở thị xã, thị trấn thất nghiệp còn lớn. Số người có
việc làm thường xuyên chủ yếu ở ngành nông - lâm nghiệp chiếm tỷ lệ cao
79%, công nghiệp xây dựng 5%, thương mại và dịch vụ 16%, tiến độ chuyển
dịch cơ cấu diễn ra chậm, năng suất lao động thấp, khả năng đầu tư phát triển
hạn chế đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn. Qua điều tra lao động việc
làm (thời điểm 1/7/2000) tỷ lệ lao động không có việc làm (thất nghiệp) ở khu
vực thành thị còn 6,05%, tỷ lệ thiếu việc làm chung cả hai khu vực (thành thị
và nông thôn) còn 8,1%.
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến thực trạng này như:
Một là, điều kiện tự nhiên quá khắc nghiệt, hạn hán thường xảy ra, hậu
quả của chiến tranh để lại còn nặng nề, nhiều hộ gia đình thiếu đất canh tác,

19


thiếu kiến thức, thiếu vốn đầu tư, thiếu kinh nghiệm sản xuất lại đông con và
chưa thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu.
Hai là, ý chí quyết tâm vượt đói nghèo của nhiều hộ chưa cao, còn tồn
tại tâm lý ỷ lại, trông chờ vào sự trợ giúp của nhà nước và cộng đồng xã hội;
chưa phát huy và khai thác được thế mạnh của địa phương, lực lượng lao
động nông nghiệp và phi nông nghiệp còn lớn nhưng lại thiếu kỹ thuật, thiếu
trình độ tay nghề.
Ba là, chương trình xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm là
chương trình kinh tế - xã hội tổng hợp, diễn ra trên phạm vi rộng, đòi hỏi phải

có một nguồn lực lớn cũng như một chính sách thật đồng bộ linh hoạt thì quá
trình triển khai mới được thuận lợi. Tuy nhiên, trong thực tế nguồn lực đầu tư
cho xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm còn hạn hẹp, tiến độ giải ngân
các nguồn vốn còn chậm bởi nhiều thủ tục rườm rà.
Bốn là, trong quá trình lãnh đạo thực hiện công tác này, nhận thức của
Đảng bộ tỉnh và các cấp đảng cơ sở về tầm quan trọng của chương trình xóa
đói giảm nghèo cũng như trách nhiệm đối với công tác xóa đói giảm nghèo và
việc làm ở một số địa phương, đơn vị nhất là cơ sở còn chậm, chưa kịp thời
nên sự lãnh đạo chưa được nhất quán, việc điều hành phối hợp còn lúng túng,
công tác tuyên truyền vận động ở từng cấp còn hạn chế về nội dung, hình thức
và chưa thực sự đi sâu vào quần chúng nhân dân ở vùng sâu, vùng xa, vùng
cao biên giới, vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chưa khơi dậy được mạnh mẽ ý
thức nội tâm của từng cơ sở và các hộ nghèo; các giải pháp khắc phục nguyên
nhân nghèo chưa mang tính bền vững, công tác tổ chức cán bộ chưa được coi
trọng đúng mức, trình độ đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế, công tác đào tạo
quy hoạch và xây dựng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở chưa được giải quyết
kịp thời, chưa đáp ứng được yêu cầu của chương trình.

20


Thực tế nêu trên đã đặt ra yêu cầu ngày càng lớn đối với Đảng bộ tỉnh
và các Ban, Ngành liên quan phải luôn chú ý quan tâm, rà soát để có chủ
trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ, từng giai
đoạn. Đặc biệt, cần có nhiều cố gắng, nỗ lực và giải pháp thiết thực, đúng đắn
hơn nữa để đạt được những thành quả lớn hơn trong công tác xóa đói giảm
nghèo những năm tiếp theo.
1.2. Chủ trƣơng của Đảng về xóa đói giảm nghèo từ năm 2001 đến
năm 2005
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ trước, vấn đề xóa đói, giảm nghèo đã

được đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu và sau đó dần dần được triển
khai trong thực tiễn. Đến năm 1996, sau 10 năm đổi mới, đất nước thoát ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghệp
hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề đói nghèo cũng được quan tâm. Đảng đã
đưa ra quan điểm “ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng
trưởng kinh tế phải luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”[23, tr.31].
Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996) của Đảng cũng xác định xóa đói, giảm
nghèo là một trong mười một Chương trình phát triển kinh tế - xã hội và đặt
ra mục tiêu giảm tỷ lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20 - 25%
năm 1996 xuống khoảng 10% vào năm 2000[23, tr.38]. Thực hiện chủ trương
của Đảng, Chính phủ đã ra quyết định số 133/1998/QĐ-TTg, ngày 23/7/1998,
phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo giai đoạn
1998 - 2000. Đây là lần đầu tiên Việt Nam xây dựng chương trình quốc gia về
xóa đói, giảm nghèo một cách có hệ thống. Ngay sau đó, Chính phủ ra quyết
định số 135/1998/QĐ -TTg, ngày 31/7/1998, phê duyệt Chương trình phát
triển kinh tế đối với các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa.
Theo kế hoạch ban đầu, chương trình sẽ kéo dài 7 năm và chia làm hai giai
đoạn: Giai đoạn I từ năm 1998 đến năm 2000; Giai đoạn II từ năm 2001 đến

21


năm 2005. Tuy nhiên đến năm 2006, Nhà nước quyết định kéo dài chương
trình này thêm 5 năm và xác định: Từ năm 1997 đến năm 2006 là giai đoạn I.
Giai đoạn II từ năm 2006 đến năm 2010.
Mục tiêu của giai đoạn I là: Phát triển sản xuất, nâng cao mức sống cho
các hộ dân tộc thiểu số; phát triển cơ sở hạ tầng; phát triển các dịch vụ công
cộng địa phương thiết yếu như điện, trường học, trạm y tế, nước sạch; nâng
cao đời sống văn hóa.
Mục tiêu giai đoạn II là: Tạo chuyển biến nhanh về sản xuất; thúc đẩy

chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất gắn với thị
trường; cải thiện nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người dân giảm
khoảng cách phát triển giữa các dân tộc và giữa các vùng trong nước; đến
năm 2010, trên địa bàn không có hộ đói, giảm hộ nghèo xuống còn dưới 30%.
Trách nhiệm tổ chức điều hành triển khai thực hiện chương trình này
gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh, huyện và xã. Trong đó, Ủy ban nhân dân tỉnh
đảm nhiệm khâu tổ chức điều hành chương trình ở địa phương. Khâu thực
hiện được giao cho Ủy ban nhân dân huyện và Ủy ban nhân dân xã.
Đại hội lần thứ IX của Đảng (4/2001) đã tiếp tục xác định xóa đói,
giảm nghèo là nhiệm vụ quan trọng trong thời kỳ mới. Trong Chiến lược phát
triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 Đảng đã cụ thể hóa quan điểm trên
thành mục tiêu chiến lược về xóa đói, giảm nghèo như sau:
“Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư xây
dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông tin,
chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm…đối với những vùng
nghèo, xã nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân dân không có đất canh
tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng còn tiềm năng. Nhà
nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người dân vươn lên làm
giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp xã hội đối với

22


người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động, không có người bảo trợ,
nuôi dưỡng.
Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản không còn hộ nghèo, thường xuyên
củng cố thành quả xóa đói, giảm nghèo” [25, tr.211].
Cũng trong năm 2001, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số
71/2001/QĐ-TTg ngày 04/5/2001 Về các chương trình mục tiêu Quốc Gia
giai đoạn 2001 - 2005. Đối với vấn đề xóa đói giảm nghèo và việc làm,

Chương trình đưa ra quan điểm: Xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm
là sự nghiệp cách mạng của toàn dân, là một trong những chương trình trọng
điểm phát triển kinh tế - xã hội, là chính sách xã hội cơ bản, là hướng ưu tiên
trong toàn bộ chính sách kinh tế - xã hội nhằm phát triển kinh tế đáp ứng yêu
cầu bức xúc của con người, cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển kinh tế đi
đôi với thực hiện xóa đói, giảm nghèo bền vững, gắn xóa đói, giảm nghèo với
phát triển kinh tế nông nghiệp và nông thôn, kinh tế hộ, dịch vụ, ngành nghề,
lồng ghép xóa đói, giảm nghèo với các chương trình mục tiêu Quốc Gia và an
sinh xã hội.
Ngày 27 tháng 09 năm 2001 Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 143/2001/QĐ-TTg về Chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo và giải quyết việc làm giai đoạn 2001 - 2005 chỉ rõ mục tiêu tạo ra các
điều kiện thuận lợi, phù hợp để hỗ trợ người nghèo, hộ nghèo, xã nghèo phát
triển sản xuất, tăng thu nhập, tiếp cận các dịch vụ xã hội, xóa đói giảm nghèo,
giảm tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị và nâng cao tỷ lệ sử dụng thời gian
lao động ở khu vực nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với cơ
cấu kinh tế, bảo đảm việc làm cho người có nhu cầu làm việc, nâng cao chất
lượng cuộc sống của nhân dân.
Ngày 07 tháng 12 năm 2001, Thủ tướng tiếp tục ban hành Quyết định
số 186/2001/QĐ-TTg về phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn

23


miền núi phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005 bao gồm Lào Cai, Cao Bằng, Hà
Giang, Sơn La, Bắc Kạn, Lai Châu. Đây thật sự là một chủ trương có ý nghĩa
vô cùng quan trọng đối với công tác xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi
đặc biệt khó khăn, là động lực để các tỉnh này vươn lên mạnh mẽ trong quá
trình phát triển kinh tế, thoát khỏi tình trạng nghèo nàn và lạc hậu, hòa chung
với nhịp độ phát triển của cả nước.

Ngày 21 tháng 5 năm 2002, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến
lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo”. Đây là chiến lược đầy
đủ, chi tiết, phù hợp với mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên
hợp Quốc công bố. Đồng thời Việt Nam đã ký vào Tuyên bố Thiên niên kỷ
với 8 mục tiêu: Xóa bỏ tình trạng cùng cực và thiếu đói; Đạt phổ cập giáo dục
tiểu học; Tăng cường bình đẳng giới nâng cao vị thế phụ nữ; giảm tỷ lệ tử
vong trẻ sơ sinh; tăng cường sức khỏe bà mẹ; phòng chống bệnh HIV/AISD,
sốt rét và các bệnh khác; Đảm bảo bền vững môi trường; Thiết lập quan hệ
đối tác toàn cầu và mục đích phát triển.
Bước sang năm 2003, Quyết định số 120/2003/QĐ-TTg ngày 11/6/2003
về việc phê duyệt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội tuyến biên giới Việt Trung đến năm 2010 được ban hành tiếp tục phát triển và hoàn thiện hơn nữa
chủ trương và quan điểm của Đảng đối với vấn đề xóa đói giảm nghèo đặc biệt
là với các tỉnh miền núi phía Bắc nằm dọc tuyến biên giới Việt - Trung, trở
thành động lực lớn cho công tác xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh này.
Để đẩy mạnh hơn công tác xóa đói, giảm nghèo, nhanh chóng đạt được
các mục tiêu đã đề ra trong giai đoạn 2001 - 2005, ngày 20 tháng 7 năm 2004,
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg về một
số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng
bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn nhằm mục đích cùng với việc
thực hiện các chương trình kinh tế - xã hội, Nhà nước trực tiếp hỗ trợ đồng

24


bào dân tộc thiểu số nghèo để có điều kiện phát triển sản xuất, cải thiện đời
sống, sớm thoát nghèo.
Những chủ trương, chính sách trên của Đảng và Nhà nước Việt Nam đã
tập trung giải quyết những vấn đề cơ bản trong công tác xóa đói, giảm nghèo,
đồng thời ngày càng tham gia một cách tích cực với cộng đồng quốc tế cùng
giải quyết những vấn đề đói, nghèo. Những quan điểm của Đảng và Nhà nước

ta về xóa đói, giảm nghèo không chỉ bảo đảm tính hiệu quả của công tác xóa
đói, giảm nghèo mà còn đảm bảo tính bền vững trước những nguy cơ đói
nghèo, tái đói nghèo đều có thể xảy ra trong những biến cố của môi trường
thiên nhiên, của quá trình hội nhập và phát triển.
1.3. Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Cao Bằng về xóa
đói, giảm nghèo từ 2001 đến 2005
Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lãnh đạo công tác xóa đói, giảm nghèo thông
qua các hoạt động đề ra chủ trương, nghị quyết về xóa đói, giảm nghèo và chỉ
đạo chính quyền, các tổ chức và nhân dân thực hiện nhằm đạt mục tiêu xóa
đói, giảm nghèo đã được xác định.
Trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng về xóa đói, giảm nghèo từ
năm 2001 - 2005, Đảng bộ tỉnh Cao Bằng mà trực tiếp là Tỉnh ủy đã đề ra các
chủ trương, nghị quyết về vấn đề này của tỉnh và chỉ đạo thực hiện.

1.3.1. Chủ trương, nghị quyết của Đảng bộ tỉnh về xóa đói,
giảm nghèo
Phát huy thành quả đạt được của công tác xóa đói giảm nghèo giai đoạn
1996 - 2000, trên cơ sở chủ trương, quan điểm của Đảng về xóa đói, giảm
nghèo, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lần thứ XV (2001 - 2005)
nhấn mạnh: “Trong những năm tới cần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng,
thế mạnh đặc thù của tỉnh để phát triển kinh tế - xã hội tập trung mọi nguồn
lực đầu tư cho phát triển. Cải thiện một bước vật chất, tinh thần của nhân dân,

25


×