Tải bản đầy đủ (.pdf) (114 trang)

Đảng bộ thành phố hải phòng lãnh đạo kinh tế du lịch tu nam 2001 den nam 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.17 MB, 114 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN HẢI HÀ

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

NGUYỄN HẢI HÀ

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 56

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Mạnh Hà

Hà Nội - 2014




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan nội dung luận văn là kết quả nghiên cứu
của riêng tôi, không sao chép ở bất cứ một công trình nào khác.
Tất cả những trích dẫn trong luận văn đều được chú thích nguồn
tư liệu tham khảo rõ ràng, đầy đủ.
Ngƣời cam đoan

Nguyễn Hải Hà


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn này, tôi đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ,
động viên từ phía gia đình, nhà trƣờng, bạn bè và các đồng nghiệp.
Trƣớc hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới các thầy cô trong Ban giám
hiệu trƣờng ĐHKHXH&NV, các thầy cô trong Khoa Lịch Sử đã tạo môi
trƣờng thuận lợi nhất cho chúng tôi hoàn thành tốt quá trình học tập của mình.
Tôi cũng xin cảm ơn phòng tƣ liệu khoa Lịch sử, Trung tâm thông tin thƣ
viện trƣờng ĐHKHXH&NV; Trung tâm thƣ viện Quốc gia; Văn phòng lƣu
trữ Thành ủy Hải Phòng; Sở du lịch Hải Phòng đã giúp đỡ tôi trong quá trình
thu thập tài liệu làm luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp và Ban giám
hiệu trƣờng THPT Tiên Lãng đã luôn động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện cho
tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Nguyễn Mạnh Hà
– ngƣời đã rất tận tình, tâm huyết, hƣớng dẫn tôi trong suốt quá trình làm luận
văn này.
Do hạn chế về mặt thời gian cũng nhƣ trình độ và kinh nghiệm nghiên
cứu, luận văn này của tôi còn rất nhiều thiếu sót, rất mong sẽ nhận đƣợc sự

góp ý từ thầy cô và các bạn để luận văn hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 06 tháng 06 năm 2014
Học viên

Nguyễn Hải Hà


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005 ................................ 9
1.1. Các yếu tố tác động và tình hình du lịch Hải Phòng trƣớc năm
2001 ................................................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm du lịch, kinh tế du lịch..................................................... 9
1.1.2. Tiềm năng du lịch Hải Phòng ......................................................... 10
1.1.3. Tình hình du lịch Hải Phòng trƣớc năm 2001 ................................ 16
1.2. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về kinh tế du lịch từ
năm 2001 đến năm 2005 .............................................................................. 18
1.3. Chủ trƣơng và quá trình chỉ đạo thực hiện của Đảng bộ thành phố
Hải Phòng về kinh tế du lịch từ năm 2001 đến năm 2005 ........................... 21
1.3.1 Chủ trƣơng và quá trình chỉ đạo thực hiện ...................................... 21
1.3.2. Kết quả hoạt động kinh tế du lịch ................................................... 25
Chương 2. ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TĂNG CƢỜNG
LÃNH ĐẠO KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2011 ............. 30
2.1. Những điều kiện mới tác động tới sự phát triển kinh tế du lịch
Hải Phòng .................................................................................................... 30
2.1.1. Những điều kiện mới ...................................................................... 30
2.1.2. Chủ trƣơng, chính sách mới của Đảng ........................................... 32
2.2. Chủ trƣơng và quá trình chỉ đạo đẩy mạnh hoạt động kinh tế du

lịch của Đảng bộ thành phố Hải Phòng từ năm 2006 đến năm 2011 .......... 37
2.3. Kết quả đạt đƣợc ................................................................................... 44


Chương 3. NHẬN XÉT CHUNG VÀ NHỮNG KINH NGHIỆM
CHỦ YẾU....................................................................................................... 59
3.1. Nhận xét chung ..................................................................................... 59
3.1.1. Những thành tựu và hạn chế của Đảng bộ thành phố Hải
Phòng trong lãnh đạo kinh tế du lịch ........................................................ 59
3.1.2. Nguyên nhân của thành tựu và hạn chế .......................................... 65
3.2. Những kinh nghiệm chủ yếu ................................................................. 69
KẾT LUẬN .................................................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 81
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội, du lịch trở thành nhu cầu
không thể thiếu trong đời sống của con ngƣời cũng nhƣ có vai trò quan trọng
đối với nền kinh tế xã hội của các quốc gia và các địa phƣơng trong cả nƣớc.
Du lịch đã và đang trở thành một trong những ngành kinh tế quan trọng và có
tốc độ phát triển nhanh của kinh tế thế giới. Ở nhiều quốc gia, du lịch đƣợc
coi là “ngành công nghiệp không khói” mang lại hiệu quả kinh tế cao và đóng
góp không nhỏ vào thu nhập quốc dân, góp phần tích cực cho sự chuyển dịch
cơ cấu kinh tế từ sản xuất vật chất sang sản xuất phi vật chất.
Ở Việt Nam, nhận thấy rõ vai trò to lớn của kinh tế du lịch, với tiềm
năng du lịch có thể khai khác, kể từ sau đổi mới, Đảng đã chú trọng và dành
sự quan tâm nhằm khai thác tiềm năng du lịch, phát triển ngành du lịch Việt
Nam. Trong Chỉ thị 46 – CT/TW, ngày 14/10/1994, về lãnh đạo, đổi mới

và phát triển du lịch trong tình hình mới, Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng đã
xác định: “Phát triển du lịch là một hướng đi chiến lược quan trọng trong
đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước”[1, tr1]. Nhà nƣớc cũng xác định: “Du lịch là
một ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hóa sâu sắc, có
tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa cao; phát triển du lịch nhằm đáp
ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của nhân dân và khách du
lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và phát triển kinh tế
xã hội của đất nước” [3, tr1]
Nhƣ vậy, có thể thấy, du lịch không chỉ mang lại giá trị kinh tế cao,
tăng thu nhập cho đất nƣớc mà còn có giá trị to lớn trong việc nâng cao đời
sống nhân dân, đảm bảo góp phần tái sản xuất sức lao động cho con ngƣời. Sự
phát triển của du lịch góp phần kích thích sự phát triển của nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực khác trong đời sống xã hội. Chính vì thế, Đảng Cộng sản Việt Nam
xác định mục tiêu: phát triển du lịch là một hƣớng chiến lƣợc quan trọng
1


trong đƣờng lối phát triển kinh tế, xã hội góp phần vào thực hiện công cuộc
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc.
Hải Phòng là thành phố cảng lớn nhất khu vực phía Bắc, là một trong
ba cực tăng trƣởng của tam giác kinh tế trọng điểm phía Bắc cùng với Hà Nội
và Quảng Ninh. Với việc sở hữu nhiều điểm tham quan, khu du lịch chất
lƣợng cao: khu dự trữ sinh quyển Cát Bà, bãi biển Đồ Sơn, casino, sân golf
Đồ Sơn, khu nghỉ dƣỡng – sinh thái và bể bơi tạo sóng nhân tạo lớn nhất châu
Á tại Hòn Dáu...Thành phố Hải Phòng cũng là địa phƣơng giàu tiềm năng để
phát triển kinh tế du lịch với những sản phẩm du lịch mang tính đặc thù. Xuất
phát từ những tiềm năng to lớn đó, Đảng bộ Hải Phòng đã xác định kinh tế du
lịch là một ngành kinh tế trọng điểm của thành phố. Dƣới sự chỉ đạo của
Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố, ngành du lịch thành phố không ngừng

phát triển và đạt đƣợc nhiều thành tựu to lớn, nhiều năm liền thu hút lƣợng
khách du lịch lớn. Du lịch đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần bảo tồn
và phát huy giá trị văn hóa của địa phƣơng cũng nhƣ giải quyết nhu cầu việc
làm của ngƣời dân. Tuy nhiên, trong thời gian qua, ngành du lịch của thành
phố cũng còn một số yếu kém, khuyết điểm, chƣa phát huy hết tiềm năng thế
mạnh của địa phƣơng về kinh tế du lịch. Trong đó, có những nguyên nhân
khách quan mang lại, cũng có những nguyên nhân chủ quan từ sự lãnh đạo,
chỉ đạo của Đảng bộ thành phố đối với ngành kinh tế quan trọng này.
Từ thực tiễn, có thể thấy, việc nghiên cứu đƣờng lối, chủ trƣơng, chính
sách phát triển kinh tế du lịch của Đảng bộ thành phố Hải Phòng là cần thiết,
để tổng kết, đánh giá những thành tựu, hạn chế, từ đó rút ra bài học kinh
nghiệm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển ngành kinh tế quan trọng.
Đã có một số công trình nghiên cứu đề cập đến thực trạng du lịch và các tiềm
năng du lịch của thành phố. Tuy nhiên, còn thiếu những công trình nghiên
cứu chuyên sâu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ về du lịch, để từ đó đƣa ra các
giải pháp khai khác tốt nhất tiềm năng phát triển du lịch của thành phố. Vì
vậy, tôi chọn đề tài “Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo kinh tế du lịch
từ năm 2001 đến năm 2011” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam.
2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Du lịch đƣợc xác định là một ngành kinh tế mũi nhọn mang lại giá trị
kinh tế cao. Xuất phát từ giá trị to lớn mà ngành du lịch có thể mang lại, cùng
với sự đa dạng trong các lĩnh vực của du lịch Việt Nam nói chung và du lịch
Hải Phòng nói riêng, ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu dƣới nhiều
góc độ khác nhau về lĩnh vực này. Có thể khái quát thành các nhóm sau:
Một là, công trình “Du lịch và kinh doanh du lịch” của tác giả Trần
Nhạn, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin, 1996, trình bày khái niệm du lịch,

nguồn lực để phát triển du lịch cũng nhƣ các loại hình du lịch, kinh doanh du
lịch; Công trình “Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam” do Phạm
Trung Lƣơng chủ biên, Nhà xuất bản Giáo dục, 2001, trình bày một số kiến
thức về tài nguyên môi trƣờng du lịch, sự ảnh hƣởng, tác động của hoạt động
du lịch tới môi trƣờng; Cuốn “Một số vấn đề về du lịch Việt Nam” của Đinh
Trung Kiên, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tìm hiểu những
chặng đƣờng du lịch, đào tạo nguồn nhân lực cho du lịch, tài nguyên du lịch
trƣờng hợp cụ thể ở Hà Nam Ninh; Cuốn “Du lịch ba miền” của Bửu Ngôn,
Nhà xuất bản Thanh niên, 2009; Cuốn “Địa danh du lịch của Việt Nam” của
Nguyễn Thị Thu Hiền, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, 2009; Cuốn “Quy
hoạch du lịch”, Bùi Thị Hải Yến, Nhà xuất bản Giáo dục, 2009
Hai là, các bài báo, tạp chí: “Du lịch Việt Nam phát triển theo hướng
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn”, Trần Nguyễn Tuyên, Tạp chí Quản lý nhà
nước số 7, 2005; “Sự phát triển du lịch dưới đường lối đổi mới của Đảng
Cộng sản Việt Nam” của Trần Đức Thanh, Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 2,
2005. Bài viết đã khái quát đƣờng lối phát triển du lịch của Đảng trong thời
kỳ đổi mới và những thành tựu mà du lịch đạt đƣợc dƣới sự lãnh đạo của
Đảng;“Để du lịch Việt Nam không mãi là tiềm ẩn” của Phạm Hạnh, Tạp chí
Tài chính doanh nghiệp, số 3, 2008. Bài viết nêu những đóng góp của du lịch
Việt Nam với các nƣớc trong khu vực Đông Nam Á, bƣớc tiến của du lịch
Việt Nam sau khi gia nhập Tổ chức thƣơng mại thế giới (WTO) và những vấn
3


đề đặt ra với các doanh nghiệp du lịch Việt Nam; “Du lịch sinh thái, thực
trạng và giải pháp để phát triển ở Việt Nam” của Nguyễn Đình Hòa ,Tạp chí
Kinh tế và phát triển, số 103, 2009; “Du lịch Việt Nam trước cơ hội mới” của
Thúy Mơ, Tạp chí Kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương, số 2, 2007. Bài viết
khái quát những thành tựu của du lịch Việt Nam năm 2006 và những mục
tiêu, khó khăn, thách thức của ngành năm 2007; “Du lịch Việt Nam trong tiến

trình hội nhập kinh tế quốc tế” của Hoàng Tuấn Anh, Tạp chí Quản lý nhà
nước, số 144, 2008. Bài viết trình bày những bƣớc tăng trƣởng của ngành du
lịch Việt Nam cả về quy mô và chất lƣợng trong hơn một thập kỷ qua và
những nhiệm vụ trọng tâm của ngành thời gian tới: nâng cao chất lƣợng sản
phẩm du lịch và tính chuyên nghiệp của công tác xúc tiến du lịch, nâng cao
trình độ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên, mở rộng hợp tác quốc tế.
Ba là, các kỷ yếu hội thảo khoa học quốc gia và quốc tế liên quan đến
vấn đề này nhƣ: Kỷ yếu Hội thảo khoa học “70 năm thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam(3/2/1930 – 3/2/2000)”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
(2000); Kỷ yếu đề cập đến cƣơng lĩnh và đƣờng lối chính trị của Đảng Cộng
sản Việt Nam, đƣờng lối phát triển kinh tế du lịch của Đảng trong thời kỳ đổi
mới. Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Tối ưu hóa các dịch vụ du lịch: Triển vọng
tương lai cho Việt Nam” (2005) bao gồm các bài nghiên cứu liên quan đến
vấn đề phát triển du lịch và dịch vụ du lịch ở Việt Nam thời gian trƣớc năm
2005 cũng nhƣ những giải pháp nhằm tối ƣu hóa dịch vụ du lịch trong tƣơng
lai; Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Nghiên cứu và đào tạo du lịch ở Việt Nam
trong quá trình hội nhập quốc tế” (2007), bao gồm các báo cáo tham luận với
hai mảng nội dung chính là nghiên cứu du lịch và đào tạo du lịch ở Việt Nam
trong quá trình hội nhập; Kỷ yếu Hội thảo “Nhu cầu xã hội về đào tạo nhân
lực du lịch và sự cần thiết mở mã ngành du lịch”.
Ngoài ra, cũng có không ít các luận văn, luận án đã nghiên cứu về vấn
đề phát triển kinh tế du lịch Việt Nam cũng nhƣ chủ trƣơng của Đảng đối với
vấn đề này nhƣ: Luận án tiến sĩ kinh tế “Những điều kiện và giải pháp chủ
4


yếu để phát triển du lịch Việt Nam thành ngành kinh tế mũi nhọn” (1996) của
tác giả Vũ Đình Thụy, Đại học Kinh tế quốc dân. Luận án nêu lên cơ sở lý
luận và thực tiễn đƣa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh
tế quốc dân, tiềm năng và thực trạng của ngành du lịch Việt Nam, định hƣớng

và giải pháp chủ yếu để phát triển du lịch Việt Nam trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn; Luận án tiến sĩ kinh tế “Hoàn thiện quản lý nhà nước về lao động
trong kinh doanh du lịch ở Việt Nam” (2002) của Hoàng Văn Hoan, Đại học
Kinh tế quốc dân. Luận án trình bày cơ sở lý luận của nội dung quản lý nhà
nƣớc đối với kinh doanh du lịch, thực trạng quản lý nhà nƣớc đối với lao động
trong kinh doanh du lịch ở Việt Nam và một số giải pháp nhằm hoàn thiện
quản lý nhà nƣớc đối với lao động trong ngành này; Luận án tiến sĩ kinh tế
“Các giải pháp tài chính nhằm phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010”,
(2004) của Chu Văn Yêm, Học viện Tài chính. Đề tài nghiên cứu thực trạng
du lịch Việt Nam, thực trạng sử dụng các giải pháp tài chính đối với hoạt
động du lịch nhằm chỉ ra những tác động tích cực và hạn chế của chúng, qua
đó đề xuất sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống các giải pháp tài chính nhằm
đẩy mạnh phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2010; Luận văn thạc sỹ lịch sử
“Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo phát triển kinh tế du lịch từ năm
2000 đến năm 2010” (2012) của Ngô Bá Khiêm; Luận án tiến sĩ kinh tế của
Nguyễn Đình Sơn “Phát triển kinh tế du lịch ở vùng Bắc Bộ và tác động của
nó tới quốc phòng, an ninh” (2007)...
Đối với vấn đề phát triển kinh tế du lịch Hải Phòng, có một số công
trình nghiên cứu nhƣ: “50 năm du lịch Hải Phòng” của câu lạc bộ cán bộ hƣu
trí du lịch, Nhà xuất bản Hải Phòng (2005). Đây là cuốn sách tập hợp các bài
viết nhìn lại quá trình hoạt động và phát triển của du lịch Hải Phòng góp phần
vào sự phát triển chung của thành phố; Luận văn thạc sỹ du lịch “Phát triển
sản phẩm du lịch sinh thái khu dự trữ sinh quyển Cát Bà” (2007) của Trần
Thị Thùy Linh...

5


Các công trình nghiên cứu trên đã đề cập tới vai trò, vị thế của ngành du
lịch nói chung trong sự phát triển của kinh tế đất nƣớc; phân tích tiềm năng, thực

trạng và đƣa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả kinh tế du lịch nói chung
và du lịch thành phố Hải Phòng nói riêng. Tuy nhiên, chƣa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng bộ thành phố Hải
Phòng về kinh tế du lịch. Những công trình nghiên cứu trên là nguồn tƣ liệu quý
giá để tác giả tham khảo phục vụ cho nghiên cứu đề tài của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
*Mục đích
Đề tài nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ một cách toàn diện và khách quan
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng phát triển kinh
tế du lịch từ năm 2001 đến năm 2011. Qua đó, tái hiện những kết quả đạt
đƣợc của du lịch Hải Phòng và rút ra một số bài học kinh nghiệm về sự lãnh
đạo, chỉ đạo của thành phố trong đẩy mạnh phát triển kinh tế du lịch.
*Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất, mô tả một cách chân thực, toàn diện đƣờng lối, chủ trƣơng
lãnh đạo kinh tế du lịch của Đảng bộ Hải Phòng qua hai giai đoạn (2001 –
2005 và 2006 – 2011) gắn với hoàn cảnh cụ thể từng giai đoạn.
Thứ hai, phân tích thực trạng quá trình thực hiện đƣờng lối, chủ trƣơng lãnh
đạo kinh tế du lịch của Đảng bộ thành phố Hải Phòng giai đoạn 2001 – 2011.
Thứ ba, làm rõ ƣu điểm, hạn chế của Đảng bộ thành phố Hải Phòng
trong quá trình lãnh đạo, phát triển kinh tế du lịch; Phân tích những nguyên
nhân của ƣu điểm và hạn chế để rút ra bài học kinh nghiệm của Đảng bộ
thành phố Hải Phòng trong quá trình lãnh đạo kinh tế du lịch.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
*Đối tượng nghiên cứu
Các chủ trƣơng, biện pháp của Đảng bộ thành phố Hải Phòng nhằm
phát triển kinh tế du lịch từ năm 2001 đến năm 2011.
Quá trình tổ chức thực hiện, chủ trƣơng phát triển kinh tế du lịch của
Đảng bộ thành phố Hải Phòng và những kết quả đạt đƣợc trong hoạt động
kinh tế du lịch của thành phố.
6



*Phạm vi nghiên cứu
Nội dung: Nghiên cứu những chủ trƣơng của Đảng bộ thành phố Hải
Phòng về phát triển kinh tế du lịch, quá trình chỉ đạo của Đảng bộ thành phố
trong phát triển kinh tế du lịch.
Thời gian nghiên cứu: từ năm 2001 đến năm 2011
Không gian nghiên cứu: Thành phố Hải Phòng
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu,
*Cơ sở lý luận: Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, chủ trƣơng, đƣờng lối của Đảng
về phát triển kinh tế du lịch.
*Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng chủ yếu là phƣơng pháp
lịch sử, phƣơng pháp logic. Ngoài ra, còn sử dụng các phƣơng pháp điều tra,
phân tích, so sánh, thống kê số liệu.
*Nguồn tài liệu
Các văn kiện, tài liệu của Đảng và nhà nƣớc có liên quan: Văn kiện Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ XIII, IX, X
Hệ thống các văn kiện của Thành ủy và các văn bản chỉ đạo, điều hành
của chính quyền Thành phố: Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ
XVII, XVIII, XIX; các Nghị quyết, chỉ thị, báo cáo hàng năm của Thành ủy,
các chƣơng trình hành động, báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố; các báo
cáo hàng năm của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch Hải Phòng...
Các công trình nghiên cứu, tổng kết có liên quan.
6. Đóng góp của luận văn
- Làm rõ quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo kinh tế du
lịch từ năm 2001 đến năm 2011, nêu thực trạng phát triển kinh tế du lịch,
những thành tựu đạt đƣợc và những hạn chế tồn tại, bƣớc đầu rút ra những
kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng bộ Thành
phố trong lĩnh vực phát triển kinh tế du lịch.


7


- Luận văn là tài liệu tham khảo góp phần nghiên cứu lịch sử Đảng bộ
thành phố Hải Phòng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo kinh tế du lịch từ
năm 2001 đến năm 2005
Chƣơng 2: Đảng bộ thành phố Hải Phòng tăng cƣờng lãnh đạo kinh tế
du lịch từ năm 2006 đến năm 2011
Chƣơng 3: Nhận xét chung và những kinh nghiệm chủ yếu

8


Chương 1
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO
KINH TẾ DU LỊCH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2005
1.1. Các yếu tố tác động và tình hình du lịch Hải Phòng trƣớc
năm 2001
1.1.1. Khái niệm du lịch, kinh tế du lịch
Du lịch là hiện tƣợng kinh tế, xã hội phức tạp và trong quá trình phát
triển, nội dung của nó không ngừng đƣợc mở rộng và ngày càng phong phú.
Trên thế giới cũng nhƣ ở Việt Nam, du lịch đƣợc nhiều ngƣời định nghĩa theo
nhiều cách khác nhau, ở những góc độ khác nhau. Tại Điều 10 trong Pháp
lệnh Du lịch của Việt Nam, thuật ngữ “du lịch” đƣợc hiểu “là hoạt động của
con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm thỏa mãn nhu cầu

tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định”. Nhƣ
vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành phần tham
gia. Hoạt động du lịch vừa có đặc điểm của ngành kinh tế vừa có đặc điểm
của ngành văn hóa – xã hội.
Cùng với sự phát triển của hoạt động du lịch là hoạt động kinh doanh
du lịch. Kinh tế du lịch từng bƣớc trở thành một bộ phận hợp thành của hoạt
động kinh tế - xã hội, lấy sự phát triển các loại hình kinh doanh du lịch, biến
các tài nguyên du lịch của một quốc gia, một vùng lãnh thổ thành hàng hóa và
dịch vụ du lịch đáp ứng nhu cầu cho du khách. Du lịch dần đƣợc xã hội hóa,
số lƣợng ngƣời đi du lịch ngày càng đông, xuất hiện những nhu cầu cần giải
quyết nhƣ: bảo đảm chỗ ăn, chỗ ngủ cho những ngƣời tạm thời sống ngoài nơi
cƣ trú thƣờng xuyên của họ. Để đáp ứng nhu cầu đó đã xuất hiện các nghề
mới trong dân chúng ở vùng có tài nguyên du lịch nhƣ kinh doanh du lịch,
nhà hàng, môi giới, hƣớng dẫn du lịch…Hàng loạt các cơ sở chuyên phục vụ
du lịch nhƣ khách sạn, quán ăn, cửa hàng, tiệm giải khát, dịch vụ giặt là,
massage…cùng các tổ chức du lịch và đội ngũ phục vụ du khách lần lƣợt ra
9


đời. Từng bƣớc hình thành một ngành mới là ngành kinh doanh du lịch và
theo đó xuất hiện một thị trƣờng mới là thị trƣờng du lịch. Theo Từ điển Bách
khoa Việt Nam, “kinh tế du lịch là một loại hình kinh tế có tính đặc thù mang
tính dịch vụ và thường được xem như ngành công nghiệp không khói, gồm có
du lịch quốc tế và du lịch trong nước, có chức năng nhiệm vụ tổ chức việc
khai thác tài nguyên và cảnh quan của đất nước (tài nguyên thiên nhiên,
phong cảnh kinh tế, văn hóa, lịch sử…) nhằm thu hút khách du lịch trong và
ngoài nước, tổ chức buôn bán, xuất nhập khẩu tại chỗ hàng hóa và dịch vụ
cho khách du lịch” [17, tr586].
1.1.2. Tiềm năng du lịch Hải Phòng
Muốn đầu tƣ để phát triển các loại hình kinh doanh du lịch có hiệu quả

cần thiết phải có những yếu tố khách quan, chủ quan, nguồn lực nhất định mới
có thể duy trì hoạt động lâu bền và phát triển bởi nó trực tiếp quyết định đến việc
sản xuất ra các sản phẩm du lịch đáp ứng nhu cầu của du khách. Hải Phòng có
tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn phong phú, đa dạng,
rất thuận lợi cho việc tổ chức các loại hình du lịch kết hợp và bổ trợ.
Vị trí địa lý
Hải Phòng là thành phố ven biển, nằm phía Đông miền duyên hải Bắc
Bộ, cách thủ đô Hà Nội 102 km. Đây là nơi hội tụ đầy đủ các lợi thế về đƣờng
biển, đƣờng sắt, đƣờng bộ và đƣờng hàng không, giao lƣu thuận lợi với các
tỉnh trong cả nƣớc và các quốc gia trên thế giới. Nhƣ vậy, có thể thấy Hải
Phòng là thành phố có vị trí giao thƣơng thuận lợi và đóng vai trò quan trọng
đối với sự phát triển kinh tế của vùng Bắc Bộ.
Đặc điểm địa hình
Địa hình Hải Phòng khá đa dạng gồm đồi núi, sông ngòi, biển
đảo.Tổng diện tích của thành phố Hải Phòng là 1.519 km2, bao gồm cả huyện
đảo (Cát Hải và Bạch Long Vĩ). Đồi núi chiếm 15% diện tích, phân bố chủ
yếu ở phía Bắc, do vậy địa hình phía Bắc có hình dáng và cấu tạo địa chất của
vùng trung du với những đồng bằng xen đồi. Bờ biển Hải Phòng thấp và khá
10


bằng phẳng. Mũi Đồ Sơn nhô ra biển nhƣ một bán đảo, tạo cho Đồ Sơn một
vị trí chiến lƣợc quan trọng và thắng cảnh thiên nhiên nổi tiếng. Ngoài khơi
thuộc địa phận Hải Phòng có nhiều đảo rải rác nhƣ Cát Bà, Bạch Long Vĩ.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 9 của Ban Chấp hành Trung ƣơng Đảng về xây
dựng “chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020” đã nhấn mạnh Hải Phòng là
địa phƣơng có vùng bờ, biển và đảo rộng lớn, nằm trong chiến lƣợc biển của
cả nƣớc. Hải Phòng có những lợi thế vƣợt trội nằm trong vùng năng động
nhất của Việt Nam hiện nay. Bởi vậy, phát triển du lịch ven biển là một trong
những hƣớng ƣu tiên trong việc thu hút đầu tƣ phát triển các thế mạnh.

Hệ thống sông ngòi Hải Phòng có mật độ trung bình từ 0.6 – 0.8
km/km2, độ dốc nhỏ, chảy chủ yếu theo hƣớng Tây Bắc – Đông Nam. Các
con sông chính của Hải Phòng: sông Đá Bạc, sông Cấm, sông Lạch Tray,
sông Văn Úc, sông Thái Bình, sông Bạch Đằng, ngoài ra còn có nhiều con
sông nhỏ khác nằm ở khu vực nội thành quận Hồng Bàng.
Với đặc điểm địa hình đa dạng, phong phú, Hải Phòng có điều kiện
phát triển các loại hình du lịch khác nhau: du lịch sinh thái biển đảo, du lịch
điền dã...
Khí hậu là một yếu tố tự nhiên quan trọng đối với quá trình hình thành
và phát triển các loại hình kinh doanh du lịch. Hải Phòng nằm trong vùng có
khí hậu khá đa dạng. Chịu ảnh hƣởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa, trong đó,
từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau là khí hậu của mùa Đông lạnh và khô, từ
tháng 5 đến tháng 10 là khí hậu của mùa Hè, nồm mát và mƣa nhiều. Lƣợng
mƣa trung bình từ 1.600 – 1.800 mm/năm. Do nằm sát biển nên vào mùa
Đông, Hải Phòng ấm hơn 1oC và mùa Hè mát hơn 1oC so với Hà Nội. Với
điều kiện khí hậu nhƣ vậy, Hải Phòng khá thuận lợi cho việc phát triển các
loại hình du lịch kinh doanh theo nhu cầu của khách nghỉ dƣỡng, tham quan
thắng cảnh, lễ hội…vào thời gian có khí hậu mát mẻ, ít mƣa bão nhƣ tháng 2,
3, 4, 10, 11 hoặc khách đi du lịch biển, núi, du lịch đồng quê…vào các tháng
hè nhƣ tháng 5, 6, 7, 8. Nhƣ vậy, với đặc điểm khí hậu đa dạng là điều kiện
11


thuận lợi cho quá trình xây dựng các sản phẩm du lịch quanh năm để tránh
đƣợc yếu tố mùa vụ trong kinh doanh.
Tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên rừng: Hải Phòng có rừng ngập mặn và rừng cây lấy gỗ, ăn
quả, tre, mây,…với diện tích 17.000 ha. Rừng nguyên sinh Cát Bà với thảm
thực vật phong phú, đa dạng, nhiều loại thảo mộc quý hiếm; Đồ Sơn là một
bán đảo đồi núi, rừng thông nối tiếp nhau vƣơn ra biển dài đến 5 km, có giá trị

chủ yếu về phong cảnh và môi trƣờng sinh thái. Trong đất liền có vùng núi
Voi, nằm ở phía Bắc thị xã Kiến An và Tràng Kênh (huyện Thuỷ Nguyên) là
một quần thể thiên nhiên đa dạng, cấu tạo chủ yếu là núi đá vôi, nhiều hang
động kỳ thú…là những địa danh nổi tiếng của thành phố Cảng.
Tài nguyên nƣớc cũng là một yếu tố quan trọng cho sự phát triển du
lịch. Trong những năm qua, thành phố đã có những biện pháp làm giảm thiểu
sự ô nhiễm đối với các nguồn nƣớc ao, hồ, sông ngòi và biển. Hải Phòng đã
đƣa vào khai thác Khu du lịch suối khoáng nóng Tiên Lãng, xây dựng hệ
thống xử lý nƣớc thải, bảo vệ nghiêm ngặt các nguồn nƣớc tránh ô nhiễm.
Tài nguyên văn hóa – xã hội
Bên cạnh nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, Hải Phòng còn có
hệ thống các tài nguyên nhân văn bao gồm các giá trị về văn hóa – lịch sử,
các lễ hội truyền thống, làng nghề cổ truyền đặc trƣng cũng có ý nghĩa quan
trọng cho sự phát triển du lịch. Là miền đất cửa ngõ trấn giữ phía biển Đông
của Tổ quốc, luôn phải đƣơng đầu chống quân xâm lƣợc từ đƣờng biển, Hải
Phòng còn lƣu giữ nhiều di tích lịch sử, tồn tại mãi với non sông đất nƣớc.
Theo số liệu thống kê của Viện nghiên cứu phát triển du lịch, năm 2004, Hải
Phòng có tổng số 300 di tích trong đó có 85 di tích xếp hạng (21 di tích lịch
sử, 37 di tích kiến trúc nghệ thuật, 4 di tích lịch sử cách mạng, 23 di tích lịch
sử kiến trúc nghệ thuật) - chiếm 4.82% trong tổng số di tích xếp hạng toàn
vùng du lịch Bắc Bộ. Ví dụ nhƣ: chùa tháp Tƣờng Long; chùa Dƣ Hàng (Lê

12


Chân), đình Kiền Bái (Thủy Nguyên), đình Hàng Kênh (Lê Chân), thành cổ
Dƣơng Kinh; Bến tàu Không số (Đồ Sơn)…
Ngoài ra, Hải Phòng còn là cái nôi của nhiều ngành nghệ thuật dân tộc
độc đáo nhƣ múa rối nƣớc, nghề tạc tƣợng (Vĩnh Bảo), ca trù, hát đúm (Thủy
Nguyên) và các lễ hội dân gian truyền thống: lễ hội chọi trâu và đua thuyền

rồng ở Đồ Sơn, lễ hội làng cá Cát Bà, hội vật cầu làng Kim...
Ngoài những tiềm năng du lịch tự nhiên và nhân văn kể trên, các điều
kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật cũng góp phần không nhỏ đảm bảo cho du lịch
Hải Phòng phát triển bền vững:
Trƣớc hết là sự phát triển của nền kinh tế thành phố trong những năm gần
đây. Quy mô kinh tế của thành phố từng bƣớc đƣợc mở rộng, duy trì vị trí thứ
hai ở vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, sau thủ đô Hà Nội. “GDP tăng trưởng
liên tục với tốc độ khá, bình quân 11%/năm, gấp 1,57 lần mức tăng chung cả
nước. Năm 2012 đạt 28.815 tỷ đồng (giá so sánh) gấp 2,8 lần năm 2002. Tỷ
trọng GDP (theo giá so sánh) trong GDP cả nước liên tục tăng qua các năm, từ
3,2% năm 2002 lên 3,9% năm 2007 và 4,7% năm 2012. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo đúng định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tỷ trọng GDP của
các nhóm ngành công nghiệp – xây dựng và dịch vụ tăng từ 84,1% năm 2002 lên
89,7% năm 2012 (trong đó dịch vụ tăng từ 48,9% lên 53,5%) [38, tr3]
Với vị trí là đầu mối giao thông quan trọng, là cửa ngõ ra biển của toàn
miền Bắc, Hải Phòng hội tụ đủ tất cả các loại hình giao thông là đƣờng bộ,
đƣờng sắt, đƣờng hàng không và hệ thống cảng biển.
Về giao thông đƣờng bộ: Hải Phòng có các tuyến đƣờng huyết mạch
nối với các tỉnh khác: Quốc lộ 5, quốc lộ 10, quốc lộ 37 và các tuyến đƣờng
cao tốc Hà Nội – Hải Phòng, đƣờng cao tốc ven biển Quảng Ninh – Hải
Phòng – Ninh Bình. Do có mạng lƣới sông ngòi dày đặc nên Hải Phòng cũng
có một số lƣợng lớn các cầu: cầu Bính bắc qua sông Cấm; cầu Lạc Long bắc
qua sông Tam Bạc, cầu Quay bắc qua sông Tam Bạc…

13


Về đƣờng sắt: Hải Phòng có một tuyến đƣờng sắt là Hà Nội – Hải
Phòng do Pháp xây dựng từ năm 1901 và đƣợc đƣa vào sử dụng từ tháng 6
năm 1902. Tuyến đƣờng sắt này dài 102 km, gần nhƣ song song với quốc lộ

5A, đi qua địa phận các tỉnh Hải Phòng, Hải Dƣơng, Hƣng Yên, Hà Nội. Hiện
nay, Hải Phòng vẫn sử dụng tuyến đƣờng sắt này để vận chuyện hành khách
và hàng hóa.
Về đƣờng hàng không: Hải Phòng hiện chỉ có một sân bay phục vụ dân
sự - Sân bay quốc tế Cát Bi. Thành phố đang thực hiện nâng cấp sân bay Cát
Bi theo tiêu chuẩn sân bay dân dụng cấp 4E, giai đoạn 1 đến năm 2015.
Thành phố có dự án xây thêm một cảng hàng không quốc tế Hải Phòng đặt tại
huyện Tiên Lãng. Việc đầu tƣ nâng cấp sân bay Cát Bi và dự án mở thêm sân
bay quốc tế mới không chỉ đảm bảo cho sự phát triển kinh tế và nhu cầu của
nhân dân mà còn nhằm thu hút khách du lịch, phát triển kinh tế du lịch.
Về hệ thống cảng biển: Cảng Hải Phòng là một cụm cảng biển tổng hợp
cấp quốc gia, cùng với cảng Sài Gòn là một trong hai hệ thống cảng biển lớn
nhất Việt Nam. Cảng Hải Phòng nằm trên tuyến đƣờng giao thông trên biển,
kết nối với các cảng khác ở Đông Á, Đông Bắc Á. Cảng Hải Phòng đƣợc đầu
tƣ lớn, nâng cấp hiện đại hóa phƣơng tiện, quản lý, nâng nhanh năng lực,
thêm cảng mới hiện đại, chuyên dùng, “sản lượng hàng hóa thông qua cảng
có sự tăng trưởng vượt bậc từ 13,02 triệu tấn năm 2003 lên 48,8 triệu tấn
năm 2012, gấp 3,8 lần, tăng bình quân 16,7%/năm” [38, tr4].
Mặt khác, tình hình chính trị ổn định, nếp sống văn minh đô thị cũng là
một nguồn lực để Hải Phòng thu hút khách du lịch. Ủy ban nhân dân thành
phố đã chỉ đạo cho các lực lƣợng quân sự, công an, bộ đội biên phòng đóng
trên địa bàn thành phố thƣờng xuyên rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị,
sẵn sàng chiến đấu.
Khi nói về nguồn lực phát triển du lịch Hải Phòng không thể không
nhắc đến vai trò lãnh đạo cũng nhƣ những chủ trƣơng, chính sách phát triển
kinh tế du lịch của Đảng bộ thành phố. Thực hiện đƣờng lối đổi mới của Đảng
14


và nhà nƣớc, Đảng bộ và nhân dân thành phố Hải Phòng đã xác định kinh tế

du lịch có vai trò chiến lƣợc trong phát triển kinh tế chung của cả thành phố.
Từ đó, Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã và đang tích cực bổ sung, điều chỉnh,
từng bƣớc hệ thống hóa các chính sách về kinh tế - tài chính, đất đai, tạo môi
trƣờng thuận lợi để khuyến khích, kêu gọi đầu tƣ phát triển kinh tế nói chung
và kinh tế du lịch nói riêng.
Nhƣ vậy, từ việc phân tích các nguồn lực kể trên, có thể thấy Hải
Phòng đang có các điều kiện hết sức quan trọng so với nhiều địa phƣơng khác
trong việc phát triển du lịch và kinh tế du lịch:
Một là, Hải Phòng có vị trí thuận lợi, là đầu mối giao thông trọng yếu
của khu vực phía Bắc, có lợi thế về sân bay, đƣờng bộ, đƣờng sắt, đƣờng
biển, là cửa ngõ quan trọng nối với thế giới và khu vực qua đƣờng biển. Vì
vậy, việc đầu tƣ khai thác đúng mức sẽ giúp cho thành phố phát triển toàn
diện các lĩnh vực trong đó có kinh tế, đặc biệt là kinh tế du lịch.
Hai là, với tiềm năng có nhiều tài nguyên thiên nhiên về biển đảo, các
danh lam thắng cảng, các di tích lịch sử văn hóa kiến trúc, đã và đang tạo điều
kiện cho Hải Phòng phát triển du lịch. Nếu đƣợc khai thác một cách đúng
mức, đồng bộ, Hải Phòng sẽ trở thành một điểm du lịch nổi tiếng trong tƣơng
lai với các loại hình du lịch kết hợp.
Ba là, cùng với sự phát triển chung của đất nƣớc, Hải Phòng đang hình
thành nhiều khu vực kinh tế chất lƣợng cao với các khu công nghiệp, dịch vụ lớn,
cơ sở hạ tầng hiện đại có sức lan tỏa mạnh đang tạo ra môi trƣờng phát triển năng
động cho kinh tế du lịch thành phố trong quá trình toàn cầu hóa hiện nay.
Với những lợi thế của mình, Hải Phòng đang trở thành một trong
những trung tâm dịch vụ, các nhà hàng đặc sản, các nhà nghỉ dƣỡng dành cho
khách du lịch và nghỉ dƣỡng dài ngày, các khu nhà ở cao cấp cho ngƣời nƣớc
ngoài thuê để lƣu trú lâu dài khi làm việc tại Hải Phòng (Khách sạn Hữu
Nghị, khách sạn Royal Garden, khách sạn Harbor View, khách sạn Tray,
Làng quốc tế Hƣớng Dƣơng…); nhiều khu vui chơi, giải trí và thƣ giãn: sân
tennis, bể bơi, sân golf, câu cá, quán bar, casino Đồ Sơn…
15



1.1.3. Tình hình du lịch Hải Phòng trước năm 2001
Với vị trí địa lý quan trọng nhƣ vậy, lại có nhiều tài nguyên du lịch tự
nhiên và nhân văn cùng với một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển, hoạt động
du lịch Hải Phòng đã sớm hình thành và phát triển.
“Ngày 12/6/1955, Ủy ban Quân Chính thành phố ra Quyết định số 427
thành lập Phòng giao tế Hải Phòng” [8, tr 31] để giúp lãnh đạo thành phố
làm tốt việc tiếp các đoàn chuyên gia nƣớc ngoài sang giúp đỡ xây dựng lại
cơ sở sản xuất và các công trình văn hóa, xã hội. Đây chính là cơ sở tiền thân
của Sở Du lịch Hải Phòng đƣợc thành lập vào ngày 3/6/1994. Trải qua những
năm tháng khó khăn của những ngày đầu thành lập cũng nhƣ hoạt động du
lịch trong thời kỳ chiến tranh, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hải
Phòng qua các thời kỳ, du lịch Hải Phòng bƣớc đầu đã đạt đƣợc những thành
tựu đáng kể.
Ngày 9/7/1960, Hội đồng Chính phủ có Quyết định thành lập Công ty
Du lịch Việt Nam, trực thuộc Bộ Ngoại thƣơng. Thời điểm ấy, cũng ra đời
Công ty Du lịch trung ƣơng tại Hải Phòng và khách sạn Bạch Đằng đƣợc
chọn làm cơ sở kinh doanh du lịch ban đầu. [8, tr32]
Ngày 22/7/1960, Ủy ban hành chính thành phố quyết định đổi tên
Phòng giao tế thành Ban giao tế.. Sau đó, Ban giao tế và Công ty Du lịch
Trung ƣơng tại Hải Phòng đƣợc hợp nhất thành Công ty du lịch Hải Phòng,
trực thuộc Công ty Du lịch Việt Nam. Từ năm 1965, đế quốc Mỹ mở rộng
chiến tranh phá hoại miền Bắc, liên tục dùng máy bay ném bom, bắn phá Hải
Phòng, hoạt động của Công ty Du lịch gặp nhiều trở ngại. Ủy ban hành chính
thành phố quyết định tạm thời hợp nhất Công ty Du lịch và Công ty Cung ứng
tàu biển, lấy tên là Công ty Du lịch và Cung ứng tàu biển Hải Phòng. Ngày
15/5/1977, Thành ủy, Ủy ban nhân dân thành phố quyết định thành lập lại
Ban giao tế Hải Phòng. [8, tr33]. Giữa năm 1982, lãnh đạo thành phố quyết
định chuyển Ban giao tế thành Công ty Du lịch – Giao tế Hải Phòng (trực

thuộc Ủy ban nhân dân thành phố và nằm trong hệ thống các đơn vị thuộc
16


ngành Du lịch Việt Nam), sau đó đổi thành Liên hiệp Công ty Du lịch Hải
Phòng gồm 16 đơn vị thành viên. Cùng với việc khai thác những tiềm năng du
lịch Đồ Sơn, Công ty Du lịch Hải Phòng còn mở tuyến du lịch biển đảo.
Trên cơ sở những thành công ban đầu của sự nghiệp đổi mới, đánh giá
những mặt làm đƣợc cũng nhƣ chƣa làm đƣợc trong kế hoạch 5 năm (1986 –
1990), Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã biết nắm bắt thời cơ, tranh thủ những
thuận lợi, phát huy tiềm năng, lợi thế của thành phố về nguồn lực, vị trí địa lý,
tài nguyên, lao động, vốn, và kết cấu hạ tầng ổn định, về tình hình kinh tế, văn
hóa – xã hội để đề ra phƣơng hƣớng, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5
năm 1991 – 1995 là phấn đấu xây dựng Hải Phòng trở thành “Thành phố
cảng có công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ, văn hóa, khoa học –
công nghệ phát triển, trung tâm thương mại và du lịch vùng, an ninh quốc
phòng vững mạnh”. Sau hơn 5 năm thực hiện mục tiêu trên, du lịch Hải
Phòng đã đạt đƣợc một số thành tựu: “Hoạt động du lịch bước đầu có chuyển
biến, doanh thu và số khách du lịch trong nước, ngoài nước tăng. Công tác
quản lý nhà nước về du lịch có tiến bộ. Toàn thành phố có 35 công ty du lịch
và dịch vụ; 80 khách sạn, nhà nghỉ với hơn 2.500 phòng”[10, tr 54].
Để tiếp tục đổi mới và phát huy những thành tựu thu đƣợc sau 10 năm
đổi mới đất nƣớc, Đại hội đại biểu Đảng bộ thành phố lần thứ XI đã định
hƣớng chiến lƣợc phát triển và kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 là: “Đẩy nhanh
quá trình xây dựng Hải Phòng trở thành thành phố cảng hiện đại, trung tâm
công nghiệp, thương mại, du lịch, dịch vụ của vùng duyên hải Bắc Bộ, có kinh
tế - văn hóa – xã hội, khoa học, công nghệ, kết cấu hạ tầng phát triển, đảm
bảo quốc phòng – an ninh vững mạnh, nâng cao đời sống nhân dân”. Qua 5
năm thực hiện các chủ trƣơng, biện pháp phát triển kinh tế của thành phố,
hoạt động du lịch – dịch vụ đã có nhiều tiến bộ, cơ sở vật chất ngành du lịch

đƣợc tăng cƣờng. “Năm 1995, toàn thành phố chỉ có 28 khách sạn với 936
buồng thì đến năm 2000 đã có 122 khách sạn với 3.142 buồng. Năm 1995,
tổng số khách du lịch trong và ngoài nước đến Hải Phòng là 282.906 lượt
17


người, đến năm 2000 tăng lên 714.495 lượt người. Trong đó khách quốc tế từ
38.282 lượt người năm 1995 tăng lên 198.409 lượt người năm 2000. Tổng
doanh thu năm 1995 là 94.958 triệu đồng và năm 2000 là 240.000 triệu đồng,
tăng gấp 1,5 lần so với năm 1995”. [10, tr89]
Có thể thấy, từ những bƣớc đi đầu tiên rất khó khăn trong những năm
đất nƣớc có chiến tranh, tình hình kinh tế xã hội chƣa phát triển, đời sống
nhân dân rất thiếu thốn, du lịch và hoạt động du lịch Hải Phòng đã bƣớc đầu
khai mở hƣớng đi và có những đóng góp nhất định cho sự phát triển kinh tế
của thành phố. Mặc dù còn nhiều hạn chế và những đóng góp của hoạt động
kinh doanh du lịch trong kinh tế thành phố còn khiêm tốn song đó cũng là
những bài học, kinh nghiệm quý cho quá trình lãnh đạo kinh tế du lịch của
Đảng bộ thành phố trong những giai đoạn tiếp sau.
1.2. Chủ trƣơng, chính sách của Đảng, Nhà nƣớc về kinh tế du lịch
từ năm 2001 đến năm 2005
Luật Du lịch Việt Nam xác định: “Du lịch là các hoạt động liên quan
đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm
thỏa mãn nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định” [24, tr9]
Nhƣ vậy, du lịch là một hoạt động có nhiều đặc thù, gồm nhiều thành
phần tham gia tạo thành một tổng thể phức hợp. Hoạt động du lịch vừa có đặc
điểm của ngành kinh tế lại có đặc điểm của ngành văn hóa- xã hội. Trên thực
tế, hoạt động du lịch ở nhiều quốc gia trên thế giới không chỉ mang lại lợi ích
kinh tế mà còn mang lại lợi ích chính trị, văn hóa, xã hội.
Du lịch cũng nhƣ mọi ngành kinh tế khác, muốn khai thác tốt tiềm năng

của nó để phát triển cần có đƣờng lối đúng, chính sách phù hợp, đây là một
trong những yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy ngành kinh tế này phát
triển. Một quốc gia dù có nhiều nguồn lực về tài nguyên du lịch nhƣng nếu hệ
thống đƣờng lối, chính sách phát triển thiếu đồng bộ thì cũng không thể biến
những tiềm năng thành hiện thực về hiệu quả kinh tế đƣợc. Nhận thức sâu sắc
18


vấn đề này, Đảng và Nhà nƣớc ta đã dành sự quan tâm không nhỏ cho ngành
du lịch, đặc biệt kể từ sau công cuộc đổi mới đất nƣớc. Đƣờng lối, chính sách
phát triển du lịch là một bộ phận trong tổng thể của đƣờng lối phát triển kinh
tế - xã hội của một quốc gia hay một địa phƣơng. Đƣờng lối, chính sách phát
triển du lịch thể hiện trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch, các chƣơng
trình phát triển du lịch trong mỗi thời kỳ, giai đoạn nhất định của mỗi địa
phƣơng, mỗi quốc gia.
Đối với Việt Nam, chủ trƣơng phát triển du lịch của Đảng đã hình
thành và phát triển kể từ sau Đổi mới. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI
của Đảng (1986) là Đại hội đặt nền tảng cho việc giải phóng sức sản xuất,
mở đƣờng cho sản xuất phát triển. Tại Đại hội này, Đảng đã chủ trƣơng mở
rộng các loại hoạt động dịch vụ phục vụ quá trình sản xuất, lƣu thông, đời
sống, du lịch.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (1991) đã thông qua
Cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Việc phát triển đất nƣớc đòi hỏi phải xây dựng một cơ cấu ngành dịch vụ
thích hợp, trong đó Đại hội có nhắc tới việc “phát triển du lịch, vận tải hàng
không...[11, tr74]. Nhƣ vậy, phát triển du lịch đã đƣợc Đảng đề cập tới nhƣng
chƣa có chiến lƣợc cụ thể.
Tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (1996), Đảng đã xác định:
“Phát triển nhanh du lịch, các dịch vụ hàng không, hàng hải, bưu chính viễn
thông...” đồng thời xác định rõ mục tiêu: “Từng bước đưa nước ta trở thành

một trung tâm du lịch, thương mại – dịch vụ có tầm cỡ trong khu vực”[12,
tr89]. Chủ trƣơng phát triển du lịch tại Đại hội VIII của Đảng đã góp phần
định hƣớng thúc đẩy ngành du lịch Việt Nam phát triển lên một bƣớc mới.
Tiếp tục những thành tựu mà ngành kinh tế du lịch đã đạt đƣợc, cùng
với những điều kiện mới có thể khai thác để góp phần thúc đẩy ngành kinh tế
du lịch, chủ trƣơng phát triển du lịch Việt Nam đã đƣợc thể hiện rõ nét hơn.
Trong Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội từ năm 2001 – 2010 đƣợc nêu ra
19


×