ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÀO THANH BÌNH
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2012
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Hà Nội - 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
ĐÀO THANH BÌNH
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG
LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG
THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2012
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thành Vinh
Hà Nội - 2013
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LÃNH
ĐẠO CÔNG TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ
CƠ SỞ ............................................................................................................... 8
1.1. Cơ sở lý luận .......................................................................................... 8
1.2. Cơ sở thực tiễn ..................................................................................... 31
Chƣơng 2: CHỦ TRƢƠNG, BIỆN PHÁP VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC
VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG TỪ NĂM 2000 ĐẾN 2012. ..................... 41
2.1. Những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong công tác vận
động quần chúng thực hiện dân chủ cơ sở .................................................. 41
2.2. Biện pháp chỉ đạo ................................................................................. 51
2.3. Những kết quả đạt được ....................................................................... 56
Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM LỊCH SỬ CỦA
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG TRONG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC VẬN
ĐỘNG QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ TỪ NĂM 2000
ĐẾN 2012 ........................................................................................................ 67
3.1. Một số nhận xét về kết quả lãnh đạo công tác vận động quần chúng
thực hiện dân chủ cơ sở của Đảng bộ tỉnh .................................................. 67
3.2. Một số kinh nghiệm lịch sử.................................................................. 76
3.3. Những định hướng cơ bản của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong quá trình
lãnh đạo công tác vận động quần chúng thực hiện dân chủ cơ sở trong
những năm tiếp theo. ................................................................................... 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 85
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 91
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
CNH, HĐH
: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá
CNXN
: Chủ nghĩa xã hội
DCCS
: Dân chủ ở cơ sở
GD – ĐT
: Giáo dục và đào tạo
GDP
: Tổng sản phẩm quốc dân
GS.PGS.TS
: Giáo sƣ, Phó giáo sƣ, Tiến sĩ
HĐND
: Hội đồng nhân dân
KT – XH
: Kinh tế - xã hội
VĐQC
: Vận động quần chúng
TTHC
: Thủ tục hành chính
UBND
: Uỷ ban nhân dân
WTO
: Tổ chức thƣơng mại thế giới
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình thực hiện đường lối đổi mới toàn diện do Đảng Cộng
sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa cả về lý luận và thực
tiễn. Coi đây là một trong những nội dung thể hiện bản chất của chế độ, là
quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của hệ thống chính trị xã hội
chủ nghĩa. Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới,
nhất là việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Đồng thời thực hiện nghĩa vụ đầy đủ của thành viên tổ chức thương mại thế
giới (WTO).
Xây dựng và thực hiện DCCS là chủ trương quan trọng của Đảng và
Nhà nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VIII (tháng 6 năm 1997) khẳng định, khâu quan trọng và cấp bách trước
mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở. Triển khai Nghị quyết
của Trung ương nhằm phát huy đầy đủ, hiệu quả quyền làm chủ trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ngày 18 tháng 12 năm 1998
Bộ Chính trị (khóa VIII) ban hành chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực
hiện Quy chế DCCS.
Từ đó, thực hiện dân chủ cơ sở luôn là vấn đề mang tính thời sự và đòi
hỏi phát triển không ngừng. Trong đó vừa phải đi sâu nghiên cứu và hoàn
thiện về lý luận, vừa phải thường xuyên tổng kết thực tiễn để tìm ra hình thức,
biện pháp tổ chức thực hiện phù hợp đưa các quy định về dân chủ vào cuộc sống.
Trong công cuộc cách mạng nói chung và trong sự nghiệp xây dựng
nền dân chủ nói riêng, quần chúng nhân dân có vai trò hết sức quan trọng.
Cách mạng chỉ có thể giành thắng lợi, khi cách mạng tập hợp được đông đảo
lực lượng quần chúng tham gia. Xây dựng và thực hiện QCDC cũng vậy,
không thể không có sự tham gia đông đảo của quần chúng. Chính vì vậy,
1
trong việc xây dựng và thực hiện Quy chế DCCS, Đảng ta luôn coi công tác
VĐQC là trách nhiệm của toàn Đảng và hệ thống chính trị. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng trong công các VĐQC thực hiện quy chế DCCS, đã được triển khai
rộng khắp trong cả nước và đã thu được nhiều thành tựu quan trọng trên tất cả
các mặt đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội. Với những kết quả đạt
được đã chứng tỏ chủ trương của Đảng là đúng đắn, hợp lòng dân, đáp ứng
được nhu cầu bức thiết và lợi ích to lớn trực tiếp của quần chúng nhân dân,
được nhân dân đón nhận và tích cực thực hiện. Thông qua việc thực hiện quy
chế dân chủ người dân đã hiểu rõ hơn về quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ
của mình. Cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở có ý thức
hơn về dân chủ và tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân.
Thực hiện chủ trương đúng đắn của Đảng, nhận thức được ý nghĩa và
tầm quan trọng của việc thực hiện DCCS, cũng như vai trò quyết định của
quần chúng nhân dân; ngay từ khi tái thành lập tỉnh Bắc Giang, Đảng bộ tỉnh
đã quán triệt sâu sắc công tác vận động quần chúng thực hiện DCCS, coi đây
là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình lãnh đạo của Đảng bộ.
Thực tiễn, việc thực hiện dân chủ ở tỉnh Bắc Giang trong những năm qua đã
thu được một số kết quả bước đầu và rút ra được một số kinh nghiệm lịch sử.
Tuy nhiên, vẫn còn hạn chế, bất cập như: Việc thể chế hóa các chủ
trương của Đảng về VĐQC còn chậm, nhiều cơ chế, chính sách về kinh tế, xã
hội còn bất cập. Các đoàn thể quần chúng ở nhiều nơi vẫn đang bị ràng buộc
bởi cơ chế hành chính hóa. Nội dung, hình thức và phương pháp tập hợp
quần chúng nhân dân xây dựng và thực hiện dân chủ cơ sở còn chậm đổi
mới…so với yêu cầu phát triển ngày càng cao trong quá trình hội nhập, đẩy
mạnh công nghiệp hóa hiện, đại hóa đất nước. Cùng với cơ hội và thách thức
đang đặt ra, việc nghiên cứu, làm rõ quá trình lãnh đạo quần chúng thưc hiện
DCCS của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang là công việc quan trọng và cần thiết. Điều
đó, góp phần làm sáng tỏ vị trí và tầm quan trọng của công tác VĐQC trong
2
việc thực hiện DCCS và đóng góp quan trọng trong tổng kết thực tiễn để phát
triển lý luận về dân chủ và thực hiện DCCS. Vì những lý do trên nên học viên
chọn đề tài: “ Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo công tác vận động quần
chúng thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 2000 đến 2012” làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Công tác lãnh đạo quần chúng xây dựng và thực hiện quy chế DCCS là
vấn đề được Đảng, Nhà nước, các cơ quan cũng như nhiều tác giả nghiên cứu
quan tâm. Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu từ các hướng tiếp
cận khác nhau như: Triết học, chính trị học, xây dựng Đảng, lịch sử, lịch sử
Đảng… của các cá nhân, tập thể được công bố như:
Trong cuốn sách Công tác dân vận của Đảng thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, của Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003 đã tập trung phân tích một số vấn đề chung về công tác dân vận;
thực trạng tình hình các giai cấp, tầng lớp nhân dân và công tác VĐQC của
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội trong thời kỳ đổi
mới; đề xuất một số định hướng và giải pháp tăng cường công tác dân vận của
Đảng trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá.
Cuốn sách Dân chủ và tập trung dân chủ, lý luận và thực tiễn của tác
giả Nguyễn Tiến Phồn (2001), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội.
Ngoài việc xây dựng và phân tích các khái niệm về dân chủ, tập trung dân
chủ, tác giả đã tập trung bàn luận những nội dung về lý luận và thực tiễn của
việc thực hiện dân chủ và tập trung dân chủ. Từ đó, khẳng định vai trò quan
trọng của dân chủ và tập trung dân chủ trong xây dựng Đảng, quyết định
sức mạnh của bộ máy chính quyền Nhà nước.
Ngoài ra còn có nhiều cuốn sách đề cập đến nội dung dân chủ, vận
động quần chúng nhân dân thực hiện DCCS, như:
3
Cuốn sách: Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và vấn đề xây
dựng quy chế dân chủ, của Ban Dân vận Trung ương, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội. Xuất bản bản năm 1998; Cuốn Dân chủ và dân chủ cơ sở ở nông
thôn trong tiến trình đổi mới, của tác giả Hoàn Chí Bảo, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Xuất bản năm 2007; Cuốn Hệ thống chính trị cơ sở và dân chủ
hoá đời sống xã hội nông thôn miền núi vùng dân tộc thiểu số các tỉnh miền
núi phía Bắc nước ta, của tác giả Nguyễn Quốc Phẩm, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội. Xuất bản năm 2000.
Trong các đề tài khoa học cấp Bộ, cấp Nhà nước có: Đề tài khoa học
cấp Bộ Hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã và vấn đề phát huy dân chủ cơ
sở, do PGS.TS Vũ Đức Đán thực hiện. Đề tài, đã đi sâu phân tích và làm rõ
yêu cầu cần tăng cường củng cố, hoàn thiện bộ máy chính quyền cấp xã đối
với việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở; chỉ ra cơ chế thực hiện dân chủ và
phương hướng nhằm phát huy DCCS.
Đề tài cấp Bộ Những vấn đề đặt ra qua 3 năm thực hiện quy chế thực
hiện dân chủ ở xã (1998-2001), do TS. Lê Kim Hải thực hiện; Đề tài cấp nhà
nước KX.05.05 Cơ chế thực hiện dân chủ XHCN trong hệ thống chính trị ở
nước ta, do GS. TS Hoàng Chí Bảo chủ nhiệm đề tài.
Trong đề tài luận văn thạc sĩ Quản lý Nhà nước có đề tài: Những biện
pháp nhằm tăng cường việc thực hiện quy chế dân chủ cấp xã ở tỉnh Sơn La,
của tác giả Lò Hồng Lâm (2000), Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
Luận văn đã đánh giá thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ cấp xã ở tỉnh
Sơn La. Từ việc đánh giá kết quả đã đạt được và những hạn chế còn tồn tại,
tác giả đã đưa ra những biện pháp cụ thể như: nâng cao hiệu lực của bộ máy
chính quyền cấp xã; xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở… nhằm tăng cường việc
thực hiện quy chế dân chủ cấp xã ở tỉnh Sơn La.
Bên cạnh đó còn có luận văn của tác giả Nguyễn Tân Huyền (2005):
Chính quyền phường đảm bảo thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở,
4
từ thực tiễn thành phố Hà Nội, luận văn thạc sỹ Quản lý Nhà nước, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội.
Ngoài ra, còn một số bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí khoa học, các
đề tài đã được nghiệm thu, các luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ khác, về vấn đề
VĐQC, dân chủ và dân chủ hóa ở nước ta. Tuy nhiên, vẫn còn ít công trình
nghiên cứu đến sự lãnh đạo, chỉ đạo VĐQC thực hiện DCCS, đặc biệt là việc
nghiên cứu tại một địa bàn cụ thể như tỉnh Bắc Giang.
Vì vậy, đề tài "Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo công tác vận động
quần chúng thực hiện dân chủ cơ sở từ năm 2000 đến năm 2012", là một đề tài
mới không trùng lặp với các công trình và đề tài nghiên cứu đã được công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu:
Góp phần làm rõ vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công
tác vận động quần chúng để thực hiện DCCS. Trên cơ sở đó đánh giá tình
hình thực hiện DCCS tại tỉnh Bắc Giang rút ra một số kinh nghiệm trong quá
trình xây dựng và thực hiện quy chế DCCS.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục đích trên đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và hệ thống quan điểm chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam tác
động đến việc lãnh đạo thực hiện DCCS tại Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
- Hệ thống hóa các nguồn tư liệu gắn liền với hoàn cảnh lịch sử của
tỉnh Bắc Giang trong 12 năm (2000 đến 2012).
- Phân tích, đánh giá những chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
lãnh đạo công tác VĐQC tổ chức, triển khai thực hiện quy chế DCCS.
- Phân tích, đánh giá kết quả của công tác lãnh đạo quần chúng thực
hiện DCCS.
5
- Đúc kết một số kinh nghiệm lịch sử trong quá trình lãnh đạo công tác
VĐQC xây dựng và thực hiện quy chế DCCS trên địa bàn tỉnh Bắc Giang.
- Phân tích một số giải pháp xây dựng và thực hiện quy chế DCCS của
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đề ra cho giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Hệ thống chủ trương, chính sách và biện pháp của Đảng bộ tỉnh Bắc
Giang về lãnh đạo công tác VĐQC xây dựng và thực hiện quy chế DCCS từ
năm 2000 đến 2012.
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu:
- Những vấn đề lý luận và thực tiễn trong việc lãnh đạo công tác
VĐQC xây dựng và thực hiện quy chế DCCS của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang.
- Những nhân tố tác động đến sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh trong quá
trình tổ chức VĐQC thực hiện quy chế DCCS ở Bắc Giang.
- Nghiên cứu quá trình lãnh đạo công tác VĐQC thực hiện quy chế
DCCS của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang từ năm 2000 (từ khi có Thông báo số
304-TB/TW ngày 22/6/2000 kết luận của Bộ Chính trị tiếp tục đẩy mạnh việc
thực hiện chỉ thị số 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy chế DCCS) đến
2012. Địa bàn nghiên cứu chủ yếu trong phạm vi tỉnh Bắc Giang.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về công tác VĐQC.
Nguồn tài liệu phục vụ nghiên cứu bao gồm: Các tác phẩm kinh điển
của Các Mác, Ăngghen, Lê nin, Hồ Chí Minh về DCCS, về tổ chức VĐQC
thực hiện DCCS. Văn kiện của Đảng và Nhà nước về DCCS và tổ chức
VĐQC thực hiện DCCS (Đại hội VIII, IX, X,XI), văn kiện của cấp ủy và địa
phương Bắc Giang liên quan đến đề tài và các tài liệu khác…
6
Để nghiên cứu về sự lãnh đạo quần chúng thực hiện DCCS của Đảng
bộ tỉnh Bắc Giang, luận văn sử dụng phương pháp lịch sử, logic và kết hợp
các phương pháp khác như: điều tra xã hội học, phân tích, tổng hợp, thống kê,
so sánh…
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa các quan điểm, chủ trương, chính
sách của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về công tác
VĐQC xây dựng và thực hiện quy chế DCCS.
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ tỉnh Bắc Giang
lãnh đạo công tác VĐQC xây dựng và thực hiện quy chế DCCS từ năm 2000
đến 2012.
- Từ những kết quả nghiên cứu, luận văn phân tích, làm rõ thêm một số
đề xuất, giải pháp và kiến nghị của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang trong quá trình
VĐQC xây dựng và thực hiện quy chế DCCS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn bao gồm có 3 chương 8 tiết.
7
Chƣơng 1
NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO CÔNG
TÁC VẬN ĐỘNG QUẦN CHÚNG THỰC HIỆN DÂN CHỦ CƠ SỞ
1.1 Cơ sở lý luận
1.1.1 Một số khái niệm cơ bản
a, Khái niệm dân chủ
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII-VI trước công
nguyên. Xét về mặt ngữ nghĩa, “dân chủ (demokratia)”, trong tiếng Hy Lạp cổ
là từ ghép, được cấu thành từ hai từ gốc là: demos= nhân dân (danh từ) và
kratein = cai trị (động từ). Nếu dịch sát nghĩa thì demokratia sẽ là một mệnh
đề hoàn chỉnh: nhân dân cai trị. Sau này các nhà chính trị học đã xác định
thực chất của dân chủ là: “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”.
Khi Chủ nghĩa Mác - Lênin xuất hiện, tạo nên hệ ý thức đối lập với
Chủ nghĩa tư bản, khái niệm dân chủ được chia thành hai thể loại chính: Dân
chủ tư sản (dân chủ của phía chủ nghĩa tư bản) và dân chủ XHCN (dân chủ
của phía CNXH). Mỗi bên có quan hệ khác nhau về vấn đề này. Dân chủ tư
sản thường đề cao khía cạnh bầu phiếu; Dân chủ xã hội chủ nghĩa lại đề cao
khía cạnh làm chủ giá trị thặng dư tư liệu sản xuất và thành quả lao động của
người dân.
Khái niệm dân chủ, về cơ bản được từ điển Bách khoa Việt Nam định
nghĩa: "Dân chủ, hình thức tổ chức thiết chế chính trị của xã hội dựa trên việc
thừa nhận nhân dân là nguồn gốc của quyền lực, thừa nhận nguyên tắc bình
đẳng và tự do. Dân chủ cũng được vận dụng vào tổ chức và hoạt động của
những tổ chức và thiết chế chính trị nhất định" [54, 653].
Kế thừa và xây dựng theo chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng ta đưa ra khái
niệm về dân chủ XHCN: Dân chủ XHCN là dân chủ của đa số nhân dân gắn
với công bằng xã hội, chống áp bức, bất công được thực hiện trong thực tế
8
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, được thể chế hoá
bằng pháp luật và được pháp luật bảo đảm. Đảng Cộng sản Việt Nam là người
lãnh đạo nền dân chủ xã hội chủ nghĩa và tổ chức xây dựng. Đây là khái niệm
thể hiện đầy đủ, rõ ràng, đúng bản chất của khái niệm dân chủ xã hội chủ
nghĩa. Đúng với bản chất của xã hội chủ nghĩa mà chúng ta đang xây dựng.
Chế độ dân chủ của chúng ta không chỉ đảm bảo lợi ích cho mỗi cá nhân, mà
đảm bảo lợi ích cho toàn xã hội.
b, Những tiêu chí và nguyên tắc của một xã hội dân chủ
Dân chủ ngày nay được xem xét chủ yếu dưới các dạng: Chế độ nhà
nước (các hình thức, nguyên tắc, phương thức thực thi quyền lực nhà nước);
Nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của đời sống xã hội (nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt của các đảng chính trị, các tổ chức xã hội); Giá trị xã hội (thể hiện ở
trình độ đạt được về bảo đảm các quyền, nghĩa vụ, tự do của công dân và sự
tham gia của họ trong đời sống xã hội); Lý tưởng, nhân sinh quan, thế giới
quan, mục đích hoạt động của các lực lượng chính trị- xã hội.
Quan niệm về dân chủ cho đến nay còn khác nhau, phụ thuộc vào giai
cấp, dân tộc, tôn giáo, tập quán xã hội, và truyền thống văn hoá và chính trị.
Mặc dù vậy, có thể nói tới những nhận thức chung về dân chủ như sau: Nhân
dân được coi là nguồn gốc và chủ thể của quyền lực nhà nước. Các cơ quan
quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc bãi miễn thông qua bầu cử tự do, bình
đẳng và bỏ phiếu kín. Các thể chế chính trị và nhà nước phải hợp hiến, quản
lý xã hội bằng luật pháp, sự ngự trị tối cao của pháp luật. Không tập trung
tuyệt đối hoá quyền lực vào bất kỳ một chủ thể quyền lực nào, thực hiện
nguyên tắc phân quyền, tản quyền. Nhà nước thực thi quyền lực công cộng và
công khai. Nhà nước phải phối hợp hoạt động với xã hội công dân, tạo điều
kiện cho công dân tham gia công việc nhà nước và giám sát phê bình hoạt
động của nhà nước. Nhân dân dễ dàng tiếp cận các phương tiện thông tin đại
9
chúng. Thiểu số phục tùng quyết định của đa số và đa số tôn trọng, bảo vệ
những quyền chính đáng của thiểu số.
Việc xây dựng một nền dân chủ phụ thuộc vào các yếu tố như: trình độ
dân trí, văn hoá của nhân dân; nhân sinh quan và thế giới quan, phẩm chất và
năng lực của chủ thể cầm quyền; các thể chế dân chủ được chế định bằng
nguyên tắc luật pháp, chuẩn mực văn hoá đạo đức về đời sống xã hội. Việc
nâng cao trình độ văn hoá, dân trí cho nhân dân là nhân tố cơ bản để thực hiện
dân chủ bởi vì dân chủ là biểu hiện của trình độ văn hoá chính trị, có quan hệ
mật thiết với trình độ dân trí, văn hoá nói chung. Chỉ khi nào người dân tự
giác nhận thức được quyền hạn và nghĩa vụ của mình, tự giác tham gia vào
công việc nhà nước, công việc xã hội, hoạt động với tư cách là công dân có tri
thức, có học vấn và văn hoá… thì mới thực sự có điều kiện thực hiện dân chủ.
“Người mù chữ sẽ đứng ngoài chính trị”- như Lênin nói, ít hiểu biết cũng làm
hạn chế sự tham gia vào đời sống chính trị. Song, dân chủ không chỉ phụ
thuộc vào trình độ dân trí, văn hoá mà còn phụ thuộc vào chủ thể cầm quyền.
Giai cấp tiến bộ, lực lượng tiến bộ cầm quyền, những con người có tài, có đức
nắm giữ quyền lực thường thực hiện dân chủ với nhân dân. Nhưng thực hiện
dân chủ không phải chỉ mong đợi vào “lòng tốt” của người cầm quyền mà
quan trọng hơn là xây dựng những chế định dân chủ có khả năng buộc những
người nắm giữ quyền lực dù muốn hay không cũng phải tuân theo. Những
người nắm giữ quyền được lựa chọn có thể là những người có tài, có đức, suy
nghĩ và hành động của họ vì lợi ích của nhân dân, nhưng nếu không có thể
chế để nhân dân kiểm soát mọi hành vi của họ thì có thể dần dần họ lạm dụng
quyền lực mưu lợi ích của riêng mình.Trong đó có nạn quan liêu, tham nhũng.
Phương thức đặc hiệu để chữa quan liêu tham nhũng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh nhấn mạnh chính là dân chủ và thực hành dân chủ rộng rãi trong xã hội.
10
Tóm lại, không chỉ nâng cao nhận thức về dân chủ, giáo dục ý thức dân
chủ cho quần chúng mà còn phải thể chế hoá các quyền dân chủ bằng các chế
định pháp luật để có dân chủ trong thực tế.
Nâng cao dân trí, văn hoá, ý thức dân chủ và thói quen sinh hoạt dân
chủ của nhân dân; đào tạo và giáo dục đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý, thừa
hành thực hiện dân chủ của nhân dân; xây dựng và hoàn thiện các thể chế dân
chủ trực tiếp và dân chủ đại diện… đó là những nhiệm vụ cơ bản trong công
cuộc xây dựng chế độ XHCN và cũng là những vấn đề đặt ta hiện nay.
Về hình thức, dân chủ được thể hiện qua dân chủ đại diện hoặc dân chủ
trực tiếp. Dân chủ trực tiếp là hình thức dân chủ được thực hiện bằng cách
nhân dân trực tiếp bày tỏ chính kiến của mình, trực tiếp tham gia quyết định
những vấn đề chung của cộng đồng xã hội. Còn dân chủ đại diện là nhân dân
thông qua các đại biểu của mình, đoàn thể của mình và các phương tiện khác
để bày tỏ chính kiến của mình, trực tiếp tham gia quyết định những vấn đề
chung của cộng đồng xã hội. Những hình thức dân chủ ấy được thể chế bằng
luật pháp nhà nước và được thực thi bằng cả hệ thống chính trị. Dân chủ trực
tiếp thường được thực hiện trong những cộng đồng dân cư ở cơ sở, như xã,
phường, thị trấn, cơ quan, trường học… Ở đây, nhân dân có thể trực tiếp bày
tỏ chính kiến của mình, trực tiếp quyết định và giám sát những công việc của
cộng đồng xã hội. Ở quy mô quốc gia, dân chủ trực tiếp được thực hiện dưới
hình thức trưng cầu dân ý để quyết định những vấn đề trọng đại của đất nước,
đặc biệt là trong những trường hợp cần thiết.
Vai trò của dân chủ trong đời sống xã hội, đặc biệt trong xã hội hiện đại
là không thể phủ nhận. Dân chủ chính là điều kiện, môi trường đảm bảo cho
các quyền tự do, quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người. Dân
chủ là giải pháp hạn chế sự tha hoá quyền lực nhà nước và là phương tiện để
đấu tranh chống lại việc dùng quyền lực nhà nước và lạm dụng quyền lực để
mưu lợi ích riêng. Không thể hình dung được tiến bộ xã hội và sự phát triển
11
của lịch sử mà lại thiếu vắng dân chủ. Đây là một trong những tiêu chí căn
bản để đánh giá tính chất và trình độ phát triển của một xã hội. Chính vì thế,
dân chủ đã trở thành mục tiêu và động lực cho sự phát triển và thịnh vượng
của các dân tộc. Ngày nay, dân chủ hoá xã hội đã trở thành khuynh hướng chủ
đạo của phát triển thế giới. Mọi dân tộc đều có quyền, cơ hội và khả năng hoà
nhập vào dòng chảy đó của nhân loại, vươn tới tiến bộ xã hội và văn minh.
c) Khái niệm về dân chủ ở cơ sở.
Nền dân chủ XHCN ở nước ta đã được khẳng định trong đường lối của
Đảng, Hiến pháp, pháp luật của Nhà nước. Quyền dân chủ của công dân được
thể hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá. Hệ thống chính
quyền ở nước ta gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc), huyện
(thị, quận) và xã (phường) đều vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ:
Đó là nguyên tắc cơ bản của nền dân chủ XHCN. Hiệu qủa của dân chủ thể
hiện trực tiếp đến nhân dân là ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh
nghiệp v.v.. là nơi trực tiếp thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà
nước; là địa bàn nhân dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác;
là nơi diễn ra các mối quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các
cấp ủy Đảng và chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức điều hành và xử lý
công việc hàng ngày. Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được tham gia
giải quyết những vấn đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám
sát hoạt động hàng ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó
có nghĩa là nhân dân có quyền làm chủ và được hưởng lợi từ cơ sở và ở cơ sở.
DCCS là quyền dân chủ trực tiếp của người dân, (mặc dù có cả dân chủ
đại diện) được tiến hành ở cấp xã, phường đến tận thôn, xóm, đơn vị, cơ quan,
nhà máy, xí nghiệp theo phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm
tra. DCCS trước hết là dân chủ trực tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện
quyền làm chủ của mình bằng cách trực tiếp thể hiện ý chí (qua ý kiến)
12
nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt động của cơ quan chính quyền
ở cơ sở.
DCCS là dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan nhà nước và doanh
nghiệp nhà nước tức là ở từng đơn vị cơ sở, nơi diễn ra cuộc sống và hoạt
động của người dân. Dân chủ ở cấp xã mà chúng ta nghiên cứu ở đây là dân
chủ ở xã, phường, thị trấn với nghĩa là cấp cơ sở trong hệ thống các cấp quản
lý hành chính nhà nước. Thực hiện dân chủ ở cấp xã chính là thực hiện "Quy
chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn" (1998) nay được nâng lên thành
“Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn” (từ sau Đại hội X).
d) Công tác vận động quần chúng: Nội hàm lý luận và ý nghĩa thực tiễn
Công tác vận động quần chúng là phương thức lãnh đạo, chỉ đạo, tổ
chức thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng đối với quần chúng thông qua
các tổ chức xã hội, các phương tiện thông tin đại chúng, nhằm thực hiện các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước đạt hiệu quả cao nhất.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, để đảm bảo cho cuộc đấu
tranh cách mạng giành được thắng lợi thì ít nhất hội tụ đủ hai yếu tố cơ bản:
Một là, phải tổ chức “giai cấp công nhân thành một chính đảng là vấn
đề cần thiết để bảo đảm thắng lợi của cách mạng xã hội và giành được mục
đích cuối cùng là thủ tiêu các giai cấp”.
Hai là, “bản thân quần chúng phải tự mình tham gia vào cuộc cải tạo
ấy, phải tự mình hiểu rằng vì sao mình phải đấu tranh… Nhưng muốn quần
chúng hiểu rõ là phải làm gì thì phải tiến hành một công tác lâu dài và kiên
nhẫn” [24 , 775].
Như vậy, công tác VĐQC là một công tác lâu dài và phải kiên trì thực
hiện. Đó là cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân để giành lấy sự đồng tình,
giành lấy sự ủng hộ của đa số nhân dân lao động. Mỗi thời kỳ cách mạng khác
nhau phải có những hình thức công tác VĐQC khác nhau.
13
Vận dụng và phát triển tư tưởng của Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ
rõ “ Cách mệnh trước hết phải làm cho dân giác ngộ”, muốn làm cho dân giác
ngộ “Trước hết phải có Đảng cách mệnh, trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức ở mọi nơi”. Như vậy, Hồ
Chí Minh khẳng định sự cần thiết của công tác VĐQC và Đảng Cộng sản Việt
Nam là người phải vận động và tổ chức nhân dân tham gia vào phong trào
cách mạng do Đảng khởi xướng.
Theo như Hồ Chí Minh công tác VĐQC có nội hàm rất rộng:
“Dân vận (VĐQC) là vận động tất cả lực lượng của người dân không
để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành
những việc nên làm, những công việc chính phủ giao.
Vận động quần chúng không thể dùng báo, cương, sách vở, mít tinh,
khẩu hiệu, chỉ thị là đủ.
Trước hết, phải tìm mọi cách để giải thích cho người dân hiểu rõ ràng,
việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải làm cho kỳ được.
Điểm thứ hai là bất kỳ một việc gì điều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến
và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với
hoàn cảnh địa phương rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành.
Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân.
Khi thi hành xong phải cùng dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh
nghiệm, phê bình, khen thưởng". [39,698-700].
Đây cũng chính là nội hàm lý luận của công tác VĐQC trong thực hiện DCCS.
Về mặt thực tiễn cho thấy, ở đâu, lúc nào, trong hoàn cảnh nào công tác
VĐQC được quan tâm, trển khai và thực hiện tốt thì ở đó có phong trào cách
mạng tốt, đem lại hiệu quả lớn nhất cho cách mạng và lợi ích cao nhất cho
nhân dân. Trong thực hiện DCCS cũng vậy, ở đâu và khi nào công tác VĐQC
được chú trọng, quần chúng tích cực tham gia giám sát, thực hiện Quy chế
dân chủ thì ở đó tinh thần dân chủ lên cao, phong trào cách mạng thắng lợi,
14
tinh thần đoàn kết nhất trí trong Đảng, trong đơn vị được củng cố, phát triển;
đồng thời tránh được các biểu hiện sai sót, tiêu cực, trong công tác quản lý và
điều hành xã hội; tránh được các biểu hiện suy thoái về tư tưởng, đạo đức lối
sống của cán bộ đảng viên và một bộ phận nhân dân. Ngược lại, nơi nào xem
nhẹ công tác vận động quần chúng, xem nhẹ dân chủ, để mất dân chủ, cán bộ
xa rời quần chúng nhân dân, quan liêu, cửa quyền, thiếu trách nhiệm, thiếu
đạo đức, không lắng nghe, tôn trọng và không quan tâm đến tâm tư, nguyện
vọng, lợi ích của quần chúng nhân dân… thì nơi ấy sẽ rất khó thực hiện Quy
chế dân chủ. Việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách pháp luật của
Đảng và Nhà nước cũng không thể nào có được kết quả cao.
1.1.2 Một số cơ sở lý luận
1.1.2.1 Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ,
DCCS và công tác VĐQC thực hiện DCCS.
a) Chủ nghĩa Mác - Lênin về dân chủ
Chế độ dân chủ của một xã hội thường tìm thấy phương thức biểu hiện
phổ biến của nó ở chế độ nhà nước. Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, ở
buổi bình minh của lịch sử nhân loại, trước sức mạnh huyền bí của thiên
nhiên hoang sơ, để tồn tại và phát triển, con người buộc phải gắn bó với nhau
để tạo nên sức mạnh cộng đồng. Và, thế là một hình thức đặc biệt của dân chủ
đã xuất hiện mà Ph.Ăngghen gọi là dân chủ quân sự hay dân chủ nguyên
thuỷ. Cuộc sống cộng đồng đã đặt ra nhu cầu tổ chức và quản lý hoạt động
chung. Thông qua đại hội nhân dân, nhân dân đã bầu ra hội đồng thị tộc và thủ
lĩnh quân sự, đồng thời quyết định mọi vấn đề quan trọng của thị tộc, bộ lạc.
Do kết quả của quá trình phát triển sản xuất và phân công lao động, xã
hội cộng sản nguyên thuỷ tan rã, nhà nước hình thành. Ngay từ khi mới ra
đời, nhà nước đã có tham vọng đặc quyền đứng trên xã hội để giải quyết
những vấn đề xã hội. Ảo tưởng nắm và sử dụng nhà nước của con người như
một công cụ thực hiện sự “phục sinh” những quyền dân chủ ban đầu trong xã
15
hội thị tộc dưới một hình thức cao hơn đã tan thành mây khói. Giai cấp chủ nô
nhân danh xã hội, chiếm đoạt nhà nước, biến nhà nước thành công cụ thực
hiện quyền lực chính trị của mình. Nhà nước chủ nô chính là hình thức, hình
thái đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có giai cấp và đối kháng giai
cấp. Chính giai cấp chủ nô đã nhận diện được cái khát vọng của con người,
trong đó có khát vọng quyền lực chính trị, đã tổ chức nên chế độ nhà nước
chủ nô, vì lợi ích của giai cấp chủ nô. Như thế, để có một giai cấp chủ nô có
quyền dân chủ, loài người đã phải trả bằng một giá quá đắt là tuyệt đại bộ phận
con người bị đẩy xuống hàng nô lệ, thành “những con vật biết nói” [36, 135].
Theo C. Mác, trong tác phẩm Phê phán cương lĩnh Gota (1875) dân chủ
tức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng,
Lênin cũng cho rằng: Chế độ dân chủ là một hình thức tổ chức nhà nước, một
trong những hình thái của nhà nước.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng của Mác - Ănghen về dân chủ,
Lênin đã đưa ra con đường phát triển biện chứng của dân chủ “từ chuyên chế
đến dân chủ tư sản, từ dân chủ tư sản đến dân chủ vô sản, từ dân chủ vô sản
đến không còn dân chủ nữa” [38, 270]. Lênin cho rằng, dân chủ vô sản không
phải là chế độ dân chủ cho tất cả mọi người, nó chỉ là dân chủ với tất cả quần
chúng lao động và bị bóc lột, dân chủ vô sản là chế độ dân chủ vì lợi ích của
đa số, dân chủ trong chủ nghĩa xã hội bao quát hết tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, dân chủ đó ngày càng hoàn thiện bao nhiêu càng nhanh đi tới tiêu
vong bấy nhiêu. Dân chủ vô sản loại bỏ tất cả quyền làm chủ của các giai cấp là
đối tượng của chuyên chính vô sản, nó đưa quảng đại quần chúng lên địa vị của
người chủ chân chính của xã hội. Từ tất cả những ý nghĩa đó, Lênin đã đi đến một
tư tưởng khái quát “Dân chủ vô sản là thứ dân chủ gấp triệu lần dân chủ tư sản”.
Dân chủ XHCN là nền dân chủ cao nhất trong lịch sử phát triển của
nhân loại. Dân chủ cho quảng đại quần chúng nhân dân lao động. Quần chúng
trong thực tế và vì nó có cơ sở kinh tế là chế độ xã hội hóa về tư liệu sản xuất
16
đảm bảo nền dân chủ được thực hiện toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội, từ chính trị, kinh tế đến văn hóa tư tưởng. Với tư cách là một loại
hình dân chủ mới về chất so với tất cả các loại hình dân chủ trước đó, dân chủ
XHCN chỉ có thể ra đời sau khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động
giành được quyền lực chính trị về tay mình, nhân dân thực sự là người làm
chủ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, kết tinh trong bản thân mình
toàn bộ những giá trị dân chủ đạt được trong lịch sử và nảy sinh những giá trị
dân chủ về chất.
Về bản chất của nền dân chủ XHCN Lênin đã nói rằng “Chế độ dân
chủ vô sản một triệu lần dân chủ hơn so với bất cứ chế độ dân chủ tư sản nào.
Chính quyền Xô Viết so với các cộng hòa tư sản dân chủ cũng dân chủ gấp
triệu lần”. Theo Lênin, dân chủ XHCN là nền dân chủ quyền lực thực sự của
nhân dân được thực hiện trong thực tiễn, điều đó được thể hiện rõ nét qua:
Thứ nhất, dân chủ cho số đông, là sự đảm bảo quyền lực, lợi ích của nhân dân
do giai cấp công nhân đại diện. Giai cấp công nhân không có lợi ích riêng của
mình mà biểu hiện cho lợi ích chung của toàn xã hội, nó tiêu biểu cho tính
chất xã hội hóa rộng lớn của lực lượng sản xuất xã hội, của chế độ sở hữu xã
hội. Thứ hai, tiền đề đầu tiên của dân chủ XHCN là quần chúng phải được
giải phóng và đạt được một bước ngoặt lịch sử là tự do về chính trị, là chủ thể
lịch sử, là quyền dân tộc tự quyết. Thứ ba, giai cấp công nhân là đại diện tiêu
biểu nhất cho quyền lực xã hội. Cơ sở kinh tế của dân chủ XHCN là nền kinh
tế XHCN, tư hữu bị xóa bỏ. Cơ sở chính trị trực tiếp là Nhà nước kiểu mới, là
Đảng Cộng sản cầm quyền lãnh đạo xã hội và nhà nước. Dân chủ xã hội chủ
nghĩa phụ thuộc vào mức đọ hoàn thiên cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ, vào mức độ phân định chức năng, nhiệm vụ; đồng
thời, xác định được mối quan hệ giữa ba bộ phận trong bộ máy nhà nước,
giữa trung ương và địa phương. Thứ tư, dân chủ XHCN phụ thuộc vào mức
độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. Pháp luật càng chi tiết, cụ thể bao
17
nhiêu, quy định càng rõ ràng về quyền lợi và trách nhiệm của nhà nước đối
với công dân, giữa công dân với nhà nước, giữa công dân với nhau thì càng
có điều kiện thực thi dân chủ.
b) Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân chủ, dân chủ cơ sở và công tác
VĐQC thực hiện DCCS.
Trong toàn bộ di sản văn hoá và tinh thần của Hồ Chí Minh, tư tưởng
dân chủ là một giá trị to lớn và đặc sắc.
Tư tưởng dân chủ, cũng như vai trò to lớn của quần chúng nhân dân
trong việc thực hiện dân chủ đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ qua
các luận điểm.
1. “Dân chủ là của quý báu nhất của nhân dân” [42, 279].
Quan niệm dân chủ của Hồ Chí Minh rất rộng, rất toàn diện. Từ việc “làm
sao cho nhân dân biết hưởng quyền dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình,
dám nói, dám làm” (Bài phát biểu với Tỉnh uỷ Hà Tây tháng 2/1967) đến việc
“giải quyết vấn đề kinh tế và tài chính thế nào cho hợp lý, cho lợi dân”) [40, 175].
Người quan niệm rằng: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh
phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”) [38, 56]. Như thế dân chủ
không chỉ là phương pháp thể hiện mới, tốt đẹp trong xã hội mà trên hết là nội
dung của cuộc sống mới của nhân dân, cuộc sống mà người dân là người chủ
thực sự của đất nước, của xã hội. Chỉ có một nền dân chủ thực sự thì người
dân mới có thể phát huy được tinh thần tự do sáng tạo và mưu cầu hạnh phúc
của mình.
2. “Địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ” [40, 515].
Với quan niệm dân là trên hết, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “mọi lợi
ích là vì dân”, ”mọi quyền hạn là của dân”, ”mọi công việc do dân” và “trong
bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng
lực lượng đoàn kết của nhân dân”[42, 276].
3. “Nhiệm vụ của chính quyền dân chủ là phục vụ nhân dân” [42, 276].
18
Hồ Chí Minh là người đặt nền móng để xây dựng chính quyền dân chủ
mới ở nước ta. Người xác định xây dựng chính quyền dân chủ đích thực, từ
một xã hội phong kiến nghèo nàn, lạc hậu, dân trí thấp (bấy giờ đa số nhân
dân còn mù chữ) lại thiếu truyền thống dân chủ trong xã hội, không hề là việc
đơn giản có thể làm xong ngay một sớm, một chiều. Người luôn khẳng định
bản chất nhân dân và bản chất dân chủ của chính quyền ta. Người coi chuyên
chính chỉ là “cái khoá, cái cửa” để đề phòng kẻ phá hoại của quý báu nhất là
dân chủ mà thôi. Người khẳng định: “mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường
chuyên chính để cho chính quyền ta thật sự là chính quyền của dân, phục vụ
nhân dân, chống lại kẻ thù của nhân dân” [42, 289].
Để cho quyền dân chủ của nhân dân được thể hiện, để quyền lực Nhà
nước được bảo đảm, Người nhấn mạnh ba yếu tố sau:
- Phải có Hiến pháp “thích hợp với sự phát triển của chế độ”, “bảo đảm
được quyền tự do dân chủ cho các tầng lớp nhân dân”.
- Phải có luật pháp “thận sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ
rộng rãi cho nhân dân lao động”. Người còn nói luật pháp của ta hiện nay
chưa đầy đủ, phải cố gắng làm cho luật pháp ngày càng dân chủ nhiều hơn,
tốt hơn…
- Phải có một bộ máy chính quyền có đủ năng lực, phẩm chất, bộ máy
phải tinh giản, hoạt động phải nhạy bén.
Người nêu rõ những nguyên tắc đặt nền móng để xây dựng một chính
quyền dân chủ “vì dân và do dân”. Bởi lẽ, chỉ có trong một thiết chế dân chủ
có hiệu quả thì nhân dân mới thực sự có quyền và kiểm soát được quyền lực,
mới có những điều kiện về cơ chế, về luật pháp và về tổ chức có thể “kiểm
soát” được bộ máy chính quyền, cái công cụ của mình, mà luôn luôn có
khuynh hướng thoát ly quyền lực của nhân dân để trở thành “quan chủ”.
Người còn chú ý đến nhiều điều kiện khác nữa, trong đó Người nhấn
mạnh đến giải pháp “dân trí”. Người từng nói “quan tham vì dân dại- nếu dân
19
hiểu biết không chịu đút lót thì “quan” dù không liêm cũng phải hoá ra liêm”.
Lời nói của Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị đến ngày hôm nay. Đặc biệt
trong việc thực hiện DCCS trong mọi lĩnh vực, ví dụ trong việc thực hiện cải
cách thủ tục hành chính, thì vấn đề "dân trí" vô cùng quan trọng. Nếu dân
biết, dân hiểu thì dân sẽ thực hiện và giám sát.
Rõ ràng Đảng và Nhà nước ta không thể tự cải tạo, chỉnh đốn, đổi mới
nếu biệt lập nó với quá trình dân chủ hoá sâu sắc và mạnh mẽ, với quá trình
tôn trọng và phát huy dân trí và dân quyền của toàn xã hội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân chủ vẫn còn giữ nguyên giá trị
trong việc củng cố và xây dựng một chính quyền Nhà nước dân chủ để phục
vụ nhân dân có hiệu quả, có hiệu lực, một chính quyền thật sự vì dân và do
dân, chứ không phải là quyền lực riêng của một cá nhân hoặc là của một
nhóm người nào.
4. “Đảng cũng ở trong xã hội”, “Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ
chức nên" [42,396].
Ngày nay, xây dựng nền dân chủ của nước nhà gắn liền với vai trò hoạt
động của Đảng Cộng sản Việt Nam. Mọi hoạt động của Đảng, bảo đảm cho
nền dân chủ ấy thể hiện bản chất nhân dân, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Hồ Chí
Minh nói: “Đảng ta dấu tranh để làm gì- Là muốn cho tất cả mọi người được
ăn no, mặc ấm, được tự do” [42, 396].
“Đảng từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên” là thế nào? đảng
không tự mình tổ chức ra mà do dân tổ chức nên là thế nào? Đây là một trong
bảy mệnh đề chính trị mà Người đã cân nhắc và viết ra ở một bài báo có nội
dung rất khái quát, có tư tưởng rất sâu sắc, đó là bài Dân vận, đăng trên tờ Sự
thật ngày 15 tháng 10 năm 1949. Bất cứ một hình thái tổ chức xã hội nào đều
do yêu cầu của dân mà thành lập, mà hoạt động. Do dân còn do trình độ dân
trí mà tổ chức cho phù hợp. Ở một trình độ xã hội mà nhân dân có yêu cầu
cao về văn hoá và trí tuệ, thì tổ chức Đảng không thể không đặt ra vấn đề
20
năng lực trí tuệ của đảng viên cũng như tính khoa học của mọi hoạt động của
tổ chức Đảng. Hồ Chí Minh cho rằng, Đảng không có mục đích tự thân, Đảng
không tồn tại, không tổ chức nên vì chính mình. Người luôn yêu cầu Đảng
phải gắn với dân, bám sát dân, đặc biệt là phải luôn nhạy cảm với thực tế.
5. Đoàn thể là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền lợi
của dân, liên lạc mật thiết giữa dân với chính phủ.
Theo Hồ Chí Minh, các đoàn thể trước hết phải là tổ chức của dân.
“Công đoàn phải bảo vệ cho công nhân có quyền thực sự trong xí nghiệp” hay
Đoàn thanh niên “muốn củng cố và phát triển thì Đoàn phải liên hệ rộng rãi
và chặt chẽ với các tầng lớp thanh niên. Phải quan tâm đến đời sống, công tác
và học tập của thanh niên…”. Với các tổ chức đoàn thể khác Người cũng đều
nêu yêu cầu tương tự.
6. “Thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống của nhân
dân, thực hiện dân chủ thực sự ".[41, 323]
Trong việc xây dựng và thực hiện dân chủ thực sự, quần chúng nhân
dân đóng vai trò quyết định, vì vậy mà phải tìm mọi cách để giải thích cho
người dân hiểu rõ ràng, việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải
làm cho kỳ được.
Bất kỳ một việc gì điều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh
nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa
phương rồi động viên và tổ chức toàn dân thi hành. Coi công tác VĐQC là
nhiệm vụ chiến lược, phải tiến hành thường xuyên, trong mọi hoàn cảnh.
Khi nói về VĐQC thực hiện DCCS, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng
định: Nước lấy dân làm gốc, dân lấy cuộc sống làm đầu, chế độ ta là chế độ
của dân, do dân. Dân theo Đảng đứng lên đánh đuổi kẻ thù giành lấy chính
quyền mà có được. Các cấp chính quyền và đoàn thể từ trung ương đến địa
phương, cơ sở là do nhân dân bầu cử ra. Do vậy, mỗi cán bộ phải vì dân, hết
lòng phục vụ mang lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Theo người
21