Tải bản đầy đủ (.pdf) (124 trang)

đảng cộng sản việt nam lãnh đạo công tác đối ngoại tu nam 2006 den nam 2013

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.56 MB, 124 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THỊ BÍCH THỦY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃ NH ĐẠO
CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
TƢ̀ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội-2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

LÊ THỊ BÍCH THỦY

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃ NH ĐẠO
CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI
TƢ̀ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lich
̣ sƣ̉ Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Đin
̀ h Lê

Hà Nội-2014


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan, đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình
nào.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Lê Thị Bích Thủy


LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả sau thời gian học tập và nghiên cứu của tôi tại
khoa Lịch sử, trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc
gia Hà Nội. Để có được kết quả này, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân
thành và sâu sắc đến các thầy cô giáo trong khoa Lịch sử đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu. Đặc biệt, cho tôi gửi lời cảm ơn đến
thầy – PGS.TS Nguyễn Đình Lê đã tận tình hướng dẫn tôi thực hiện đề tài
nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
LÊ THỊ BÍCH THỦY



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
ASEAN

Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á

APEC

Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương

ASEM

Diễn đàn hợp tác Á – Âu

ADB

Ngân hàng phát triển châu Á

ARF

Diễn đàn khu vực ASEAN

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

ĐCSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam


EU

Liên minh châu Âu

FDI

Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài

IMF

Quỹ tiền tệ quốc tế

Nxb

Nhà xuất bản

ODA

Viện trợ phát triển chính thức

UNDP

Chương trình Phát triển Liên hợp quốc

UNFPA

Quỹ Dân số Liên hợp quốc

UNICEF


Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc

WTO

Tổ chức thương mại thế giới

WB

Ngân hàng thế giới

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới, đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiến vào
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thắng lợi to lớn đó,
đường lối đối ngoại đóng một vai trò quan trọng.
Bước vào thế kỷ XXI, chiến tranh lạnh đã chấm dứt được mười năm,
thế giới ở trong giai đoạn quá độ tiến tới một trật tự mới. Ngay sau khi Liên
Xô tan vỡ, Mỹ bắt đầu theo đuổi mục tiêu thiết lập một thế giới đơn cực do
Mỹ đứng đầu và thao túng. Việc Mỹ lấy cớ chống khủng bố đưa ra học thuyết
quân sự mới "đánh đòn phủ đầu", bất chấp có chứng cứ hay không, rồi lại
dùng các chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền" để can thiệp vào công việc nội bộ
của các nước, phớt lờ vai trò của Liên hợp quốc khiến các nước phải cảnh
giác. Tình hình đó cho thấy, nhận định của Đại hội X: "Những cuộc chiến
tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang,

hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai, hoạt động khủng bố, những tranh chấp về
biên giới, lãnh thổ, biển đảo và các tài nguyên thiên nhiên tiếp tục diễn ra ở
nhiều nơi với tính chất ngày càng phức tạp, các mâu thuẫn lớn của thời đại
vẫn rất gay gắt..."[13, tr73-74] là hoàn toàn đúng đắn. Trong bối cảnh thế giới
hai cực bị phá vỡ, quan hệ quốc tế dường như đã chuyển từ đối đầu sang đối
thoại và nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình toàn
cầu hoá, phát triển và phụ thuộc lẫn nhau.Toàn cầu hoá về kinh tế tác động
đến mọi mặt của đời sống quốc tế theo hai chiều thuận nghịch buộc các quốc
gia, các tổ chức quốc tế không thể không tính đến trong quá trình hoạch định
đường lối đối ngoại và hoạt động ngoại giao của mình.
Tại Đại hội VI (12/1986), Đảng Cộng sản Việt Nam đã khởi xướng
công cuộc đổi mới, đến năm 1988 Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t Nam đổi mới tư duy
đối ngoại. Đường lối đối ngoại đổi mới được công bố tại diễn đàn Đại hội
VII, các Đại hội VIII, IX, X và XI đã khẳng định sự đúng đắn, sáng tạo, nhạy
4


bén trong việc hoạch định và thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng,
đồng thời bổ sung và phát triển các quan điểm trong đường lối này. Sau hơn
hai mươi lăm năm tiến hành đổi mới toàn diện, Viê ̣t Nam đã thu được nhiều
thắng lợi to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Là một bộ phận hợp thành đường lối
đổi mới của Đảng, đường lối và chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và
Nhà nước Việt Nam đã cho phép khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế,
kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chống chiến lược "diễn biến
hoà bình" của các thế lực thù địch hòng phá hoại thành quả cách mạng Việt
Nam, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và đưa cách mạng nước ta
tiếp tục tiến lên. Tuy những nguy cơ đối với nước ta mà Đảng Cô ̣ng sản Viê ̣t
Nam chỉ ra vẫn tồn tại, diễn biến ngày càng phức tạp, tác động lẫn nhau,
không thể xem nhẹ nguy cơ nào nhưng nước ta còn những cơ hội lớn được tạo
ra bởi các nhân tố như thế và lực của đất nước ta đã tăng lên sau hơn hai thập

niên đổi mới. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI nêu rõ: "Thực hiện
nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển;
đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế;
vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam XHCN giầu mạnh"[14,
tr235-236].
Những biến đổi to lớn trên thế giới và đặc biệt là trong nước trong
thời gian qua đặt ra những vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách đòi hỏi
Đảng và Nhà nước Việt Nam phải tìm ra những giải pháp ngang tầm với
những biến đổi đó. Nghiên cứu sự lãnh đạo thực hiện đường lối đối ngoại
của Đảng từ năm 2006 đến năm 2011 chẳng những làm rõ thêm đường lối đổi
mới của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà còn rút ra một số kinh nghiệm cho
công tác đối ngoại hiện nay.
Chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn hiện nay
thể hiện bản sắc, truyền thống ngoại giao Việt Nam, phong cách ngoại giao
Hồ Chí Minh - một nền tảng vững chắc của trường phái ngoại giao Việt Nam
5


hiện đại - bám sát đặc điểm tình hình thế giới và khu vực, đặc biệt là đặc
điểm tình hình trong nước cũng như nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam
trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đường lối đối ngoại đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được
nhiều nhà ngoại giao, nhiều cơ quan nghiên cứu tiến hành trong nhiều năm
qua. Những công trình chuyên khảo, luận văn nghiên cứu một cách hệ thống
vấn đề này thể hiện dưới những góc độ khác nhau. Đã có một số bài viết,
công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề này như:
Bộ Ngoại giao, “Ngoại giao Việt Nam 1945-2000”, Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội, 2000; Vũ Dương Huân, “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự

nghiệp đổi mới (1975-2002)”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002; Bộ
Ngoại giao, “Tổng kết chính sách đối ngoại và quan hệ quốc tế của Đảng và
Nhà nước ta qua 20 năm đổi mới”, Đề tài nghiên cứu khoa học trọng điểm
cấp bộ, Vụ Chính sách đối ngoại, Hà Nội, 2004; Trình Mưu - Nguyễn Thế
Lực - Nguyễn Hoàng giáp (đồng chủ biên) “Quá trình triển khai thực hiện
chính sách đối ngoại của Đại hội IX Đảng Cộng sản Việt Nam”, Nxb Lý luận
chính trị, Hà Nội, 2005; Tô Huy Rứa, Hoàng Chí Bảo, Trần KhắcViệt, Lê
Ngọc Tòng (đồng chủ biên), Nhìn lại quá trình đổi mới tư duy lý luận của
Đảng (1986-2005),Tập 2, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005; Hội đồng lý
luận Trung ương, “Tổng kết lý luận, thực tiễn 20 năm đổi mới của Đảng
(1986-2006)”, Hà Nội, 2006; Lê Công Phụng, Đinh Xuân Quý, “Ngành
ngoại giao Việt Nam trong công cuộc phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến
năm 2010, Triển vọng phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đến năm 2010”,
Nxb Thống kê, Hà Nội, 10/2007; Trình Mưu, Nguyễn Hoàng Giáp (đồng chủ
biên), “Quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại Việt Nam hiện nay (Hỏi đáp)”, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2007); Nguyễn Mạnh Hùng - Phạm
Minh Sơn (đồng chủ biên), “Đối ngoại Việt Nam: Truyền thống và hiện đại”,
Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội; 2008; Học viện Ngoại giao, Phạm Bình Minh,

6


“Định hướng chiến lược đối ngoại Việt Nam đến năm 2020”, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2010; Phạm Gia Khiêm, “Nền ngoại giao toàn diện Việt
Nam trong thời kỳ hội nhập”, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 8/2012.
Bên cạnh đó, còn có một số luận án, luận văn đã bảo vệ đề cập đến chủ
đề này: Vũ Quang Vinh, “Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối
ngoại (1986 -2000)”, Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh, 2001; Vũ Đình Công, “Chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt
Nam (1986-1995)”, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Đại học Quốc gia Hà
Nội, 1997; v.v...

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đề cập đến các khía
cạnh của đường lối đối ngoại của Đảng ta từ nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Tuy nhiên chưa có một công trình nào tổng kết, đặc tả đường lối đối ngoại
của Đảng ta trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2013. Chính vì lý do đó,
tác giả chọn đề tài “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo công tác đối ngoại
từ năm 2006 đến năm 2013” làm luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên
ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
- Hê ̣ thống, khái quát, phân tích những chủ trương, chính sách, trình
bày sự độc lập, sáng tạo của Đảng trong việc hoạch định đường lối đối ngoại
đổi mới.
- Nêu bật những nội dung , quyết sách về đối ngoại của Đảng tại Đại
hội Đảng lần thứ X (4/2006) và Đa ̣i hô ̣i Đảng lầ n thứ XI (1/2011), quá trình
chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại từ năm 2006 đến năm 2013;
những thành tựu, hạn chế và những kinh nghiệm rút ra từ hoạt động đối ngoại
trong giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2013.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn cùng nội dung những quyết sách về
đối ngoại của Đảng tại Đại hội Đảng lần thứ X (04/2006) và Đại hội Đảng lần
thứ XI (01-2011).
7


- Thành tựu và một số kinh nghiệm của Đảng trong lãnh đạo thực hiện
đường lối đối ngoại giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2013.
- Làm rõ quá trình chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách đối ngoại của
Đảng từ năm 2006 đến năm 2013 đồng thời nêu những thành tựu, hạn chế và
cả những kinh nghiệm rút ra từ tổ chức chỉ đạo cũng như hoạt động đối ngoại
của Đảng trong thời gian này.

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Nghiên cứu đường lối, chủ trương và quá trình tổ chức chỉ
đạo công tác đối ngoại của Đảng từ năm 2006 đến năm 2013.
- Phạm vi:
+ Nô ̣i dung: Làm rõ sự lãnh đạo công tác đố i ngoa ̣i của ĐCSVN.
+ Không gian : ĐCSVN lañ h đa ̣o công tác đố i ngoa ̣i ta ̣i Viê ̣t Nam
(trong và ngoài nước).
+ Thời gian: Từ năm 2006 đến năm 2013.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận: dựa vào lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về công tác đối ngoại.
- Nguồn tư liệu:
+ Các Văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư về đường lối đối ngoại.
+ Bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Bộ
Ngoại giao.
+ Một số sách, báo, tạp chí trong và ngoài nước đã xuất bản.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp luận lich
̣
sử, phương pháp lôgíc, tổng hợp, phân tích, so sánh.
6. Đóng góp của luận văn
- Hê ̣ thố ng những nô ̣i dung chủ yếu quá trình hoạch định và lãnh đạo
công tác đối ngoại của Đảng từ năm 2006 đến năm 2013.

8


- Góp phần tổng kết đường lối đối ngoại của Đảng trong hơn 25 năm
đổi mới của Việt Nam.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.

9


Chƣơng 1
CƠ SỞ ĐỂ ĐẢNG HOẠCH ĐỊNH CHỦ TRƢƠNG ĐỐI NGOẠI TƢ̀
NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2013
1.1. Cơ sở lý luận sự phát triển đƣờng lối đối ngoại của Đảng Cộng
sản Việt Nam
1.1.1. Xuất phát từ quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh về quan hệ quốc tế
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế
Chủ nghĩa Mác - Lênin là học thuyết khoa học, cách mạng về cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới là tiến
hành cuộc cách mạng xã hội để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải
phóng con người. Đây là cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, toàn diện và triệt để,
vừa mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính quốc tế. Để thực hiện thắng lợi
mục tiêu của cuộc cách mạng đó đòi hỏi các Đảng Cộng sản và công nhân phải
vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của mỗi nước.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ quốc tế tập trung ở một số luận
điểm cơ bản dưới đây:
Thứ nhất, cách mạng vô sản là cuộc cách mạng mang tính dân tộc và
tính quốc tế.
Cách mạng vô sản nhằm thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân là cuộc cách mạng xã hội sâu sắc, toàn diện và triệt để, vừa mang tính giai
cấp, tính dân tộc và tính quốc tế rộng rãi, C.Mác và Ph.Ăngghen viết: “Cuộc
đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, về nội dung không phải
là cuộc đấu tranh dân tộc. Đương nhiên là trước hết, giai cấp vô sản mỗi nước

phải thanh toán xong giai cấp tư sản nước mình đã”[7, tr 661]. Sự nghiệp cách
mạng đó chỉ có thể hoàn thành khi các Đảng cộng sản và công nhân kết hợp
chặt chẽ giữa giải phóng dân tộc với giải phóng giai cấp; đoàn kết giữa giai
cấp công nhân, các dân tộc bị áp bức và cả loài người tiến bộ trong cuộc đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc. Chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ rõ: giai cấp vô sản
10


ở mỗi nước phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc và dân chủ, đưa phong trào giải
phóng dân tộc vào quỹ đạo cách mạng vô sản. Khẩu hiệu đoàn kết quốc tế đã
được Mác - Ăngghen nêu lên: “Vô sản tất cả các nước liên hiệp lại” và sau
này được Lênin phát triển “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức
toàn thế giới đoàn kết lại”.
Thứ hai, tôn trọng, đấu tranh cho quyền bình đẳng, quyền tự quyết của
các dân tộc.
Đấu tranh cho quyền bình đẳng, quyền tự quyết của các dân tộc là một
nội dung quan trọng trong học thuyết Mác - Lênin. Nghiên cứu vấn đề dân tộc
và phong trào dân tộc trong điều kiện của chủ nghĩa tư bản, V.I. Lênin đã chỉ
rõ xu hướng khách quan của sự phát triển các dân tộc trên thế giới đấu tranh
chống áp bức dân tộc, thành lập các quốc gia dân tộc độc lập và sự liên hiệp
của các dân tộc trong một quốc gia, các dân tộc của nhiều quốc gia nhằm mở
rộng, tăng cường quan hệ kinh tế, phá bỏ ngăn cách về kinh tế giữa các dân
tộc. Hai xu thế này vận động trong một thể thống nhất, mỗi nước vừa có nhu
cầu độc lập, tự chủ… nhưng đồng thời vừa phải mở rộng quan hệ với bên
ngoài, hòa nhập với cộng đồng quốc tế và ngày càng xích lại gần nhau trên
các lĩnh vực.
Trong “Cương lĩnh dân tộc”, V.I.Lênin đã chỉ rõ: quyền bình đẳng là
quyền thiêng liêng của mọi dân tộc, là mục tiêu phấn đấu của các dân tộc trong
sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc; các dân tộc có quyền tự quyết
về chính trị và con đường phát triển cho dân tộc mình, thực hiện quyền làm chủ

vận mệnh dân tộc mình mà không một dân tộc nào được quyền dùng áp lực can
thiệp vào công việc nội bộ của dân tộc khác; đoàn kết công nhân tất cả các dân
tộc làm mục tiêu phấn đấu cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc
và giải phóng nhân loại.
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền bình đẳng, quyền tự
quyết của các dân tộc trong cách mạng vô sản là cơ sở lý luận, nền tảng tư

11


tưởng chỉ đạo các Đảng Cộng sản và công nhân, các nhà nước xã hội chủ nghĩa
giải quyết vấn đề dân tộc và quan hệ quốc tế.
Thứ ba giương cao ngọn cờ hoà bình, hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới.
Trong quan hệ quốc tế, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn giương cao ngọn cờ
hoà bình, lên án các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc đối với
các dân tộc, tích cực đấu tranh bênh vực và bảo vệ quyền lợi chân chính của
các dân tộc và coi đó là những vấn đề có tính nguyên tắc đối với một Đảng
cộng sản chân chính. Các nhà kinh điển Mácxít và những người cộng sản chân
chính phải có thái độ đấu tranh, phê phán không khoan nhượng với các trào lưu
cơ hội, xét lại, chủ nghĩa sô vanh, chủ nghĩa dân tộc đủ mọi màu sắc để bảo vệ,
phát triển tình đoàn kết, sự ủng hộ và giúp đỡ lẫn nhau của phong trào cộng sản
quốc tế với các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới.
Thứ tư, tăng cường sự phối hợp hành động của những người cộng sản
và cách mạng trong quan hệ quốc tế.
Trong hoạt động chính trị thực tiễn, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác Lênin đặc biệt quan tâm tới xây dựng tình đoàn kết và sự phối hợp hành động
chung của giai cấp công nhân, nhân dân lao động trên thế giới, sáng tạo nên
nhiều hình thức liên hệ phong trào cộng sản, công nhân quốc tế.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã trực tiếp tổ chức chỉ đạo hoạt động của Quốc
tế I, Quốc tế II tổ chức phát động phong trào công nhân quốc tế ủng hộ Công
xã Pari, bảo vệ các chiến sĩ công xã trước sự khủng bố trả thù của giai cấp tư

sản; lên án các cuộc chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa tư bản. V.I.Lênin đã tổ
chức, chỉ đạo hoạt động Quốc tế III, hướng các hoạt động của Quốc tế vào mục
tiêu chuyên chính vô sản và ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, chống chiến
tranh thế giới... Về sau, Hội nghị các đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới
(1957, 1960, 1969...) cũng là những hình thức liên hệ đa dạng, tích cực của
phong trào cộng sản quốc tế nhằm phối hợp hành động thực hiện chiến lược
chung của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
* Xuất phát từ tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ quốc tế

12


Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại là “hệ thống quan điểm và đường
lối chiến lược và sách lược đối với các vấn đề quốc tế, chính sách đối ngoại và
hoạt động ngoại giao của Đảng và Nhà nước, là bộ phận hữu cơ của tư tưởng
Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam”[19, tr130-131]. Nội dung tư tưởng đối
ngoại Hồ Chí Minh thể hiện trên một số vấn đề chủ yếu sau:
Thứ nhất, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ luận điểm: muốn cứu nước, giải phóng dân tộc phải tiến
hành cuộc cách mạng đánh đuổi thực dân giành độc lập dân tộc không chỉ
bằng lòng yêu nước, mà muốn thành công cách mạng Việt Nam phải đi theo
con đường cách mạng vô sản và là một bộ phận không thể tách rời của cách
mạng đó. Theo Hồ Chí Minh, vấn đề độc lập dân tộc là lợi ích cao nhất, tiên
quyết nhất của các nước thuộc địa và phụ thuộc. Lợi ích của dân tộc Việt
Nam trước hết là độc lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân, của dân tộc, là chủ
quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và thống nhất đất nước; đó cũng là quyền
tự quyết, quyền bình đẳng của dân tộc trước các nước trong quan hệ quốc tế.
Cùng với mục tiêu thiêng liêng là giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho dân tộc,
Người còn hướng cách mạng Việt Nam tiến lên CNXH - đó là con đường
đúng đắn nhất bảo đảm giá trị thực sự của độc lập dân tộc trong nền hòa bình

chân chính.
Quan điểm độc lập dân tộc và CNXH đã được Hồ Chí Minh vận dụng vào
thực tế cách mạng một cách toàn diện từ mục tiêu cách mạng, phương pháp cách
mạng đến vấn đề tập hợp lực lượng cách mạng trong hai cuộc kháng chiến chống
thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Độc lập dân tộc, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ, đi lên CNXH là tư tưởng cốt lõi, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối đối
ngoại và ngoại giao của Đảng và Nhà nước ta trong các thời kỳ cách mạng cũng
như thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới hiện nay.
Thứ hai, độc lập tự chủ, tự lực, tự cường gắn liền với đoàn kết và hợp
tác quốc tế.
Độc lập tự chủ trong tư tưởng đối ngoại Hồ Chí Minh còn thể hiện ở
phương diện “sức mạnh nội lực” mà Người thường gọi là “thực lực”. Đó
13


chính là sức mạnh ý chí tự lực, tự cường, của khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
sức mạnh của kinh tế, chính trị, văn hóa... của đất nước. Tuy nhiên, Hồ Chí
Minh luôn ý thức rằng: “Nước ta là một bộ phận của thế giới. Tình hình của
nước ta có ảnh hưởng đến thế giới, mà tình hình thế giới cũng có quan hệ đến
nước ta”[18 ,tr173]. Do vậy, để chiến thắng kẻ thù, để phát triển đất nước, Hồ
Chí Minh luôn chủ trương mở rộng biên độ đoàn kết và hợp tác quốc tế, mà
trước hết là tình đoàn kết quốc tế giữa Đảng Cộng sản, các lực lượng cách
mạng và tiến bộ trên thế giới trên cơ sở phương châm kiên trì về nguyên tắc,
giữ vững chiến lược, nhưng mềm dẻo, linh hoạt về sách lược theo tinh thần
“dĩ bất biến, ứng vạn biến”, “thêm bạn, bớt thù”, tránh đối đầu, “Làm bạn với
tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một ai”[17, tr 220]. Người
coi yếu tố quốc tế có ý nghĩa quan trọng cho thắng lợi của cách mạng nhưng
yếu tố độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường luôn giữ vai trò quyết định mọi thắng
lợi. Do vậy, việc xây dựng thực lực tổng hợp của đất nước - sức mạnh nội lực
chính là nền tảng vững chắc để đoàn kết, hợp tác quốc tế một cách có hiệu

quả, bền vững.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ, tự lực tự cường gắn liền với
đoàn kết và hợp tác quốc tế là hệ thống quan điểm thể hiện các nội dung về
kết hợp sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế; về mối quan hệ giữa nội
lực và ngoại lực và các phương châm, phương pháp nhằm phát huy hiệu quả
của kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phục vụ cho sự nghiệp
cách mạng nước ta. Đây là một nguyên lý cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh,
là cơ sở lý luận và tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt toàn bộ hoạt động đối ngoại
của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ ba, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại tạo nên sức
mạnh tổng hợp phục vụ cho sự nghiệp cách mạng.
Xuất phát từ quan điểm cách mạng Việt Nam là một phận của cách
mạng thế giới, trên cương vị là Người đứng đầu Nhà nước, Hồ Chí Minh đặc
biệt coi trọng việc kết hợp sức mạnh tổng hợp của dân tộc với sức mạnh của
thời đại, dân tộc với quốc tế, tranh thủ thời cơ và sự giúp đỡ bên ngoài, tập
14


hợp lực lượng nhiều tầng nấc khác nhau, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để
dân tộc ta và sự nghiệp cách mạng nước ta lớn mạnh, chủ động vươn lên tự
giải phóng cho mình, qua đó góp phần vào cách mạng thế giới.
Xác định thực chất của việc giải quyết mối quan hệ này, Hồ Chí Minh
nhấn mạnh “thực lực” tổng hợp của dân tộc là nhân tố quyết định sức mạnh,
hiệu quả và vị thế của đất nước trong quan hệ quốc tế; sức mạnh của thời đại
là xu thế vận động phát triển tất yếu của xã hội loài người, là sức mạnh của
phong trào cách mạng thế giới và sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng tiến
bộ trên thế giới... đối với cuộc đấu tranh giải phóng của nhân dân ta. Do vậy,
trong quan hệ đối ngoại phải phân tích đúng đắn tình hình thế giới, hiểu rõ đối
tác quan hệ, hiểu rõ nền chính trị thế giới, sự tác động trực tiếp và gián tiếp
của nó đến cách mạng nước ta để đề ra những đối sách xử lý các vấn đề của

đất nước cũng như quan hệ quốc tế phù hợp với xu thế phát triển của thời đại
sẽ giúp cách mạng nước ta phát triển nhanh và nhận được sự hợp tác quốc tế
thuận lợi hơn, tạo sức mạnh tổng hợp thúc đẩy sự nghiệp chính nghĩa của
nhân dân ta.
Thứ tư, ngoại giao tâm công hòa bình, chống chiến tranh phi nghĩa
theo truyền thống nhân văn của dân tộc.
Tư tưởng ngoại giao tâm công là một trong những tư tưởng, phong
cách, nghệ thuật ngoại giao đặc sắc của Hồ Chí Minh. Là lãnh tụ của cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc Việt Nam thời kỳ hiện đại, là nhà hoạt động quốc tế
lỗi lạc và nhà ngoại giao kiệt xuất của nền ngoại giao cách mạng Việt Nam, tư
tưởng ngoại giao tâm công của Hồ Chí Minh là sự phát triển lên tầm cao mới
lịch sử đối ngoại chính nghĩa, nhân văn của dân tộc ta trong cuộc kháng chiến
cứu nước. Đó chính là nghệ thuật tâm công đánh vào lòng người, thuyết phục
người, chinh phục trái tim, khối óc, mối thiện cảm của người bằng chính
nghĩa và đạo lý.
Cơ sở của tâm công theo Hồ Chí Minh là tình cảm yêu hòa bình, tôn
trọng lẽ phải và đạo lý của nhân dân tiến bộ trên thế giới gắn liền với cuộc

15


đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và xây dựng CNXH ở nước
ta. Đồng thời, cuộc đấu tranh đó gắn kết với cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc và cách mạng XHCN trên phạm vi thế giới, xu thế thời đại hòa bình, dân
chủ và tiến bộ xã hội. Mặt khác, trong hai cuộc kháng chiến cứu nước mà Hồ
Chí Minh là tư lệnh tối cao, nhân dân ta thường phải lấy ít địch nhiều, lấy yếu
chống mạnh. Trong hoàn cảnh đó, ngoại giao tâm công đã được thể hiện ở
tầm cao mới, dưới nhiều hình thức và nội dung phong phú, da dạng. Đó là
ngoại giao thể hiện tình cảm chân thành “vừa là đồng chí, vừa là anh em” trên
tinh thần trong sáng, thủy chung, phát huy đoàn kết, hữu nghị, hợp tác với bạn

bè quốc tế, láng giềng. Với đối phương, Hồ Chí Minh đấu tranh lý lẽ, đề cao
chính nghĩa, lẽ phải, thức tỉnh lương tâm, đồng thời tỏ rõ mong muốn hòa
bình, hợp tác cùng có lợi, quan tâm đến lợi ích chính đáng của nước đối
phương. Với các cá nhân bạn bè quốc tế, Hồ Chí Minh chú trọng tranh thủ sự
ủng hộ của họ bằng những cứ chỉ tượng trưng hoặc xử thế tinh tế, mang tính
biểu tượng cao… Thực tiễn chứng minh ngoại giao tâm công hòa bình, chống
chiến tranh phi nghĩa theo truyền thống nhân văn của dân tộc của Hồ Chí
Minh đã làm tăng sức tiến công của ngoại giao Việt Nam phục vụ cho những
nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta.
1.1.2. Từ truyền thống ngoại giao của dân tộc
Việt Nam có truyền thống ngoại giao lâu đời, chống giặc mạnh, giao
thiệp với nước lớn, cùng với đấu tranh chính trị, quân sự, ngoại giao luôn luôn
được các thế hệ cha ông ta sử dụng như một công cụ, một phương thức và
biện pháp đấu tranh quan trọng, sắc bén và hiệu quả, góp phần tạo nên sức
mạnh tổng hợp để dân tộc ta đấu tranh giữ nước và dựng nước. Lịch sử ngoại
giao của ông cha ta để lại những bài học thực tiễn phong phú, quý giá cho nền
ngoại giao cách mạng Việt Nam:
Thứ nhất, nêu cao ý thức độc lập dân tộc, tự chủ, bảo vệ chủ quyền,
thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, đề cao và bảo vệ lợi ích quốc gia, bản sắc
văn hoá, danh dự dân tộc.
16


Đây là thể hiện sâu sắc chủ nghĩa yêu nước trong quan hệ quôc tế, thực
tế lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng ở bất cứ thời kỳ nào, tổ tiên ta giương
cao ngọn cờ độc lập tự chủ, phát huy được ý thức tự cường, kiên quyết bảo vệ
lợi ích dân tộc, chủ quyền quốc gia thì thời kỳ đó giành được nhiều thắng lợi
trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, ngoại giao, đất nước phát triển ổn
định, vững chắc, có vị thế cao trong quan hệ quốc tế. Trái lại, các triều đại và
vua chúa nào hạ thấp hoặc hy sinh lợi ích dân tộc, chạy theo lợi ích của các

dòng họ và ngôi báu, thì sẽ tỏ ra thiển cận, sai lầm và ươn hèn trong hoạt
động đối ngoại, làm tổn thất đến lợi ích dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Thứ hai, kết hợp chặt chẽ đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự
và đấu tranh trên các lĩnh vực khác.
Sự kết hợp đó là một đặc điểm nổi bật trong lịch sử ngoại giao của dân
tộc. Đó là việc kết hợp giữa đấu tranh ngoại giao với đấu tranh quân sự, giữa
“giao” và “công” một cách mưu trí, sáng tạo. Nghĩa là, vừa duy trì quan hệ
bang giao hoà hoãn vừa thường xuyên cảnh giác, tích cực chuẩn bị lực lượng,
không để bất ngờ, kịp thời đánh trả khi bị tiến công và kiên quyết tiến công
địch với tinh thần quyết thắng.
Kết hợp giữa “đánh" và "đàm”. Trong khi tiến hành các hoạt động quân
sự tiêu diệt, tiêu hao địch trên chiến trường vẫn đẩy mạnh ngoại giao đấu tranh
với đối phương, tranh thủ các điều kiện, thời cơ có lợi khi địch bị suy yếu,
hoang mang dao động để đánh tan ý chí xâm lược của chúng, giành thắng lợi
cao nhất, nhanh nhất và ít đổ máu nhất. Kết hợp giữa “đánh” và “đàm” còn là
dịp để vạch trần tội ác của địch, gương cao ngọn cờ chính nghĩa của ta, chỉ rõ
thất bại tất yếu của chúng; đánh vào tinh thần tư tưởng của địch, hoặc phân
hoá, lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù. Kết hợp giữa "đánh" và "đàm"
còn được ông cha ta chủ động kết thúc chiến tranh một cách có lợi nhất cho ta
và mở ra cục diện mới trong quan hệ giữa hai bên sau chiến tranh, giải quyết
các vấn đề hậu quả sau chiến tranh.

17


Kết hợp giữa “lễ” với “binh”, Trong quan hệ giữa nhà nước phong kiến
trước đây, lễ nghi, lễ nghĩa thường được các bên coi trọng. Trong tiếp xúc
ngoại giao, ông cha ta tiếp đón sứ thần đối phương rất trịnh trọng, đúng nghi
lễ cần có, cả lúc trước, sau và trong chiến tranh. Ta cũng đòi hỏi đối phương
khi tiếp xúc ngoại giao với ta cũng phải đúng lễ nghĩa và trân trọng . Ông cha

ta trong tiếp đón, đàm phán với địch đúng nghi lễ, vừa khôn khéo nhún
nhường của nước nhỏ, vừa kiên quyết giữ vững nguyên tắc kết hợp binh lực
thị uy, phô trương thanh thế, khuyếch trương lực lượng răn đe chúng, kiên
quyết đánh địch giành và giữ độc lập dân tộc, nâng cao vị thế của đất nước.
Thứ ba, kiên định mục tiêu chiến lược, giữ vững nguyên tắc song mềm
dẻo khôn khéo về sách lược.
Trong đấu tranh ngoại giao, phương châm xử lý của ông cha ta là luôn
quán triệt sâu sắc tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Không bao giờ từ bỏ,
nhân nhượng những vấn đề về chiến lược, quan hệ đến lợi ích cơ bản, thống
nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia và danh dự dân tộc.
Đấu tranh ngoại giao rất khó khăn, phức tạp và căng thẳng. Đây thực sự
là vấn đề mưu lược, đấu trí, đấu tài, đòi hỏi sự thông tuệ, sáng suốt, bản lĩnh
và cả sự khôn khéo, mềm dẻo, tính kiên trì theo đuổi mục tiêu. Ông cha ta đã
cung cấp cho chúng ta nhiều kinh nghiệm phong phú về nghệ thuật đàm phán
và hoạt động ngoại giao. Trên cơ sở đặt quyền lợi tối cao của dân tộc lên trên
hết, nhất quán với mục tiêu đã xác định, song biết thắng từng bước, từng
phần, biết cái gì, khi nào có thể nhân nhượng, cái gì không thể nhân nhượng,
dùng lời lẽ sắc sảo, nhún nhường nhưng không quỵ lụy. Đặc biệt bằng thực
tiễn lịch sử, tổ tiên ta cho thấy trong quan hệ với kẻ thù, không bao giờ được
lơ là mất cảnh giác, ảo tưởng mơ hồ bản chất, âm mưu của chúng. Đồng thời
phải luôn cảnh giác cao, kịp thời nắm bắt mọi diễn biến và động thái của đối
phương, nhận rõ ý đồ, thủ đoạn của chúng để có phương sách đúng đắn, đấu
tranh đạt được kết quả cao nhất, nhờ đó ta thắng địch về ngoại giao góp phần
to lớn về thắng lợi chung của dân tộc.
18


Thứ tư, nắm chắc đặc điểm, tình hình đối phương, tình hình thực lực của
đất nước để đề ra chủ trương, biện pháp đấu tranh phù hợp, đem lại hiệu quả
cao nhất.

Cha ông ta thường nói “Biết địch, biết ta, trăm trận trăm thắng”. Điều
đó không chỉ đúng trong đấu tranh quân sự mà cũng đúng cả trong đấu tranh
ngoại giao. Mặt khác, hoạt động đối ngoại bao giờ cũng bị chi phối bởi sự tác
động của các đặc điểm tình hình các nước liên quan, của thời, thế và tương
quan so sánh lực lượng. Trong lịch sử, ông cha ta đã từng lợi dụng thời gian
hoà hoãn, quan hệ bang giao để nắm chắc nội tình đối phương, ý đồ và khả
năng của chúng, chủ động tiến công ngăn chặn địch từ trước như Lý Thường
Kiệt đã dùng chiến lược “tiên phát chế nhân”. Vua Trần đã chủ động đưa phái
bộ sang đàm phán với Nguyên Mông để nắm tình hình quân sự của chúng,
vận dụng phương lược cương, nhu tuỳ lúc, tuỳ thời. Lê Lợi - Nguyễn Trãi
trong lúc vây hãm Đông Quan và đánh viện binh địch đã hiểu rõ tình hình
khốn quẫn, tâm trạng hoang mang, dao động của chúng, sử dụng đòn tiến
công tâm lý làm cho quân trong thành hoàn toàn suy sụp tinh thần chiến đấu.
Quang Trung, Nguyễn Huệ sau khi giành thắng lợi về quân sự đã chủ động
hoạt động ngoại giao bình thường hoá quan hệ với nhà Thanh, tạo điều kiện
hòa bình phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng chính quyền,
chuẩn bị lực lượng tiêu diệt quân Nguyễn Ánh ở Gia Định và quân Xiêm ở
Rạch Gầm - Xoài Mút…
Thứ năm, lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng các nhà ngoại giao có đủ phẩm
chất và năng lực thực hiện nhiệm vụ đối ngoại với các nước..
Lịch sử ngoại giao của dân tộc ta đã chứng minh thành bại trong hoạt
động ngoại giao tuỳ thuộc một phần rất quan trọng vào phẩm chất và năng lực
của các nhà ngoại giao. Trong lịch sử dân tộc, chúng ta đã có nhiều nhà ngoại
giao kiệt xuất, đồng thời là nhà chính trị, nhà quân sự lớn như Lê Hoàn, Lý
Thường Kiệt, Lê Văn Thịnh, Trần Nhật Duật, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Ngô
Thì Nhậm … Đây là những nhà ngoại giao tài giỏi, nhạy bén về chính trị, có
19


lòng yêu nước, thương dân, ý chí kiên cường dũng cảm, bản lĩnh vững vàng,

tinh thần lạc quan, tinh thần chịu đựng khó khăn nguy hiểm, tuyệt đối trung
thành với dân tộc, với đất nước… Và những hoạt động đấu tranh ngoại giao
của họ đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi của dân tộc trong lịch sử giữ
nước và cứu nước.
1.1.3. Từ kinh nghiệm thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở đa
phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế
Hơn hai mươi lăm năm, một khoảng thời gian không dài trong quá trình
tiếp tục lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới của ĐCSVN, nhưng xét trên
lĩnh vực đối ngoại, là một giai đoạn có ý nghĩa vô cùng to lớn, để lại những
bài học kinh nghiệm quý báu cả về lý luận và thực tiễn cho đối ngoại Việt
Nam thời kỳ hội nhập quốc tế sâu rộng hiện nay.
Thứ nhất, đánh giá đúng sự biến đổi của tình hình quốc tế, khu vực;
bám sát thực tiễn đất nước, nhạy bén phân tích và dự báo chính xác xu thế
vận động của thế giới, kịp thời điều chỉnh chính sách đối ngoại, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế.
Trong quá trình hoạch định đường lối cách mạng nói chung và đường lối
đối ngoại nói riêng, việc đánh giá đúng đắn tình hình thế giới và khu vực, dự
báo chính xác thời cuộc, vận nước là một nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt
của công tác đối ngoại. Đảng ta đã chỉ rõ: nhiệm vụ công tác đối ngoại là “Cần
nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu
sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu
hướng quốc tế hóa của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại
phù hợp”[3, tr 38]. Thực hiện nhiệm vụ đó, trong bối cảnh sự nghiệp đổi mới
diễn ra vào lúc đất nước đang lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội
trầm trọng; tình hình thế giới có nhiều biến động với những diễn biến phức tạp,
bất lợi cho cách mạng Việt Nam; trong quan hệ quốc tế xuất hiện các xu thế
mới khác với thời kỳ chiến tranh lạnh. Tỉnh táo và sáng suốt, Đảng ta đã phân
tích sâu sắc thực trạng đất nước, tìm được nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng
kinh tế - xã hội và lý do dẫn đến các nước bao vây, cấm vận Việt Nam. Đảng ta
20



đã kịp thời đề ra đường lối, chính sách đối ngoại đổi mới phù hợp với yêu cầu
thực tiễn cách mạng Việt Nam và xu thế phát triển của thế giới và khu vực.
Việc chủ động chuyển sang giai đoạn đấu tranh mới dưới hình thức cùng tồn
tại hòa bình với các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau có ý nghĩa
chính trị quan trọng. Trên cơ sở đó, Đảng chủ trương mở rộng quan hệ với tất
cả các nước, tạo ra những thành công trong lãnh đạo thực hiện đường lối đối
ngoại đổi mới.
Trải qua hơn 25 năm thực hiện đường lối đối ngoại đổi mới, Đảng và
Nhà nước ta không ngừng bổ sung, hoàn thiện đường lối đối ngoại cho phù
hợp với yêu cầu của nhiệm vụ trong nước và xu thế quốc tế. Về quan hệ
quốc tế, Đảng tiến hành điều chỉnh chính sách đối ngoại, lấy mục tiêu hòa
bình và phát triển làm chuẩn mực trong mọi hoạt động quốc tế, thực hiện mở
rộng liên kết, hợp tác, thu hút vốn đầu tư, khoa học công nghệ của các nước
để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế.
Thứ hai, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh
đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, xử lý đúng đắn các vấn đề
quốc tế phù hợp điều kiện khả năng của ta và tình hình quốc tế cũng như các
đối tác quan hệ.
Trở ngại lớn nhất của Việt Nam trong những năm 80 thế kỷ XX là quan
hệ giữa nước ta với phần lớn các quốc gia trong khu vực không thuận lợi,
thậm chí có lúc đối đầu, thù địch; một số nước thực hiện chính sách bao vây,
cấm vận chống Việt Nam. Để tháo gỡ tình trạng đó, Đảng và Nhà nước ta đã
có những chủ trương và đối sách khôn khéo, phù hợp với tình hình thực tế.
Trước hết, là việc rút quân khỏi Campuchia, để tránh việc các nước lợi dụng
vấn đề Campuchia gây khó khăn cho Việt Nam. Kiên trì và chủ động tạo điều
kiện để bình thường hóa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc năm 1991, từng
bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa
hai nước thông qua thương lượng. Tiếp đó, Đảng và Nhà nước ta đã nỗ lực

tìm kiếm khả năng, tháo gỡ những vướng mắc đẩy nhanh tiến trình gia nhập
21


ASEAN (1995); chủ trương giảm bớt căng thẳng không đối đầu với Mỹ, từng
bước cải thiện quan hệ và tiến tới bình thường hóa quan hệ Việt - Mỹ năm
1995, thúc đẩy mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại, tranh thủ đầu tư, viện
trợ công nghệ của Mỹ và các nước phương Tây khác. Đồng thời mở rộng
quan hệ hợp tác với Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước tư bản phát triển…,
Thực tế cho thấy, chủ trương đổi mới chính sách đối ngoại và những thành
tựu đạt được trong quan hệ đối ngoại trên đã đưa Việt Nam thoát khỏi thế bị
bao vây, cấm vận, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước và
từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
Thứ ba, xác định rõ mục tiêu, biện pháp đối ngoại thích hợp cho từng giai
đoạn; không ngừng hợp tác quốc tế, đấu tranh trong những trường hợp cần thiết
nhằm tìm kiếm thị trường, tranh thủ vốn, khoa học - công nghệ hiện đại; nắm
vững phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
Đầu những năm 90 của thế kỷ XX, cục diện thế giới đã có sự thay đổi
sâu sắc khi chế độ xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô sụp đổ,
trật tự thế giới hai cực tan vỡ, những quan hệ truyền thống với nước ta không
còn. Trước tình hình đó, để phá thế bị bao vây cấm vận, từng bước mở rộng
quan hệ quốc tế, Đảng ta đã kịp thời điều chỉnh tư duy và chính sách đối
ngoại từ chỗ nhấn mạnh nhân tố chính trị sang chú trọng phát triển kinh tế,
giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc và mở rộng hợp tác quốc tế. Đảng và
Nhà nước ta hết sức kiên trì đối thoại bằng nhiều hình thức, biện pháp ngoại
giao linh hoạt, mềm dẻo, sáng tạo để giải quyết vấn đề Campuchia từ đó làm
cho các nước hiểu rõ hơn thiện chí và lập trường của Việt Nam trong việc giải
quyết các vấn đề khu vực, giải toả sự nghi kỵ và trở ngại trong quan hệ của
Việt Nam với các nước. Trong quá trình bình thường hóa quan hệ giữa nước
ta với Mỹ, Trung Quốc, mở rộng quan hệ với các nước và các tổ chức quốc tế

trên thế giới cho thấy, Đảng ta đã xử lý một cách khéo léo, tế nhị các mối
quan hệ quốc tế chồng chéo, phức tạp. Đảng nhận thức rõ vai trò, vị trí của
từng đối tác quan hệ, nhất là với các nước lớn, từ đó hoạch định chính sách
22


đối ngoại, lựa chọn biện pháp, hình thức ứng xử cho phù hợp, nhằm mang lại
hiệu quả cao nhất trong hợp tác quốc tế.
Với tư duy đối ngoại đổi mới, coi môi trường thế giới và khu vực là
môi trường tồn tại và phát triển của Việt Nam, Đảng ta chủ trương phát triển
quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước, chủ động đối thoại và giải quyết
các vấn đề gây trở ngại cho quan hệ của Việt Nam với các nước trong khu
vực các nước khu vực Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương. Song
song với đổi mới chính sách đối ngoại, Đảng và Nhà nước ta tiến hành đẩy
mạnh cải cách cơ cấu nền kinh tế theo hướng mở cửa hợp tác với bên ngoài,
thu hút vốn đầu tư, tranh thủ thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại…, để
ổn định và phát triển kinh tế trước sự sụp đổ của các thị trường truyền thống,
đồng thời tạo ra những tiền đề, điều kiện để nước ta từng bước tham gia hợp
tác kinh tế khu vực và quốc tế.
Có thể nói, trong quá trình lãnh đạo thực hiện đường lối đối ngoại đổi
mới, Đảng ta luôn đặt ra mục tiêu là tích cực hợp tác quốc tế, giữ vững độc lập
tự chủ, nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh, đối tác và đối tượng trong quan
hệ quốc tế trên cơ sở tôn trọng lợi ích của nhau, tạo thế đan xen về lợi ích, thực
hiện nghiêm những điều ước ký kết, không vi phạm luật pháp quốc tế và Hiến
chương Liên hợp quốc.
Thứ tư, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ hợp tác quốc tế, hoàn thiện
luật pháp, đẩy mạnh cải cách hành chính nhà nước, tạo môi trường thuận lợi
cho đầu tư nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội.
Ở bất kỳ một thời đại nào cũng vậy, lợi ích dân tộc luôn là nhân tố quan
trọng hàng đầu trong hoạch định chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta
đã phát huy ở mức cao nhất tinh thần độc lập tự chủ, giành thắng lợi to lớn
giải phóng dân tộc. Ngay sau khi đất nước thống nhất, đi vào xây dựng chủ
nghĩa xã hội với những khó khăn chồng chất, nhất là quan hệ đối ngoại chưa
được mở rộng, bị đế quốc Mỹ bao vây, cấm vận, hệ thống XHCN thì hầu như
23


×