ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ YẾN
ĐẢNG BỘ HUYỆN TAM NÔNG TỈNH PHÚ THỌ
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TRONG NHỮNG NĂM 1986 - 2006
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
HÀ NỘI - 2013
1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
NGUYỄN THỊ YẾN
ĐẢNG BỘ HUYỆN TAM NÔNG TỈNH PHÚ THỌ
LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
TRONG NHỮNG NĂM 1986 - 2006
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số
: 60 22 56
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. NGND. Lê Mậu Hãn
HÀ NỘI - 2013
2
MỤC LỤC
Trang
1
Chương 1: Tình hình kinh tế nông nghiệp của Tam Nông từ năm 1986
đến năm 1999
9
1.1. Một số nét khái quát về Tam Nông
9
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và Đảng bộ Tam Nông
9
1.1.2. Kinh tế nông nghiệp của Tam Nông trước năm 1986
19
1.2. Sự lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện từ 1986
đến năm 1999
30
1.2.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp
1.2.2. Chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện từ 1986 - 1999
30
39
1.2.3. Những chuyển biến về kinh tế nông nghiệp của huyện từ năm 1986
đến năm 1999
45
Chương 2: Đảng bộ huyện Tam Nông lãnh đạo phát triển kinh tế
55
nông nghiệp trong những năm 1999 đến 2006
2.1. Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp
55
2.2. Quá trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của
60
Đảng bộ huyện Tam Nông
2.2.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Tam Nông về phát triển kinh tế
nông nghiệp
60
Mở đầu
2.2.2.Quá trình thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của huyện Tam
Nông
63
Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu
70
3.1. Nhận xét chung
70
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu
Kết luận
Tài liệu tham khảo
74
82
84
6
BẢNG VIẾT TẮT
BCHTU
: Ban Chấp hành Trung ương
CNH, HĐH: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
HĐND
: Hội đồng nhân dân
HU
: Huyện ủy
UBND
: Ủy ban nhân dân
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa
NXB
: Nhà xuất bản
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nông nghiệp là một ngành đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế
của Việt Nam. Mỗi bước phát triển của nông nghiệp có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng đến việc nâng cao đời sống của người nông dân – lực lượng chiếm số
đông về dân cư. Vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước luôn luôn chú trọng phát triển
một nền nông nghiệp toàn diện cho việc nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm,
tìm tòi cơ chế quản lý phù hợp.
Công cuộc đổi mới kinh tế do Đảng khởi xướng và lãnh đạo hơn 20
năm qua đã mang lại những biến đổi sâu sắc trên nhiều lĩnh vực, trong đó đổi
mới kinh tế nông nghiệp được coi là nét đặc trưng nổi bật, có ý nghĩa mở đầu
cho công cuộc đổi mới kinh tế. Trải qua quá trình hoàn thiện và đổi mới từng
bước, nền nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu to lớn, góp
phần thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác. Những thành tựu ấy
có được, một phần lớn là nhờ vai trò hoạch định chính sách và tổ chức thực
hiện của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tam Nông là một huyện bán trung du miền núi, nằm ở phía Đông Nam
của tỉnh Phú Thọ. Đại bộ phận cư dân trong huyện đều làm nông nghiệp. Sau
ngày mới giải phóng, sản lượng lương thực đạt trên 15.000 tấn/năm. Nạn đói
thường xuyên đe dọa người nông dân trong huyện.
Cũng như các huyện khác trong tỉnh, sau ngày mới giải phóng Tam
Nông vừa lo ổn định tình hình chính trị và trật tự an ninh, vừa tập trung công
sức giải quyết hậu quả của chiến tranh để lại, từng bước phát triển kinh tế, cải
thiện đời sống, mà chủ yếu là tập trung phát triển nông nghiệp.
Dưới ánh sáng Nghị quyết Đại hội VI (tháng 12 năm 1986) của Đảng,
quán triệt quan điểm coi nông nghiệp – lương thực là nền tảng và là mặt trận
hàng đầu, coi nông dân là chủ thể của quá trình đổi mới và nông thôn là địa
7
bàn chiến lược phát triển kinh tế, Đảng bộ huyện Tam Nông đã thực hiện chủ
trương của Đảng và giải pháp sát với thực tiễn ở địa phương, từng bước tháo
gỡ khó khăn, giải phóng sức sản xuất để phát triển kinh tế, cải thiện đời sống
nhân dân.
Đổi mới là một quá trình. Đối với một địa phương phải tìm tòi thể
nghiệm để thể hiện đường lối chung của Đảng, phải dám chịu trách nhiệm
trước dân, đồng thời phải dám nghĩ, dám làm. Nhưng muốn vậy phải có tinh
thần dũng cảm, tìm tòi sáng tạo.
Thực tế phát triển nông nghiệp, nông thôn nói chung, chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp nói riêng những năm qua khẳng định đường lối, chủ
trương xây dựng kinh tế nông nghiệp của Đảng là đúng đắn. Song mức độ
thành công của đường lối, chủ trương đó trên từng địa phương, từng giai đoạn
còn phụ thuộc rất nhiều vào sự vận dụng, tổ chức thực hiện của các đảng bộ
và chính quyền địa phương, gắn với đặc thù từng địa phương trong những
hoàn cảnh cụ thể.
Đảng bộ và nhân dân các tỉnh, thành phố trong cả nước cũng như huyện
Tam Nông, trong những năm qua đã phát huy nội lực thuận lợi, khắc phục và
hạn chế những khó khăn thực hiện tốt nhất chủ trương phát triển kinh của
Đảng, góp phần đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng.
Tam Nông là một huyện có thế mạnh phát triển nông nghiệp, đặc biệt
là trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp. Trong quá trình xây dựng kinh tế từ năm
1986 đến năm 2006, nền nông nghiệp của Tam Nông đã có những phát triển
nhất định, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được
nâng cao. Những thành tựu đó góp phần quan trọng vào sự nghiệp phát triển
kinh tế - xã hội của huyện nói riêng và của tỉnh Phú Thọ cũng như đất nước
nói chung. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng kinh tế nông nghiệp còn chậm và
thiếu bền vững, chưa xứng với tiềm năng và lợi thế mà thiên nhiên ban tặng.
Huyện Tam Nông còn gặp phải những khó khăn và đối mặt với nhiều vấn đề
8
mới nảy sinh trong quá trình lãnh đạo xây dựng kinh tế nông nghiệp: Tình
trạng độc canh, sản xuất nhỏ manh mún, nông dân nghèo còn
nhiều….Nguyên nhân của những thành quả cũng như những yếu kém nêu trên
có phần xuất phát từ kết quả vận dụng đường lối, chủ trương của Đảng vào
tình hình thực tế của tỉnh.
Tìm hiểu quá trình Đảng bộ huyện Tam Nông lãnh đạo kinh tế nông
nghiệp trong những năm 1986 đến năm 2006 là một trong những vấn đề quan
trọng. Nó góp phần làm rõ những biến đổi trong nông nghiệp, nông thôn của
huyện nói riêng và của tỉnh trong quá trình thực hiện, đưa đường lối đổi mới
của Đảng vào cuộc sống cũng như những tác động bước đầu của quá trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn của Đảng đối với
huyện Tam Nông.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Tam Nông vận dụng thực hiện
đường lối chủ trương của Đảng và chính sách của Nhà nước để lãnh đạo kinh
tế nông nghiệp từ năm 1986 đến năm 2006; đánh giá kết quả đạt được và
những hạn chế yếu kém; từ đó rút ra những kinh nghiệm góp phần làm cho
kinh tế nông nghiệp của huyện phát triển mạnh trong thời gian tới là việc có ý
nghĩa khoa học và thực tiễn.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Tam Nông tỉnh
Phú Thọ lãnh đạo phát triển nông nghiệp trong những năm 1986 đến năm
2006” làm luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu
Từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản, các ngành kinh tế nước ta đã có bước phát triển mạnh. Vì vậy, việc
nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực kinh tế nói chung và
kinh tế nông nghiệp nói riêng trở thành một vấn đề hấp dẫn được nhiều người
quan tâm. Trên phạm vi cả nước đã có rất nhiều công trình của các nhà khoa
9
học đề cập đến vấn đề này ở nhiều góc độ khác nhau. Vấn đề kinh tế nông
nghiệp ở huyện Tam Nông có thể tổng hợp các công trình liên quan thành
những nhóm cơ bản sau:
Các văn kiện của Đảng về phát triển kinh tế nông nghiệp như: Đảng
Cộng sản Việt Nam, “Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm
2000”, Nxb Sự Thật, H.1991; Đảng Cộng sản Việt Nam, “Một số văn kiện đại
hội của Đảng về phát triển nông nghiệp”, Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1998;
Đảng Cộng sản Việt Nam, “Nghị quyết Bộ Chính trị (Nghị quyết 10) về đổi
mới quản lý kinh tế nông nghiệp”, Nxb Sự Thật, H.1988…Nguồn tư liệu này
chủ yếu đề cập đến quan điểm, đường lối và chủ trương lãnh đạo xây dựng
của Đảng trong phát triển kinh tế nông nghiệp, một vấn đề rất cần thiết mà
luận văn có thể đưa ra để định hướng cho việc giải quyết vấn đề.
Các công trình khoa học, sách nghiên cứu về đổi mới kinh tế nông
nghiệp, nông thôn như: “Lịch sử nông nghiệp Việt Nam” của Ban biên tập lịch
sử nông nghiệp Việt Nam (Nxb Nông nghiệp, H.1994), “Đổi mới quản lý kinh
tế nông nghiệp. Thành tựu, vấn đề, triển vọng” của Nguyễn Văn Bích chủ
biên (Nxb Chính trị quốc gia, H.1994), “Đổi mới quản lý kinh tế nông
nghiệp” của học viện Nguyễn Ái Quốc – Khoa quản lý kinh tế (Nxb Tư tưởng
– Văn hóa, H.1990), “Đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp ở Việt
Nam” của PGS. TS Trương Thị Tiến (Nxb Chính trị Quốc gia, H. 1986),
“Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kì đổi mới” của PGS. TS Nguyễn Sinh
Cúc (Nxb Thống kê, H. 2003), “Phát triển toàn diện kinh tế - xã hội nông
thôn, nông nghiệp Việt Nam” của Chu Hữu Quý (Nxb Chính trị Quốc gia, H.
1996), “Kinh tế nông nghiệp” của Phạm Vân Đình chủ biên (Nxb Nông
nghiệp, H. 1997), “Kinh tế hợp tác trong nông nghiệp ở nước ta hiện nay”
đồng chủ biên của Phạm Thị Cần, Vũ Văn Phúc, Nguyễn Văn kỷ (Nxb Chính
trị Quốc gia, H. 2003), “Nông nghiệp nông thôn Việt Nam bước vào thế kỉ 21”
10
của Hoàng Việt, Nguyễn Văn Hiền, Nguyễn Thế Nhã (Nxb Nông nghiệp,
H.2001), “Gắn bó cùng nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong đổi mới” của
Nguyễn Văn Tiêm (Nxb Chính trị Quốc gia, H.2005)…v.v. Những tác phẩm
này đã cung cấp cho đề tài nhiều nguồn tư liệu phong phú, và sự nhìn nhận
mang tính khái quát về xây dựng, phát triển kinh tế nông nghiệp.
Những công trình trực tiếp liên quan đến sự lãnh đạo kinh tế nói chung
và kinh tế nông nghiệp nói riêng ở huyện Tam Nông như: Lịch sử Đảng bộ
tỉnh Phú Thọ, tập 1 (1939 – 1968), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000;
Lịch sử Đảng bộ tỉnh Phú Thọ, tập 2 (1968 -2000), Nxb Chính trị Quốc gia
Hà Nội năm 2003; Lịch sử Đảng bộ huyện Tam Nông (1947 - 2004) xuất bản
năm 2005; Các báo cáo kinh tế nông nghiệp của UBND huyện hàng năm đã
phản ánh được những nét cơ bản nhất về tình hình kinh tế của huyện. Đây là
những công trình quan trọng, cung cấp cho tác giả những số liệu, nhận định,
đánh giá về thực trạng phát triển kinh tế nông nghiệp ở huyện Tam Nông.
Nhìn chung, các công trình nói trên là rất cần thiết đối với việc thực
hiện đề tài, tác giả có thể kế thừa được nhiều nội dung quan trọng, đặc biệt là
vấn đề tư liệu. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào
đề cập và giải quyết một cách có hệ thống, toàn diện về sự lãnh đạo của Đảng
bộ huyện Tam Nông trong vấn đề phát triển kinh tế nông nghiệp từ năm 1986
đến năm 2006, vì vậy tôi chọn đề tài trên có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn để
làm luận văn Thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Tìm hiểu chủ trương, đường lối và sự chỉ đạo tổ chức thực hiện phát
triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ huyện Tam Nông từ năm 1986 đến
năm 2006.
11
- Bước đầu rút ra thành tựu, hạn chế sau hai mươi năm đổi mới và một
số kinh nghiệm cho thời kỳ sau này.
Nhiệm vụ:
- Tập hợp các tư liệu có liên quan đến sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ
huyện Tam Nông về phát triển kinh tế nông nghiệp trước và trong thời kì đổi
mới.
- Trình bày có hệ thống các chủ trương, biện pháp, quá trình lãnh đạo
thực hiện của Đảng bộ huyện và những kết quả đạt được theo từng giai đoạn
lịch sử.
- Phân tích vai trò của Đảng bộ huyện Tam Nông trong quá trình lãnh
đạo phát triển kinh tế nông nghiệp. Đồng thời, luận văn đúc kết một số kinh
nghiệm nhằm tiếp tục phát triển kinh tế nông nghiệp trong bối cảnh thực hiện
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là những chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện
của Đảng bộ huyện Tam Nông trong việc phát triển kinh tế nông nghiệp
huyện trong những năm 1986 – 2006, trong đó, trọng tâm là chủ trương, quá
trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp trong giai đoạn 1999 –
2006.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Nội dung nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu vai trò của Đảng bộ
huyện Tam Nông trong quá trình vận dụng sáng tạo chủ trương phát triển
kinh tế nông nghiệp vào tình hình cụ thể của địa phương.
12
+ Không gian nghiên cứu: Luận văn tiến hành nghiên cứu trên địa bàn
huyện Tam Nông.
+ Thời gian: Đề tài nghiên cứu từ năm 1986 đến 2006, chủ yếu tập
trung từ năm 1999 đến 2006.
5. Các nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu của đề tai, tôi tham khảo nghiên cứu
và sử dụng những nguồn tư liệu cơ bản sau đây:
- Văn kiện, Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam, của Đảng bộ tỉnh
Phú thọ, của Đảng bộ huyện Tam Nông về phát triển kinh tế nông nghiệp
trong thời kỳ đổi mới. Đây là nguồn tài liệu có vai trò làm nền tảng trong quá
trình nghiên cứu về chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp của huyện.
- Các tài liệu tham khảo viết về vấn đề kinh tế nói chung và kinh tế
nông nghiệp thời kì đổi mới nói riêng. Đây là nguồn tài liệu lý luận giúp học
viên nhận thức sâu sắc và đầy đủ hơn về vấn đề đang nghiên cứu.
Các văn kiện, Nghị quyết của Đại hội, Hội nghị Đảng bộ huyện, đặc
biệt là những văn kiện, Nghị quyết có liên quan tới vấn đề phát triển kinh tế
nông nghiệp. Bên cạnh đó là các báo cáo hàng quý, hàng năm,…các số liệu
thống kê về tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp trên địa bàn huyện,
…Đây là nguồn tài liệu quan trọng, trong đó có các tài liệu gốc có giá trị khai
thác làm tư liệu lịch sử như báo cáo thường niên của phòng nông nghiệp, báo
cáo hằng năm về tình hình phát triển kinh tế xã hội của Ủy ban nhân dân
huyện,…
Để tiến hành thực hiện đề tài trên, tôi đã dựa vào phương pháp luận sử
học nói chung và phương pháp luận lịch sử Đảng nói riêng trong việc nhận
thức, phân tích, đánh giá những sự kiện có liên quan. Bên cạnh đó, còn sử
13
dụng phương pháp phân tích, hệ thống, so sánh, logic,…Các phương pháp
nghiên cứu liên ngành đã giúp tôi khác thác các nguồn tài liệu, đánh giá và
phân tích được đầy đủ và sâu sắc hơn các vấn đề đặt ra.
Trong khuôn khổ một luận văn chuyên đề của chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam, tôi hy vọng luận văn đã bước đầu đóng góp vào
việc tìm hiểu vai trò của Đảng bộ huyện Tam Nông về phát triển kinh tế nông
nghiệp trong những năm 1986 -2006 và là tài liệu tham khảo cho những độc
giả quan tâm đến vấn đề kinh tế nông nghiệp ở mỗi địa phương.
6. Đóng góp luận văn
Trình bày có hệ thống quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp từ năm
1986 đến năm 2006 của Đảng bộ huyện Tam Nông.
Nêu lên một số kinh nghiệm, và đưa ra một số kiến nghị trong phát
triển kinh tế nông nghiệp dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện.
Luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cần thiết cho việc nghiên cứu lịch
sử Đảng bộ huyện Tam Nông nói riêng và lịch sử Đảng nói chung trên lĩnh
vực lãnh đạo kinh tế nông nghiệp.
7. Kết Cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
Chương 1: Tình hình kinh tế nông nghiệp của Tam Nông từ năm 1986
đến năm 1999
Chương 2: Đảng bộ huyện Tam Nông lãnh đạo phát triển kinh tế
nông nghiệp trong những năm 1999 đến 2006
Chương 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu
14
Chương 1
Tình hình kinh tế nông nghiệp của Tam Nông
từ năm 1986 đến năm 1999
1.1. Một số nét khái quát về Tam Nông
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, dân cư và Đảng bộ Tam Nông
* Điều kiện tự nhiên
- Địa lý hành chính
Tam Nông là một huyện bán trung du miền núi, nằm ở phía Đông Nam
của tỉnh Phú Thọ. Thị trấn Hưng Hóa là trung tâm kinh tế - chính trị của
huyện nơi đây đã từng có vị trí quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ
nước. Nằm cạnh sông Thao, ranh giới tự nhiên với thị xã Phú Thọ ở phía Bắc
và huyện Lâm Thao về phía Đông Bắc. Phía Đông Nam tiếp giáp với sông Đà
là ranh giới tự nhiên với tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc Hà Nội); phía Tây Nam
giáp với huyện Thanh Thủy và Thanh Sơn; phía Tây Bắc giáp với huyện
Thanh Ba và huyện sông Thao, ranh giới tự nhiên là sông Hồng và sông Bứa,
nằm về phía Đông Nam của tỉnh.
Nhìn lên bản đồ Phú Thọ, Tam Nông là vùng chuyển tiếp giữa miền núi
và đồng bằng. Chiều dài của huyện dọc theo sông Hồng từ cửa sông Bứa (xã
Tứ Mỹ) đến xã Hồng Đà dài 32 km, chiều rộng từ 7-12 km. Tam Nông là
vùng đầu mối giao thông thủy bộ, nối vùng hợp lưu của sông Hồng và sông
Đà, Bắc Trung bộ, đồng bằng châu thổ sông Hồng với các tỉnh Tây Bắc…Do
đó, từ xa xưa vùng đất này đã có vị trí quan trọng về kinh tế và quốc phòng,
Hưng Hóa là nơi đặt trụ sở hành chính tỉnh lỵ qua nhiều thời kì. Trải qua các
thời kì lịch sử, địa danh và địa giới hành chính của huyện đã nhiều lần thay
đổi.
15
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, về mặt hành chính, Nhà
nước ta bỏ cấp tổng, phủ, châu gọi chung là huyện và tiến hành hợp nhất các
làng nhỏ thành xã lớn. Thời kì cải cách ruộng đất, các xã lại có sự điều chỉnh,
chia tách. Toàn huyện Tam Nông được chia thành 19 xã gồm Hồng Đà, Dân
Quyền, Hưng Hóa, Dậu Nương, Thanh Bình, Mai Lĩnh, Bạch Đằng, Mê Linh,
Vạn Xuân, Văn Lang, Bình Dân, Hiền Quan, Cộng Hòa, Hương Nha, Bắc
Sơn, Lam Sơn, Phương Định, Đống Đa và Ngọc Nga.
Ngày 26 tháng 1 năm 1968, Ủy Ban Thường vụ Quốc hội nước Việt Nam
Dân Chủ Cộng Hòa ra Quyết định sáp nhập 2 tỉnh Vĩnh Phú và Phú Thọ
thành tỉnh Vĩnh Phú. Tam Nông thuộc tỉnh Vĩnh Phú. Đến ngày 5 tháng 7
năm 1977, Hội đồng Chính phủ ra Quyết định số 187 về việc hợp nhất các
huyện trong tỉnh Vĩnh Phú, trừ huyện Thanh Sơn vẫn giữ nguyên còn lại các
huyện đều hợp nhất. Hai huyện Tam Nông và Thanh Thủy sáp nhập lại thành
huyện Tam Thanh bao gồm 35 xã. Trải qua 29 năm hợp nhất tháng 11 năm
1996, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (khóa IX) kỳ họp
thứ 10 thông qua Nghị quyết chia tách tỉnh Vĩnh Phú thành 2 tỉnh: Phú Thọ và
Vĩnh Phúc, huyện Tam Nông thuộc tỉnh Phú Thọ. Sau 22 năm sáp nhập với
huyện Thanh Thủy thành huyện Tam Thanh, ngày 24 tháng 7 năm 1999,
Chính phủ ra Nghị định số 59/NĐ - CP về việc điều chỉnh địa giới hành chính
chia các huyện Phong Châu, Tam Thanh. Theo Nghị định này, huyện Tam
Nông được tái lập và chính thức đi vào hoạt động kể từ ngày 1 tháng 9 năm
1999.
- Địa hình
Nhìn tổng thể địa hình của huyện Tam Nông tương đối đa dạng, thể
hiện những nét đặc trưng của một vùng bán sơn địa. Đất đai có núi, đồi, ruộng
đồng, sông, ngòi, hồ, đầm. Dạng địa hình chính của huyện Tam Nông theo
16
hướng nghiêng dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam. Nhìn chung địa hình của
huyện chia thành 2 dạng chính:
Địa hình vùng đất thấp: Nằm dọc theo sông Hồng và sông Bứa gồm
những cánh đồng có chiều ngang hẹp, tạo thành một vệt dài theo bờ sông từ
xã Hồng Đà đến sông Bứa gồm các xã Hùng Đô, Quang Húc, Tề Lễ. Các
cánh đồng trên hầu hết là do phù sa sông Hồng, sông Bứa được bồi tụ qua
nhiều năm trước khi có đê chắn, tạo thành lớp đất tương đối màu mỡ, thuận
lợi cho cây lúa, hoa màu và lương thực.
Vùng đồi núi cao nằm ở phía Tây Nam huyện thuộc địa bàn các xã Dị
Nậu, Thọ Văn, Tề Lễ, bao gồm nhiều gò núi nhấp nhô, độ dốc thấp có độ cao
trung bình từ 30 – 40m so với mực nước biển.
- Khí hậu:
Tam Nông là huyện nằm giữa khu vực đồng bằng và đồi núi, mang đặc
điểm chung của khí hậu miền trung du Bắc bộ thuộc khu vực có khí hậu nhiệt
đới gió mùa, lượng bức xạ cao, có nền nhiệt độ trung bình, lượng mưa tập
trung chủ yếu vào mùa mưa, phân bố theo mùa rõ rệt. Về mùa đông ở nhiều
vùng trong huyện thường có sương mù, sương muối vào sáng sớm thường
hanh khô.
Theo phân vùng khí hậu tỉnh Phú Thọ thì huyện nằm trong trọn tiểu
vùng khí hậu đồi trung du.
Về nhiệt độ, độ ẩm: Nhiệt độ trung bình năm từ 23 – 240C, tổng tích
nhiệt trung bình năm khoảng 8.5000C, độ ẩm tương đối trung bình khoảng
84%.
Về lượng mưa: Tổng lượng mưa trung bình hằng năm từ 1.450 –
1500mm. Tổng lượng mưa năm nhiều nhất là 2.600mm, năm ít nhất từ 1000 –
17
1100mm. Tình trạng khô hạn, úng lụt cục bộ thường xuyên xảy ra gây thiệt
hại cả về kinh tế và xã hội.
Về chế độ gió: Có hai loại gió chính là gió mùa Đông Nam từ tháng 5
đến tháng 10; gió mùa Đông Bắc từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau. Ngoài ra
từ tháng 6 đến tháng 8 xen kẽ với gió mùa Đông Nam thường xảy ra gió mùa
Tây và Tây Nam, khô và nóng xen kẽ trong các mùa.
- Thủy văn, sông ngòi
Chế độ thủy văn của Tam Nông tương đối phong phú, trên địa bàn
huyện có 3 dòng sông chảy qua là: sông Hồng, sông Đà, sông Bứa. Nhờ có 3
con sông này mà có tới hàng chục con ngòi và một số đầm hồ lớn.
Sông Hồng chảy qua địa bàn huyện bắt đầu từ xã Tứ Mỹ (giáp huyện
Cẩm Khê) rồi nhập vào sông Đà ở xã Hồng Đà theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam, tạo thành một vòng cung dài 32km. Sông Hồng là con sông có độ phù
sa vào loại lớn nhất Bắc Bộ, có tới 7,660kg trên một mét khối nước.
Sông Đà (thời thuộc Pháp có tên sông Đen), phát nguyên từ Trung
Quốc ở độ cao 5000 mét chảy theo hướng Đông Bắc – Tây Nam đến Hòa
Bình gặp núi Ba Vì chặn lại. Về mùa mưa, sông Đà cũng đỏ ngầu phù sa như
sông Hồng, thường gây nên lũ lụt, ngập úng cho nhiều vùng, làm thiệt hại rất
nhiều về người và tài sản của Nhà nước và của nhân dân.
Ngoài hai con sông trên, huyện Tam Nông còn được thiên nhiên ban
tặng con sông Bứa bắt nguồn từ Sơn La. Con sông này hầu như nằm hoàn
toàn trong tỉnh Phú Thọ, chảy qua 8 xã của huyện Thanh Sơn rồi đổ vào Tam
Nông qua các xã Tề Lễ, Quang Húc, Hùng Đô, Tứ Mỹ đổ vào sông Thao
(nhân dân thường gọi là cửa sông). Sông Bứa có ít phù sa (khoảng 1,1kg/m3)
18
chủ yếu là cung cấp nước tưới cho trồng trọt và giao thông vận chuyển hàng
hóa trên sông.
Ngoài 3 sông kể trên, trên địa bàn huyện còn có sông Thao, con sông
này chảy qua 11 xã với chiều dài là 34km. Lưu lượng dòng chảy vào mùa
mưa rất lớn, sông Thao có vai trò rất quan trọng trong việc cung cấp nước cho
sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, đồng thời cung cấp một lượng phù sa mới
cho đồng ruộng góp phần cải thiện đồ phì của đất.
Bên cạnh các hệ thống sông Thao, sông Bứa, sông Đà, sông Hồng, địa
bàn Tam Nông còn có rất nhiều ngòi lớn nhỏ thuộc phụ lưu các con sông trên
cùng một số hồ, đầm thiên tạo phong phú, nằm rải rác ở một số địa phương
trong huyện như đầm Thượng Nông, đầm Dị Nậu, đầm Phú Cường.
Với hệ thống sông, ngòi và hồ đầm phong phú, có trữ lượng nước
tương đối lớn là điều kiện thuận lợi cho Tam Nông có nguồn tài nguyên nước
dồi dào, phục vụ cho đời sống và vận chuyển hàng hóa, nuôi trồng thủy sản
nước ngọt và phát triển sản xuất nông nghiệp.
- Tài nguyên đất
Theo số liệu “Niên giám thống kê” của tỉnh Phú Thọ năm 2000, toàn
huyện Tam Nông có 15.551,34 héc ta đất tự nhiên, trong đó có 6.476,44 héc
ta đất nông nghiệp, chiếm 42% đất lâm nghiệp, rừng là 3.018,46 héc ta, chiếm
19%; đất chuyên dùng 1.496,4 héc ta, chiếm 10%; đất ở 402,6 héc ta, chiếm
3% còn lại 4.244,86 héc ta đất chưa sử dụng và sông suối. Bình quân diện tích
đất tự nhiên là 1. 981m2 / người. Bình quân đất nông nghiệp là 812m2/ người.
Do đặc điểm vị trí là nơi tiếp giáp giữa miền núi và đồng bằng nên đất
đai của huyện Tam Nông tương đối phong phú và đa dạng, bao gồm một số
loại đất chính như: đất vàng đỏ phát triển trên nền đá sa thạch và phiên thạch,
19
đất đỏ vàng phát triển trên nền đá phiến Mica và Gnai, đất xám vàng phát
triển trên nền phù sa cổ, đất phù sa không được bồi đắp hàng năm và đất phù
sa được bồi hằng năm của sông Hồng, sông Đà, sông Bứa.
Chính tài nguyên đất này cũng là điều kiện rất quan trọng cho sự phát
triển sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện Tam Nông không chỉ có cây
lương thực mà còn nhiều các loại cây khác như cây ăn quả, cây lâu năm…
- Tài nguyên nước
Huyện Tam Nông có 3 con sông chảy qua trong đó sông Hồng, sông
Đà và sông Bứa có trứ lượng nước lớn. Nguồn nước ở các hồ, đầm lại phân
bố ở hầu hết các xã trong huyện, đây chính là một nhân tố không thể thiếu cho
sự phát triển kinh tế nông nghiệp nói chung của toàn huyện.
Nguồn nước mưa bổ sung mỗi năm trên địa bàn huyện tới hàng trăm
triệu m3. Ngoài ra, nguồn nước ngầm mạch nông khá phong phú, hiện đang
được khai thác dưới dạng giếng đào, giếng khoan trong dân.
Nhìn chung các nguồn nước này cung cấp đủ để nuôi trồng thủy sản,
nước tưới phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và nước sinh hoạt cho nhân dân.
Ngoài nguồn nước cung cấp bởi các dòng sông thì các ao, hồ, kênh mương
cũng góp phần tích cực trong việc phục vụ sản xuất và điều tiết nguồn nước
vào mùa mưa cũng như mùa khô trên địa bàn huyện.
- Giao thông vận tải
Huyện Tam Nông có nhiều đường quốc lộ, đường tỉnh lộ chạy qua như
đường quốc lộ 32A chạy theo hướng Đông Nam – Tây Bắc, đoạn từ Hồng Đà
đến Tế Lễ dài 25km. Đường quốc lộ 32C, đoạn từ ngã tư Cổ Tiết đi Tứ Mỹ
dài 9 km. Trên địa bàn huyện còn có 10 tuyến đường liên huyện dài 64 km.
Các đường trên đều đã được trải nhựa hoặc cấp phối đi lại khá thuận tiện.
20
Ngoài giao thông đường bộ, huyện Tam Nông còn có hệ thống đường
giao thông bằng đường thủy.
Như vậy, với các điều kiện tự nhiên và diện tích đất đai, tài nguyên cho
phép huyện có khả năng phát triển một nền nông nghiệp đa dạng, phong phú,
có khả năng chuyển dịch cơ cấu công nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây
trồng, vật nuôi. Mặt khác, xuất phát từ tiềm năng đất đai và tài nguyên, cùng
với hệ thống giao thông thuận lợi, huyện Tam Nông có nhiều lợi thế phát triển
sản xuất công nghiệp và dịch vụ thương mại. Những năm qua, kinh tế của
huyện đã từng bước phát triển trên nhiều lĩnh vực như: Sản xuất lương thực,
thủy sản, chăn nuôi bò thịt, phát triển vùng nguyên liệu giấy, sản xuất vật liệu
xây dựng, mây tre đan…cơ sở hạ tầng khu công nghiệp đã được hình thành và
đầu tư phục vụ phát triển công nghiệp – tiều thủ công nghiệp.
* Dân cư và bản sắc văn hóa
- Dân cư
Cư dân Tam Nông thuần Việt, ngày xưa họ quần tụ chủ yếu trên lưu
vực sông Hồng, sông Đà, và ven các triền đồi thấp tương đối màu mỡ. Lịch sử
đã ghi nhận, từ thế kỉ X trở đi, dòng người di cư đến Phú Thọ ngày càng
đông, nhiều người trong số họ đã đến vùng Tam Nông. Nhận thấy, ở đây điều
kiện tự nhiên thuận lợi họ đã ở lại sinh cơ lập nghiệp lâu dài. Cũng có những
trường hợp đặc biệt do sự sắp xếp của Trung ương như tháng 3 năm 1036,
vua Lý Thái Tông đem Công chúa Kim Thành gả cho Châu Mục Châu Chân
Đăng. Mùa xuân năm 1044, nhà Lý đưa khoảng 5000 người là tù binh bắt
được trong các cuộc giao tranh bảo vệ lãnh thổ, đã không giết đi mà cho đến ở
Châu Chân Đăng, lập hương ấp cho làm ruộng quốc khố của nhà vua. Tiếp
đến, khoảng năm 1060 vua Lý Thánh Tông gả công chúa Ngọc Kiều cho
Châu Mục Châu Chân Đăng. Mỗi lần như vậy có thêm những người hầu hạ,
21
tùy tùng đi cùng với quân lính để bảo vệ đã đến ngụ cư lâu dài và trở thành cư
dân địa phương. Tuy nhiên cho đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 cư dân
ở đây còn thưa thớt. Theo tài liệu “Niên báo chung hành chính tự nhiên và
công nghiệp xứ Đông Pháp” xứ Đông Dương in năm 1901, huyện Tam Nông
có 5 tổng, 34 xã gồm 1456 xuất đinh.
Cư dân Tam Nông là kết quả của sự hòa quện, đan xen giữa nhiều dòng
người khác nhau và ngày càng đông lên. Đến nay cư dân nơi đây đã hòa nhập
vào cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
-
Bản sắc văn hóa
Cư dân Tam Nông không chỉ cần cù, chịu khó mà còn rất sáng tạo
trong lao động nghệ thuật, trong việc sáng tác, giữ gìn và phát huy bản sắc
dân gian của vùng đất tổ. Có thể nói, đây là vùng đất còn lưu truyền nhiều
nhất những truyền thuyết, truyện cổ dân gian của tỉnh Phú Thọ. Tuy bị hàng
ngàn năm Bắc thuộc, hàng trăm năm dưới chế độ thực dân phong kiến, nhưng
dòng văn học dân gian, tiêu biểu là các điệu múa, làn điệu dân ca, hát xoan,
hát ghẹo, hát ví giao duyên, tục ngữ, ca dao về lao động sản xuất vẫn còn tồn
tại và ngày càng được phát huy. Đặc biệt, ở Tam Nông còn lưu truyền nhiều
câu chuyện đặc sắc, tiêu biểu là truyện cười Văn Lang (xã Văn Lương ngày
nay) mang tên quốc gia thời dựng nước.
Chính những con người lao động trên địa bàn rừng núi bán sơn địa đã
sáng tác những câu chuyện cười được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân. Với
cách kể chuyện dí dỏm, gắn gọn, súc tích vừa ca ngợi tinh thần lao động của
nhân dân, vừa đả kích, châm biếm nhẹ nhàng nhưng rất sâu cay đối với tầng
lớp thống trị, cường hào trong làng, đồng thời cũng góp phần phê phán những
thói hư, tật xấu của con người, thể hiện khát vọng về một cuộc sống đầy đủ.
Bên cạnh đó, vùng đất Tam Nông còn bảo tồn và lưu giữ được nhiều loại hình
22
văn hóa dân gian khác mang nét đặc trưng từng địa phương như: tục chạy lợn,
cướp cờ, lễ hội (Quang Húc), múa mo (Tam Cường), lễ đâm trâu (Xuân
Quang)…., được tổ chức hàng năm mỗi dịp xuân về thu hút đông đảo các
tầng lớp nhân dân trong và ngoài làng tham gia, tạo nên không khí sôi nổi.
Có thể nói, với những đặc điểm về tự nhiên, dân cư, xã hội đó, huyện
Tam Nông có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế nông nghiệp như: điều
kiện tự nhiên thuận lợi, người dân có truyền thống sản xuất nông nghiệp từ
lâu đời, giao thông thuận lợi …
Từ khi thành lập đến nay, Tam Nông nhiều lần thay đổi địa giới hành
chính. Điều này cũng gây nhiều khó khăn cho huyện trong việc phát triển
kinh tế - xã hội nói chung và kinh tế nông nghiệp nói riêng.
* Đảng bộ huyện Tam Nông
Ngày 23 tháng 9 năm 1945 thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Sài
Gòn, từng bước mở rộng chiến tranh ra toàn miền Nam. Ở miền Bắc, chúng
phản bội những điều đã kí kết, gây hấn ở nhiều nơi và mở rộng chiến tranh
xâm lược trên toàn bộ đất nước ta.
Trước tình hình đó, ngày 19 tháng 12 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh
ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Tiếp đó, ngày 22 tháng 12 năm 1946
Trung ương Đảng công bố Chỉ thị “Toàn dân kháng chiến”, xác định rõ mục
đích, tính chất của cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ và tự lực
cánh sinh.
Thực hiện Chỉ thị của Trung ương Đảng và lời kêu gọi cứu nước thiêng
liêng của Chủ Tịch Hồ Chí Minh, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Tỉnh ủy nhân
dân Tam Nông đoàn kết một lòng đứng lên kháng chiến.
23
Trước tình hình và nhiệm vụ mới, nhiệm vụ trọng tâm trước mắt của
Đảng bộ Phú Thọ lúc này là xây dựng tổ chức Đảng từ tỉnh đến cơ sở. Do đó,
Đại hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ nhất tổ chức vào đầu tháng 1 năm
1947, đã ra Nghị quyết về công tác xây dựng Đảng, phân công tỉnh ủy viên
phụ trách các địa phương, đồng thời quyết định thành lập Ban cán sự Đảng
(tức Huyện ủy lâm thời) ở các huyện. Thực hiện Nghị quyết Đại hội, các chi
bộ ghép đều tích cực phát triển đảng viên.
Ngày mùng 1 tháng 5 năm 1947, Tỉnh ủy quyết định cho các chi bộ
ghép liên huyện được tách ra thành các chi bộ riêng, phân bộ Tam Nông trong
chi bộ ghép được tách ra thành chi bộ riêng trực thuộc Tỉnh ủy. Đồng chí
Nguyễn Trung được chỉ định làm Bí thư. Việc Chi bộ Tam Nông được thành
lập, đánh dấu sự trưởng thành của phong trào cách mạng ở địa phương. Đây
được coi là ngày ra đời của Đảng bộ huyện Tam Nông.
Sau khi miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, dưới sự chỉ đạo của Đảng
bộ tỉnh Phú Thọ, Đảng bộ huyện Tam Nông đã lãnh đạo nhân dân tiến hành
khôi phục kinh tế, phát triển văn hóa. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu
nước, nhân dân huyện Tam Nông vừa sản xuất, vừa chiến đấu, góp phần đánh
bại hai cuộc chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ, bên cạnh đó cùng với nhân
dân miền Bắc, việc chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam cũng hoàn thành
tốt.
Sau khi đất nước được hoàn toàn giải phóng, Đảng bộ và nhân dân
trong huyện cùng với nhân dân trong cả nước đạt được những thành tựu to lớn
trong công cuộc khôi phục kinh tế. Thực hiện đường lối, chủ trương của Đại
hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng bộ huyện đã lãnh đạo nhân dân từng
bước thực hiện công cuộc đổi mới đất nước.
24
Thực tế quá trình lãnh đạo đấu tranh cách mạng và xây dựng phát triển
kinh tế - xã hội trong những thập kỷ qua của Đảng bộ huyện Tam Nông đã
tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng vào thực tiễn địa phương
qua từng thời kì lịch sử. Quá trình hình thành và phát triển của Đảng bộ đã ghi
nhận sự cống hiến và hy sinh của nhiều cán bộ đảng viên, đồng thời quá trình
đó đã khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng bộ huyện xứng đáng với lòng tin
cậy của nhân dân trong huyện.
Bước vào thế kỉ XXI, phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng
của quê hương, Đảng bộ huyện Tam Nông đã lãnh đạo nhân dân bước đầu thu
được nhiều thành tựu trong công cuộc xây dựng huyện về mọi mặt trong đó
kinh tế nông nghiệp là một minh chứng chứng minh.
1.1.2. Kinh tế nông nghiệp của Tam Nông trước năm 1986
1.1.2.1. Xây dựng các hợp tác xã theo mô hình tập thể hóa (1958 – 1980)
Sau ngày miền Bắc được giải phóng, nhằm tiếp tục hoàn thành cuộc
cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thực hiện khẩu hiệu “người cày có
ruộng”, Trung ương Đảng chủ trương tiến hành tiếp 4 đợt cải cách ruộng đất
(đợt 1 tiến hành năm 1953) trên toàn miền Bắc (1954- 1956). Tháng 9 năm
1955, cải cách ruộng đất đã được hoàn thành ở hầu hết các xã trong huyện,
hàng ngàn mẫu do thực dân Pháp, địa chủ, cường hào chiếm hữu được đem
chia cho nông dân, bình quân mỗi hộ nông dân được chia từ 3000 đến 3500m2
ruộng đất. Ước mơ lâu đời của người nông dân “người cày có ruộng” giờ đã
trở thành hiện thực. Người nông dân đã được làm chủ trên đồng ruộng của
mình, họ phấn khởi hăng hái tham gia sản xuất, xây dựng một xã hội mới.
Tháng 11 năm 1958, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ
14 (Khóa II) đề ra nhiệm vụ cơ bản về thực hiện kế hoạch kinh tế 3 năm 1958
-1960 ở miền Bắc là:
25
- Đẩy mạnh phát triển sản xuất nông nghiệp và công nghiệp, lấy sản
xuất nông nghiệp là khâu chính, chủ yếu nhằm giải quyết vấn đề lương thực,
đồng thời rất chú trọng sản xuất công nghiệp; hết sức tăng thêm tư liệu sản
xuất và giải quyết phần lớn hàng tiêu dùng.
- Ra sức cải tạo nông nghiệp, thủ công nghiệp và công thương nghiệp
tư bản tư doanh theo chủ nghĩa xã hội, khâu chính là đẩy mạnh hợp tác hóa
nông nghiệp, đồng thời tích cực phát triển và củng cố thành phần kinh tế quốc
doanh.
Do đó, ngày 20 tháng 7 năm 1958, Chủ tịch Hồ Chí Minh về thăm tỉnh
Phú Thọ, Người đã căn dặn Đảng bộ và nhân dân trong tỉnh: “ Các cấp ủy
Đảng và chính quyền cùng nhân dân bàn định kế hoạc thật cụ thể; phải phát
triển và củng cổ tổ chức và làm cho hợp tác xã sản xuất nông nghiệp thật
vững chắc” [4, tr. 206 - 207].
Tuân theo lời dạy của Người, Đảng bộ Tam Nông và nhân dân trong
huyện đã ra sức phát triển tốt phong trào đổi công, hợp tác hóa nông nghiệp,
tích cực thâm canh tăng năng suất các loại cây trồng.
Đến cuối năm 1958 toàn huyện đã xây dựng xong 9 hợp tác xã nông
nghiệp thuộc 4 xã Hưng Hóa, Bạch Đằng, Phương Thịnh, Vạn Xuân gồm 425
hộ nông dân. Phong trào hợp tác xã nông dân đã thúc đẩy nông dân hăng hái
cải tiến kỹ thuật nhằm đưa năng suất lên cao. Vì vậy, vụ mùa năm 1958 xã
Phương Thịnh đạt sản lượng thóc tăng 48,2% so với vụ mùa năm 1957. Thực
tế đó càng thúc đẩy phong trào quần chúng ở nông thôn tích cực tham gia vào
hợp tác xã.
Quán triệt chủ trương của Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 14
tháng 1 năm 1959 của Tỉnh ủy Phú Thọ về việc xây dựng hợp tác xã nông
nghiệp. Đến cuối năm 1959, Tam Nông có 83 hợp tác xã nông nghiệp ở cả 19
26
xã gồm có 4.145 hộ nông dân tham gia với 19.909 nhân khẩu. Cuộc vận động
xây dựng hợp tác xã được triển khai nhanh chóng, đến cuối năm 1960, kết
thúc kế hoạch 3 năm cải tạo xã hội chủ nghĩa, huyện Tam Nông cơ bản hoàn
thành hợp tác hóa với 105 hợp tác xã, bao gồm 6.884 hộ nông dân.
Hợp tác hóa nông nghiệp đã căn bản hoàn thành, quan hệ sản xuất mới
được xác lập. Đây thực chất là quá trình xã hội hóa tư liệu sản xuất, xác lập
phương thức hợp tác lao động mới, thúc đẩy nông nghiệp phát triển. Đó cũng
là bước đầu của quá trình chuyển dần nông nghiệp trên địa bàn huyện từ sản
xuất nhỏ lẻ lên sản xuất tập thể. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng hợp tác
hóa ở Tam Nông cũng bộc lộ những thiếu sót như chưa nhận thức đúng về ba
nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi, dân chủ của một số cán bộ, đảng viên,
quan liêu bảo thủ….
Sau khi miền Bắc hoàn thành cơ bản kế hoạch cải tạo xã hội chủ nghĩa
(1958 – 1960), tháng 9 năm 1960, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của
Đảng Lao động Việt Nam họp tại Thủ đô Hà Nội. Đại hội đề ra nhiệm vụ và
phương hướng của kế hoạch 5 năm lần thứ nhất (1961 – 1965) là: Ra sức phát
triển nông nghiệp và công nghiệp; hoàn thành công cuộc cải tạo xã hội chủ
nghĩa đối với các thành phần kinh tế không phải xã hội chủ nghĩa; nâng cao
trình độ văn hóa của nhân dân lao động; cải thiện một bước đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân; tăng cường củng cố quốc phòng, an ninh và công
tác xây dựng Đảng.
Quán triệt Nghị quyết của Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III và Đại
hội Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lần thứ V, Đảng bộ Tam Nông đã xác định những
phương hướng chỉ tiêu cơ bản phát triển kinh tế trong kế hoạch 5 năm lần thứ
nhất: Tích cực củng cố, phát triển phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, gắn
liền với đẩy mạnh sản xuất, lấy củng cố hợp tác xã nông nghiệp phát triển sản
xuất làm nhiệm vụ trung tâm, đồng thời mở rộng quy mô hợp tác xã, đưa một
27