ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
- - - OO- - -
HOÀNG THU THỦY
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 1997 ĐẾN 2005
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:
60.22.56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học : TS. Nguyễn Bình Ban
Hà Nội- 2007
MỤC LỤC
Mở đầu ............................................................................................................... 3
Chƣơng 1: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc từ 1997 đến 2000 .......................................................................................... 9
1.1. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trước 1997... 9
1.1.1. Đặc điểm tỉnh Thái Nguyên ảnh hưởng tới quá trình đề ra chủ trương và
thực thi chính sách dân tộc .................................................................................. 9
1.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta và việc quán triệt thực hiện
chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trước năm 1997 ................................. 17
1.2. Chủ trương, chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên và sự chỉ
đạo thực hiện từ 1997 đến 2000 ........................................................................... 24
1.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên với định hướng lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc ................................................................................................................. 24
1.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
từ 1997 đến 2000 ................................................................................................. 30
Chƣơng 2: Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc từ 2001 đến 2005 .......................................................................................... 38
2.1. Bối cảnh lịch sử những năm đầu thế kỷ XXI ảnh hưởng tới quá trình lãnh
đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên ........................ 38
2.1.1. Thuận lợi ................................................................................................... 38
2.1.2. Khó khăn ................................................................................................... 40
2.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc từ 2001 đến 2005 ............................................................................. 42
2.2.1. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên vận dụng và cụ thể hóa chủ trương của Đảng
Cộng sản Việt Nam về chính sách dân tộc ........................................................... 42
2.2.2. Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc
từ 2001 đến 2005 ................................................................................................. 48
1
Chƣơng 3: Thành tựu, hạn chế và kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005 ....................... 69
3.1. Thành tựu và hạn chế .................................................................................... 69
3.1.1. Thành tựu .................................................................................................. 69
3.1.2. Hạn chế...................................................................................................... 76
3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu về lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên .................................................................................. 80
3.2.1. Kết hợp chặt chẽ sự giúp đỡ của Trung ương, tương trợ của các địa
phương khác, với tinh thần nỗ lực tự thân trong thực hiện chính sách dân tộc...... 80
3.2.2. Phát huy sức mạnh của hệ thống chính trị địa phương nhất là ở cấp cơ sở
trong thực hiện chính sách dân tộc ....................................................................... 82
3.2.3. Phải xác định được trọng tâm, trọng điểm để đầu tư các nguồn lực, tạo ra
các bước phát triển đột phá .................................................................................. 85
3.2.4. Mỗi tổ chức Đảng và Đảng viên phải thấm nhuần sâu sắc phương châm
hướng về cơ sở, hướng về cộng đồng dân cư trong quá trình thực hiện chính
sách dân tộc ......................................................................................................... 88
3.2.5. Phát huy mạnh mẽ vai trò chủ thể của đồng bào dân tộc thiểu số trong
việc thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn cơ sở ................................................ 90
Kết luận .............................................................................................................. 92
Danh mục tài liệu tham khảo ............................................................................ 95
Phụ lục ............................................................................................................... 100
2
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc từ lâu và hiện nay vẫn là một trong
những vấn đề phức tạp trên thế giới. Từ thập niên cuối của thế kỷ XX và những
năm đầu của thế kỷ XXI, các biến cố trên thế giới đã nói lên vấn đề dân tộc vẫn là
vấn đề thời sự nóng bỏng của nhân loại. Do đó, việc tìm kiếm con đường giải quyết
vấn đề dân tộc luôn được các nhà chính trị và khoa học trên thế giới đặc biệt quan
tâm.
Ở Việt Nam, từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập đến nay, vấn đề dân
tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong đường lối của Đảng ở các thời kỳ,
không chỉ nhằm phục vụ cho các nhiệm vụ chính trị trước mắt, mà còn xuất phát từ
bản chất của cuộc cách mạng do con người và vì con người. Mức độ hiện thực hoá
chính sách dân tộc trong cuộc sống tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố, trong đó có năng
lực cụ thể hoá và tổ chức thực hiện của tổ chức Đảng và chính quyền từng địa phương. Do đó, nghiên cứu tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở từng địa phương
sẽ cho thấy tính lịch sử- cụ thể về quá trình chuyển tải chính sách dân tộc của Đảng
vào thực tiễn của mỗi đơn vị hành chính lãnh thổ.
Thái Nguyên là một tỉnh có 8 dân tộc cư trú xen kẽ: Kinh, Tày, Nùng, Dao,
Sán Dìu, Sán Chay, Hmông, Hoa. Các dân tộc thiểu số chiếm 24,76% trong tổng số
dân cư toàn tỉnh. Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng ngàn năm,
các dân tộc thiểu số đã gắn bó, đoàn kết cùng dân tộc Kinh, tạo thành một khối cộng
cư, cộng lợi, cộng cảm và cộng mệnh, với sự thống nhất trong đa dạng về văn hoá
tộc người. Với đặc điểm kết cấu dân cư nêu trên, việc lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong chức năng lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên ở các thời kỳ lịch sử. Thực hiện tốt chính sách dân tộc mới củng
cố được khối đại đoàn kết toàn dân, giữ vững ổn định chính trị, phát huy sức mạnh
nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Do có tầm quan trọng đặc biệt về
3
phương diện địa- chính trị đối với toàn vùng Đông Bắc và Thủ đô Hà Nội, nên thực
hiện chính sách dân tộc của Thái Nguyên không chỉ có ý nghĩa tự thân, mà còn ảnh
hưởng đến cục diện phát triển chung của đất nước.
Ý thức được điều đó, trong suốt tiến trình cách mạng, đặc biệt từ khi tái lập
tỉnh (1997) đến nay, Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên rất coi trọng lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc, như xoá đói giảm nghèo, định canh định cư, phát triển kinh tế,
chăm lo đời sống của nhân dân, bảo vệ phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, củng
cố cơ sở chính trị trong quần chúng. Bên cạnh những thành công đã đạt được, trong
quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở Thái Nguyên cũng bộc lộ những hạn chế
cần phải được nhận diện đầy đủ. Đó là: khoảng cách chênh lệnh về trình độ phát
triển giữa dân tộc thiểu số và đa số tiếp tục bị đẩy ra xa thêm; bản sắc văn hoá các
dân tộc bị xói mòn; đội ngũ cán bộ dân tộc vừa yếu về năng lực vừa bất hợp lý về
cơ cấu; môi trường sinh thái bị đe dọa nghiêm trọng; tín ngưỡng- tôn giáo diễn biến
phức tạp,.. những vấn đề đó có ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống an ninh và an
sinh của đồng bào các dân tộc.
Diễn biến vấn đề dân tộc ở Thái Nguyên cần được nhìn nhận khách quan
toàn diện, không chỉ từ góc độ của các nhà tổ chức thực tiễn, mà đặc biệt từ lăng
kính của người nghiên cứu. Trên cơ sở tư duy và phương pháp khoa học cho phép
đúc kết các kinh nghiệm hữu dụng phục vụ quá trình hoàn thiện chính sách dân tộc,
khắc phục những cách nhìn phiến diện khi tổng kết, đánh giá tình hình thực hiện
chính sách dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên.
Do đó, việc thực hiện đề tài “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005” là rất cần thiết, xét trên cả phương diện khoa
học và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
4
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
luôn được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm. Mỗi thời kỳ lịch sử, trước yêu cầu
của nhiệm vụ chính trị mới đòi hỏi, Đảng lại có chủ trương, chính sách, giải pháp
mới phù hợp. Chính vì vậy, vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng luôn được giới lý luận và các nhà lãnh đạo quan tâm nghiên cứu. Trên phạm vi cả nước đã
có nhiều công trình đề cập đến vấn đề này ở những góc độ khác nhau. Nhìn một
cách tổng thể, các công trình nghiên cứu liên quan có thể chia thành những nhóm
chủ yếu sau:
Nhóm thứ nhất: Sự tổng kết của Đảng Cộng sản Việt Nam, rút kinh nghiệm,
đề ra đường lối, chủ trương chính sách dân tộc ở nước ta. Sự tổng kết đó được phản
ánh trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII, IX, một số Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương, Nghị quyết Bộ chính trị,... Đây là những quan điểm đánh
giá chính thức của Đảng ta về quá trình lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc.
Nhóm thứ hai: Những nghiên cứu tổng quan về các dân tộc thiểu số ở Việt
Nam. Đáng chú ý trong số này là: “Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam” của
Đặng Nghiêm Vạn; “Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế xã hội ở miền
núi” của Bế Viết Đẳng (Chủ biên); “Xóa đói giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số
nước ta hiện nay- thực trạng và giải pháp của Hà Quế Lâm; “ Dân số và dân số tộc
người ở Việt Nam” của Khổng Diễn; “Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay- Vấn
đề và giải pháp” của Trịnh Quốc Tuấn (Chủ biên); “Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay của Phan Hữu Dật.... Có thể
thống kê nhiều hơn nữa những công trình loại này, song đây là những nghiên cứu
tổng hợp, nên chỉ mang đến những nhận định khái quát về đặc điểm địa lý, văn hóa
xã hội, về thành phần dân tộc và sự phân bố các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Từ đó
rút ra một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn về đời sống của đồng bào
5
các dân tộc thiểu số, đồng thời đóng góp cơ sở khoa học cho việc thực hiện tốt hơn
chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nhóm thứ ba: Những nghiên cứu về chính sách dân tộc của Đảng và nhà
nước ta. Tiêu biểu trong số này có các công trình: “Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta” (Tập bài giảng), Phân viện Hà Nội, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh; “Chính sách và chế độ pháp lý đối với đồng bào
dân tộc và miền núi”, Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; “Hệ thống các văn bản
chính sách dân tộc và miền núi (tập 2) Về kinh tế- xã hội”, Ủy ban dân tộc và miền
núi; “Vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam”, Ban Tư tưởng- Văn hóa Trung ương; “Một số vấn đề cần biết về dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta”, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Nhìn
chung, đây là những tài liệu cơ bản cung cấp cho cán bộ Đảng viên và nhân dân
nhận thức đúng, hiểu được những nội dung cơ bản nhất về dân tộc và quan hệ dân
tộc cũng như những chính sách dân tộc đúng đắn, nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta, qua đó góp phần thực hiện nhiệm vụ xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Nhóm thứ tư: Một số luận án Tiến sỹ, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian qua và hiện nay trên phạm vi cả nước
có một số đề tài nghiên cứu việc thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở một số
địa phương cụ thể như ở Lâm Đồng, Ninh Thuận... Ngoài ra, còn có nhiều bài viết
đăng trên các tạp chí đã đề cập đến giải quyết vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, có một số các Nghị quyết của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân,
các báo cáo tổng kết của Uỷ ban nhân dân tỉnh, của các ngành, các cơ quan đề cập
đến những thành công, hạn chế và các giải pháp trong việc thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng ở từng địa phương.
6
Các công trình nghiên cứu trên nói chung đều khẳng định vai trò to lớn và
sự đúng đắn, nhất quán của Đảng trong việc đề ra và lãnh đạo thực hiện chính sách
đối với các dân tộc thiểu số trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, trong cách
mạng xã hội chủ nghĩa cũng như trong công cuộc đổi mới hiện nay. Những công
trình và báo cáo nêu trên là những nguồn tư liệu quý, cung cấp cơ sở thực tiễn và
cách tiếp cận về chính sách dân tộc và tình hình thực hiện chính sách dân tộc ở nước
ta.
Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập một cách
đầy đủ, có hệ thống vấn đề “Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc từ 1997 đến 2005” dưới góc độ tiếp cận của khoa học Lịch sử Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục đích của luận văn là làm rõ quá trình và
vai trò của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chính sách
dân tộc ở Thái Nguyên từ năm 1997 đến 2005.
3.2. Nhiệm vụ của đề tài
- Hệ thống hoá các chủ trương của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên về lãnh đạo
thực hiện chính sách dân tộc trên địa bàn tỉnh từ 1997 đến 2005.
- Đánh giá khách quan, toàn diện quá trình tổ chức chỉ đạo thực thi chính
sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ 1997 đến 2005.
- Rút ra thành công, hạn chế và kinh nghiệm về sự lãnh đạo của Đảng bộ
tỉnh Thái Nguyên đối với quá trình thực hiện chính sách dân tộc từ 1997 đến 2005.
4. Đối tƣợng và phạm vi của đề tài
4.1. Đối tượng của đề tài
7
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là hệ thống chủ trương, chính sách và
biện pháp tổ chức thực thi chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên từ
1997 đến 2005.
4.2. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian:
Nghiên cứu từ 1997 đến 2005. Năm 1997 là năm tái lập tỉnh Thái Nguyên,
sau một thời gian hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Năm 2005 là năm
diễn ra Đại hội Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lần thứ XVII (tháng 12- 2005).
- Về không gian:
Nghiên cứu sự vận dụng, cụ thể hóa chính sách dân tộc và tổ chức thực
hiện chính sách dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh, trong đó tập trung nghiên cứu, khảo
sát trên địa bàn một số huyện (xã) trọng điểm.
- Về nội dung:
Chính sách dân tộc có nội dung rất rộng, thể hiện trên tất cả các mặt chính
trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh..., đề tài chỉ giới hạn ở bốn nhóm
chính sách chủ yếu: chính sách kinh tế (xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế),
chính sách chăm lo trí lực và thể lực (giáo dục - đào tạo, y tế, nâng cao đời sống vật
chất), chính sách bảo tồn và phát huy bản sắc văn hoá các dân tộc, chính sách cán
bộ dân tộc thiểu số.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tư liệu
- Văn kiện kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc; quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
về vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc.
- Các nguồn tư liệu thành văn có liên quan đến vấn đề dân tộc và tư liệu
khảo sát điền dã. Đó là các văn kiện của Đảng, Nhà nước và Đảng bộ tỉnh Thái
8
Nguyên, báo cáo của các cơ quan ban, ngành trong tỉnh; những công trình nghiên
cứu của các tác giả liên quan đến đề tài luận văn; niên giám thống kê hàng năm của
Trung ương và địa phương.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu là phương pháp lịch sử,
phương pháp lôgíc. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phân
tích, so sánh... để đối chiếu, bảo đảm độ chính xác, tin cậy của các dữ liệu trong
luận văn, đồng thời làm cơ sở cho những nhận định và khái quát vấn đề.
6. Những đóng góp mới của luận văn
- Cung cấp một cách khách quan, toàn diện tình hình thực hiện chính sách
dân tộc ở tỉnh Thái Nguyên và đóng góp thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu, giảng
dạy các nội dung liên quan đến chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Các nhận định, kết luận và kinh nghiệm được đúc rút sẽ góp phần cung
cấp luận cứ khoa học để tiếp tục hoàn thiện các giải pháp thực hiện chính sách dân
tộc của Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên trong tình hình mới
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương, 6 tiết.
9
CHƢƠNG 1
ĐẢNG BỘ TỈNH THÁI NGUYÊN LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
CHÍNH SÁCH DÂN TỘC TỪ 1997 ĐẾN 2000
1.1. TÌNH HÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC Ở ĐỊA BÀN
THÁI NGUYÊN TRƢỚC 1997
1.1.1. Đặc điểm tỉnh Thái Nguyên ảnh hƣởng tới quá trình đề ra chủ
trƣơng và thực thi chính sách dân tộc
Thái Nguyên là tỉnh thuộc khu vực miền núi và trung du Bắc Bộ, là trung
tâm của vùng Đông Bắc, có vị trí tiếp giáp với đồng bằng Bắc Bộ và miền núi phía
Bắc, là vùng nối giữa thủ đô Hà Nội với các tỉnh miền núi phía Bắc. Trong quá trình
lịch sử, địa danh và địa giới Thái Nguyên cũng có nhiều sự thay đổi.
Vào thời Hùng Vương vùng đất Thái Nguyên thuộc bộ Vũ Định, một trong
15 bộ của nước Văn Lang. Vào thế kỷ X- thời nhà Đinh, Tiền Lê đã chia đất nước
ra làm 10 đạo, đến năm 1010 khi Lý Thái Tổ lên ngôi thay đổi 10 đạo thành 24 lộ,
các vùng xa xôi gọi là châu, Thái Nguyên là một trong các châu thời ấy. Tới thời
Minh Mạng thứ 12 (1831) đất nước được chia thành các tỉnh hạt, từ đó trấn Thái
Nguyên được đổi thành tỉnh Thái Nguyên. Vào thời thuộc Pháp, năm 1900 chính
quyền thực dân cho tách phủ Thông Hóa ra thành tỉnh Bắc Kạn gồm 5 huyện: Na
Rì, Chợ Rã, Ngân Sơn, Chợ Đồn và Bạch Thông.
Ngày 21/4/1965, Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định hợp nhất hai tỉnh
Thái Nguyên và Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái. Năm 1985 thành lập thêm một đơn
vị hành chính là thị xã Sông Công.
Ngày 6/11/1996, tại kỳ họp thứ 10, khóa IX Quốc hội nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đã ra nghị quyết về việc phân chia lại địa giới hành chính
một số tỉnh và Bắc Thái lại được tách thành hai tỉnh Thái Nguyên và Bắc Kạn. Kể
10
từ ngày 1/1/1997, các đơn vị hành chính của tỉnh Thái Nguyên chính thức đi vào
hoạt động [3, tr.11- 12].
Ngày 22/12/1996, Bộ Chính trị ra Quyết định 131/QĐNS/TW về việc kết
thúc hoạt động của Đảng bộ và Tỉnh ủy Bắc Thái, đồng thời thành lập Đảng bộ Thái
Nguyên và chỉ định Ban Chấp hành lâm thời. Đảng bộ Thái Nguyên chính thức đi
vào hoạt động từ ngày 1/1/1997.
Như vậy, sau 30 năm hợp nhất với tỉnh Bắc Kạn thành tỉnh Bắc Thái, năm
1997, tỉnh Thái Nguyên được tái lập với diện tích tự nhiên là 3.541,1 km2 [6, tr.11],
gồm 9 đơn vị hành chính: các huyện Định Hóa, Võ Nhai, Phú Lương, Đại Từ, Đồng
Hỷ, Phổ Yên, Phú Bình, thị xã Sông Công, thành phố Thái Nguyên, với 177 xã,
phường, thị trấn (trong đó có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, chiếm 71,18%).
Dân số vào thời điểm cuối năm 1997 là 1.040.123 người [25, tr.3], thuộc 8 thành
phần dân tộc: Kinh, Tày, Nùng, Sán Dìu, Sán Chí, Dao, Hmông, Hoa. Toàn Đảng
bộ có 44.449 đảng viên sinh hoạt ở 651 đảng bộ cơ sở [25, tr.4].
Thái Nguyên có giới hạn từ 20020’ vĩ tuyết bắc đến 22003’ vĩ tuyết bắc và
từ 105028’ kinh tuyến đông đến 106014’ kinh tuyến đông; có diện tích tự nhiên
3.541,1 km2; Phía Bắc giáp Bắc Kạn, phía Nam giáp thủ đô Hà Nội, phía Đông giáp
Lạng Sơn, Bắc Giang, phía Tây giáp Vĩnh Phúc, Tuyên Quang [29, tr.37- 38]. Thái
Nguyên nằm gọn trong vành đai nhiệt đới, gần chí tuyến Bắc hơn xích đạo nên có
sự khác biệt về hai mùa khá rõ rệt; về độ dài ban ngày, ban đêm; về nhiệt độ trung
bình mùa; chịu ảnh hưởng mạnh của khí hậu lục địa châu Á, nhất là về mùa đông,
đồng thời vẫn chịu ảnh hưởng mạnh của biển Đông và vịnh Bắc Bộ qua gió mùa
mùa hạ và bão.
Thái Nguyên có hình dáng cân đối, đường quốc lộ 3 và sông Cầu gần như
trục đối xứng chạy dọc thung lũng suốt từ Bắc xuống Nam tỉnh. Lãnh thổ không có
chỗ nào quá hẹp hoặc phình rộng so với lộ trục; địa hình chủ yếu là đồi núi thấp
11
chạy theo hướng Bắc- Nam, thấp dần từ Bắc xuống Nam. Bao quanh phía Tây Nam
và phía Bắc là những dãy núi Tam Đảo, Ngân Sơn, Bắc Sơn.
Nhìn tổng thể, tự nhiên Thái Nguyên phân hóa thành 3 vùng:
Vùng núi phía tây và tây bắc tỉnh: gồm Đại Từ, Định Hóa và các xã tây Phú
Lương, là khu vực được hình thành sớm. Các thung lũng sông rộng, giao thông
thuận lợi, là vùng núi không quá khó khăn, có nhiều điều kiện tự nhiên thuận lợi để
khai thác và phát triển kinh tế.
Vùng núi phía Đông: Đồng Hỷ, Võ Nhai, địa hình phức tạp, hiểm trở, có
nhiều núi đá vôi. Thung lũng sông suối hẹp, sâu, mật độ sông ngòi thưa thớt. Đây là
vùng núi cao, giao thông đi lại rất khó khăn, tự nhiên có trở ngại lớn đến phát triển
kinh tế- xã hội của vùng.
Vùng có địa hình thấp gồm nam Phú Lương, tây Đồng Hỷ, thành phố Thái
Nguyên, Phú Bình, Phổ Yên, Sông Công. Vùng đồi trung du xen với đồng bằng phù
sa sông Cầu, sông Công. Đây là vùng dân cư đông đúc, giao thông thuận lợi cả
đường bộ, đường sông, đường sắt; vùng có lịch sử tồn tại và phát triển kinh tế- xã
hội lâu đời [29, tr.37- 38].
Trải qua hàng ngàn năm với bao biến động thăng trầm của lịch sử, Thái
Nguyên đã trở thành mảnh đất hội tụ của nhiều dân tộc với sự đa dạng về văn hóa
các tộc người.
Thái Nguyên ngày nay gồm 8 dân tộc chung sống xen kẽ, có dân tộc vốn là
người bản địa có mặt từ xa xưa, có dân tộc mới nhập cư, song tất cả đều hòa nhập
thành một cộng đồng thống nhất, cùng sống xen kẽ trên một lãnh thổ với một nền
văn hóa chung về đặc điểm nhưng đa dạng về hình thái biểu hiện. Điều này do các
dân tộc có nhiều nguồn gốc sinh thái, nhân văn hợp lại, cùng chung một tiến trình
phát triển lịch sử, văn hóa và kinh tế. Về ngôn ngữ các dân tộc ở Thái Nguyên thuộc
vào 4 nhóm: Người Kinh (nhóm ngôn ngữ Việt- Mường), Người Tày, Nùng, Sán
12
Chay (nhóm ngôn ngữ Tày- Thái), Người Hmông, Dao (nhóm ngôn ngữ HmôngDao), Người Hoa, Sán Dìu (nhóm ngôn ngữ Hán).
Kết cấu dân tộc ở Thái Nguyên gồm: Kinh 73,49%, Tày 10,15%, Nùng
5,22%, Sán Dìu 3,57%, Sán Chay 2,79%, Hoa 2,24% Dao 2,08%, Hmông 0,46%.
Toàn tỉnh có 125 xã, thị trấn miền núi, vùng cao, trong đó có 41 xã đặc biệt khó
khăn và An toàn khu. Các dân tộc thiểu số sống xen kẽ, phấn bố không đồng đều
trong từng bản, làng, tập trung đông ở các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa. Có
những xóm, bản chỉ có một dân tộc: dân tộc Tày 267 xóm, bản; Sán Chay 64 xóm,
bản; Sán Dìu 56 xóm, bản; Dao 57 xóm, bản; Nùng 42 xóm, bản; Hmông 13 xóm,
bản [41, tr.1].
Dân tộc Kinh (hay còn gọi là Việt) có tỷ lệ 73,49%. Đây là dân tộc mang
nguồn gốc bản địa, chiếm số lượng đông nhất. Dân tộc Kinh từ trước đây gồm nhiều
bộ phận hợp thành: dân bản địa, dân được tuyển mộ vào làm trong các mỏ đồn điền,
có bộ phận là người di cư từ các vùng đồng bằng lên. Địa bàn cư trú của người Kinh
tập trung ở các huyện phía Nam, như Phú Bình, Phổ Yên, thị xã Sông Công và
thành phố Thái Nguyên, đồng thời cũng trải rộng trên các vùng miền và sống xen kẽ
cùng các dân tộc khác. Vốn cư trú ở vùng thấp, người Kinh quen với nghề trồng lúa
nước, hoạt động nông nghiệp kết hợp chặt chẽ với các nghề thủ công truyền thống,
nghề sông nước. Người Kinh không chỉ giàu tập quán kinh nghiệm sản xuất mà còn
có khả năng tiếp thu nhanh các tiến bộ kỹ thuật, do đó trình độ văn hóa, khoa học kỹ
thuật trong cộng đồng người Kinh đã có nhiều tiến bộ. Vốn văn hóa truyền thống
của người Kinh hết sức phong phú, đặc sắc và luôn được bảo tồn phát huy. Ngày
nay, tổ chức làng xã của người Kinh ở Thái Nguyên vẫn mang những nét đặc thù
tiêu biểu của cơ cấu xã hội Việt Nam.
Dân tộc Tày có tỷ lệ thấp hơn, xếp thứ hai sau dân tộc Kinh, địa bàn cư trú
của người Tày rộng khắp trong phạm vi toàn tỉnh, song chủ yếu ở những huyện
13
miền núi, vùng cao: Định Hóa, Phú Lương, Đại Từ, Võ Nhai. Tổ tiên của người Tày
vốn là cư dân bản địa ở Bắc Việt Nam và miền giáp gianh biên giới Việt- Trung.
Người Tày có nền nông nghiệp khá phát triển, ngoài việc trồng lúa, đồng bào còn
trồng ngô, khoai, sắn, và các loại cây lương thực, rau quả. Bên cạnh đó, người Tày
còn rất khéo tay trong các nghề thủ công đan lát mây tre. Người Tày có vốn văn
nghệ dân gian truyền thống hết sức phong phú với đủ các loại thơ, ca, múa,
nhạc...Tục ngữ, ca dao chiếm một khối lượng đáng kể, các làn điệu dân ca phổ biến
nhất là hát lượn, hát đám cưới, ru con...
Dân tộc Nùng ở Thái Nguyên có 54.383 người, chiếm 5,22% dân số toàn
tỉnh. Người Nùng có nhiều chi tộc: Nùng Phàn Sình, Nùng Cháo, Nùng Inh. Phạm
vi cư trú của người Nùng ở tất cả các huyện, thị trong tỉnh nhưng tập trung đông
nhất là ở Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ. Người Nùng trồng lúa và ngô, ngoài ra còn
trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả; các nghề thủ công đã phát triển như nghề
dệt, mộc, đan lát... Người Nùng có vốn văn nghệ dân gian đặc sắc phong phú (thơ,
truyện thơ, truyện cổ).
Dân tộc Dao sống tập trung ở huyện Đại Từ, rồi đến Đồng Hỷ, Phú Lương,
Võ Nhai. Ở Thái Nguyên có 4 nhóm Dao chính là: Dao đỏ, Dao Tiền, Dao Lô
Gang, Dao Quần chẹt. Người Dao trồng lúa nương và làm ruộng nước, ngoài ra họ
còn trồng màu, một số nghề thủ công cũng phát triển: dệt vải, rèn nông cụ, mộc...
Văn hóa Dao có nhiều nét độc đáo đặc biệt là y học dân tộc cổ truyền, vốn văn nghệ
đặc sắc...
Dân tộc Sán Dìu còn có tên gọi khác là Trại, Trại Đất, Mán Quần Cộc, sống
tập trung ở các huyện Đồng Hỷ, Phú Lương, Đại Từ, Phú Bình và thành phố Thái
Nguyên. Người Sán Dìu chủ yếu làm ruộng nước, một phần làm nương, soi, bãi,
ngoài ra họ chăn nuôi, khai thác lâm sản, làm gạch ngói, đan lát... Thơ ca dân gian
của người Sán Dìu rất phong phú, họ dùng thơ ca trong sinh hoạt hát đối nam nữ
14
“Soọng cô”, kể truyện, chủ yếu là chuyện thơ khá đặc sắc. Các điệu múa thường
xuất hiện trong các nghi lễ tôn giáo và trong đám ma.
Dân tộc Sán Chay còn được gọi là Cao Lan- Sán Chỉ, sớm định cư, họ sống
chủ yếu bằng nghề nông, vừa làm nương rẫy, vừa chăn nuôi gia cầm, gia súc. Người
Sán Chay có nhiều truyện cổ, thơ, ca, hò vè, tục ngữ, ngạn ngữ...
Dân tộc Hmông mới nhập cư vào Thái Nguyên từ 2- 3 thế kỷ trở lại đây.
Người Hmông có các nhóm người: Mông Đơ (Mông Trắng), Mông Lèng (Mông
Hoa), Mông Sí (Mông Đỏ), Mông Đú (Mông Đen), Mông Súa (Mông Mán). Người
Hmông thường cư trú ở rẻo cao, có kỹ thuật trồng tỉa thích nghi với cuộc sống ở
vùng núi. Người Hmông giỏi trồng ngô và lúa nương, ngoài ra họ còn chăn nuôi
trâu, bò, ngựa, chó, gà...Nhạc cụ của người Hmông có khèn và đàn môi khá đặc sắc.
Dân tộc Hoa là tộc người có số lượng ít hơn cả, họ cần cù lao động, giỏi
nông nghiệp và cả nghề thủ công, buôn bán... người Hoa thích hát “Sơn ca”, ca kịch
cũng là hình thức nghệ thuật mà họ rất ưa chuộng...[2, tr.19- 20].
Thái Nguyên vừa là cái nôi, điểm hội tụ nền văn hóa đặc sắc của các dân
tộc thiểu số cư trú trong vùng lại vừa là nơi giao lưu, hội nhập với nền văn hóa của
cộng đồng các dân tộc khác tạo nên văn hóa phong phú, đa dạng và đậm đà bản sắc
văn hóa dân tộc. Văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của các dân tộc ở Thái
Nguyên góp phần không nhỏ vào nền văn hóa của đại gia đình các dân tộc Việt
Nam.
Trong kho tàng văn hóa phi vật thể, văn hóa dân gian truyền miệng của
Thái Nguyên thực sự đặc sắc, gồm nhiều thể loại: truyền thuyết địa danh, truyện cổ
tích, truyện thơ. Phong phú hơn cả là kho tàng ca dao, tục ngữ, thành ngữ, câu đố...
Dân ca của các dân tộc với những làn điệu đặc trưng như hát “Gỗu plềnh” (hát giao
duyên) của người Hmông, hạt “Sli, lượn” (hát trữ tình) của người Tày, Nùng... Bên
cạnh đó còn phải kể đến sự phong phú của nền dân vũ dân tộc; những bộ trang phục
15
với những đường nét hoa văn khéo léo ; những nhạc cụ rất phong phú: khèn, đàn
môi, đàn tính... Mỗi dân tộc đều có những phong tục tập quán riêng trong việc cưới,
việc tang, trong thờ cúng, lễ hội...
Văn hóa vật chất của Thái Nguyên cũng rất đa dạng, bao gồm: các khu di
tích lịch sử ở Thái Nguyên là niền tự hào và là tài sản vô giá phản ánh truyền thống
đấu tranh kiên cường trong dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Đến nay
chúng ta còn lưu giữ được rất nhiều chứng cứ vật chất để xác định đã có sự sống
của loài người cách đây chừng 2-3 vạn năm, đó là khu di tích lịch sử văn hóa Thần
Sa (huyện Võ Nhai), khu di tích lịch sử Núi Văn- Núi Võ (Huyện Đại Từ)...; Do cư
trú ở các vùng có đặc điểm về địa lí khác nhau nên văn hóa kiến trúc của các dân
tộc Thái Nguyên cũng có những sắc thái riêng. Mỗi dân tộc có tập quán kiến trúc
nhà cửa khác nhau; Văn hóa ẩm thực của đồng bào ở đây cũng rất đa dạng: ngày tết
người Kinh làm bánh chưng, người Tày làm bánh Tầy...
Trong công cuộc đổi mới, với đường lối chính sách đúng đắn của Đảng và
Nhà nước, nền văn hóa Thái Nguyên có điều kiện vừa bảo tồn phát huy truyền
thống văn hóa của các dân tộc mình, vừa tiếp thu tinh hoa của các dân tộc từ các
vùng miền trong cả nước, góp phần tạo nên một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc [29, tr.25- 28].
Sự chuyển đổi cơ chế quản lí nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang
kinh tế thị trường được thực hiện từ 1986, sau 20 năm khởi động, đến nay nền kinh
tế Thái Nguyên đang đi dần vào thế ổn định và có tăng trưởng khá.
Với vị trí địa lí thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú, đây là những
điều kiện thuận lợi để Thái Nguyên có cơ hội phát triển nền kinh tế trên các lĩnh
vực nông- lâm- công nghiệp.
Nông nghiệp: Thái Nguyên thuộc vùng đất trung du và miền núi, có nhiều
loại đất đai phù hợp với nhiều loại cây trồng, đặc biệt là cây công nghiệp. Trong
16
trồng trọt, cơ cấu cây lương thực vẫn là chủ yếu song đang dịch chuyển theo xu
hướng giảm dần tỷ lệ, thay vào đó là cây công nghiệp và cây thực phẩm. Đặc biệt,
cây chè là cây công nghiệp quan trọng và được coi là cây trồng chủ lực, mũi nhọn vì
đó là cây có giá trị kinh tế ổn định nhất trên vườn đồi của tỉnh Thái Nguyên. Hiện
nay, chè là một trong những nông sản xuất khẩu chủ yếu của tỉnh.
Trong nền kinh tế tự cấp, tự túc lâu đời của nông nghiệp Thái Nguyên, chăn
nuôi trước đây chưa được coi là một ngành sản xuất độc lập, nó chủ yếu đóng vai
trò bổ trợ cho trồng trọt. Qua một thời gian phát triển chậm chạp, hiện nay chăn
nuôi ở Thái Nguyên cũng đã có bước phát triển và tăng trưởng về giá trị sản xuất
cũng như giá trị tăng trưởng (GDP) ở tất cả các chủng loại vật nuôi.
Lâm nghiệp: Thái nguyên có diện tích đất tự nhiên 356.663 ha trong đó đất
lâm nghiệp 119.855 ha chiếm 34%. Tất cả các đơn vị huyện, thành, thị trong tỉnh
đều có diện tích đất rừng tự nhiên và đất rừng trồng. Tuy vậy, những năm trước đây,
rừng tự nhiên bị khai thác bừa bãi cộng với việc đốt rừng làm nương và việc bảo vệ
rừng chưa được đảm bảo nên hậu quả để lại là rừng cây bị cạn kiệt. Trong những
năm gần đây, tỉnh Thái Nguyên đã có chủ trương phát triển kinh tế đồi rừng gắn với
việc ổn định và cải thiện đời sống nhân dân miền núi, trước mắt cần tập trung giao
đất giao rừng, kết hợp giữa trồng rừng và trồng cây ăn quả, cây công nghiệp.
Công nghiệp: Công nghiệp có vai trò làm động lực trong guồng máy kinh tế
quốc dân của tỉnh, đóng góp khoảng 30- 40% vào GDP của tỉnh, góp phần kích
thích nhu cầu sử dụng nguyên liệu, máy móc, thiết bị; nuôi dưỡng các hoạt động
thương mại và vận tải; khai thác các nguồn đầu tư về tài chính và kĩ thuật. Ngành
công nghiệp Thái Nguyên đã được hình thành từ những năm 60 của thế kỷ XX. Đến
nay, ngành công nghiệp Thái Nguyên đã có một cơ cấu tương đối hoàn chỉnh với sự
có mặt hầu hết của các ngành công nghiệp như: năng lượng, luyện kim, cơ khí, hóa
17
chất... Trong đó công nghiệp luyện kim và sản xuất thép, phôi thép là ngành công
nghiệp chủ yếu của tỉnh.
Thái Nguyên hiện là một trung tâm giáo dục đào tạo lớn với 5 trường Đại
học (gồm Đại học Sư phạm, Đại học Công nghiệp, Đại học Nông Lâm, Đại học Y
khoa, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh) và 2 khoa tương đương (Khoa Khoa
học Tự nhiên và Xã hội, Khoa Công nghệ thông tin). Các trường chuyên nghiệp của
Trung ương và địa phương trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên gồm 8 trường trung học
chuyên nghiệp, 6 trường công nhân kỹ thuật. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
phát triển sự nghiệp giáo dục đào tạo và nghiên cứu khoa học cho các tỉnh miền núi
phía Bắc khác.
Bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng bộ Thái Nguyên quyết tâm lãnh đạo
khai thác, phát huy những thế mạnh, nắm bắt thời cơ, thuận lợi, tích cực chủ động
đẩy lùi khó khăn, thách thức để xây dựng và phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh,
xứng đáng với vị trí của một trung tâm kinh tế- xã hội của các tỉnh miền núi phía
Bắc.
Tuy nhiên, Thái Nguyên cũng gặp một số khó khăn lớn: là tỉnh miền núi
trung du, các yếu tố địa hình, thổ nhưỡng phức tạp, khoáng sản nhiều nhưng phân
tán; đồng bào các dân tộc thiểu số sống chủ yếu ở miền núi địa hình phức tạp, giao
thông đi lại không thuận lợi; Nền kinh tế chậm phát triển, chuyển dịch cơ cấu kinh
tế, cây trồng, vật nuôi chậm, sản xuất chủ yếu độc canh cây lúa, ít ngành nghề; đời
sống đồng bào các dân tộc thiểu số còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo còn chiếm tỷ
lệ cao (30,4%- theo chuẩn mới); Trình độ dân trí của các dân tộc thiểu số nhìn
chung còn thấp và không đều. Các dân tộc thiểu số cư trú trên địa bàn rộng, dân cư
thưa thớt, do vậy việc huy động vốn đối ứng để xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng
18
các công trình phúc lợi xã hội... gặp nhiều khó khăn không thể đáp ứng ngay trong
một sớm một chiều.
Nhận thức được những thuận lợi, khó khăn, trong suốt quá trình lãnh đạo,
Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên đã phát huy tính chủ động, vận dụng đúng đắn sáng tạo
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước vào điều kiện cụ thể của
tỉnh, đề ra chủ trương, biện pháp thích hợp nhằm phát huy mọi thế mạnh, khắc phục
những khó khăn, hạn chế, từng bước thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế xã hội.
Do vậy, trong những năm gần đây, đời sống đồng bào các dân tộc tỉnh Thái Nguyên
được cải thiện rõ nét: sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp phát triển;
mạng lưới các trường học, cơ sở y tế phát triển rộng khắp trong toàn tỉnh; quốc
phòng và an ninh xã hội được đảm bảo; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân
ngày càng được cải thiện.
Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta xác định phát triển kinh tế là
nhiệm vụ trung tâm trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đưa
nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt nhiệm vụ này
đòi hỏi các cấp bộ đảng, chính quyền các địa phương trong cả nước nói chung, tỉnh
Thái Nguyên nói riêng phải phát huy tính tích cực, chủ động hơn nữa để có những
quyết sách thích hợp nhằm khai thác thế mạnh, khắc phục khó khăn phát triển
nhanh và bền vững kinh tế địa phương, phát huy mọi nguồn lực trong và ngoài tỉnh,
nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân các dân tộc trong tỉnh,
làm cho nhân dân tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tạo
sức mạnh to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
1.1.2. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nƣớc ta và việc quán triệt
thực hiện chính sách dân tộc ở địa bàn Thái Nguyên trƣớc năm 1997
Vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định công tác dân tộc, chính
19
sách dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng
nước ta. Sau Cách mạng tháng Tám thành công, ngày 3 tháng 5 năm 1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 58 về tổ chức bộ máy nội vụ, trong đó có Nha dân
tộc thiểu số thuộc Bộ Nội vụ, với nhiệm vụ là xem xét các vấn đề chính trị và hành
chính thuộc về các dân tộc thiểu số trong nước và thắt chặt tình hình thân thiện giữa
các dân tộc sống trên đất nước Việt Nam. Ngày 9 tháng 9 năm 1946 Chính phủ ban
hành Nghị định số 359 thành lập Nha Dân tộc thiểu số với chức năng nhiệm vụ là
nghiên cứu và giải quyết các vấn đề liên quan đến các dân tộc thiểu số trên toàn cõi
Việt Nam để củng cố nguyên tắc bình đẳng, sự đoàn kết và tương trợ giữa các dân
tộc sống trên đất nước Việt Nam.
Trong các bản Hiến pháp của nước Việt Nam qua các thời kỳ cũng đều
khẳng định các nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Ngay
từ Hiến pháp năm 1946 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ghi: Tất cả công
dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: chính trị, kinh tế, văn hóa...
Ngoài sự bình đẳng về quyền lợi, những quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi
phương diện để nhanh chóng tiến kịp trình độ chung. Tư tưởng đó còn được thể
hiện rõ nét trong chủ trương, chính sách của Đảng. Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ II (2/1951) đã viết: Các dân tộc sống trên đất Việt Nam đều bình đẳng
về quyền lợi và nghĩa vụ, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc;
chống chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi, bài trừ mọi hành động gây hằn thù, chia rẽ giữa
các dân tộc.
Bước vào giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, chính sách
dân tộc của Đảng được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ III của Đảng. Nghị quyết nêu rõ: “Dưới sự lãnh đạo của Đảng ta, các dân tộc đa
số và thiểu số có một truyền thống đoàn kết anh em, Đảng và Nhà nước cần phải có
kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế và văn hóa ở miền núi, làm cho miền
20
núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp các dân tộc đa số, giúp các dân
tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình. Trong cán bộ cũng
như trong nhân dân, cần phải khắc phục tư tưởng dân tộc lớn và tư tưởng dân tộc
hẹp hòi, đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc để cùng nhau tiến lên chủ nghĩa xã hội”
[13, tr.192- 193].
Tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV, Đảng ta đã đưa ra quan điểm về
vùng núi và vùng đồng bào dân tộc, chính sách dân tộc trong thời kỳ cả nước quá độ
lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội chỉ rõ: Giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một
trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược của cách mạng Việt Nam, “chính
sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các
dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ
kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người và dân tộc đông người, đưa miền núi tiến kịp
miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống
ấm no, hạnh phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng
làm chủ tập thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” [14, tr.164].
Như vậy, “đoàn kết, bình đẳng, tương trợ giữa các dân tộc” là những vấn đề
quan trọng hàng đầu trong đường lối, chính sách dân tộc của Đảng. Ba nguyên tắc
cơ bản này có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động qua lại với nhau hợp thành một
thể thống nhất, vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Có bình đẳng thì mới
thực hiện được đoàn kết dân tộc; có đoàn kết, giúp nhau cùng phát triển thì mới
thực hiện được bình đẳng dân tộc. Trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
chính sách dân tộc đã thực sự trở thành cương lĩnh hành động thu hút hàng chục
triệu nhân dân thuộc các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, kết thành sức mạnh tổng hợp để
đánh bại kẻ thù là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Ngày nay, trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, chính sách dân tộc của Đảng ta là một bộ phận quan
21
trọng trong chiến lược trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa.
Chính sách dân tộc là tổng hợp những quan điểm, đường lối, chính sách của
Nhà nước được đề ra và tác động trực tiếp đến các dân tộc và quan hệ dân tộc.
Chính sách dân tộc mang bản chất giai cấp của nhà nước trong phạm vi đối nội và
đối ngoại [48, tr.99]. Chính sách dân tộc là một lĩnh vực quan trọng, mang nội dung
nhiều mặt của đời sống xã hội. Chính sách dân tộc nhằm phục vụ có hiệu quả sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phục vụ con người thuộc các tầng lớp nhân dân
các dân tộc. Chính vì vậy, chính sách dân tộc gắn liền với chiến lược con người, với
việc đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ các dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng
phải tác động làm thay đổi thực sự bộ mặt kinh tế, xã hội, văn hóa của các vùng và
các dân tộc, từng bước cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, đưa các dân tộc còn ở trình độ sản xuất và đời sống thấp từng bước đi lên chủ
nghĩa xã hội. Xây dựng và phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trong
nước trên nguyên tắc bình đẳng, đoàn kết, tự nguyện, cùng làm chủ, cùng đi lên chủ
nghĩa xã hội.
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng cho thấy: chính sách dân
tộc không tách rời chính sách kinh tế và chính sách xã hội của Đảng. Việc thực hiện
tốt chính sách dân tộc chính là thực hiện chính sách kinh tế, chính sách xã hội của
Đảng một cách thích hợp với yêu cầu phát triển kinh tế, văn hóa và điều kiện, đặc
điểm cụ thể của từng vùng dân tộc. Chính sách dân tộc của Đảng đúng đắn không
những thúc đẩy kinh tế phát triển, đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa của đồng bào
các dân tộc thiểu số, mà còn là một phương hướng tích cực nhất, chủ động nhất, có
hiệu quả nhất để chặn đứng mọi âm mưu và hành động của kẻ thù hòng chia rẽ sự
đoàn kết thống nhất của dân tộc ta, đồng thời củng cố lực lượng an ninh, quốc
phòng nước nhà, giữ gìn thế trận chiến tranh nhân dân, bảo vệ Tổ quốc.
22
Trên cơ sở tổng kết thực tiễn 10 năm thực hiện đường lối do Đại hội IV,
Đại hội V đề ra, nghiên cứu khảo nghiệm kinh nghiệm của các nước trên thế giới,
Đại hội VI của Đảng đã đề ra những quyết sách đúng đắn. Tại Đại hội VI, với tinh
thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã nghiêm
khắc kiểm điểm tình hình mọi mặt và đề ra đường lối đổi mới toàn diện, mở ra bước
ngoặt trong quá trình đi lên của cách mạnh Việt Nam.
Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chính sách dân tộc của
Đảng nhằm hướng tới sự phát triển mối quan hệ tốt đẹp giữa các dân tộc trên cơ sở
bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ nhau cùng phát triển. Để thực hiện được nguyên tắc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, Báo cáo chính trị của Đại hội VI
khẳng định: “Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh
vực nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng
đối với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi
người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những
biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi” [15, tr.98].
Về chính sách dân tộc, Đại hội xác định: “Sự nghiệp đẩy mạnh ba cuộc
cách mạng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu số đòi hỏi tăng cường công tác nghiên
cứu về dân tộc học và công tác điều tra xã hội học, hiểu biết đầy đủ những khác biệt
cụ thể của từng vùng, từng dân tộc. Trên cơ sở đó, bổ sung, cụ thể hóa và thực hiện
tốt hơn chính sách dân tộc, tránh những sai lầm rập khuôn hoặc chủ quan áp đặt
những hình thức tổ chức không phù hợp trong quá trình xây dựng và phát triển kinh
tế, văn hóa, xã hội ở những vùng dân tộc” [15, tr.97].
Đại hội đã cụ thể hóa phương hướng phát triển kinh tế ở vùng dân tộc thiểu
số: “Đầu tư thêm và tập trung sự cố gắng của các ngành, các cấp, kết hợp với động
viên tinh thần tự lực, tự cường của nhân dân các dân tộc để khai thác, bảo vệ và
phát triển thế mạnh về kinh tế ở các vùng có đồng bào dân tộc thiểu số cư trú. Đẩy
23
mạnh công tác định canh, định cư, ổn định sản xuất và đời sống của đồng bào trước
hết ở các vùng cao, biên giới, các vùng căn cứ cũ của cách mạng và kháng chiến”
[15, tr.97].
Cụ thể hóa đường lối của Đại hội VI, ngày 27 tháng 11 năm 1989, Bộ
Chính trị ra Nghị quyết 22- NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển
kinh tế- xã hội miền núi. Ngày 13 tháng 3 năm 1990, Hội đồng Bộ trưởng ban hành
Quyết định số 72- HĐBT về một số chủ trương, chính sách cụ thể phát triển kinh tếxã hội miền núi.
Từ khi có Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị và Quyết định 72- HĐBT, Nhà
nước đã dần dần tăng mức đầu tư phát triển kinh tế- xã hội cho các dân tộc ở miền
núi, đặc biệt là vùng cao, vùng xa xôi hẻo lánh, vùng căn cứ cũ theo các chương
trình, dự án. Do đó tình hình kinh tế, văn hóa, xã hội ở nhiều địa phương miền núi
đã có bước chuyển biến mới.
Tiếp tục thực hiện những quan điểm của Đại hội VI, Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VII của Đảng khẳng định: “Đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa
các dân tộc, cùng xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát
huy bản sắc tốt đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước
ta. Có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù hợp
với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các dân
tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp vào
sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước” [17, tr.77].
Có thể nói, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta mang tính tổng
hợp, toàn diện trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh,
quốc phòng.
Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề dân tộc và vận dụng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về
24