Tải bản đầy đủ (.pdf) (141 trang)

đảng bộ tỉnh hanh hóa lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ 1996 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 141 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

LÊ THỊ YẾN

ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 602256

Ng-êi h-íng dÉn khoa häc : PGS.TS. NGUYỄN TRỌNG PHÚC

HÀ NỘI - 2012


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ...................................................................... 3
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 4
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................... 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 9
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 9
5. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 10
6. Đóng góp của luận văn ............................................................................. 10
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 10
NỘI DUNG ................................................................................................. 11
Chương 1: PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH THANH
HÓA (1996 - 2000) ...................................................................................... 11
1.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THANH HÓA VÀ TÌNH HÌNH


GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRƢỚC NĂM 1996 ................................................... 11

1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội ................................................. 11
1.1.2. Truyền thống văn hóa - lịch sử ………………………………….......13
1.1.3. Thực trạng giáo dục phổ thông ở Thanh Hóa trƣớc 1996 .................... 18
1.2. ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC
PHỔ THÔNG TRONG NHỮNG NĂM ĐẦU ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƢỚC (1996 - 2000) ........................................................ 28

1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển giáo dục phổ thông .. 28
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa quán triệt quan điểm của Đảng và đề ra chủ
trƣơng phát triển giáo dục phổ thông ............................................................ 36
1.2.3. Quá trình thực hiện và kết quả ............................................................ 44
1.2.3.1. Nâng cao chất lƣợng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lí
giáo dục về mọi măt ..................................................................................... 44
1.2.3.2. Mở rộng quy mô và nâng cao chất lƣợng giáo dục ở các cấp học .... 46

1


1.2.3.3. Tăng cƣờng đầu tƣ cơ sở vật chất kĩ thuật cho giáo dục phổ thông .. 55
1.2.3.4. Tăng cƣờng quản lí nhà nƣớc về giáo dục phổ thông và đẩy mạnh xã
hội hóa giáo dục ........................................................................................... 57
Chương 2: ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở
TỈNH THANH HÓA (2001 - 2010)............................................................. 63
2.1. CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH THANH HÓA VỀ PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC PHỔ TRONG 10 NĂM 2001 - 2010 .................................................. 63

2.1.1. Xu thế đổi mới giáo dục trên thế giới, tình hình và nhiệm vụ của giáo
dục Việt Nam trong thiên niên kỉ mới .......................................................... 63

2.1.2. Những quan điểm của Đảng về phát triển giáo dục GDPT qua các Đại
hội IX, X ...................................................................................................... 66
2.1.3. Đảng bộ tỉnh chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông và quá trình triển
khai thực hiện ............................................................................................... 71
2.2. KẾT QUẢ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM
2001 ĐẾN NĂM 2010 ........................................................................................... 76

2.2.1. Tiếp tục mở rộng quy mô và nâng cao chất lƣợng giáo dục ở các cấp học 76
2.2. Nâng cao chất lƣợng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên về mọi mặt .......... 92
2.2.3. Tăng cƣờng cơ sở vật chất, kĩ thuật cho các trƣờng học ...................... 96
2.2.4. Đổi mới quản lí nhà nƣớc về giáo dục phổ thông, tăng cƣờng xã hội hóa
giáo dục ...................................................................................................... 100
Chương 3: NHẬN XÉT CHUNG VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........ 105
3.1. NHẬN XÉT CHUNG ................................................................................... 105

3.1.1. Về ƣu điểm ....................................................................................... 105
3.1.2. Về hạn chế ........................................................................................ 110
3.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ........................................................................... 118

KẾT LUẬN ............................................................................................... 130
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................. 133

2


DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
CNH, HĐH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá


CNXH

Chủ nghĩa xã hội

GDPT

Giáo dục phổ thông

NQTW

Nghị quyết Trung ƣơng

Nxb

Nhà xuất bản

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

3


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Giáo dục là một lĩnh vực mà từ xƣa đến nay, bất kể quốc gia, dân tộc và

chế độ nào muốn tồn tại và đi lên đều phải chăm lo phát triển. Khi sáng lập ra
học thuyết của mình, các nhà kinh điển Mác - Lênin nhấn mạnh: “Tƣơng lai
của cả loài ngƣời phụ thuộc vào việc giáo dục thế hệ giai cấp công nhân đang
lớn lên” [87, tr.15]. Từ ngàn xƣa, cha ông ta cũng đã có nhiều chính sách đãi
ngộ nhân tài, trọng dụng những ngƣời có học thức trong sự nghiệp dựng nƣớc
và giữ nƣớc. Kế thừa những tƣ tƣởng đó, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Một
dân tộc dốt là một dân tộc yếu” [57, tr.36]. Ngƣời coi giáo dục là chìa khoá để
xây dựng, giữ vững nền độc lập và đƣa đất nƣớc phát triển.
GDPT là nền tảng trong hệ thống giáo dục quốc dân, nó đặt những cơ sở
ban đầu rất quan trọng cho sự phát triển toàn diện về học vấn, đạo đức, trí tuệ,
thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con
ngƣời. GDPT cũng là tiền đề cho học sinh tiếp tục học lên những bậc cao hơn
nhƣ: trung cấp, cao đẳng, đại học hoặc đi vào cuộc sống,…
Bƣớc sang thế kỉ XXI, khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ
và trở thành một yếu tố trực tiếp của lực lƣợng sản xuất. Sự hội nhập kinh tế
thế giới đòi hỏi trình độ ngày càng cao của các quốc gia. Kinh tế tri thức ra
đời, hàm lƣợng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm ngày càng tăng. Hiện nay, Việt
Nam cũng đang trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức. Thực tế trên, đòi hỏi phải có một sự đổi mới thực sự trong tƣ duy
về giáo dục nhằm đào taọ ra một thế hệ công dân đáp ứng những yêu cầu của
đất nƣớc và thời đại mới.
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm xác định: Giáo dục là quốc sách hàng
đầu và là động lực đƣa đất nƣớc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu.Tại Hội nghị lần
thứ hai Ban Chấp hành Trung ƣơng VIII (1996), Đảng đã đƣa ra định hƣớng
4


Chiến lƣợc phát triển giáo dục đào tạo nói chung và GDPT nói riêng trong
thời kì đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá: Thực sự coi giáo dục là
quốc sách hàng đầu. Đến Đại hội IX (2001), Đại hội X (2006), Đảng tiếp tục

nhấn mạnh: Nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện; thực hiện đổi mới
chƣơng trình, nội dung, phƣơng pháp dạy và học, phƣơng pháp thi, kiểm tra
theo hƣớng hiện đại; nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện. Đại hội XI của
Đảng (1/2011), tiếp tục hoàn thiện: Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo
dục Việt Nam theo hƣớng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa, dân chủ hóa
và hội nhập quốc tế”.
Thanh Hóa là mảnh đất giàu truyền thống hiếu học và chăm lo đào tạo
con ngƣời. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về đƣờng lối đổi mới, đẩy mạnh
phát triển GDPT thời kì CNH, HĐH đất nƣớc, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã
kịp thời đề ra những chủ trƣơng, chính sách nhằm hiện thực hóa các chủ
trƣơng của Đảng. Nhờ vậy, trong những năm qua GDPT ở Thanh Hóa đã có
những bƣớc phát triển đáng kể, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế
- xã hội của địa phƣơng. Tuy nhiên, GDPT ở Thanh Hóa còn tồn tại không ít
khó khăn, yếu kém. Đẩy mạnh công cuộc đổi mới GDPT ở Thanh Hóa càng có ý
nghĩa chiến lƣợc khi:
Thanh Hóa là một tỉnh lớn với đủ các loại địa hình: miền núi, đồng
bằng, ven biển, dân số đông, nhiều dân tộc, trình độ dân trí không đều. Tỉnh
có đƣờng Quốc lộ 1A và đƣờng Hồ Chí Minh chạy qua và vì thế tỉnh có vai
trò vô cùng quan trọng trong việc hình thành khu vực kinh tế miền Trung và
trục kinh tế Bắc - Nam. Tuy nhiên, GDPT chƣa phát triển tƣơng xứng với
tiềm năng của tỉnh. Thanh Hóa có nhiều thế mạnh về kinh tế. Ở đây đã có
nhiều khu công nghiệp, hải cảng trong đó đặc biệt có cảng nƣớc sâu và khu
kinh tế Nghi Sơn. Sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phƣơng đòi hỏi phải có
nguồn lao động có kiến thức và kĩ thuật cao. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh sự
nghiệp GDPT để tạo nền tảng vững chắc cho việc đào tạo nhân lực.

5


Việc tổng kết 15 năm Đảng bộ địa phƣơng lãnh đạo phát triển GDPT, rút

ra những kinh nghiệm cho thời gian tới và làm phong phú thêm kho tƣ liệu
giảng dạy về lịch sử địa phƣơng cũng là một việc làm cần thiết.
Vì những lí do trên, tác giả đã chọn vấn đề: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 1996 đến năm 2010 làm đề tài
luận văn Th.s lịch sử của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục nói chung, GDPT nói riêng là nội dung quan trọng, quyết định
đến sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc. Chính vì vậy, đây là đề tài nhận
đƣợc sự quan tâm của nhiều cấp lãnh đạo, nhiều nhà quản lí, nhà khoa học, nhà
giáo và của nhiều tác giả. Đã có nhiều công trình nghiên cứu ở nhiều góc độ
khác nhau về vấn đề này. Có thể nêu ra một số tác giả với những công trình
tiêu biểu liên quan đến đề tài này nhƣ sau:
Đầu tiên là cuốn "Bàn về công tác giáo dục" của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1972. Sinh thời Ngƣời luôn chăm lo đến sự
nghiệp "trồng ngƣời". Ngƣời thƣờng nói muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì
trƣớc hết phải có con ngƣời xã hội chủ nghĩa. Trong cuốn sách này, Bác đã
nêu bật vai trò cực kỳ quan trọng của công tác giáo dục, đặc biệt tác phẩm
đã khái quát, phản ánh sự cần thiết của một nền giáo dục mới dƣới chế độ
xã hội chủ nghĩa.
Các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nƣớc cũng đã có các tác phẩm, bài
viết về giáo dục và đào tạo nhƣ:
Cuốn "Về vấn đề giáo dục - đào tạo" của đồng chí Phạm Văn Đồng
đƣợc Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội xuất bản 1999. Một lần nữa vai trò của
giáo dục và đào tạo đƣợc tiếp tục khẳng định và để sự nghiệp giáo dục phát
triển mạnh mẽ cần có sự nhận thức đúng đắn, sâu sắc của toàn Đảng, toàn dân
và có đƣợc những chính sách hữu hiệu nhất.

6



Bài viết "Phát triển mạnh mẽ giáo dục - đào tạo phục vụ đắc lực sự
nghiệp công nghiệp hóa đất nước" của đồng chí Đỗ Mƣời - đăng trên tạp chí
nghiên cứu giáo dục (tháng 1/1996) cũng đã khẳng định: muốn đƣa sự nghiệp
công nghiệp hóa đất nƣớc nhanh chóng đến thắng lợi thì dứt khoát phải phát
triển mạnh mẽ sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
Bài phát biểu với Bộ Giáo dục và đào tạo về "chuẩn bị nguồn lực con
người" của Đồng chí Lê Khả Phiêu. Nội dung bài viết khẳng định: Sẽ không thể
xây dựng đƣợc một đất nƣớc văn minh giàu mạnh nếu mọi ngƣời dân không
đƣợc trang bị về trình độ văn hóa và khoa học kỹ thuật tiên tiến,... Tất cả các bài
viết đó đều thể hiện đƣợc vai trò vô cùng quan trọng và cần thiết của việc đẩy
mạnh sự nghiệp giáo dục và đào tạo; đồng thời cũng từ sự phát triển của giáo
dục đào tạo sẽ là động lực để thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nƣớc.
Cuốn “Lịch sử giản lược hơn 1000 năm nền giáo dục Việt Nam” của tác
giả Lê Văn Giạng do Nxb. Chính trị Quốc gia phát hành năm 2003, trong đó có
dành một phần nhỏ mô tả hoạt động nền giáo dục của nƣớc Việt Nam thống nhất
và chủ nghĩa xã hội (từ năm 1975 đến năm 2000). Tuy nhiên tác giả cũng mới
chỉ trình bày một cách khái quát nhất có thể của nền giáo dục Việt Nam nói
chung, GDPT nói riêng giai đoạn này đƣợc đề cập đến một cách sơ sài.
Cuốn “Lịch sử giáo dục Việt Nam” do Bùi Minh Hiền biên soạn đƣợc
Nxb Đại học sƣ phạm phát hành năm 2004. Đây là giáo trình viết sơ lƣợc về
lịch sử giáo dục Việt Nam, trong đó có dành hai chƣơng viết về giáo dục Việt
Nam hai giai đoạn 1975 - 1986 và 1986 đến nay (năm 2004). Cuốn sách
không dành viết riêng về GDPT, nhƣng qua việc trình bày những chính sách,
những tổng kết tình hình giáo dục Việt Nam nói chung, ta có thể chọn lọc ra
những phần liên quan đến GDPT.
Ngoài ra còn có các công trình định hƣớng về giáo dục và đào tạo nhƣ:
"Giáo dục Việt Nam trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI" của GS.TS Phạm Minh
Hạc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Cuốn sách này đã trình bày tính

7



chất của nền giáo dục, nguyên lý, nội dung, hệ thống giáo dục nƣớc ta qua các
giai đoạn lịch sử; phân tích mối quan hệ giữa giáo dục và phát triển nguồn lực,
các nguồn lực phát triển giáo dục và phƣơng hƣớng phát triển giáo dục trong
thời gian tới. Cũng bàn về giáo dục, cuốn sách "Nhân tố mới về giáo dục và đào
tạo trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH" do GS.TS Phạm Minh Hạc chủ biên,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002 cũng đã nêu bật đƣợc những chuyển biến
tích cực về chất lƣợng dạy và học; có đƣợc những kết quả này là do sự cải tiến
về phƣơng pháp của cả thầy lẫn trò, phong trào học tập trong nhân dân đƣợc đẩy
mạnh. Từ đó xuất hiện những nhân tố mới, những kinh nghiệm hay để góp phần
thực hiện thắng lợi đƣờng lối giáo dục và đào tạo của Đảng.
Có thể đề cập đến một số công trình nghiên cứu về giáo dục trên bình
diện chung có liên quan đến đề tài nhƣ: “Nhà trường phổ thông Việt Nam qua
các thời kỳ lịch sử” của Viện Khoa học giáo dục do Nxb. Đại học Quốc gia
Hà Nội, 2001; “35 năm phát triển sự nghiệp GDPT” do Võ Thuần Nho chủ
biên, Nxb. Giáo dục, 1980; “Đổi mới nâng cao vai trò, trách nhiệm, đạo đức
của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục trong xu thế Việt Nam hội
nhập quốc tế” của nhiều tác giả, Nxb. Lao động, 2006;...
Nghiên cứu về sự lãnh đạo của các đảng bộ địa phƣơng đối với GDPT,
có một số công trình nhƣ: Ngô Thị Thu Hà (2009), Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh
lãnh đạo phát triển GDPT từ năm 1996 đến năm 2006, Luận văn Th.s lịch sử,
ĐHQGHN; Nguyễn Thị Quế Liên: Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo sự nghiệp
GDPT từ năm 1986 đến năm 2005”, Luận văn Th.S ĐHQGHN năm 2007 ...
Tại Thanh Hóa đã có công trình: Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo sự
nghiệp GDPT từ 1954 đến 1975 (2009) của Nguyễn Thị Hƣờng, Luận văn
Th.s lịch sử, ĐHQGHN. Tuy vậy, đề tài này mới chỉ tập trung vào hệ thống
giáo dục phổ trong thời kì kháng chiến chống Mỹ 1954 - 1975.
Nhìn một cách tổng quát các công trình trên giúp ích rất lớn cho việc
nghiên cứu và tìm hiểu về giáo dục và GDPT. Tuy nhiên, cho đến nay chƣa


8


có công trình nào nghiên cứu về quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh
đạo phát triển GDPT trong những năm tiến hành đẩy mạnh CNH, HĐH. Vì
vậy tác giả tập trung nghiên cứu đề tài nhƣ đã xác định nhằm góp phần bổ
sung vào khoảng trống đó.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Nghiên cứu và làm sáng tỏ những chủ trƣơng, chính sách và sự lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về phát triển GDPT thời kì từ năm 1996 đến
năm 2010, làm nổi bật những thành công, hạn chế và rút ra những kinh
nghiệm để phục vụ cho quá trình tiếp tục phát triển sự nghiệp GDPT của tỉnh.
- Nhiệm vụ:
- Phân tích các đặc điểm về điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế - xã
hội, những thuận lợi và khó khăn tác động đến việc thực hiện đƣờng lối đổi
mới sự nghiệp GDPT ở tỉnh Thanh Hóa.
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
vận dụng quan điểm, đƣờng lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục đào
tạo, GDPT và đề ra các chủ trƣơng, chính sách cũng nhƣ chỉ đạo thực hiện
phát triển GDPT trên địa bàn tỉnh từ năm 1996 đến năm 2010.
- Làm nổi bật những thành tựu cơ bản và những hạn chế trong quá trình
Đảng bộ Thanh Hóa lãnh đạo phát triển GDPT từ năm 1996 đến năm 2010.
- Rút ra những kinh nghiệm thực tiễn trong lãnh đạo phát triển GDPT ở địa
phƣơng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu là những chủ trƣơng, chính sách phát triển
GDPT của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa từ năm 1996 đến năm 2010.
- Phạm vi ngiên cứu:

+Về nội dung: Chủ trƣơng và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa
về GDPT.

9


+ Về không gian: Nghiên cứu ở địa bàn tỉnh Thanh Hóa.
+ Về thời gian: Từ năm 1996 đến 2010.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tƣ tƣởng
Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Luận văn chủ
yếu sử dụng phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic, phƣơng pháp thống kê,
tổng hợp, so sánh kết hợp với khảo sát…
6. Đóng góp của luận văn
- Đóng góp về mặt khoa học: Hệ thống hóa đƣợc những chủ trƣơng,
chính sách của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa về việc thực hiện đổi mới GDPT từ
năm 1996 đến năm 2010. Từ những thành công và hạn chế tồn tại rút ra kinh
nghiệm và chỉ ra phƣơng hƣớng để vận dụng cho giai đoạn sau.
- Đóng góp về mặt tƣ liệu: Bổ sung thêm nguồn tài liệu về lịch sử địa
phƣơng của tỉnh Thanh Hóa.
- Đóng góp về mặt phƣơng pháp nghiên cứu: Góp phần vào việc sử
dụng phƣơng pháp tổng kết thực tiễn, làm sáng tỏ lí luận, đƣờng lối quan
điểm của Đảng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chƣơng 6 tiết.
Chƣơng 1: Phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa (1996 - 2000)
Chƣơng 2: Đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông ở tỉnh Thanh Hóa
(2001 - 2010)
Chƣơng 3: Nhận xét chung và một số kinh nghiệm


10


NỘI DUNG
Chương 1
PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG Ở TỈNH THANH HÓA
(1996 – 2000)
1.1. ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI TỈNH THANH HÓA VÀ TÌNH
HÌNH GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TRƢỚC NĂM 1996

1.1.1. Điều kiện tự nhiên và kinh tế - xã hội
Thanh Hoá là tỉnh nằm ở cực Bắc miền Trung, cách Thủ đô Hà Nội 150
km về phía Nam. Phía Bắc giáp với ba tỉnh Sơn La, Hoà Bình và Ninh Bình;
phía Nam giáp tỉnh Nghệ An; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn - nƣớc Cộng hoà
dân chủ nhân dân Lào với 192 km đƣờng biên giới; phía Đông là Vịnh Bắc
Bộ. Địa hình của Thanh Hóa đa dạng, thấp dần từ Tây sang Đông, chia làm 3
vùng rõ rệt: vùng núi trung du, vùng đồng bằng và vùng ven biển.
Thanh Hoá nằm trong vùng ảnh hƣởng của những tác động từ vùng
kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, các tỉnh Bắc Lào và vùng trọng điểm kinh tế
Trung Bộ. Tỉnh nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ, có hệ
thống giao thông thuận lợi nhƣ: đƣờng sắt xuyên Việt, đƣờng Hồ Chí Minh,
các quốc lộ 1A, 10, 45, 47, 217; có cảng biển nƣớc sâu Nghi Sơn, có hệ thống
sông ngòi thuận tiện cho lƣu thông Bắc Nam và đi quốc tế. Hiện tại, Thanh
Hóa có sân bay Sao Vàng và đang dự kiến mở thêm sân bay quốc tế sát biển
phục vụ cho Khu kinh tế Nghi Sơn và khách du lịch.
Thanh Hoá thuộc vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa với 4 mùa rõ rệt.
Tài nguyên thiên nhiên của Thanh Hóa đa dạng, phong phú: là một
trong những tỉnh có tài nguyên rừng lớn với diện tích có rừng là 484.246
ha.Tài nguyên khoáng sản phong phú và đa dạng có 296 mỏ và điểm khoáng

sản với 42 loại khác nhau. Sông suối Thanh Hoá chảy qua nhiều vùng địa

11


hình phức tạp, là tiềm năng lớn cho nhiều lĩnh vực nhất là cho phát triển thủy
điện. Nƣớc ngầm ở Thanh Hoá cũng rất phong phú về trữ lƣợng và chủng loại
bởi vì có đầy đủ các loại đất đá trầm tích, mắc ma và phun trào. Tỉnh có 102
km bờ biển và vùng lãnh hải rộng 17.000 km2, với nhiều bãi cá, bãi tôm có
trữ lƣợng lớn.
Thanh Hóa là một tỉnh có nhiều tiềm năng du lịch. Ở đây có nhiều danh
lam, thắng cảnh nổi tiếng. Ở phía Đông có bãi biển Sầm Sơn, Hải Tiến, Hải
Hoà. Vùng Tây Nam của tỉnh có rừng quốc gia Bến En với hệ động thực vật
phong phú đang đƣợc UNESCO khảo sát để công nhận là di sản thiên nhiên
thế giới. Vùng Tây Bắc có các khu bảo tồn thiên nhiên Pù Hu, Pù Luông,
Xuân Liên, là những khu rừng đặc dụng, nơi tồn trữ và bảo vệ các nguồn gien
động, thực vật quí hiếm. Đây là các điểm du lịch hấp dẫn đối với du khách ở
khắp mọi nơi.
Thanh Hóa là một tỉnh có dân số đông (đứng thứ 3 sau Thành phố Hồ Chí
Minh và Hà Nội). Tính đến năm 2010, Thanh Hoá có hơn 3,4 triệu ngƣời. Dân
số đông nên nguồn lao động của tỉnh rất dồi dào và tƣơng đối trẻ.
Trên địa bàn tỉnh có 7 dân tộc anh em sinh sống, đó là: Kinh, Mƣờng,
Thái, H'mông, Dao, Thổ, Hoa. Ngƣời Kinh sinh sống chủ yếu ở vùng đồng
bằng. Các dân tộc ít ngƣời sống chủ yếu ở các huyện vùng núi cao và biên giới.
So với các tỉnh khác thì dân số Thanh Hóa theo các tôn giáo không đông:
Phật giáo: khoảng 20.000 tín đồ, Công giáo: khoảng 139.170 tín đồ, Tin lành:
khoảng 186 tín đồ, Cao đài: khoảng 100 tín đồ. Còn lại các đồng bào thiểu số
thì theo tín ngƣỡng của dân tộc mình. Mặc dù dân số đông và đa dạng về dân
tộc nhƣng Thanh Hóa rất ổn định về chính trị - xã hội.
Trình độ dân trí của tỉnh tƣơng đối cao. Đến nay, tỉnh đã hoàn thành phổ

cập giáo dục ở cả tiểu học, THCS và đang tiến hành phổ cập THPT. Số học
sinh phổ thông năm học 2009-2010 là 587899 em, số giáo viên toàn tỉnh là

12


43178 ngƣời. Số thầy thuốc có 5.300 ngƣời, bình quân y, bác sĩ trên 1 vạn dân
là 11,8 ngƣời.
Tỉnh có 27 đơn vị hành chính gồm một thành phố (Thanh Hóa), hai thị
xã (Bỉm Sơn, Sầm Sơn) và 24 huyện lị, trong đó có 11 huyện miền núi.
Kinh tế của tỉnh trong những năm gần đây liên tục tăng trƣởng ở mức khá
cao, giai đoạn 2006 - 2010 là 11,3%. GDP theo giá so sánh năm 2010 gấp 1,7
lần 2005. GDP bình quân đầu ngƣời năm 2010 ƣớc đạt 810 USD. Cơ cấu kinh tế
của tỉnh chuyển dịch theo đúng hƣớng nhu cầu của nền kinh tế thị trƣờng. Từ
năm 2005 đến 2010: tỉ trọng nông nghiệp đã giảm từ 32,3% xuống còn 21,5%; tỉ
trọng ngành công nghiệp - xây dựng đã tăng từ 34,6% lên 44,1%; tỉ trọng các
ngành dịch vụ tăng từ 33,1% lên 34,4%. Chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ từng
ngành kinh tế cũng có sự tiến bộ ngày càng phù hợp với tiềm năng kinh tế địa
phƣơng. Nhƣng nhìn chung Thanh Hóa vẫn là một tỉnh nghèo. Năm 2008, cả
nƣớc có 62 huyện nghèo thì Thanh Hoá có 7 huyện, bình quân thu nhập
GDP/ngƣời năm so với cả nƣớc vẫn còn rất thấp (năm 2009 là: 720
USD/1.200 USD) [1, tr.10]
1.1.2. Truyền thống văn hóa - lịch sử
Trƣớc thời Hán, Thanh Hoá thuộc quận Cửu Chân sau thuộc Giao Chỉ rồi
thành Ái Châu. Thời Lý, vùng đất này đổi thành phủ Thanh Hoá. Sau này, trải
qua các triều đại, có lúc Thanh Hoá đƣợc gọi là phủ, trấn, lộ, trại, thừa tuyên. Cái
tên Thanh Hóa có từ thời Lý cũng có lúc đổi thành Thanh Đô, Tây Đô, Thanh
Hoa. Năm Thiệu Trị thứ nhất, chính thức đổi tên thành tỉnh Thanh Hoá và tồn tại
tới ngày nay.
Thanh Hoá là một vùng đất lịch sử lâu đời. Có lẽ hiếm có vùng đất nào

lại có đầy đủ những mốc nổi tiếng đánh dấu các giai đoạn lớn của lịch sử, từ
tối cổ đến ngày nay nhƣ Thanh Hóa. Di chỉ Núi Đọ phát hiện năm 1960 ở
huyện Thiệu Hoá, là cái mốc tối cổ, nơi tìm đƣợc dấu tích con ngƣời thuộc

13


thời đại sơ kỳ đá cũ đã khẳng định Thanh Hóa là nơi sinh sống của ngƣời
nguyên thuỷ. Di chỉ hang Con Moong phát hiện ở Thạch Thành, chứa đựng
các dấu vết khảo cổ học từ văn hoá Sơn Vi (hậu kỳ đá cũ) ở lớp dƣới, trên đó
là các lớp văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn cho thấy con ngƣời đã tiếp tục sinh
sống ở đây suốt từ hậu kỳ đá cũ qua sơ kỳ và trung kỳ đá mới. Văn hoá khảo
cổ Đa Bút ở lƣu vực sông Mã là một phát hiện quan trọng của giới khảo cổ
học, vì Đa Bút là sự phát triển nối tiếp của văn hoá Hòa Bình - Bắc Sơn trong
quá trình chinh phục đồng bằng ven biển Thanh Hoá thời đá mới, cách ngày
nay khoảng trên dƣới 6000 năm. Văn hóa Hoa Lộc là văn hoá khảo cổ thuộc
sơ kỳ thời đại kim khí, phát hiện ở huyện Hậu Lộc, phân bố chủ yếu ở vùng
ven biển, có niên đại khoảng 4000 năm. Đông Sơn là văn hoá thời đại kim khí
(đồ đồng, sơ kỳ sắt), phát hiện lần đầu tiên năm 1924 tại làng Đông Sơn,
huyện Đông Sơn, Thanh Hoá. Hiện vật tiêu biểu của văn hoá Đông Sơn là
trống đồng cũng tìm thấy nhiều ở đây với các kiểu dạng khác nhau. Đây là
giai đoạn phát triển rực rỡ của văn minh lúa nƣớc trên cơ sở phát triển nông
nghiệp ruộng đồng, kỹ thuật đúc đồng, rèn sắt.
Nhƣ vậy, Thanh Hoá cùng với đồng bằng châu thổ Bắc Bộ là cái nôi
hình thành dân tộc Việt Nam, quốc gia Việt Nam và nền văn hoá Việt Nam.
Thanh Hóa còn là vùng địa linh nhân kiệt. Suốt nghìn năm đất nƣớc bị
đô hộ, Thanh Hóa là vùng đất đã anh dũng, quật cƣờng chống lại ách đô hộ
phƣơng Bắc trong đó tiêu biểu nhất là khởi nghĩa Bà Triệu năm 248. Năm 981
Lê Hoàn đại phá quân Tống bảo vệ nền độc lập từ sau chiến thắng của Ngô
Quyền năm 938. Quê hƣơng này đã sản sinh ra nhiều các bậc đế vƣơng sáng

nghiệp gắn với những mốc son quan trọng của lịch sử dân tộc. Hồ Quý Ly có
gốc tích từ Nghệ An, tuy nhiên đến đời thứ 4 tính từ Hồ Quý Ly trở lên, tổ
tiên đã chuyển về Thanh Hoá. Khi Vƣơng triều Trần đã trở nên suy tàn, ông
tiến hành cải cách, lật đổ nhà Trần lập ra vƣơng triều mới: Triều Hồ năm

14


1400. Ông cho xây dựng kinh đô mới An Tôn tức Tây Đô, (dân gian gọi là
thành Nhà Hồ thuộc Vĩnh Lộc, Thanh Hoá). Dƣới ách đô hộ hà khắc của nhà
Minh, Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa ở mảnh đất Lam Sơn (1418 - 1427) chiêu
mộ danh tài để đánh đuổi quân xâm lƣợc ra khỏi bờ cõi sáng lập ra triều Hậu
Lê. Đây là một triều đại phong kiến lớn và rực rỡ nhất của chế độ quân chủ
Việt Nam. Vƣơng triều cuối cùng trong lịch sử Việt Nam, tuy không xây
dựng trên chính mảnh đất Xứ Thanh, nhƣng những ngƣời sáng nghiệp lại có
gốc rễ từ đây, đó là nhà Nguyễn. Ngƣời khởi nghiệp các Chúa Nguyễn Đàng
Trong là Nguyễn Hoàng quê ở huyện Hà Trung, Thanh Hoá. Nguyễn Hoàng
và những ngƣời kế nghiệp, nhƣ Nguyễn Phúc Chu, Nguyễn Phúc Khoát...,
một mặt đối địch với Chúa Trịnh ở Đàng ngoài, mặt khác, tăng cƣờng mở
rộng lãnh thổ, khai phá vào phía nam, tạo nên giang sơn riêng. Sau này,
Nguyễn Ánh khi đánh bại Tây Sơn, khôi phục vƣơng triều dòng họ Nguyễn
thì vẫn coi Thanh Hoá là đất tổ của mình.
Mảnh đất này cũng là quê hƣơng của những danh nhân tiêu biểu nhƣ
Khƣơng Công Phụ, Lê Văn Hƣu, Lê Thánh Tông,...
Khi Thực dân Pháp xâm lƣợc nƣớc ta (1858), nhân dân Thanh Hóa đã
hƣởng ứng phong trào Cần Vƣơng làm lên khởi nghĩa Ba Đình. Tuy thất bại
và phải tiếp tục chịu ách đô hộ nhƣng với tinh thần quật cƣờng, ngƣời dân
Thanh Hóa đã đứng lên dƣới lá cờ vinh quang của Đảng, đấu tranh giành
chính quyền góp phần làm nên nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Trong 2 cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhân dân địa

phƣơng lại tiếp tục phát huy tinh thần yêu nƣớc và truyền thống cách mạng.
Nhiều nơi ở Thanh Hóa trở thành căn cứ kháng chiến. Biết bao thế hệ ngƣời
dân xứ Thanh đã anh dũng ra chiến trƣờng chiến đấu để bảo vệ đất nƣớc. Tại
địa phƣơng, nhân dân Thanh Hóa không kể già trẻ gái trai đã kiên cƣờng
chiến đấu bảo vệ cây cầu Hàm Rồng - huyết mạch giao thông bảo đảm cho sự

15


chi viện của hậu phƣơng miền Bắc tới tiền tuyến miền Nam. Ngày nay, ngƣời
dân Thanh Hóa tiếp tục hăng say xây dựng quê hƣơng, phấn đấu đƣa Thanh
Hóa trở thành tỉnh kiểu mẫu nhƣ Bác Hồ hằng mong đợi.
Tính đến nay, cả tỉnh có 1.535 di tích lịch sử, trong đó có 134 di tích
đƣợc xếp hạng quốc gia, 412 di tích đã xếp hạng cấp tỉnh với các di tích nổi
tiếng nhƣ Núi Đọ, Đông Sơn, khu di tích Bà Triệu, Lê Hoàn, thành Nhà Hồ,
Lam Kinh, Ba Đình, Hàm Rồng,... Trong đó thành nhà Hồ đã đƣợc UNESCO
công nhận là Di sản văn hoá thế giới. Cùng với những danh lam, thắng cảnh
tự nhiên đây là những địa điểm thu hút khách du lịch.
Thanh Hóa nổi tiếng hiếu học từ xƣa. Đây là quê hƣơng của hàng ngàn
tiến sĩ, bảng nhãn, thám hoa. Suốt hai triều Lê, Nguyễn, Thanh Hóa có 1690
cử nhân, 3 Trạng nguyên, 7 Bảng nhãn, 6 Thám hoa, 7 nhất giáp chế khoa
[81,tr.12].
Từ rất sớm, một số địa phƣơng ở Thanh Hóa đã có truyền thống dựng
bia hoặc lập văn chỉ ở các làng, các huyện. Bia và văn chỉ dùng để ghi những
thành tích học tập, những kết quả khoa bảng của riêng địa phƣơng ấy. Điển
hình nhƣ: Xã Thịnh Mỹ huyện Thọ Xuân, văn bia ghi lại xã có đến 40 ngƣời
đỗ khoa bảng. Huyện Đông Sơn có tấm bia gọi là Đông Sơn bia huyện với
446 vị, có 1 trạng nguyên 1 bảng nhãn, 2 thám hoa và 6 hoàng giáp [81, tr.2].
Tiêu biểu cho đất học Thanh Hóa là xã Hoằng Lộc - Hoằng Hóa. Hoằng Lộc
gắn liền với nhiều tên gọi nhƣ: “đất hiếu học” “đất Trạng Quỳnh”. Theo các

bậc tuổi cao và sử sách ghi lại, từ thế kỷ XV, Hoằng Lộc đã có truyền thống
hiếu học với vị khai khoa là ông Nguyễn Nhân Lễ - đỗ tiến sĩ khoa Tân Sửu
Hồng Đức thứ 12 (1481). Nền học vấn của xã phát triển gần 5 thế kỷ tiếp theo
(XV-XIX). Qua các thời kì dƣới triều phong kiến, Hoằng Lộc có 12 vị đậu đại
khoa, trong đó có 7 tiến sĩ đƣợc ghi danh trên bia đá tại Văn miếu Quốc Tử

16


Giám cùng gần 200 hƣơng cống, cử nhân, 140 ngƣời đỗ sinh đồ, tú tài. Hiện
xã có 8 giáo sƣ, phó giáo sƣ, 40 tiến sĩ, 30 thạc sĩ, trên 600 cử nhân.
Cùng với những ngƣời dạt học vị cao trên đây, có rất nhiều vị tiến sĩ, cử
nhân và tú tài, hoặc không có học vị gì, nhƣng họ là những học giả xuất sắc, có
công trình hay tác phẩm lƣu lại cho đời sai. Rất nhiều ngƣời là ngƣời mở đầu
hay tiêu biểu cho những môn khoa học trong nền học thuật của cả nƣớc. Lê
Văn Hƣu là nhà sử học với những công trình lịch sử lớn, Hồ Quý Ly là ngƣời
có quan điểm riêng trong nhận thức về Nho giáo, Lƣơng Đắc Bằng là nhà lý
học. Đào Duy Từ vừa là nhà quân sự vừa là nhà nghệ thuật, Nguyễn Hữu Hào
mở đầu cho dòng truyện Nôm ở Việt Nam, Nguyễn Thu, Ngô Cao Lãng ... là
những nhà nghiên cứu dày công, có nhiều tác phẩm đồ sộ về cả sử học, địa lý.
Vịệc tôn trọng sự học thấm sâu trong phong tục làng quê. Những ngƣời
đỗ đạt hoặc có học hành nhất định đều đƣợc tôn trọng, đƣợc làng xã xem là
hạng tƣ văn, quan viên, đựơc những quyền lợi và những vị thứ cao, thƣờng là
trên cả chức sắc hào mục.
Những năm đất nƣớc ta chịu sự thống trị của Thực dân Pháp,Toàn
quyền Méc - lanh tuyên bố: Chỉ cung cấp cho nhân dân Việt Nam một sự giáo
dục nhỏ giọt, phát triển theo chiều nằm chứ không theo chiều đứng. Ƣớc tính
trung bình 29.329 ngƣời dân mới có 1 trƣờng. Thanh Hóa cũng phải chịu tiếp
nhận chính sách ấy một cách cụ thể nhất nhƣ tình hình chung cả nƣớc. Nhƣng
theo số liệu điều tra của bác sĩ Paul Chesneau năm 1983 ở một vài nơi thuộc

tỉnh Thanh Hóa thì ông cho rằng giáo dục nhƣ làng quê của tỉnh này là rất ít
ỏi và điển hình cho Trung kỳ [81, tr.2-3].
Từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội và truyền thống văn hóa nêu trên
có thể thấy: Nhu cầu phát triển nguồn nhân lực đáp ứng sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh là rất cao. Sự phát triển kinh tế ngày càng cao cộng với thế
mạnh truyền thống hiếu học là một trong những điều kiện hết sức thuận lợi

17


trong việc thực hiện chính sách phát triển giáo dục của Đảng nhằm phát triển
kinh tế - xã hội ở địa phƣơng. Tuy vậy, sự đa dạng về điều kiện tự nhiên dẫn
đến sự chênh lệch trình độ phát triển kinh tế của các vùng miền, diện tích
rộng, dân số đông, nhu cầu đầu tƣ cho giáo dục cao trong khi ngân sách đƣợc
cấp không cao hơn các tỉnh khác. Vì vậy, đây cũng là một khó khăn không
nhỏ trong quá trình Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa lãnh đạo thực hiện chính sách
phát triển GDPT.
1.1.3. Thực trạng giáo dục phổ thông ở Thanh Hóa trước 1996
Kể từ Cách mạng tháng Tám 1945, nền giáo dục và đào tạo Thanh Hóa
thực sự trở thành nền giáo dục do dân, vì dân. Tháng 9/1945, Thanh Hóa
thành lập Ty thanh tra tiểu học, thành lập Nha Bình dân học vụ. Các quận,
huyện, xã, thôn, đều lập Ban Bình dân học vụ. Đến cuối tháng 9/1945, các
trƣờng tiểu học trong toàn tỉnh đã đi vào ổn định và phát lệnh chiêu sinh trở
lại để chuẩn bị cho năm học mới. Ngày 20/02/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh
lần đầu tiên vào thăm Thanh Hóa. Ngƣời đã thay mặt Chính phủ trao tặng
Thanh Hóa 10 vạn đồng để làm quỹ phát triển Bình dân học vụ [8, tr.623].
Nhờ sự quyết tâm, nỗ lực, giáo dục Thanh Hóa đã có những tiến bộ
đáng kể. Xã Vĩnh Khang - Vĩnh Lộc của tỉnh dẫn đầu phong trào thanh toán
nạn mù chữ toàn miền Bắc đƣợc Chính phủ tặng thƣởng Huân chƣơng Lao
động hạng Hai. Đến ngày 13/6/1957, Bác Hồ về thăm Thanh Hóa lần thứ hai.
Bác nói chuyện với các đại biểu nhân dân toàn tỉnh và khen ngợi: “bƣớc đầu

là bình dân học vụ, đồng bào Thanh Hóa cố gắng có kết quả tốt, ví dụ nhƣ xã
Vĩnh Khang đã xóa xong nạn mù chữ, đƣợc Chính phủ khen ngợi. Chính phủ
đang chờ khen thƣởng cho thị xã Thanh Hóa”. Ngƣời căn dặn: “nhƣng phải
cố gắng hơn nữa” và đặt “Giải thƣởng thi đua của Hồ Chủ tịch dành cho Bình
dân học vụ” [8, tr.630]. Giai đoạn 1960 - 1975, GDPT thực hiện phƣơng
châm “tận lực phát triển”. Số trƣờng lớp tăng lên rất nhanh. Giáo dục miền

18


núi và vùng công giáo đƣợc chú ý và tạo điều kiện phát triển. Năm học 1976 1977, năm học đầu tiên của nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam
thống nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ra chủ trƣơng: Để góp phần đào tạo
con ngƣời mới cần chú trọng thực hiện phƣơng thức kết hợp giáo dục với lao
động sản xuất và hoạt động xã hội. Các nhà trƣờng có ba hoạt động cơ bản: dạy
và học, lao động sản xuất và tổ chức đời sống tập thể. Thanh Hóa tiếp tục
thực hiện cải cách giáo dục ở tất cả các cấp học. Tuy vậy, do tâm lí chủ quan
nóng vội muốn tiến nhanh tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa xã hội nên
nƣớc ta lâm vào khủng hoảng kinh tế xã hội vào những năm cuối của thập kỉ
80 làm cho giáo dục cũng trì trệ theo. Giáo dục Thanh Hóa trong cục diện
chung đó cũng không có bƣớc tiến đáng kể.
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự
thật, Đại hội VI (12-1986) đã đề ra đƣờng lối đổi mới toàn diện đất nƣớc,
trong đó có đổi mới giáo dục: “giáo dục nhằm mục tiêu hình thành và phát
triển toàn diện nhân cách xã hội chủ nghĩa của thế hệ trẻ, đào tạo đội ngũ lao
động có kĩ thuật, đồng bộ về ngành nghề phù hợp với yêu cầu phân công lao
động của xã hội” [30, tr.89].
Để tạo ra nền tảng cho mục tiêu trên, Đại hội chỉ rõ yêu cầu đối với
GDPT: “các trƣờng phổ thông phải dạy kiến thức phổ thông cơ bản, lao động
kĩ thuật tổng hợp, hƣớng nghiệp và dạy nghề phổ thông” [30, tr.90].
Đại hội Đảng lần thứ VII (2-1991), nhấn mạnh: Tiếp tục đổi mới vững

chắc hệ thống giáo dục quốc dân theo hƣớng đạt hiệu quả thiết thực, mở rộng
quy mô hợp lí, thật sự gắn với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội
và chỉ rõ: “Khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là động lực đƣa đất
nƣớc thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, vƣơn lên trình độ tiên tiến trên thế giới”.
[31, tr.79] Chính vì vậy mục tiêu của giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao dân
trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có tri

19


thức và có tay nghề, có năng lực thực hành, tự chủ và sáng tạo, có đạo đức
cách mạng, tinh thần yêu nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội.
Đối với GDPT, trong giai đoạn từ 1991 đến 1995 cần phải: “Tập trung
thực hiện chƣơng trình phổ cập giáo dục cấp I và chống mù chữ, phát triển
cấp II và cấp III phù hợp với yêu cầu và điều kiện của nền kinh tế. Củng cố và
phát triển trƣờng phổ thông cho trẻ khuyết tật” [31, tr.79].
Công tác đào tạo cho giáo dục miền núi cũng đƣợc Đại hội chú trọng:
Tăng cƣờng đầu tƣ giáo dục miền núi và vùng dân tộc thiểu số, mở rộng các
trƣờng dân tộc nội trú, quy hoạch đào tạo cán bộ và tri thức ngƣời dân tộc.
Quán triệt quan điểm trên, Hội nghị lần thứ IV Ban chấp hành Trung
ƣơng Khóa VII (1993) đã ban hành Nghị quyết 04 - NQ/HNTW về: “Tiếp
tục đổi mới sự nghiệp giáo dục - đào tạo”.Nghị quyết đã nêu lên những
thành tựu hết sức cơ bản, đồng thời chỉ rõ những yếu kém của hệ thống
giáo dục. Từ đó, bổ sung những quan điểm của Đại hội VII về giáo dục đào
tạo bao gồm cả GDPT:
Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu. Đó là một động lực thúc đẩy và là một điều kiện cơ bản bảo đảm
việc thực hiện những mục tiêu kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.
Phải coi đầu tƣ cho giáo dục là một trong những hƣớng chính của đầu tƣ phát

triển, tạo điều kiện cho giáo dục đi trƣớc và phục vụ đắc lực sự phát triển kinh
tế - xã hội. Huy động toàn xã hội làm giáo dục, động viên các tầng lớp nhân
dân góp sức xây dựng nền giáo dục quốc dân dƣới sự quản lý của Nhà nƣớc.
Phát triển giáo dục nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dƣỡng
nhân tài, đào tạo nên những con ngƣời có kiến thức văn hoá, khoa học, có kỹ
năng nghề nghiệp, lao động tự chủ, sáng tạo và có kỷ luật, giàu lòng nhân ái, yêu
nƣớc, yêu chủ nghĩa xã hội, sống lành mạnh, đáp ứng nhu cầu phát triển đất
nƣớc những năm 90 và chuẩn bị cho tƣơng lai. Phải mở rộng quy mô, đồng thời
chú trọng nâng cao chất lƣợng, hiệu quả giáo dục, gắn học với hành, tài với đức.

20


Giáo dục phải vừa gắn chặt với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất
nƣớc, vừa phù hợp với xu thế tiến bộ của thời đại. Thực hiện một nền giáo dục
thƣờng xuyên cho mọi ngƣời, xác định học tập suốt đời là quyền lợi và trách
nhiệm của mỗi công dân.
Đa dạng hoá các hình thức đào tạo. Thực hiện công bằng xã hội trong
giáo dục.
Quan điểm giáo dục là quốc sách hàng đầu có thể coi là một bƣớc đột
phá trong đổi mới tƣ duy về giáo dục của Đảng. Bƣớc đột phá này sẽ tạo nền
tảng cho những chính sách phát triển giáo dục của các điạ phƣơng.
Trên cơ sở những quan điểm chỉ đạo trên, Đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh
Hóa lần thứ XIII (1991) đã đƣa ra chủ tƣơng phát triển giáo dục cơ sở trong 5
năm 1991 - 1995: “Chú trọng giáo dục cơ sở, phát triển sự nghiệp giáo dục
theo hƣớng nâng cao chất lƣợng giáo dục toàn diện, coi trọng giáo dục đạo
đức và tri thức gắn với yêu cầu thực tiễn cuộc sống, nâng cao dân trí, đào tạo
lao động. Phải coi trọng chất lƣợng đại trà, hạn chế tình trạng bỏ học ở các
cấp, nhất là cấp một. Thực hiện phổ cập tiểu học ở đồng bằng và lớp 3 ở miền
núi, xóa mù chữ cho những ngƣời ở độ tuổi từ 15 - 35. Quan tâm đầu tƣ cho

sự nghiệp giáo dục miền núi, nhất là ở vùng dân tộc ít ngƣời” [41, tr.107).
Sắp xếp lại hệ thống GDPT cho phù hợp với thực trạng nền kinh tế và
yêu cầu của nhân dân,… Bồi dƣỡng, đào tạo lại cán bộ quản lí, và giáo viên.
Thực hiện chính sách đãi ngộ thỏa đáng đối với giáo viên dạy giỏi, giáo viên
công tác ở miền núi [41, tr.107].
Tỉnh ủy và Sở giáo dục đã ban hành nhiều Nghị quyết và Chỉ thị về
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp
hành Trung ương khóa VII, tiếp tục đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo với
nội dung: Tiếp tục đổi mới cơ cấu và hệ thống giáo dục. Từng bƣớc tách cấp I
ra khỏi phổ thông cơ sở, hình thành các trƣờng tiểu học, trung học cơ sở và
phải đƣợc tiến hành vững chắc, phù hợp với điều kiện, tình hình của từng địa

21


bàn; đƣa các lớp cấp I về tận bản làng, tạo điều kiện gắn với cộng đồng, liên
thông với mẫu giáo 5 tuổi. Phát triển các lớp ghép miền núi, vùng thƣa dân,
lớp linh hoạt ở vùng ven biển đông dân và nhiều trẻ em bỏ học.
Ở trung học, tách cấp II thành lập trƣờng trung học cơ sở khi có đủ số
lớp tối thiểu và các điều kiện cơ sở vật chất hoặc mở trƣờng cấp II liên xã nếu
thuận lợi về địa lí hoặc mở trƣờng cấp II - III ở những nơi có trƣờng cấp III
nhƣng quy mô nhỏ. Các mô hình này chỉ có tính chất tình thế, tạo thuận lợi
cho con em nhân dân đến trƣờng học tập chuẩn bị cho bƣớc phát triển mới.
Bắt đầu cho thí điểm thành lập các trƣờng ngoài công lập.
Tăng cƣờng hợp tác, mở rộng quan hệ với các tỉnh, thành phố trong cả
nƣớc và các tổ chức quốc tế để tập trung mọi nguồn lực cho giáo dục.
Thực hiện xã hội hóa giáo dục, tạo điều kiện cho đông đảo nhân dân
trong tỉnh đƣợc tiếp nhận giáo dục cũng nhƣ đƣợc đóng góp vật chất, tài
chính cho giáo dục và đào tạo.
Mặc dù, Thanh Hóa là tỉnh có kinh tế còn kém phát triển, lại luôn bị

thiên nhiên gây thiệt hại lớn nhƣng do nhận thức đƣợc tầm quan trọng của
giáo dục nên sau 10 năm thực hiện đƣờng lối đổi mới, Đảng bộ, ngành giáo
dục và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã phấn đấu đƣa sự nghiệp giáo dục đào tạo của tỉnh đạt những thành tựu quan trọng, quy mô giáo dục tăng nhanh.
Riêng GDPT có những bƣớc chuyển đáng ghi nhận.
Các huyện đã tiến hành tách cấp I ra khỏi phổ thông cơ sở và thành lập
trƣờng tiểu học, THCS. Ở trung học tách cấp II thành lập trƣờng THCS và đã
mở thêm nhiều trƣờng cấp II liên xã. Quá trình này đƣợc tiến hành vững chắc.
Hệ thống trƣờng tiểu học đến năm 1995 có 441 trƣờng, chỉ còn 256 trƣờng
phổ thông cơ sở, và đã có 360 trƣờng THCS. Đồng thời với việc tách trƣờng
là việc mở thêm các lớp lẻ ở miền núi làm cho số lƣợng trƣờng tiểu học ngày
càng phủ kín các xã phƣờng [66, tr.12].

22


Bảng 1: Thống kê số lượng trường học các cấp từ 1990 đến 1995
Đơn vị: Trường
Năm học

Tiểu học

PTCS

THCS

PTTH

Tổng cộng

1990 -1991


0

727

0

51

778

1991-1992

179

488

120

53

840

1992 -1993

267

420

180


53

920

1993 - 1994

325

365

245

54

989

1994 -1995

441

256

360

54

2081

Nguồn: Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa

Từ bảng số liệu trên có thể thấy số lƣợng trƣờng học ở các cấp đã có sự
thay đổi. Các trƣờng phổ thông cơ sở giảm dần nhƣờng chỗ cho việc tách ra
thành các trƣờng tiểu học và THCS. Quy mô giáo dục THCS lớn dần. Hệ
thống trƣờng PTTH khá ổn định.
Sự gia tăng số lƣợng trƣờng lớp theo hệ thống tổ chức mới đã tạo điều
kiện thuận lợi cho con em các dân tộc trong tỉnh đến trƣờng. Từ năm học
1990 - 1991, số lƣợng học sinh các cấp đã tăng liên tục. Tỉ lệ học sinh phổ
thông bỏ học đã giảm rõ rệt. Đến 1995, quy mô bậc tiểu học phát triển ổn
định, tiến tới yêu cầu phổ cập tiểu học đúng độ tuổi.
Bảng 2: Thống kê số lượng học sinh các cấp từ 1990 đến 1995
Đơn vị: Học sinh
Năm học

Tiểu học

THCS

PTTH

Tổng cộng

1990-1991

455810

112409

18595

706946


1991-1992

487647

123204

19629

758809

1992-1993

515324

145297

27863

824477

1993- 1994

536755

183831

35392

898349


1995-1996

54923

22982

43220

100268

Nguồn: Sở giáo dục và đào tạo Thanh Hóa

23


Việc xây dựng và phát triển giáo dục miền núi đã đƣợc tiến hành theo
phƣơng châm phù hợp với điều kiện, tình hình từng địa bàn. Hệ thống các
trƣờng phổ thông phát triển đều khắp. Mỗi huyện đã có trƣờng Dân tộc nội trú
ở bậc THCS và ở tỉnh cũng đã có một trƣờng Dân tộc nội trú ở bậc PTTH. Tất
cả các dân tộc đều có học sinh nội trú. Sau khi tốt nghiệp PTTH, phần lớn các
em lại đƣợc tuyển vào các trƣờng đại học dự bị để đi học cao đẳng, đại học và
trung học chuyên nghiệp.
Bên cạnh việc mở rộng quy mô, GDPT Thanh Hóa đã có sự phấn đấu
nhằm phát triển nội dung và chất lƣợng dạy, chất lƣợng học theo xu hƣớng
ngày càng hiện đại.
Ở bậc tiểu học đã ngăn chặn đƣợc tình trạng bỏ học, số lƣợng học sinh
các cấp học hàng năm đều tăng. Bên cạnh đó giáo dục tiểu học cũng có sự
tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện nội dung giáo dục toàn diện, giảng dạy đủ
các môn học. Học sinh giỏi phải thi cả hai môn: Toán và Tiếng Việt. Nhiều

trƣờng đã tổ chức đƣợc lớp học bán trú cho các em học sinh.
Nhiệm vụ phổ cập giáo dục và chống mù chữ đã đạt đƣợc kế hoạch đề ra.
Đối với công tác này, các trƣờng tiểu học phải xây dựng đƣợc một nền tiểu học
phát triển mà mấu chốt là phải huy động đƣợc 100% trẻ em đến trƣờng đúng độ
tuổi, đảm bảo chất lƣợng, khắc phục bỏ học và lƣu ban nhiều. Tỉnh đã quán triệt
đến tận cơ sở, trƣớc hết là các cấp chính quyền về nội dung, biện pháp phổ cập
giáo dục, trong đó quan trọng là phải xây dựng vững mạnh các trƣờng tiểu học.
Vì vậy mà số lƣợng và chất lƣợng phổ cập tiểu học đều thay đổi nhanh chóng.
Năm 1990 mới có 267/626 xã, phƣờng, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về phổ cập
giáo dục tiểu học và chống mù chữ. Đến cuối 1995 con số này đã tăng lên
456/630. Cũng trong năm này, Thanh Hóa có 18/23 huyện, thị xã, thành phố đạt
chuẩn quốc gia về phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ .
Về giáo dục THCS và PTTH: So với mục tiêu đào tạo thì chất lƣợng
giáo dục ở cấp này còn thấp. Nhƣng so với thời gian trƣớc đó thì cũng đã có
24


×