Tải bản đầy đủ (.pdf) (131 trang)

Đảng bộ huyện từ liêm hà nội lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ nam 2001 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 131 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

PHẠM THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ LIÊM (HÀ NỘI)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------

PHẠM THỊ HUYỀN

ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ LIÊM (HÀ NỘI)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hữu Luận



Hà Nội - 2014


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Bảo hiểm y tế

BHYT

Ban chỉ đạo

BCĐ

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Chính sách xã hội

CSXH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH - HĐH


Hội đồng nhân dân

HĐND

Lao động – Thương binh và xã hội

LĐ – TB&XH

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Hữu Luận.
Các số liệu trong luận văn là trung thực, chính xác, đảm bảo
tính khách quan khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, ngày tháng

năm 2013

Tác giả luận văn

Phạm Thị Huyền



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1 CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN
TỪ LIÊM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM 2001 ĐẾN
NĂM 2005 ............................................................................................................ 8
1.1 Yêu cầu khách quan thực hiện chính sách xã hội ở huyện Từ Liêm từ
năm 2001 đến năm 2005 ................................................................................... 8
1.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa của huyện Từ Liêm8
1.1.2 Thực trạng thực hiện chính sách xã hội của huyện Từ Liêm trước
năm 2001 ....................................................................................................... 13
1.1.3 Yêu cầu mới về thực hiện chính sách xã hội của huyện Từ Liêm16
1.2 Đảng bộ huyện Từ Liêm vận dụng chủ trƣơng của Đảng vào thực
hiện chính sách xã hội ở địa phƣơng (2001 – 2005) .................................. 20
1.2.1 Chủ trương của Đảng về chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2005
........................................................................................................................ 20

1.2.2 Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện chính sách xã hội của Đảng
bộ huyện Từ Liêm từ năm 2001 đến năm 2005 .................................... 28
Chƣơng 2 ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ LIÊM ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM 2006 ĐẾN
NĂM 2010 .......................................................................................................... 51
2.1 Yêu cầu mới đặt ra đối với công tác lãnh đạo đẩy mạnh thực hiện
chính sách xã hội ở huyện Từ Liêm ............................................................. 51
2.2 Đảng bộ huyện Từ Liêm vận dụng chủ trƣơng của Đảng lãnh đạo đẩy
mạnh thực hiện chính sách xã hội (2006 – 2010) ...................................... 56
2.2.1 Chủ trương của Đảng về chính sách xã hội từ năm 2006 đến năm 2010
........................................................................................................................ 56



2.2.2 Chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện Từ Liêm đẩy mạnh
thực hiện chính sách xã hội từ năm 2006 đến năm 2010 ................... 62
Chƣơng 3 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ĐÚC RÚT TỪ QUÁ TRÌNH
ĐẢNG BỘ HUYỆN TỪ LIÊM LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
XÃ HỘI (2001 – 2010) ...................................................................................... 88
3.1 Nhận xét quá trình Đảng bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo thực hiện chính
sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2010 ......................................................... 88
3.1.1 Nhận xét về thành tựu ........................................................................ 88
3.1.2. Nhận xét về hạn chế .......................................................................... 94
3.2 Một số kinh nghiệm .................................................................................... 97
3.2.1 Nhận thức đúng đắn vị trí, vai trò của chính sách xã hội trong tổng
thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ...................... 97
3.2.2 Phát huy và kết hợp mọi nguồn lực trong thực hiện chính sách xã hội
...................................................................................................................... 100

3.2.3 Thường xuyên quan tâm công tác tổ chức và xây dựng đội ngũ cán
bộ trực tiếp thực hiện chính sách xã hội có tâm huyết ở địa bàn nhằm đáp
ứng tốt yêu cầu công tác xã hội ................................................................ 104
3.2.4. Thực hiện các chính sách xã hội phải đồng bộ, phối hợp chặt chẽ với
nhau và phải trên cơ sở phát triển kinh tế - xã hội, điều kiện và đặc điểm
của địa phương ........................................................................................... 107
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 112
PHỤ LỤC ...............................................................................................................


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chính sách xã hội là một bộ phận cấu thành chính sách chung của
một chính đảng, nhà nước, nhằm giải quyết những vấn đề liên quan đến đời

sống con người, nhu cầu lợi ích của các nhóm, các tầng lớp, các giai cấp,
các dân tộc trong xã hội, đồng thời góp phần điều chỉnh các quan hệ xã hội
phù hợp với mục tiêu của các quốc gia dân tộc.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đã lựa chọn con đường đưa
đất nước tiến lên CNXH với mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, lấy con người làm vị trí trung tâm của xã hội.
Với mục tiêu ấy, CSXH có một vị trí quan trọng trong hệ thống chính sách
của Đảng và Nhà nước, là một bộ phận cấu thành chiến lược phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước. Chính sách xã hội góp phần tạo ra động lực to lớn
phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Là một huyện nằm ở cửa ngõ phía Tây của Thủ đô Hà Nội, là vùng
đất có truyền thống lịch sử - văn hóa lâu đời. Trong những năm gần đây,
cùng với sự nghiệp CNH - HĐH phát triển của Thủ đô Hà Nội, diện mạo
của huyện Từ Liêm cũng có nhiều biến đổi rõ rệt, mang dáng vóc của một
vùng đô thị mới văn minh, hiện đại. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước cũng như sự chỉ đạo sát sao của Đảng bộ Thành phố Hà Nội, Huyện
ủy, Ủy ban nhân dân huyện Từ Liêm đã đạt được nhiều thành tựu trên các
lĩnh vực kinh tế - xã hội và văn hóa, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần
cho nhân dân trong Huyện. Trong đó việc thực hiện CSXH đã được Huyện
ủy quan tâm tạo điều kiện gắn với các chính sách chung và các chính sách
khác ở địa bàn đạt được những thành công nhất định. Trong nhiều năm liền

1


Huyện được đánh giá là đơn vị dẫn đầu Thành phố về thực hiện các chính
sách thương binh, xã hội.
Tuy nhiên, là huyện nằm trong vùng quy hoạch phát triển đô thị của
Thành phố, vì thế quá trình đô thị hóa nhanh và mạnh mẽ một mặt tạo ra

những thuận lợi cơ bản đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của Huyện,
mặt khác cũng đặt ra nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết nhất là trên lĩnh
vực xã hội như: lao động và việc làm, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ
nạn xã hội, ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Để tiến cùng với
sự phát triển của đất nước và đạt được mục tiêu phát triển kinh tế xã hội,
huyện Từ Liêm đã nhận thức rõ việc thực hiện tốt CSXH là một trong
những điểm mấu chốt, góp phần bảo đảm cho sự phát triển bền vững của
nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển và giữ vững ổn định chính trị - xã
hội. Việc chỉ đạo và tổ chức thực hiện CSXH không chỉ là nhiệm vụ lâu dài
xuyên suốt mà còn là nhiệm vụ cần kíp đòi hỏi các cơ quan, ban ngành cần
quan tâm giải quyết.
Trước yêu cầu thực hiện CSXH hiện nay, việc nghiên cứu sự lãnh
đạo của Đảng bộ Huyện Từ Liêm về thực hiện CSXH, từ đó rút ra những
kinh nghiệm góp phần giải quyết các vấn đề thực tiễn của Huyện đang đặt
ra là vấn đề cần thiết.
Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “ Đảng bộ Huyện Từ Liêm
(Hà Nội) lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm
2010” để làm luận văn thạc sĩ Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
CSXH và thực hiện CSXH là khách thể nghiên cứu của nhiều ngành
khoa học. Cho tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về CSXH dưới
các góc độ và cách tiếp cận khác nhau.

2


- Nhóm thứ nhất: nhóm các công trình khoa học nghiên cứu về
CSXH nói chung và quan điểm của Hồ Chí Minh về CSXH nói riêng, tiêu
biểu là các công trình: Hồ Chí Minh – Về chính sách xã hội của Trung tâm

KHXH&NV quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. Nội dung
cuốn sách nêu lên quan điểm của Hồ Chí Minh về thực hiện CSXH đối với
các tầng lớp nhân dân như công nhân, nông dân, tri thức, bộ đội, thương
binh, gia đình liệt sỹ và người có công với cách mạng; ngoài ra cuốn sách
còn đề cập tới những vấn đề chung về CSXH dưới chế độ mới (quan điểm,
đường lối và chính sách chung: dân số, lao động việc làm, phòng chống các
tệ nạn xã hội, định hướng các giá trị và chuẩn mực đạo đức xã hội); Tư
tưởng Hồ Chí Minh về con người và về chính sách xã hội của PGS, TS Lê
Sỹ Thắng (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996. Nội dung cuốn
sách đề cập đến khái niệm “con người” trong tư tưởng Hồ Chí Minh và tư
tưởng Hồ Chí Minh về CSXH; Nghiên cứu chính sách xã hội nông thôn
Việt Nam do các tác giả Bùi Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Dũng, Phạm Đỗ
Nhật Tân (chủ biên). Nội dung cuốn sách làm rõ một số vấn đề lý luận và
thực tiễn của CSXH ở nông thôn, phân tích nguyên nhân, thành tựu và
thiếu sót, đưa ra các quan điểm và giải pháp đối với các CSXH chủ yếu
(vấn đề việc làm, vấn đề phân hóa giàu nghèo và công bằng xã hội, vấn đề
đảm bảo an sinh xã hội, dân số); Đổi mới chính sách xã hội luận cứ và giải
pháp của GS Phạm Xuân Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. Nội
dung cuốn sách nêu lên một số vấn đề lý luận và phương pháp luận về
CSXH, mối quan hệ của CSXH với sự chuyển đổi cơ cấu xã hội trong nền
kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, một số kinh nghiệm và giải pháp về
CSXH đối với các vấn đề dân số, lao động và việc làm; Chính sách xã hội
và công tác xã hội ở Việt Nam thập niên 90 của tác giả Bùi Thế Cường,
Nxb Khoa học xã hội Việt Nam, 2002. Cuốn sách đề cập một số khía cạnh

3


cơ bản của CSXH và công tác xã hội, những nghiên cứu trường hợp người
có tuổi và hệ thống an sinh xã hội, lương, biên chế và phúc lợi xã hội doanh

nghiệp; Xã hội học và Chính sách xã hội của PGS, TS Bùi Đình Thanh
(chủ biên), Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2004. Nội dung cuốn
sách trình bày những quan điểm lý luận và phương pháp luận về xã hội
học, nhân học, chiến lược xã hội, những phương pháp vận dụng lý luận vào
thực tiễn hoạch định CSXH ở nước ta.
Các ấn phẩm trên đã thể hiện những vấn đề lý luận cơ bản về CSXH;
về vị trí, vai trò của CSXH và mối quan hệ giữa CSXH với phát triển kinh
tế - xã hội, ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh; về luận cứ và giải pháp
nhằm đổi mới CSXH trong thời kỳ đổi mới.
- Nhóm thứ hai: nhóm các nghiên cứu về chủ trương, CSXH của
Đảng Cộng sản Việt Nam và quá trình triển khai thực hiện, với các công
trình tiêu biểu như: Chính sách xã hội và đổi mới cơ chế quản lý việc thực
hiện của PGS, PTS Trần Đình Hoan (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1996. Nội dung cuốn sách, từ việc đánh giá khái quát thực trạng một
số vấn đề xã hội và CSXH, tác giả nêu lên quan điểm cơ bản của một số
CSXH đã được thể chế hóa và từng bước đưa vào cuộc sống như: phát triển
nguồn nhân lực và giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo, bảo hiểm xã
hội, trợ giúp xã hội, ưu đãi người có công với nước; Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội trong 25 năm đổi mới (1986 –
2011), PGS.TS Đinh Xuân Lý, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2011. Nội
dung cuốn sách nêu lên cơ sở hình thành chủ trương, CSXH của Đảng
trong thời kỳ đổi mới và kết quả thực hiện từ năm 1986 đến nay, đánh giá
và một số kinh nghiệm lãnh đạo của Đảng về việc thực hiện CSXH; Xóa
đói giảm nghèo ở Từ Liêm – Hà Nội, Hoàng Văn Cường, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội, 2004. Nội dung cuốn sách tìm hiểu về quá trình vươn lên

4


xóa bỏ đói nghèo, xây dựng nông thôn mới ở huyện Từ Liêm – Hà Nội,

trình bày những bài học kinh nghiệm và giải pháp đồng bộ mà Từ Liêm đã
thực hiện có hiệu quả; Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh, Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội từ năm 1991 đến năm
2001, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2004. Luận án đã
nghiên cứu một cách có hệ thống vai trò lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối
với việc thực hiện CSXH từ năm 1991 đến năm 2001, từ đó khẳng định
những thành tựu, hạn chế và đúc kết kinh nghiệm trong quá trình Đảng
lãnh đạo thực hiện các CSXH; Luận án tiến sĩ của Phạm Đức Kiên, Đảng
lãnh đạo kết hợp phát triển kinh tế với thực hiện chính sách xã hội từ năm
1996 đến năm 2006. Luận án đã nêu bật đường lối quan điểm của Đảng,
quá trình tổ chức thực hiện, kết quả cũng như kinh nghiệm của Đảng trong
quá trình lãnh đạo phát triển kinh tế kết hợp với thực hiện CSXH, qua đó
gợi mở những vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn cho quá trình lãnh đạo
của Đảng về vấn đề này ở cả trước mắt và lâu dài; Chính sách xã hội trong
đổi mới đất nước, Nguyễn Thị Hằng, Tạp chí Cộng sản số 11-2000. Nội
dung bài viết khẳng định sự đổi mới tư duy trong hoạch định và thực hiện
CSXH, những nhận thức, quan điểm đổi mới về CSXH và kinh nghiệm 15
năm đổi mới CSXH của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập trên những góc độ khác
nhau về cả phương diện lý luận và thực tiễn trong thực hiện CSXH ở Việt
Nam nói chung, ở huyện Từ Liêm nói riêng; đó là cơ sở để tác giả kế thừa
tiếp tục nghiên cứu về CSXH. Song, chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách độc lập, có tính hệ thống trong thời gian cụ thể về quá trình Đảng
bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo thực hiện CSXH từ năm 2001 đến năm 2010.
Vì thế, đề tài tác giả lựa chọn là vấn đề mới, không trùng lặp với các công
trình đã nêu trên.

5



3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Từ Liêm nhận thức, vận dụng chủ
trương chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam; của Đảng bộ Thành phố
Hà Nội trong lãnh đạo thực hiện CSXH ở địa bàn từ năm 2001 đến năm
2010, từ đó nêu lên những nhận xét và đúc rút một số kinh nghiệm có ý
nghĩa tham khảo cho việc lãnh đạo thực hiện chính sách xã hội ở huyện Từ
Liêm hiện nay.
*Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Trình bày một cách có hệ thống quá trình Đảng bộ huyện Từ Liêm
nhận thức, vận dụng các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam và những chủ trương CSXH của Đảng bộ Thành phố Hà Nội vào lãnh
đạo thực hiện CSXH ở địa phương từ năm 2001 đến năm 2010.
- Phân tích chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện các CSXH của Đảng
bộ huyện Từ Liêm từ năm 2001 đến năm 2010.
- Nhận xét và đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ
Huyện lãnh đạo thực hiện các CSXH từ năm 2001 đến năm 2010.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Từ Liêm lãnh đạo thực hiện
chính sách xã hội từ năm 2001 đến năm 2010
* Phạm vi nghiên cứu đề tài:
- Về nội dung: Nghiên cứu sự lãnh đạo (bao gồm chủ trương, chính
sách và chỉ đạo tổ chức thực hiện) của Đảng bộ huyện Từ Liêm đối với
việc thực hiện các CSXH, tập trung vào bốn chính sách cơ bản là: lao động
và việc làm, xóa đói giảm nghèo, phòng chống tệ nạn xã hội, ưu đãi với
người có công với cách mạng.

6



- Về thời gian: Từ năm 2001 đến năm 2010.
- Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu ở địa bàn huyện Từ
Liêm (Hà Nội).
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận:
Luận văn được hoàn thành trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác – Lênin;
tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Đảng bộ Thành phố Hà Nội về CSXH.
* Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử; phương pháp chuyên ngành chủ yếu là phương pháp lịch sử và
phương pháp logic, sự kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng kết hợp các phương pháp khác như so sánh,
thống kê, phân tích, tổng hợp để làm sáng tỏ nội dung của luận văn.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Góp phần hệ thống hóa quan điểm, đường lối, chính sách và sự chỉ
đạo thực hiện CSXH của Đảng bộ huyện Từ Liêm từ năm 2001 đến năm
2010.
- Đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình Đảng bộ huyện Từ Liêm
lãnh đạo thực hiện CSXH, góp phần phục vụ quá trình thực hiện CSXH ở
cấp huyện trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong những năm tới.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo khi nghiên cứu lịch sử
Đảng bộ huyện Từ Liêm và lịch sử Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong thời
kỳ đổi mới.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương (6 tiết).

7



Chƣơng 1

CHỦ TRƢƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN
TỪ LIÊM THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI TỪ NĂM
2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1 Yêu cầu khách quan thực hiện chính sách xã hội ở huyện Từ
Liêm từ năm 2001 đến năm 2005
1.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, văn hóa của huyện Từ
Liêm
*Địa – tự nhiên
Huyện Từ Liêm nằm ở cửa ngõ phía Tây của Thủ đô, trong tọa độ
1060 kinh đông và 21010 vĩ độ bắc. Phía Bắc giáp huyện Đông Anh (bên tả
ngạn sông Hồng); phía Đông giáp quận Cầu Giấy, Tây Hồ; phía Tây giáp
huyện Hoài Đức, Đan Phượng; phía Nam giáp quận Thanh Xuân, thị xã Hà
Đông. Từ thị trấn Cầu Diễn – trung tâm của Từ Liêm, theo đường Thăng
Long (đường vành đai 3 của Hà Nội) ngược Đông Anh sẽ tới sân bay quốc
tế Nội Bài. Từ Cầu Diễn xuôi phía Nam là thị xã Hà Đông. Từ Cầu Diễn
ngược lên phía Tây theo đường 32 là thị xã Sơn Tây. Ở vị trí đó, Từ Liêm
có khả năng giao lưu rộng rãi và thuận tiện trên tất cả các mặt kinh tế, văn
hóa và khoa học kỹ thuật, là tiền đề cho việc đẩy mạnh và mở rộng phát
triển cả kinh tế, văn hóa và xã hội. Tuy nhiên là một vùng đang đô thị hóa
nhanh và tiếp giáp với các quận Cầu Giấy và Tây Hồ, Từ Liêm cũng rất dễ
trở thành một tụ điểm của những tệ nạn xã hội vốn hay tập trung khu trú ở
những vùng giáp ranh giữa nội và ngoại thành.
Về đất đai, Từ Liêm là vùng đất khá bằng phẳng và màu mỡ. Vùng
đất trong đê sông Hồng vốn là một vùng đất trũng, song nhờ công sức cải
tạo của nhân dân đã nâng cao, cải tạo đất cho phù hợp để chuyển sang
trồng các loại hoa màu có giá trị kinh tế cao. Vùng đất ngoài đê được bồi tụ


8


phù sa thường xuyên hàng năm nên rất thuận lợi cho việc phát triển các cây
trồng hoa màu, song về mùa lũ hầu hết diện tích này đều ngập nước, không
thể sản xuất được. Trong những thập kỷ tiếp theo, quá trình đô thị hóa,
công nghiệp hóa sẽ diễn ra mạnh mẽ trên địa bàn huyện Từ Liêm, một phần
rất lớn diện tích đất đai của huyện sẽ chuyển sang sử dụng cho những mục
đích khác làm cho diện tích đất nông nghiệp tiếp tục giảm xuống nhanh.
Đặc điểm này đòi hỏi chương trình việc làm và giảm nghèo của huyện Từ
Liêm phải hướng nông dân vào việc sử dụng ruộng đất theo chiều sâu, mở
mang nhiều việc làm mới cho người nghèo ngoài lĩnh vực nông nghiệp.
*Địa hành chính
Từ Liêm trước năm 1831 là một huyện thuộc phủ Quốc Oai của tỉnh
Sơn Tây. Sau khi thành lập tỉnh Hà Nội thì Từ Liêm là một huyện của phủ
Hoài Đức. Huyện Từ Liêm được thành lập theo Quyết định số 78/QĐ-CP
ngày 31/5/1961 của Chính phủ trên cơ sở Quận V, Quận VI ngoại thành Hà
Nội và một số xã của huyện Hoài Đức, huyện Đan Phượng tỉnh Hà Đông.
Huyện được thành lập gồm 26 xã, có diện tích đất trên 114 km2, dân số 12
vạn người. Năm 1973, huyện đã bàn giao xã Yên Lãng về khu phố Đống
Đa (nay là quận Đống Đa). Năm 1995 lập quận Tây Hồ, huyện Từ Liêm
bàn giao 5 xã về quận Tây Hồ1; cuối năm 1996, chuyển xã Nhân Chính về
quận Thanh Xuân2; năm 1997 cắt 3 xã: Yên Hòa, Trung Hòa, Dịch Vọng
và 4 thị trấn: Cầu Giấy, Mai Dịch, Nghĩa Đô, Nghĩa Tân để thành lập quận
Cầu Giấy3.
Huyện Từ Liêm sau năm 1997 còn 16 đơn vị hành chính gồm thị trấn
Cầu Diễn và các xã: Cổ Nhuế, Xuân Đỉnh, Đông Ngạc, Thụy Phương, Liên
Mạc, Thượng Cát, Tây Tựu, Xuân Phương, Tây Mỗ, Đại Mỗ, Trung Văn,
1


Theo Nghị định số 69/CP ngày 28-10-1995 của Thủ tướng Chính phủ.

2 3

, Theo Nghị định số 74 – NĐ/CP ngày 22-11-1996 của Thủ tướng Chính phủ

9


Mễ Trì, Mỹ Đình, Phú Diễn, Minh Khai; huyện có diện tích đất tự nhiên là
trên 75 km2 với trên 50 vạn dân.
Từ khi thành lập đến nay, huyện Từ Liêm đã trải qua nhiều lần thay
đổi địa giới hành chính. Sự thay đổi này gây không ít khó khăn cho Huyện
trong việc phát triển kinh tế - xã hội. Từ Liêm đã mất đi một phần lớn diện
tích lãnh thổ thuộc khu vực đô thị là địa bàn công nghiệp, thương mại, dịch
vụ - những hoạt động sôi động nhất. Hơn nữa trong giai đoạn mới, quá
trình nhập cư của một bộ phận dân cư từ nơi khác đến làm cho tính chất
dân cư của huyện ngày càng đa dạng và phức tạp hơn, nhiều vấn đề cấp
thiết được đặt ra như: xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, tệ nạn xã
hội…đòi hỏi huyện phải có những chủ trương, biện pháp cơ bản để giải
quyết kịp thời góp phần tạo nên sự phát triển ổn định trên địa bàn Huyện.
* Về kinh tế
Từ Liêm là vùng đất có truyền thống sản xuất, cung cấp nhiều nông
sản thực phẩm và các sản phẩm nông nghiệp cao cấp cho Thủ đô Hà Nội.
Với đôi bàn tay khéo léo và sáng tạo, người dân Từ Liêm đã tạo ra những
sản phẩm nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp nổi tiếng. Nói đến rau, quả
không thể không nhắc đến: su hào, bắp cải, cà chua, dưa hấu Tây Tựu, Phú
Diễn; ngoài cam Canh (Xuân Phương) đã được ghi vào sử sách nghìn xưa,
nay có thêm bưởi Phú Diễn, Minh Khai, hồng xiêm Xuân Đỉnh làm giàu

cho cây trái Thủ đô. Về tiểu thủ công nghiệp, nghề dệt thêu ren đạt kỹ nghệ
tinh xảo ở Miêu Nha (Tây Mỗ), Đại Mỗ; làng Vẽ (Đông Ngạc), làng Dộc
Cơ (Ngọc Trục) thạo nghề hàng nan với các sản phẩm: chẻ quang song, đan
mũ nan, quạt lá đề, đĩa mây, ép dầu ở Đông Ba (Thượng Cát), làm thừng
(Trung Văn); nghề rèn ở Hòe Thị (Xuân Phương), nghề may Cổ Nhuế…
Có thể nói Từ Liêm là huyện có truyền thống sản xuất nông nghiệp,
tiểu thủ công nghiệp lâu đời, giàu kinh nghiệm với các ngành nghề đa

10


dạng. Đây là nền tảng để huyện phát triển kinh tế và góp phần giải quyết
việc làm cho người lao động. Người lao động Từ Liêm sớm tiếp cận với
sản xuất hàng hóa và làm quen với kinh tế thị trường, vì thế đã giúp cho họ
có khả năng nhanh nhạy trong việc chuyển đổi các hoạt động sản xuất, tìm
kiếm các sản phẩm mới, kịp thời thích ứng với những yêu cầu mới của thị
trường. Những lợi thế này, nếu tiếp tục được chú ý đầu tư, tạo các điều kiện
hỗ trợ cần thiết thì sẽ nhanh chóng làm thay đổi hành động của người sản
xuất, đưa các hoạt động sản xuất nông nghiệp trên địa bàn huyện nhanh
chóng thích nghi với các yêu cầu của thị trường, thúc đẩy sản xuất phát
triển tạo công ăn việc làm cho người lao động và góp phần xóa đói giảm
nghèo.
Từ sau khi ổn định về mặt địa giới hành chính, nền kinh tế tiếp tục
phát triển, cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp – nông
nghiệp – thương mại. Công nghiệp khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có
bước phát triển mạnh và mức độ sản xuất tương đối khá, hàng năm thu hút
hàng nghìn lao động ở khu vực nông thôn. Hệ thống các loại hình dịch vụ thương mại từng bước được quy hoạch đầu tư phát triển, các trung tâm
thương mại dần được hình thành tại các khu dân cư tập trung. Bộ mặt nông
thôn, nông nghiệp có nhiều khởi sắc.
Tuy có nhiều chuyển biến, song nhìn chung cơ cấu kinh tế huyện Từ

Liêm vẫn chịu ảnh hưởng bởi cơ cấu kinh tế của một vùng nông nghiệp,
các ngành công nghiệp, thương mại, dịch vụ phát triển còn manh mún và
chưa đủ mạnh. Việc định hướng sản xuất theo yêu cầu thị trường cũng như
khả năng đầu tư công nghệ, máy móc thiết bị và đào tạo nâng cao trình độ
cho đội ngũ lao động để tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao còn rất
hạn chế. Một số làng nghề chất lượng sản phẩm không cao, chủng loại

11


chưa phong phú nên bị cạnh tranh gay gắt có sản phẩm mất thị trường. Cơ
sở vật chất, hạ tầng kỹ thuật chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn.
* Dân số và lao động
Theo “Báo cáo tổng kết kết quả thực hiện Tổng điều tra Dân số và
nhà ở năm 2009 huyện Từ Liêm” của BCĐ tổng điều tra dân số và nhà ở
của UBND huyện, tính đến ngày 1/4/2009 tổng số dân thường trú trên địa
bàn huyện là 371.247 người, tăng gấp 1,9 lần so với năm 1999. Như vậy,
bình quân mỗi năm tăng 18.506 người (gần bằng số dân bình quân chung
của 1 xã), chủ yếu là do tăng dân số cơ học. Từ Liêm là địa bàn đang trong
quá trình đô thị hóa mạnh với quy mô dân số lớn nhất Hà Nội, dân số tăng
nhanh với mật độ chung toàn huyện là 4.929 người/km2 (cao hơn mật độ
chung của toàn Thành phố 2,6 lần), tập trung đông ở các xã, thị trấn có điều
kiện về tự nhiên, kinh tế - xã hội phát triển cao. Số dân đang trong độ tuổi
lao động chiếm tỉ lệ cao trong cơ cấu dân số, chiếm 71,8%.
Lực lượng lao động của Từ Liêm tuy đông về số lượng nhưng về
chất lượng còn rất hạn chế. Lực lượng lao động chủ yếu tập trung trong
nông nghiệp. Đây thực sự là một khó khăn rất lớn khi quá trình đô thị hóa
diễn ra với tốc độ cao. Diện tích đất nông nghiệp bị mất đi nhanh chóng,
trong khi phần đông lao động nông nghiệp không thể có đủ trình độ để
thích ứng với các ngành nghề, các khu vực hoạt động kinh tế xã hội mới

thuộc khu vực phi nông nghiệp. Do đó sẽ dẫn đến tình trạng thiếu việc làm
và thất nghiệp, kéo theo các tệ nạn xã hội ngày càng gia tăng.
* Truyền thống – văn hóa
Từ Liêm xưa và nay luôn là vùng đất gắn bó chặt chẽ với Thăng
Long – Hà Nội. Bên cạnh cư dân bản địa từ xa xưa, còn có cư dân từ khắp
các địa phương, qua nhiều thời đại đến làm ăn sinh sống, đùm bọc lẫn
nhau. Không chỉ giàu truyền thống về kinh nghiệm sản xuất, Từ Liêm là

12


một vùng đất giàu truyền thống văn hóa, được coi là một trong những
huyện có nhiều di tích lịch sử văn hóa tiêu biểu là ngôi đình Chèm được
xây dựng từ thế kỷ IX. Các thế hệ dân cư nơi đây không những chăm học,
chăm làm mà còn dũng cảm, ngoan cường trong chiến đấu chống giặc
ngoại xâm. Trong các cuộc kháng chiến chống đế quốc xâm lược giành độc
lập tự do cho Tổ quốc, nghe theo tiếng gọi của Đảng và Bác Hồ kính yêu,
hàng vạn thanh niên Từ Liêm đã lớp lớp lên đường ra mặt trận chiến đấu
giải phóng đất nước và hàng ngàn người đã anh dũng hy sinh xương máu
của mình để giành độc lập tự do và thống nhất đất nước.
Nhân dân Từ Liêm với truyền thống văn hóa lịch sử, cách mạng lâu
đời và anh dũng, quả cảm trong đấu tranh, đó là một di sản tinh thần vô giá
được giữ gìn, phát huy qua các thế hệ. Kế thừa truyền thống tốt đẹp của cha
anh, Đảng bộ và nhân dân huyện Từ Liêm đã phát huy những giá trị đó
trong thời đại mới. Điều này một phần được thể hiện qua sự quan tâm chỉ
đạo thực hiện các CSXH đặc biệt là chính sách ưu đãi đối với người có
công với cách mạng của Đảng bộ huyện Từ Liêm.
1.1.2 Thực trạng thực hiện chính sách xã hội của huyện Từ Liêm
trước năm 2001
Quan niệm về CSXH có nhiều cách diễn đạt khác nhau song có thể

hiểu một cách chung nhất là: CSXH của Đảng và Nhà nước ta là hệ thống
các quan điểm, chủ trương, biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề xã hội,
đem lại lợi ích cho mọi giai cấp và tầng lớp trong xã hội, phù hợp với đạo
lý nhân văn của dân tộc, nhằm góp phần thực hiện thành công các mục tiêu
kinh tế, chính trị - xã hội. Để hiểu thực chất về CSXH phải đặt nó ở điều
kiện hoàn cảnh cụ thể trong đời sống xã hội con người Việt Nam của mỗi
vùng, miền, dân tộc khác nhau.

13


Vận dụng chủ trương đường lối đổi mới của Đảng, từ năm 1986
cùng với cả nước, huyện Từ Liêm đã bắt tay vào tiến hành công cuộc đổi
mới toàn diện. Công cuộc đổi mới không chỉ được tiến hành trên lĩnh vực
kinh tế mà các vấn đề về xã hội cũng được Đảng bộ và nhân dân Từ Liêm
rất quan tâm thực hiện. Từ năm 1986 đến năm 2000 Huyện ủy Từ Liêm đã
có nhiều chủ trương, biện pháp trên tinh thần quán triệt và cụ thể hóa
những chủ trương, chính sách, quan điểm của Đảng và Nhà nước cũng như
của Đảng bộ Thành phố Hà Nội về thực hiện CSXH ở địa phương. Song
song với việc xóa bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang xây
dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, một số mặt CSXH
được quan tâm và trở thành việc làm thường xuyên, gắn chặt hoạt động
lãnh đạo của các tổ chức đảng, chỉ đạo của chính quyền cấp huyện đến các
xã, thị trấn.
Huyện ủy đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện Chương
trình 25(05/7/1993) của Thành ủy, cụ thể hóa thành Chương trình 03 “Giải
quyết lao động, việc làm và một số vấn đề xã hội giai đoạn 1996 – 2000”
(Chương trình 03 ban hành ngày 12/11/1996), đề ra yêu cầu tập trung giải
quyết những vấn đề lớn gây nhiều bức xúc như: giải quyết việc làm, phòng
chống ngăn chặn và khắc phục các tệ nạn xã hội, xóa đói giảm nghèo, thực

hiện tốt chính sách đối với cán bộ có công với cách mạng và các đối tượng
chính sách.
Về thực hiện chính sách lao động và việc làm: giải quyết việc làm là
một nhiệm vụ cơ bản của CSXH, là cơ sở tiền đề để thực hiện có hiệu quả
các CSXH khác. Do vậy việc thực hiện chương trình lao động, việc làm rất
được các cấp, các ngành, các đoàn thể nhân dân tổ chức thực hiện có hiệu
quả. Huyện ủy chủ trương đa dạng hóa các hình thức việc làm, khai thác
thế mạnh của các thành phần kinh tế, có chính sách huy động vốn, chuyển

14


giao công nghệ, áp dụng tiến bộ khoa học – kỹ thuật, ưu đãi về đầu tư, cho
phép các cơ sở kinh tế tận dụng sử dụng đất đúng mục đích nhằm thu hút
nhiều lao động, có các chính sách để người lao động yên tâm sản xuất, phát
triển kinh tế. Bên cạnh đó, huyện cũng tổ chức mở các lớp bồi dưỡng, dạy
nghề để giới thiệu tuyển dụng người lao động vào các đơn vị sản xuất, nhờ
đó mỗi năm đã giải quyết việc làm cho hàng nghìn người lao động trên địa
bàn toàn huyện. Tuy nhiên khi chuyển sang cơ chế thị trường, gắn liền với
quá trình đô thị hóa nhanh, diện tích đất nông nghiệp bị thu hẹp do đó tình
trạng thiếu việc làm và không có việc làm ngày càng gia tăng. Công tác đào
tạo bồi dưỡng, nâng cao chất lượng lao động gặp nhiều khó khăn.
Về công tác xóa đói giảm nghèo, với tinh thần vì người nghèo, vì đời
sống cộng đồng, Ban thường vụ huyện ủy đã chỉ đạo ngành thương binh, xã
hội tổ chức điều tra, rà soát đánh giá tình hình hộ nghèo, nhà hư hỏng dột
nát để xây dựng kế hoạch tu bổ đồng thời có những biện pháp hỗ trợ phát
triển kinh tế để đảm bảo cuộc sống. Các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các ban
ngành đoàn thể và quần chúng nhân dân đã cùng nhau phối kết hợp, với
cách làm đa dạng và thiết thực đã khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn
kết “tương thân tương ái” của dân tộc. Tuy nhiên những biện pháp trong

thực hiện chính sách giảm nghèo chưa có hướng đi lâu dài, chưa tạo được
sự chuyển biến tích cực trong sự phát triển của đời sống nhân dân. Sự phân
hóa giàu nghèo có chiều hướng gia tăng. Đời sống một bộ phận đối tượng
được hưởng chế độ chính sách còn khó khăn. Các biện pháp thực hiện thiếu
đồng bộ, nhận thức của cán bộ và nhân dân chưa đầy đủ, nguy cơ tái nghèo
rất cao.
Phong trào chăm sóc thương binh, gia đình liệt sỹ, người mất sức lao
động, người bị nhiễm chất độc hóa học do Mỹ sử dụng trong chiến tranh ở
Việt Nam và những trường hợp học sinh, sinh viên là con thương binh,

15


bệnh binh, gia đình liệt sỹ được chăm sóc rất tích cực. Huyện quan tâm chỉ
đạo thực hiện Pháp lệnh Người có công, phong trào đền ơn đáp nghĩa, thu
hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia, duy trì phụng dưỡng các “Bà
mẹ Việt Nam anh hùng”. Con em các gia đình chính sách được tạo điều
kiện và ưu tiên học nghề, sắp xếp bố trí việc làm. Bên cạnh những kết quả
đạt được, công tác ưu đãi người có công còn có những hạn chế như việc
ban hành các Thông tư, hướng dẫn thực hiện chính sách đối với người có
công còn chưa đồng bộ và kịp thời, gây khó khăn cho cơ sở trong công tác
giải quyết chế độ đối với người có công.
Công tác phòng chống tệ nạn xã hội được đẩy mạnh, đặc biệt là
phòng chống HIV/AIDS được tuyên truyền sâu rộng trong toàn dân. Các
cấp, các ngành, các đoàn thể thường xuyên phối hợp tuyên truyền, giáo
dục, đấu tranh phá các ổ nhóm buôn bán, sử dụng ma túy, các tụ điểm mại
dâm. Năm 1998, Huyện chủ trương chữa trị nhằm tái cộng đồng cho các đối
tượng nghiện ma túy, là đơn vị đầu tiên được chọn tổ chức thí điểm cai nghiện
cắt cơn tại trạm y tế xã, thực hiện có hiệu quả. Tuy nhiên, công tác hỗ trợ tạo
việc làm cho người nghiện sau cai ở cộng đồng chưa được chính quyền và các

đoàn thể quan tâm đúng mức. Đầu tư nguồn lực cho công tác phòng chống tệ
nạn ma túy, mại dâm còn chưa đủ mạnh.
1.1.3 Yêu cầu mới về thực hiện chính sách xã hội của huyện Từ
Liêm
Kết thúc thế kỷ XX bước sang thế kỷ XXI, trong bối cảnh chung của
tình hình thế giới và của toàn dân tộc, huyện Từ Liêm đứng trước những
vấn đề mới đặt ra, thuận lợi và khó khăn đan xen nhau.
Trên thế giới, thế kỷ XX là thế kỷ của khoa học và công nghệ, kinh
tế tri thức có vai trò ngày càng nổi bật trong đời sống kinh tế. Do vậy, toàn
cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước

16


tham gia. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ trong giai đoạn mới sẽ có
tác động sâu sắc đến nền kinh tế và xã hội của quốc gia, hệ thống kinh tế
thế giới cùng các quan hệ quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập
quốc tế mở ra nhiều cơ hội thu hút đầu tư, mở rộng thị trường, nâng cao
công nghệ, thúc đẩy kinh tế phát triển, tạo nhiều việc làm cho các quốc gia
trong đó có Việt Nam, Thủ đô Hà Nội cũng như huyện Từ Liêm. Tuy
nhiên, mặt trái của toàn cầu hóa cũng đặt ra những khó khăn thách thức
mới cho các quốc gia đó là sự phụ thuộc, sự cạnh tranh lẫn nhau và khoảng
cách phân hóa giàu nghèo ngày càng lớn. Bên cạnh đó, những biến động
nhanh chóng, khó lường của tình hình thế giới như suy thoái kinh tế, chính
trị, xung đột cục bộ và dịch bệnh, thiên tai đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự
phát triển kinh tế cũng như thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội của đất
nước và mỗi địa phương.
Ở trong nước, đất nước sau 15 năm đổi mới (1986 – 2001) đã đạt
được những thành tựu to lớn trên tất cả các mặt, cơ sở vật chất kỹ thuật của
nền kinh tế được tăng cường, tình hình chính trị xã hội cơ bản ổn định, môi

trường hòa bình đã tạo điều kiện cho Đảng và Nhà nước có điều kiện chăm
lo thực hiện các CSXH thường xuyên hơn. Nhiều cơ chế chính sách đã ban
hành đi vào cuộc sống, tạo môi trường và động lực phát triển cho kinh tế và
thực hiện các CSXH. Tuy nhiên những yếu kém vốn có của nền kinh tế,
những thiên tai lớn liên tiếp, những diễn biến phức tạp của tình hình thế
giới và khu vực đặc biệt là những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính
- kinh tế diễn ra ở khu vực Đông Nam Á, châu Á những năm 1997 – 2000
ảnh hưởng không nhỏ tới việc thực hiện các mục tiêu phát triển xã hội.
Thủ đô Hà Nội sau 15 năm đổi mới (1986 – 2001) cũng đạt được
nhiều thành tựu quan trọng, sự ổn định chính trị tiếp tục được củng cố, nền
kinh tế cả nước có bước phát triển mới, tiềm lực kinh tế và kết cấu hạ tầng

17


của Thành phố được tăng cường đáng kể, sự quan tâm lãnh đạo của Đảng
và Nhà nước, kinh nghiệm lãnh đạo quản lý của Đảng bộ Thành phố được
nâng lên tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện tốt CSXH. Tuy nhiên Hà Nội
cũng đứng trước những khó khăn, thách thức mới như: so với Thủ đô nhiều
nước trong khu vực, Hà Nội vẫn là một thủ đô nghèo; hạ tầng kinh tế - xã
hội còn thấp; trình độ quản lý Nhà nước còn nhiều mặt hạn chế so với yêu
cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; nhiều vấn đề xã hội bức xúc
và một số tệ nạn chậm được khắc phục.
Những khó khăn và thuận lợi trên sẽ tác động trực tiếp hoặc gián tiếp
đến cả nước nói chung và huyện Từ Liêm nói riêng trong công tác CSXH.
Do vậy, bước sang giai đoạn mới, những yêu cầu và nhiệm vụ mới đặt ra
đối với Đảng bộ huyện Từ Liêm trong công tác CSXH là:
Thứ nhất, cần tận dụng thời cơ thuận lợi, vượt qua những khó khăn
thách thức góp phần phấn đấu thực hiện thắng lợi CSXH của Đảng, của
Đảng bộ Thành phố Hà Nội trong những năm 2001-2005. Theo quy hoạch

phát triển kinh tế xã hội của Thủ đô đến năm 2020, quá nửa huyện Từ Liêm
nằm trong vành đai phát triển đô thị, vì vậy diện tích đất nông nghiệp ngày
càng bị thu hẹp và chia cắt; các khu công nghiệp công trình mới từng bước
được hình thành nên trong thời gian tới sẽ có sự biến động. Sự biến động
này vừa có thuận lợi song cũng hết sức khó khăn phức tạp tác động đến tất
cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đời sống văn hóa xã hội, tập quán của
nhân dân, nếu không có sự chuyển hóa nhanh về nhận thức và phương thức
hoạt động của cấp ủy Đảng, quản lý và điều hành tổ chức thực hiện nhiệm
vụ của chính quyền sẽ không đáp ứng được yêu cầu của tình hình đang đặt
ra nhất là yêu cầu giải quyết việc làm cho nông dân bị thu hồi đất và công
tác đấu tranh phòng chống các tệ nạn xã hội.

18


Thứ hai, phát huy những thành tựu, khắc phục những hạn chế trong
lãnh đạo thực hiện CSXH trên địa bàn huyện giai đoạn trước năm 2001.
Sau 15 năm tiến hành công cuộc đổi mới (1986 – 2000), gương mặt và tầm
vóc của huyện Từ Liêm đã đổi thay và lớn mạnh, việc thực hiện CSXH ở
huyện đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần thúc đẩy phát triển
kinh tế, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Song bên cạnh đó
việc thực hiện CSXH ở huyện trong những năm đổi mới còn nhiều bất cập,
hạn chế và nhiều vấn đề xã hội đặt ra cần phải tiếp tục giải quyết. Tình
trạng thiếu việc làm và nhu cầu đòi hỏi giải quyết việc làm rất lớn, chất
lượng lao động thấp, cơ cấu lao động chưa hợp lý. Bên cạnh đó, tình hình
tội phạm và các tệ nạn xã hội, đặc biệt là tệ nạn ma túy và mại dâm còn
diễn biến phức tạp. Số hộ đói nghèo còn chiếm tỷ lệ cao, nguyên nhân là do
thiếu vốn đầu tư sản xuất, kinh doanh, thiếu kinh nghiệm làm ăn, thiếu sức
lao động, thiếu việc làm, gia đình có người tàn tật, ốm đau hoặc có người
mắc tệ nạn xã hội. Các chính sách ưu đãi dành cho người có công với cách

mạng còn chưa xứng đáng và có nhiều bất cập; nhiều gia đình người có
công vẫn ở tình trạng nghèo, nhiều thương binh, bệnh binh chưa kiếm được
việc làm phù hợp với tình trạng thương tật và sức khỏe của họ.
Từ thực trạng trên, đặt ra yêu cầu bức bách cho Đảng bộ huyện Từ
Liêm – một huyện ở địa bàn có ý nghĩa quan trọng trong chiến lược phát
triển thủ đô cần phải phát huy những thành tựu đã đạt được trong lãnh đạo
thực hiện CSXH, khắc phục những mặt hạn chế, tồn tại như giải quyết để
không còn hộ đói, giảm hộ nghèo; tạo việc làm cho người lao động. Thực
hiện các biện pháp giúp đỡ các gia đình chính sách, giúp họ từng bước cải
thiện và nâng cao đời sống.

19


×