Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

quá trình lãnh đạo kinh tế nông nghiệp của đảng bộ tỉnh yên báo tu nam 1996 den nam 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------

QUÁCH THỊ THƢƠNG

QUÁ TRÌNH LÃNH ĐẠO KINH TẾ
NÔNG NGHIỆP CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH YÊN BÁI
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành : Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số

: 60 22 56

LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. NGND LÊ MẬU HÃN

Hà Nội - 2011

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, với những biến động to lớn của tình hình thế
giới: sự bùng nổ nhƣ vũ bão của cách mạng khoa học công nghệ, sự vƣơn lên
phát triển mạnh mẽ về mặt kinh tế của các quốc gia và xu thế toàn cầu hoá đã
tạo ra những thời cơ mới cho các nƣớc đồng thời cũng đặt ra những thách
thức cho mọi quốc gia đặc biệt là các nƣớc đang phát triển trong đó có Việt


Nam.
Đại hội VI (12/1986) là đại hội đổi mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong toàn Đảng và nhân dân Việt Nam. Tại đại hội nhiệm vụ bao trùm và
mục tiêu tổng quát của những năm còn lại chặng đƣờng đầu tiên là: “Ổn định
mọi mặt tình hình kinh tế xã hội, tiếp tục xây dựng những tiền đề cần thiết
cho việc đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa trong
chặng đƣờng tiếp theo” [23, tr. 42]
Sau năm năm bƣớc đầu thực hiện đổi mới đất nƣớc, tổng kết những
thành tựu, hạn chế và rút ra những bài học kinh nghiệm, Cƣơng lĩnh xây dựng
đất nƣớc trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội 1991 đề ra phƣơng hƣớng
cơ bản về xây dựng kinh tế là: “Phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trƣờng có sự
quản lí của nhà nƣớc” [9, tr. 317]
Yên Bái là một tỉnh miền núi, trong giai đoạn đầu phát triển gặp nhiều
khó khăn: nền kinh tế đi lên từ điểm xuất phát thấp, lực lƣợng sản xuất chậm
phát triển, đời sống nhân dân chƣa đƣợc cải thiện… Trong bối cảnh chung đất
nƣớc, dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, nhân dân Yên Bái bƣớc vào thời kì xây
dựng kinh tế, từng bƣớc ổn định xã hội (1991 - 1995) tạo tiền đề cho giai
đoạn sau.

2


Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII xác định: “Mục tiêu công nghiệp
hoá, hiện đại hoá là xây dựng nƣớc ta thành một nƣớc công nghiệp có cơ sở
vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lí, quan hệ sản xuất tiến bộ,
phù hợp với trình độ của lực lƣợng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần
cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nƣớc mạnh, xã hội công bằng,
văn minh” [9, tr. 466]. Với sự vận dụng sáng tạo đƣờng lối, quan điểm của
Đảng, trên cơ sở tổng kết thực tiễn các địa phƣơng trong tỉnh từ năm 1991 –

1995, Đảng bộ Yên Bái cơ bản đề ra các chủ trƣơng, giải pháp đẩy mạnh phát
triển trên tất cả mọi lĩnh vực từ kinh tế, xã hội đến văn hoá, giáo dục đào tạo.
Giai đoạn 1996 – 2010 đƣợc xem là giai đoạn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
của tỉnh Yên Bái trên nền tảng sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội trong
những năm 1991 – 1995.
Điều kiện tự nhiên thuận lợi giúp cho Yên Bái phát triển kinh tế nông
nghiệp: trồng rừng, trồng cây công nghiệp, cây ăn quả, cây đặc sản, cây dƣợc
liệu và cây lƣơng thực, đẩy mạnh hoạt động sản xuất lâm nghiệp, nuôi và
đánh bắt thủy sản. Với trên 80% dân số tham gia sản xuất trong lĩnh vực nông
– lâm nghiệp và thuỷ sản, ngành kinh tế nông nghiệp có vị trí đặc biệt quan
trọng trong chiến lƣợc phát triển kinh tế của tỉnh. Đảng bộ Yên Bái đƣa ra
nhiều chính sách khuyến khích phát triển ngành kinh tế nông nghiệp nhƣ: hỗ
trợ giống cây trồng, vật nuôi cho hộ nghèo; hỗ trợ thực hiện chƣơng trình cải
tạo và trồng mới cây chè, sắn cao sản...do đó sản xuất nông nghiệp đã có
những bƣớc phát triển, đời sống ngƣời nông dân ngày càng cải thiện. Với
những thành tựu đạt đƣợc dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ, Yên Bái đã và đang
tiếp tục vƣợt qua khó khăn, thử thách đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hoá
hiện đại hoá góp phần vào thắng lợi chung trong sự nghiệp phát triển đất
nƣớc.
Với những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài:“Quá trình lãnh đạo kinh tế
nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh Yên Bái từ năm 1996 đến năm 2010” làm Luận
3


văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam với hi vọng hệ
thống hoá chủ trƣơng của Đảng bộ Yên Bái về phát triển kinh tế nông nghiệp;
đồng thời tìm hiểu sự phát triển kinh tế nông nghiệp Yên Bái giai đoạn 1996 2010 từ đó rút ra những nhận xét và một số kiến nghị về lãnh đạo phát triển
kinh tế nông nghiệp trong thời gian tới.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở Việt Nam, trong lúc đất nƣớc bƣớc vào thời kì quá độ xây dựng chủ

nghĩa xã hội phát triển nền kinh tế thị trƣờng thì vấn đề kinh tế đƣợc các nhà
khoa học đặc biệt quan tâm. Đã có rất nhiều những nghiên cứu toàn diện và
sâu sắc về kinh tế trong thời kỳ đổi mới nhƣ: Nguyễn Văn Chỉnh, Vũ Quang
Việt, Trần Vân (2002), Kinh tế Việt Nam đổi mới: những phân tích và đánh
giá quan trọng, Nxb Thống kê, Hà Nội; Ngô Đình Dao (chủ biên), (1994),
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hoá nền
kinh tế quốc dân, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Võ Đại Lƣợc (2007), Kinh
tế Việt Nam đổi mới và phát triển, Nxb Thế giới, Hà Nội; Võ Đại Luận, Đào
Lê Minh, Nguyễn Trần Quế (1995), Đổi mới kinh tế Việt Nam và chính sách
kinh tế đối ngoại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội…
Những công trình nghiên cứu trực tiếp liên quan đến sự lãnh đạo của
Đảng bộ Yên Bái đối với kinh tế nhƣ: Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái
(2005), Đảng bộ tỉnh Yên Bái 60 năm xây dựng và trưởng thành, Nxb Văn
hoá thông tin, Hà Nội; Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (2007), Lịch sử
Đảng bộ tỉnh Yên Bái tập 1 (1930 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái
tập 2 (1975 - 2000), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Phùng Quốc Hiền,
Hoàng Xuân Lộc (2006), Yên Bái - đất và người trên hành trình phát triển,
Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội; Vũ Sửu (chủ biên), (2002), Nông nghiệp
nông thôn Yên Bái trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa, Nxb

4


Thống kê, Hà Nội….ngoài ra còn có những đánh giá, bình luận trên báo chí,
các phƣơng tiện nghe nhìn.
Tuy nhiên các công trình nêu trên mới đề cập đến những khái quát chung
nhất về đƣờng lối kinh tế, sự lãnh đạo của Đảng bộ Yên Bái hay những lĩnh
vực kinh tế riêng biệt. Cho đến nay vẫn chƣa có một công trình nghiên cứu
nào đề cập một cách đầy đủ, có hệ thống và toàn diện về sự lãnh đạo của

Đảng bộ Yên Bái với xây dựng và phát triển kinh tế nông nghiệp giai đoạn
1996 – 2010. Vì vậy thực hiện đề tài này, tôi tập trung vào vấn đề hệ thống
những chủ trƣơng của Đảng bộ Yên Bái về phát triển kinh tế nông nghiệp với
hi vọng góp một phần nhỏ vào những nghiên cứu về Yên Bái nói riêng và
kinh tế cả nƣớc nói chung
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là trình bày một cách hệ thống sự lãnh
đạo của Đảng bộ Yên Bái trên lĩnh vực kinh tế nông nghiệp giai đoạn 1996 –
2010.
- Nhiệm vụ:
Sƣu tầm, thu thập tài liệu, kế thừa chọn lọc những công trình nghiên cứu
trƣớc đó, bổ sung thêm những nguồn nghiên cứu mới liên quan đến vấn đề
Đảng bộ Yên Bái lãnh đạo xây dựng phát triển kinh tế nông nghiệp từ đó trình
bày sự lãnh đạo Đảng bộ Yên Bái.
Trên cơ sở thực tiễn kết quả đạt đƣợc và hạn chế về kinh tế nông nghiệp,
đƣa ra những bài học kinh nghiệm mang tính giải pháp góp phần thúc đẩy
kinh tế nông nghiệp Yên Bái phát triển trong giai đoạn tiếp theo.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
+ Chủ trƣơng và sự chỉ đạo phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ
Yên Bái.
5


+ Những thành tựu, hạn chế, bài học kinh nghiệm nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế nông nghiệp giai đoạn tiếp theo.
- Phạm vi nghiên cứu:
Kinh tế bao gồm nhiều ngành, nhiều lĩnh vực: nông – lâm – ngƣ nghiệp,
công nghiệp, dịch vụ…Luận văn chỉ tập trung vào sự chỉ đạo chung nhất về

phát triển kinh tế nông nghiệp của Đảng bộ Yên Bái, những kết quả, kinh
nghiệm chung.
Về thời gian: nghiên cứu sự lãnh đạo, kết quả và kinh nghiệm trong lĩnh
vực kinh tế nông nghiệp 1996 - 2010.
5. Cơ sở lý luận, nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lí luận:
Cơ sở lí luận của việc thực hiện luận văn dựa vào những chủ trƣơng của
Đảng cộng sản Việt Nam trên cơ sở đó Đảng bộ Yên Bái đề ra đƣờng lối kinh
tế nông nghiệp phù hợp.
- Nguồn tư liệu:
Tài liệu mà luận văn sử dụng gồm: các văn kiện, nghị quyết của Đảng;
các báo cáo của Tỉnh uỷ, Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân tỉnh và một số
tài liệu tham khảo đã nêu.
- Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp logic, phƣơng pháp
lịch sử kết hợp với phƣơng pháp logic. Ngoài ra còn sử dụng các phƣơng
pháp: phân tích, so sánh kết hợp với thống kê nhằm đánh giá trung thực và
khách quan nhất đối với những số liệu đã nêu.
6. Đóng góp của luận văn
- Trình bày sự chỉ đạo của Đảng bộ Yên Bái về phát triển kinh tế nông
nghiệp.
- Nêu bật đƣợc tình hình kinh tế nông nghiệp Yên Bái dƣới sự lãnh đạo
của Đảng.
6


- Rút ra những bài học kinh nghiệm có ý nghĩa vận dụng trong thực tiễn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn đƣợc trình bày trong ba chƣơng:

Chƣơng 1: Kinh tế nông nghiệp “chuyển mình” dƣới sự lãnh đạo của
Đảng bộ Yên Bái (1996 - 2000)
Chƣơng 2: Đảng bộ Yên Bái lãnh đạo đẩy mạnh kinh tế nông nghiệp
theo đƣờng lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Đảng (2001 - 2010)
Chƣơng 3: Nhận xét chung và các kinh nghiệm chủ yếu

7


NỘI DUNG
Chƣơng 1: KINH TẾ NÔNG NGHIỆP
CHUYỂN BIẾN DƢỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
YÊN BÁI (1996 - 2000)
1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội và kinh tế nông nghiệp
Yên Bái (1991 - 1995)
1.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên, xã hội
Yên Bái là một tỉnh miền núi nằm ở khu vực chuyển tiếp giữa miền Tây
Bắc và Trung du Bắc Bộ. Phía Đông bắc giáp hai tỉnh Tuyên Quang và Hà
Giang, phía Đông Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Tây nam giáp tỉnh Sơn La,
phía Tây Bắc giáp tỉnh Lào Cai. Diện tích tự nhiên toàn tỉnh là: 689.949,05 ha
gồm: 1 thành phố (Yên Bái), 1 thị xã (Nghĩa Lộ), 7 huyện (Trạm Tấu, Mù
Cang Chải, Văn Chấn, Văn Yên, Lục Yên, Trấn Yên, Yên Bình).
Địa hình Yên Bái có cấu tạo đa dạng và phức tạp với trên 70% diện tích
đất là địa hình đồi núi và cao nguyên. Đây là vùng tiếp giáp giữa vùng núi
Đông Bắc và Tây Bắc, là địa bàn chuyển tiếp từ địa hình vùng trung du Phú
Thọ lên vùng cao Lào Cai. Địa hình Yên Bái cao dần từ Đông sang Tây và từ
Nam lên Bắc. Xét theo độ cao, có thể chia địa hình Yên Bái thành hai vùng:
vùng cao và vùng thấp.
Vùng cao Yên Bái có độ cao trên 600m gồm 70 xã trên tổng số 159 xã
của tỉnh và chiếm tới 67,4% diện tích đất tự nhiên của tỉnh. Đó là vùng địa

hình nằm ở hữu ngạn sông Hồng và các cao nguyên nằm ở giữa sông Hồng và
sông Đà, có nhiều dãy núi cao chạy liên tục theo hƣớng Tây bắc – Đông Nam.
Địa hình này góp phần tạo nên vô số những thung lũng sông và bồn địa đƣợc
phù sa bồi đắp khá rộng rãi ở Tú Lệ, Gia Hội và nhất là đồng bằng Mƣờng Lò

8


rộng 2.300 ha lớn thứ 2 Tây Bắc (sau đồng bằng Mƣờng Thanh – Điện Biên
Phủ). Đặc điểm địa hình núi cao khiến Yên Bái hàng năm xuất hiện sƣơng
muối và băng giá. Cƣ dân ở đây chủ yếu là đồng bào các tộc ít ngƣời:
H’mông, Dao, Khơ Mú…chiếm khoảng 30,17% tổng số dân. Điều kiện phát
triển kinh tế vùng cao rất khó khăn. Sản xuất nông nghiệp còn mang tính
thuần nông, một bộ phận dân cƣ sống theo phƣơng thức du canh, du cƣ. Đời
sống vật chất và tinh thần ngƣời dân còn nhiều khó khăn, trình độ dân trí thấp.
Vùng thấp có độ cao trung bình dƣới 600m gồm vùng đồi núi thấp nằm ở
tả ngạn lƣu vực sông Hồng, lƣu vực sông Chảy mang những đặc điểm của
vùng trung du với những thung lũng bằng phẳng và những cánh đồng chạy
dọc triền sông. Dân cƣ sống tập trung ở vùng này chủ yếu là ngƣời Kinh, Tày,
Thái, Nùng. Điều kiện phát triển kinh tế, đời sống vật chất tinh thần tƣơng đối
cao.
Những đặc điểm về địa hình đã tạo cho Yên Bái phát triển nhiều chủng
loại rừng khác nhau: nhiệt đới, Á nhiệt đới và ôn đới trên chủng núi cao. Bên
cạnh các loại gỗ quý (Nghiến, Táu, Lát, Hoa, Pơ mu..), cây thuốc quý (sơn
tra, hà thủ ô, sa nhân) vùng còn có động vật quý hiếm (hổ, báo, cầy hƣơng,
lợn rừng, sơn dƣơng…) và có nhiều đặc sản (cọ, măng, song, móc, nấm
hƣơng, mộc nhĩ, trẩu, quế, chè). Xen kẽ các khu rừng lớn là các mặt bằng với
nhiều bãi cỏ rộng có khả năng phát triển chăn nuôi đại gia súc và mở mang du
lịch sinh thái.
Đặc trƣng của khí hậu Yên Bái là khí hậu nhiệt đới gió mùa, nắng lắm

mƣa nhiều với nền nhiệt cao, tổng bức xạ lên tới 100 – 140 kcal/cm2. Lƣợng
mƣa trung bình khá lớn từ 1800 – 2000mm/năm nhƣng phân bố không đều.
Lƣợng bức xạ phong phú và nền nhiệt lƣợng cao là những thuận lợi đối với
việc tạo ra sinh khối lớn giúp cho cây trồng phát triển, cây ăn quả và cây
lƣơng thực ngắn ngày quay vòng nhanh; các ngành khai thác và chế biến có
nhiều thuận lợi. Khí hậu mát mẻ ở vùng cao tạo điều kiện cho trồng cây dƣợc
9


liệu, chăn nuôi gia súc có sừng (bò, dê, hƣơu). Tuy nhiên đặc điểm khí hậu đó
cũng gây ra những bất lợi trong sản xuất và con ngƣời. Mùa đông khí hậu
lạnh gây sƣơng muối. Mùa hè những đợt gió tây nóng tràn sang gây tổn hại
đến sức khỏe con ngƣời, súc vật và cây trồng.
Chế độ thủy văn Yên Bái rất phong phú nhờ hai con sông lớn là sông
Hồng và sông Chảy cùng với khoảng 200 ngòi, suối lớn nhỏ cùng một hệ
thống hồ, đầm trong đó lớn nhất là hồ Thác Bà. Nguồn nƣớc sông Hồng và
sông Chảy chứa nhiều phù sa màu mỡ đồng thời còn tạo ra nguồn thủy năng
lớn. Hồ Thác Bà có diện tích 23.400 ha trong đó diện tích mặt nƣớc là 19.000
ha, còn lại là các đảo với chiều dài 80km, chiều rộng từ 5 – 15 km. Đổ vào hồ
Thác Bà là sông Chảy cùng hàng trăm suối nhỏ chứa một lƣợng phù sa và
thức ăn cho thủy sinh vật phát triển. Ở đây có trên 130 loại cá tự nhiên có giá
trị kinh tế cao (cá trôi, chép, măng, ngão, quả, bống tƣợng…). Hồ Thác Bà
góp phần rất lớn vào bảo vệ và cải tạo môi trƣờng, giúp cho nhiệt độ trong
mùa hè giảm từ 1 – 20C, tăng độ ẩm mùa khô lên 20% và lƣợng mƣa từ 1700
– 2000mm/năm, tạo điều kiện cho thảm thực vật xanh tốt đặc biệt thích nghi
với trồng chè năng suất lớn [66, tr. 21]
Ngoài ra Yên Bái là tỉnh có trữ lƣợng khoáng sản tƣơng đối lớn với kim
loại quý hiếm: vàng ở Xuân Ái (Văn Yên), Kiên Thành (Trấn Yên), mỏ bạc ở
Tú Lệ…kim loại màu: đồng, chì, kẽm, sắt và các mỏ nhiên liệu: mỏ than đá ở
Minh Quân, Bái Dƣơng (Trấn Yên), mỏ Than mỡ ở Hồng Quang (Lục Yên).

Đây là điều kiện để Yên Bái đẩy mạnh khai thác ngành công nghiệp thúc đẩy
phát triển kinh tế trong tỉnh [66, tr. 26]
Về tài nguyên đất, Yên Bái có thể phân ra 2 hệ đất chính: đất phù sa hình
thành trên trầm tích sông suối bồi đắp và đất feralit phát triển trên nền địa chất
đa dạng. Yên Bái có 549.104,31ha đất nông nghiệp chiếm 79,59% tổng diện
tích đất tự nhiên trong đó: đất sản xuất nông nghiệp là 77.618,58 ha; đất lâm

10


nghiệp là 469.968,24 ha; đất nuôi trồng thủy sản 1.420,04 ha; đất nông nghiệp
khác 97,45 ha. [66, tr. 27]
Xét theo đặc điểm địa hình lãnh thổ Yên Bái với ¾ diện tích là đồi núi
thì diện tích đất canh tác đƣợc tận dụng gần nhƣ tối đa. Ngoài việc đẩy mạnh
thâm canh tăng vụ, phƣơng hƣớng trọng tâm phát triển kinh tế nông nghiệp
Yên Bái là chuyển mạnh sang kinh tế trang trại và vƣờn đồi gia đình.
Về dân số và lao động: sau khi tái lập tỉnh Yên Bái có số dân là 604.162
ngƣời trong đó 109.283 ngƣời sống ở khu vực thành thị. Tính đến năm 2008,
Yên Bái có tổng số dân 750.243 ngƣời với 429.002 ngƣời trong độ tuổi lao
động. Tỷ lệ gia tăng dân số khá cao vào khoảng 1.5 – 1.7%/năm, nhất là ở các
vùng cao. Yên Bái có 30 tộc ngƣời cùng chung sống trong đó: tộc ngƣời Kinh
chiếm 54%; tộc ngƣời Tày chiếm 17%; tộc ngƣời Dao chiếm 9,1%, tộc ngƣời
Mông chiếm 8,1%, tộc ngƣời Thái chiếm 6,1%, một số tộc ngƣời: Hoa, Phù
Lá, Sán Chay… chiếm 5,7% dân số. [66, tr. 37]
Những tộc ngƣời ở Yên Bái sống xen kẽ với nhau. Tuy nhiên mỗi tộc
ngƣời đều có những vùng quần tụ đông đảo của mình. Tại các vùng này, dân
số của tộc ngƣời đó chiếm tỷ lệ cao hơn so với tộc ngƣời khác cùng cƣ trú.
Tiêu biểu nhƣ ngƣời Mông cƣ trú tập trung ở Trạm Tấu và Mù Cang Chải;
ngƣời Thái, ngƣời Mƣờng ở Văn Chấn; ngƣời Dao ở Văn Yên, Văn Chấn;
ngƣời Sán Chay ở Yên Bình, ngƣời Kinh ở thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa

Lộ…
Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, đồng
bào các tộc ngƣời ở Yên Bái đã có những đóng góp to lớn về sức ngƣời, sức
của góp phần vào thắng lợi chung của đất nƣớc. Sau khi đất nƣớc thống nhất,
dƣới sự lãnh đạo của Đảng bộ Yên Bái, nhân dân tập trung vào phát triển sản
xuất kinh tế và đạt đƣợc những thành tựu to lớn. Sự phát triển về kinh tế, ổn
định về chính trị, mức sống ngƣời dân nâng cao vừa góp phần đƣa Yên Bái
trở thành một tỉnh giàu mạnh đồng thời là nhân tố tích cực đối với phát triển
11


kinh tế - xã hội của cả nƣớc, có ý nghĩa quan trọng đối với việc đảm bảo an
ninh quốc gia.
1.1.2. Kinh tế nông nghiệp Yên Bái (1991 - 1995)
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng diễn ra trong bối cảnh
quốc tế có những thay đổi lớn và tác động sâu sắc đến nƣớc ta. Quan hệ đối
ngoại ngày càng đƣợc mở rộng trong đó quan hệ với một số nƣớc đƣợc cải
thiện rõ rệt tạo thêm cơ hội Việt Nam mở rộng thị trƣờng, thu hút nguồn vốn
đầu tƣ kỹ thuật, học hỏi kinh nghiệm thế giới xây dựng đất nƣớc. Tuy nhiên
tình hình chính trị thế giới cũng có những mặt phức tạp tác động tới Việt
Nam. Tình hình trong nƣớc khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn chƣa chấm dứt
trong đó khó khăn lớn nhất là tạo ra nguồn cân đối về vật chất, tài chính mở
rộng thị trƣờng tiêu thụ, đáp ứng mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế khắc
phục lạm phát đang ở mức cao.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá thành tựu, ƣu điểm và hạn chế qua 5 năm
thực hiện đƣờng lối đổi mới đất nƣớc (1986 - 2000), Đại hội Đảng lần thứ VII
đã đƣa ra phƣơng hƣớng về kinh tế: “Phát triển nông, lâm, ngƣ nghiệp gắn với
công nghiệp chế biến, phát triển toàn diện kinh tế nông thôn và xây dựng
nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế xã hội” [24, tr. 270]. Trong sản xuất nông nghiệp đặc biệt nhấn mạnh tới:
“Đặt trọng tâm vào chƣơng trình lƣơng thực – thực phẩm nhằm bảo đảm vững

chắc nhu cầu trong nƣớc và có khối lƣợng xuất khẩu lớn, nhất là gạo và sản
phẩm chăn nuôi; phát triển cây công nghiệp dài ngày và ngắn ngày trên quy
mô lớn”. [24, tr. 270]
Từ ngày 27/07 đến 12/08/1991, kỳ họp thứ IX, Quốc hội khóa VIII quyết
định tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Cùng với
việc tái lập tỉnh, Đảng bộ Yên Bái đƣợc tái lập và đi vào hoạt động.
Ngày 15 – 17/01/1992, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII đã
đƣợc tổ chức tại thị xã Yên Bái. Quán triệt quan điểm, đƣờng lối của Đại hội
12


Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đại hội Đảng bộ tỉnh đã xác định nhiệm vụ tổng
quát trong 5 năm là: “Giữ vững ổn định chính trị, ổn định và phát triển kinh tế
- xã hội, từng bƣớc cải thiện đời sống nhân dân, đẩy lùi tiêu cực và bảo đảm
công bằng xã hội. Phấn đấu đến năm 1995 tăng thu nhập lên 50%, đến năm
2000 lên 150% để cải thiện rõ rệt đời sống vật chất, văn hóa, mở mang dân trí
và bảo vệ sức khỏe nhân dân, đƣa tỉnh Yên Bái từng bƣớc vƣợt qua khó
khăn”. [5, tr. 136]
Mục tiêu trong 5 năm tới là phát huy sức mạnh đoàn kết của nhân dân
các dân tộc trong tỉnh để khai thác các thế mạnh nông – lâm – công nghiệp,
chế biến, dịch vụ và xuất khẩu. Đẩy mạnh sản xuất lƣơng thực, thực phẩm tại
chỗ, coi trọng cả lúa và hoa màu nhất là ngô. Phát huy toàn diện thế mạnh
chăn nuôi, đƣa chăn nuôi trở thành ngành kinh tế quan trọng theo hƣớng đi
lên sản xuất hàng hóa. Từng bƣớc phủ xanh đất trống đồi núi trọc. Phấn đấu
đến năm 1995 đƣa tổng sản lƣợng lƣơng thực lên 160.000 tấn, thực hiện công
tác định canh, định cƣ ổn định đời sống nhân dân.
Để những quyết định của đại hội đƣợc phù hợp với điều kiện từng cấp,
từng ngành và nhanh chóng đi vào thực tiễn, Đảng bộ Yên Bái đã chỉ đạo
thực hiện nghị quyết đại hội, xây dựng chƣơng trình hành động nhằm đảm
bảo tính toàn diện, đồng thời tập trung giải quyết những vấn đề then chốt thúc

đẩy quá trình phát triển kinh tế của tỉnh. Tháng 3/1993, Ban chấp hành Đảng
bộ ra Nghị quyết 03: “Về tiếp tục đổi mới và phát triển nông – lâm nghiệp
toàn diện, xây dựng nông thôn mới đến năm 2000”. Đây là nghị quyết đi
trƣớc một bƣớc và phù hợp với Nghị quyết Trung ƣơng 5 (khóa VII) về tiếp
tục đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội nông thôn, là cơ sở để Tỉnh ủy Yên
Bái chỉ đạo xây dựng 6 chƣơng trình kinh tế - xã hội trình Chính phủ phê
duyệt:
1. Chƣơng trình phủ xanh 374.000 ha đất trống, đồi núi trọc. Mục tiêu
đến năm 2000 đƣa tỷ lệ rừng che phủ lên đến 45% diện tích đất tự nhiên của
13


tỉnh. Thực hiện chƣơng trình này nhằm góp phần giải quyết việc làm và cải
thiện đời sống cho 46 vạn dân, trong đó có 16 vạn dân ở vùng cao.
2. Chƣơng trình khai thác tổng hợp 2 vạn ha đất đảo hồ Thác Bà. Tổ
chức đƣa 4.000 hộ dân ra các đảo lập nghiệp trồng rừng, trồng các cây công
nghiệp, nuôi cá lồng nhằm biến hồ Thác Bà thành trung tâm kinh tế, du lịch
quan trọng.
3. Chƣơng trình định canh, định cƣ, tập trung giải quyết dứt điểm 15 xã
còn lại, củng cố 4 xã đã định canh nhƣng còn du cƣ, ổn định đời sống đồng
bào các dân tộc vùng cao. Gắn chƣơng trình này với việc củng cố hệ thống
chính trị, xóa mù chữ, nâng cao dân trí, giải quyết các vấn đề xã hội, xây dựng
hạ tầng kinh tế - xã hội vùng cao.
4. Chƣơng trình giải quyết nƣớc cho sản xuất và cho sinh hoạt. Đầu tƣ
sửa chữa 390/710 công trình thủy lợi đã có, xây dựng một số công trình thủy
lợi mới, xây dựng nhà máy nƣớc, lấy nƣớc từ hồ Thác Bà cung cấp nƣớc sinh
hoạt cho thị trấn Yên Bình và thị xã Yên Bái.
5. Chƣơng trình phát triển công nghiệp chế biến nông – lâm – khoáng
sản. Đầu tƣ tăng công suất chế biến chè từ 100 tấn/ngày lên 200 tấn/ngày; đổi
mới công nghệ sản xuất sứ, xi măng, vật liệu xây dựng, phát triển ngành công

nghiệp chế biến hoa quả.
6. Chƣơng trình phát triển giao thông, bƣu điện, cung cấp điện. Nâng cấp
đƣờng quốc lộ 70, 37 và 32; Cổ Phúc đi Văn Yên; làm mới và sửa chữa
2.200km đƣờng nông thôn, mở đƣờng ô tô đến 18/38 xã còn lại; nối liền
mạng lƣới thông tin lên 2 huyện Trạm Tấu, Mù Cang Chải; đƣa điện quốc gia
lên Trạm Tấu nghiên cứu xây dựng thủy điện Nậm Kim để cung cấp điện cho
Mù Cang Chải. [5, tr. 138]
Nội dung của chƣơng trình kinh tế - xã hội đã cụ thể hóa chủ trƣơng của
Đảng bộ Yên Bái trong phát triển kinh tế nông – lâm nghiệp nhằm đẩy mạnh
các thành phần kinh tế trong nông nghiệp đồng thời tiến hành giao quyền sử
14


dụng đất lâu dài cho hộ nông dân, thực hiện chính sách nông – lâm nghiệp
nông thôn, xây dựng nông thôn mới, nâng cao sự lãnh đạo của đảng, vai trò
quản lý của chính quyền cơ sở và đoàn thể nông thôn.
Thực hiện chƣơng trình kinh tế - xã hội, Đảng bộ tập trung chỉ đạo đổi
mới cơ chế quản lý, đổi mới cơ chế kinh tế, cơ cấu đầu tƣ, mạnh dạn đƣa khoa
học công nghệ ứng dụng vào sản xuất. Trong nông – lâm nghiệp, từng bƣớc
thực hiện giao quyền sử dụng đất đai lâu dài và ổn định cho nông dân; chuyển
các hợp tác xã sang làm dịch vụ kỹ thuật, phân bón, đầu vào và đầu ra cho sản
xuất. Đến cuối năm 1993, 40% trong tổng số 316 hợp tác xã trong toàn tỉnh
đƣợc chuyển sang cơ chế mới. Các doanh nghiệp trong nông – lâm nghiệp
từng bƣớc đổi mới cơ chế quản lý, một phần đất đai đƣợc giao lại cho xã và
cho hộ nông dân, số còn lại khoán cho công nhân. Các doanh nghiệp công
nghiệp, xây dựng thƣơng mại chuyển sang khoán thầu đem lại hiệu quả rõ rệt.
Đảng bộ xác định phát triển ngành nông – lâm nghiệp toàn diện theo hƣớng
sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, trong đó sản xuất lƣơng thực là quan
trọng, trồng mới, bảo vệ, phát triển cây công nghiệp, cây ăn quả hƣớng phát
triển lâu dài, tập trung đầu tƣ vào quảng canh thay cho thâm canh.

Từ 1992 – 1993, nhà nƣớc đầu tƣ gần 10 tỷ đồng sửa chữa và làm mới
270 công trình thủy lợi. Toàn tỉnh đã cấp lúa giống cho trên 70% diện tích
gieo cấy. Nhiều giống mới có năng suất cao, kháng bệnh tốt đƣợc đƣa vào sản
xuất. Năng suất lúa năm 1991 đạt 5 tấn/ha đến năm 1993 đạt 7 tấn/ha; sản
lƣợng lƣơng thực từ 136.000 tấn tăng lên 165.512 tấn, lƣơng thực bình quân
đầu ngƣời từ 224 kg/năm tăng 258kg/năm [5, tr. 140]
Chăn nuôi phát triển theo hƣớng sản xuất hàng hóa. Ở vùng thấp, đàn lợn
lai chiếm 70% tổng đàn, còn ở thị xã và thị trấn tỷ lệ là 100%. Năm 1993,
tổng đàn lợn có 195.000 con, đàn trâu, bò có 91.000 con, sản lƣợng thịt hàng
hóa đạt gần 5.000 tấn, cung cấp cho miền xuôi gần 1.000 con trâu, bò cày
kéo. [5, tr. 140]
15


Trong cây công nghiệp, chè đƣợc đặc biệt quan tâm. Tỉnh ủy đã tập trung
đầu tƣ thâm canh 5000 ha chè, đồng thời đẩy mạnh trồng mới một số giống
chè nhập ngoại đáp ứng đƣợc yêu cầu của thị trƣờng. Cây quế là cây đặc sản
đƣợc mở rộng trồng với diện tích gần 6.500ha. Từ 1991 – 1993 đã giao trên
147.000 ha đất và rừng cho dân khoanh nuôi, bảo vệ và trồng đƣợc 22.600 ha
rừng tập trung [5, tr. 140]
Công nghiệp, thủ công nghiệp đƣợc điều chỉnh hƣớng vào các ngành chế
biến nông – lâm – khoáng sản. Trong hai năm (1992 – 1993), tỉnh đầu tƣ hơn
10 tỷ đồng vào đổi mới thiết bị chế biến chè, sản xuất đũa gỗ và chế biến gỗ.
Nhịp độ phát triển bình quân của công nghiệp địa phƣơng đạt 13%/năm, năm
1993 giá trị sản lƣợng đạt 22.5 tỷ đồng tăng hơn 6 tỷ so với năm 1991. Xây
dựng cơ bản phát triển mạnh. Các công trình cầu Yên Bái, Tô Mậu, đƣờng
Yên Bình…đƣợc xây dựng và đƣa vào sử dụng góp phần rất lớn đối với kinh
tế - xã hội của tỉnh [5, tr. 140]
Trong hai năm (1992 - 1993), Nhà nƣớc đầu tƣ 20 tỷ đồng phát triển kinh
tế - xã hội vùng cao, tạo điều kiện để cơ cấu kinh tế vùng cao có bƣớc chuyển

dịch từ sản xuất lƣơng thực, phá rừng làm nƣơng rẫy, chăn nuôi, trồng cây
thuốc phiện từng bƣớc chuyển sang khoanh nuôi, bảo vệ rừng, trồng cây ăn
quả, thâm canh hơn 4.000ha ruộng bậc thang, 11.000 ha nƣơng rẫy kết hợp
trồng cây chăn nuôi [5, tr. 141]
Trên tinh thần nội dung của Hội nghị Đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ
khóa VII của Đảng (01/1994) với quan điểm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nƣớc trong thời kì đổi mới, nhằm phát huy hiệu quả mục tiêu kinh tế - xã
hội trong những năm đầu tái lập tỉnh, Hội nghị đại biểu Đảng bộ Yên Bái giữa
nhiệm kỳ khóa 13 đƣợc diễn ra (24 – 31/0 3/1994). Hội nghị đã đánh giá việc
thực hiện các nghị quyết của Đảng đặc biệt là thực hiện những mục tiêu mà
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng bộ Yên Bái đề ra. Trên cơ sở đó, Hội nghị
đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế: thúc đẩy nhanh chóng sự chuyển dịch
16


cơ cấu kinh tế nông – lâm – ngƣ nghiệp sang công nghiệp chế biến, dịch vụ
và xuất khẩu; tập trung vào 6 chƣơng trình kinh tế - xã hội đã đƣợc chính phủ
phê duyệt, đẩy tới 1 bƣớc công nghiệp hóa, hiện đại hóa; đạt mức tăng trƣởng
kinh tế 10%/năm trở lên. Về nông – lâm nghiệp: hƣớng chỉ đạo đầu tƣ theo
chiều sâu để chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành, trợ giá cho việc áp dụng
giống lúa mới, giống ngô mới và vận chuyển phân bón. Hoàn thành việc giao
quyền sử dụng đất cho các hộ gia đình. Tỉnh vận động đồng bào vùng cao
trồng vụ đông xuân, đẩy mạnh trồng chè, quế, nhất là cây chè đặc sản, trồng
cà phê Catimor. Tăng cƣờng chỉ đạo thực hiện 35 dự án của chƣơng trình 327.
Hội nghị giữa nhiệm kỳ của Đảng bộ Yên Bái là một mốc đánh dấu sự
đổi mới mạnh mẽ phƣơng thức lãnh đạo của Tỉnh ủy, phù hợp với hoàn cảnh,
yêu cầu thực tế của địa phƣơng. Nội dung quan trọng của hội nghị là sự vận
dụng đúng đắn đƣờng lối, chủ trƣơng của Đảng đặc biệt là Nghị quyết đại
biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng, thúc đẩy sự phát triển kinh
tế nông nghiệp tạo nền tảng cho giai đoạn sau.

Nhờ vận dụng đƣờng lối quan điểm của Đảng trên cơ sở tổng kết thực
tiễn địa phƣơng, từ năm 1991 đến 1995, Đảng bộ Yên Bái cơ bản hoàn thành
các chủ trƣơng, giải pháp lớn, đẩy mạnh công cuộc đổi mới trên tất cả các
lĩnh vực, chính trị, kinh tế - xã hội, chuẩn bị một bƣớc về chính trị, tƣ tƣởng
cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Qua năm năm (1991 - 1995), sản xuất nông – lâm nghiệp đã có sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tích cực, tiến bộ, từng bƣớc khắc phục
kinh tế thuần nông và chuyển dần sang sản xuất hàng hóa gắn với thị trƣờng,
kinh doanh tổng hợp, sản xuất nông – lâm nghiệp gắn với công nghiệp chế
biến. Tốc độ tăng trƣởng bình quân đạt 7.5%/năm trong đó nông – lâm nghiệp
tăng 5.6%/năm; dịch vụ thƣơng mại tăng 10.6%/năm. Cơ cấu kinh tế đạt một
bƣớc chuyển dịch quan trọng. Năm 1991, giá trị nông - lâm nghiệp chiếm

17


68.8% GDP, công nghiệp và dịch vụ chiếm 31.2% đến năm 1995, nông – lâm
nghiệp là 55.5%, công nghiệp và dịch vụ tăng lên 44.5% [5, tr. 152]
Về sản xuất lƣơng thực mỗi năm tỉnh đã đầu tƣ gần một tỷ đồng trợ giá
giống lúa, ngô, cƣớc vận chuyển phân bón, khuyến nông và chuyển giao kỹ
thuật cho nông dân…tổng sản lƣợng lƣơng thực quy thóc vƣợt 6,9% mục tiêu.
Đại hội XIII đề ra (tăng thêm 3,5 vạn tấn lƣơng thực. Riêng năm 1995 năng
suất lúa đạt 74,4 tạ/ha, sản lƣợng lƣơng thực trên 171.000 tấn) bình quân
lƣơng thực đạt 255kg/ngƣời/năm tăng 3%.. Năm 1991, năng suất lúa chỉ đạt 5
tấn/ha (huyện Văn Yên đạt 7 tấn/ha) thì năm 1994 tăng lên 7.2 tấn/ha, 6
huyện thị đạt trên 7 tấn (Văn Yên đạt 8.7 tấn/ha) [5, tr.142]
Về cây công nghiệp: Cây chè mở rộng thêm diện tích và đẩy mạnh thâm
canh, đã hình thành vùng chè 7.300 ha, diện tích chè trồng mới tăng thêm
1.000 ha, mỗi năm chế biến hơn 4.500 tấn chè thƣơng phẩm, cây chè đặc sản
vùng cao đƣợc chú ý đầu tƣ phát triển với gần 800 ha, góp phần ổn định đời

sống đồng bào vùng cao. Cây quế đang phát triển mạnh ở tất cả các huyện
trong tỉnh, đến nay diện tích đã có 1,1 vạn ha tăng gấp gần 2 lần; cây cà phê
Catimor mới đƣợc xác định và đã trồng đƣợc 460ha; cây mía phát triển và
hình thành vùng tập trung phía Bắc huyện Văn Yên với hơn 800ha. [5, tr.
143]
Đảng bộ Yên Bái tập trung chỉ đạo phát triển vùng cây ăn quả, tập trung
theo hƣớng sản xuất hàng hóa phù hợp với sinh thái từng vùng với cây trồng
phù hợp trên cơ sở cải tạo vƣờn tạp và trồng mới đã đƣa diện tích cây ăn quả
toàn tỉnh lên 3.500 ha, sản lƣợng quả tăng gần 1.000 tấn. Cây ăn quả: cam,
bƣởi, nhãn, chuối, hồng, na đạt diện tích 3.500 ha, mỗi năm cho sản lƣợng
1000 tấn quả.
Chăn nuôi có bƣớc tiến bộ. Đàn gia súc tăng 3,8%. Năm 1995, bình quân
mỗi hộ nông dân có 1.15 con trâu, bò; 2.5 con lợn, sản lƣợng thịt hàng hóa

18


tăng 5,85% đạt 6.000 tấn. Phong trào chăn nuôi cá và các con đặc sản phát
triển ở nhiều nơi. [5, tr. 153]
Về lâm nghiệp, những năm qua đã chuyển hƣớng mạnh lấy khoanh nuôi,
tái sinh bảo vệ rừng là chính kết hợp trồng mới, tăng nhanh vốn rừng. Thực
hiện giao đất, giao rừng cho hộ quản lý, bảo vệ chăm sóc và trồng mới gắn
với đầu tƣ vốn theo các chƣơng trình dự án và công tác khuyến lâm…Trong
năm năm (1991 - 1995) diện tích rừng trồng mới đạt 39.051 ha tăng mỗi năm
gần 8.000ha. Đƣa diện tích rừng trồng lên 47.000 ha, diện tích rừng tự nhiên
đƣợc giao để bảo vệ 123.138 ha, diện tích khoanh nuôi rừng tái sinh, phục hồi
39.100ha. Đƣa tổng diện tích rừng hiện có lên 21 vạn ha, tốc độ tăng trƣởng
diện tích rừng hàng năm tăng 9,4%, đƣa tỷ lệ che phủ của rừng hàng năm từ
17% năm 1990 lên 30,5% năm 1995 [5, tr. 153]. Công tác quản lý, khai thác
lâm sản đƣợc chỉ đạo chặt chẽ. Khai thác rừng đồng thời gắn với công nghiệp

chế biến nâng cao chất lƣợng và giá trị sản phẩm, vì vậy hạn chế đƣợc việc
bán nguyên liệu thô ra ngoài tỉnh.
Đồng thời với đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, phát
triển công nghiệp chế biến dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế cũng thu hút
nhiều lao động, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng bình quân 24,5%, giá trị sản lƣợng năm
1994 đạt 105 tỷ đồng, trong đó công nghiệp địa phƣơng chiếm 35,6%, tăng
bình quân 21,1%/năm. Xuất khẩu tăng bình quân 12,8%, năm 1994 đạt 7,3
triệu USD, bình quân đầu ngƣời đạt 12USD. Hoàn thành và đƣa vào sử dụng
một loạt công trình có ý nghĩa quan trọng trong việc phát triển kinh tế, xã hội
ở địa phƣơng nhƣ cầu Yên Bái, cây cầu lớn đầu tiên Yên Bái bắc qua sông
Hồng, cầu Tô Mậu, cầu Ngòi Lâu. 8/9 huyện, thị trong tỉnh đã có điện lƣới
quốc gia. Đó là những nỗ lực vƣợt bậc của các cấp, các ngành, các địa
phƣơng trong tỉnh. [5, tr. 153]

19


Đảng bộ Yên Bái thực hiện một số chính sách xã hội và thu đƣợc những
kết quả to lớn. Thu nhập bình quân đầu ngƣời đạt gần 170 USD/năm, 14% số
hộ giàu, số hộ nghèo đói từ 30% năm 1991 giảm xuống còn 18%...Đã có 57%
số hộ dùng điện thắp sáng trong đó có 15.000 hộ dung điện thủy lợi nhỏ và
cực nhỏ, 133 (74,2%) xã có đƣờng ô tô đến trung tâm xã. [5, tr. 154]
Nền kinh tế nhiều thành phần đƣợc khuyến khích tạo đà phát triển mạnh.
Đến cuối năm 1995, toàn tỉnh có 22 doanh nghiệp tƣ nhân, 6 công ty trách
nhiệm hữu hạn, 7.300 hộ gia đình sản xuất tiểu thủ công nghiệp, 5.900 hộ gia
đình kinh doanh dịch vụ thƣơng mại; 3.250 hộ làm kinh tế trang trại có từ 3ha
đến 300ha đất. [5, tr. 154]
Kinh tế vùng cao có bƣớc chuyển biến tích cực. Đảng bộ đã tập trung
lãnh đạo, chỉ đạo có kết quả bƣớc đầu trong việc chuyển dịch cơ cấu cây

trồng. Trƣớc hết là tập trung vào việc xóa bỏ trên 1.500ha cây thuốc phiện và
đầu tƣ có trọng điểm nhằm từng bƣớc đƣa kinh tế vùng cao thoát khỏi tình
trạng tự nhiên, tự túc tự cấp. Thông qua chƣơng trình, dự án nhà nƣớc đã đầu
tƣ gần 60 tỷ đồng và hàng chục tỷ đồng từ công sức của đồng bào cho xây
dựng và phát triển kinh tế - xã hội vùng cao. Tập trung vào sản xuất nông
nghiệp, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nhƣ: Hỗ trợ việc đƣa các
giống cây trồng, vật nuôi có năng suất cao vào sản xuất, bƣớc đầu tăng thêm
vụ sản xuất, tăng năng suất và sản lƣợng cây lƣơng thực, khai hoang mở rộng
diện tích cấy lúa nƣớc và nƣơng bậc thang đƣợc 273 ha, trồng mới gần 100 ha
chè, 6 vạn cây ăn quả, 2 vạn cây dƣợc liệu. Giao đất giao rừng để bảo vệ
khoanh nuôi, tái sinh 59.515 ha; trồng mới 415 ha rừng phòng hộ, 1.603 ha
quế. Sửa chữa nâng cấp 750 công trình thủy lợi, đảm bảo tƣới cho 76% diện
tích lúa nƣớc, đầu tƣ xây dựng 35 công trình thủy lợi vừa và nhỏ. [25, tr. 15]
Nhƣ vậy từ 1991 – 1995, dƣới sự lãnh đạo của đảng bộ Yên Bái, công
cuộc đổi mới diễn ra và đạt đƣợc nhiều thành tựu quan trọng. Nền kinh tế theo
định hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa về cơ bản hình thành và trở thành
20


nền tảng cho sự phát triển kinh tế nông nghiệp đa dạng công nghiệp hóa, hiện
đại hóa. Cơ chế quản lý mới đƣợc xác lập và dần đi vào hoàn chỉnh, các mô
hình sản xuất kinh doanh năng động, có hiệu quả xuất hiện cả trong nông –
lâm – công nghiệp – thƣơng nghiệp, thủy sản và các thành phần kinh tế. Nhịp
độ tăng trƣởng kinh tế cao và ổn định; đời sống nhân dân nâng cao về vật chất
và tinh thần.
1.2. Sự chuyển biến của kinh tế nông nghiệp Yên Bái (1996 - 2000)
1.2.1. Đường lối đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa của Đảng
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII và cƣơng lĩnh xây dựng đất nƣớc của
Đảng đã đặt cơ sở cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn khi xác định phát triển nông – lâm – ngƣ nghiệp gắn với công nghiệp chế

biến và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định
tình hình kinh tế - xã hội. Những thành tựu trong lĩnh vực kinh tế đã khẳng
định sự đúng đắn về đƣờng lối đồng thời là điều kiện để Đảng ta tiếp tục cụ
thể hóa đƣờng lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc trên từng lĩnh vực.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII (1996) tiếp tục hoàn chỉnh đƣờng lối đổi
mới đã quyết định chọn công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn làm bƣớc đi đầu tiên để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nƣớc. Đại hội đã xác định nội dung cơ bản của công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nƣớc trong những năm còn lại của thập kỷ 90 trong đó đặc biệt coi trọng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với các nội dung chủ
yếu:
- Phát triển toàn diện nông, lâm, ngƣ nghiệp, hình thành các vùng tập
trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng vật nuôi, có sản phẩm hàng
hóa nhiều về số lƣợng, tốt về chất lƣợng, đảm bảo an toàn lƣơng thực trong xã
hội, đáp ứng đƣợc yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trƣờng trong
và ngoài nƣớc.
- Thực hiện thủy lợi hóa, điện khí hóa, cơ giới hóa và sinh học hóa.
21


- Phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản với công nghệ
ngày càng cao, gắn với nguồn nguyên liệu và liên kết với công nghiệp ở đô
thị.
- Phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề
mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, hàng
xuất khẩu, công nghiệp khai thác và chế biến các nguồn nguyên liệu phi nông
nghiệp, các loại hình dịch vụ phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
- Xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế và xã hội, từng bƣớc hình thành nông
thôn mới văn minh, hiện đại.
- Hoàn thành việc cơ bản giao đất, khoán rừng cho hộ nông dân. Điều

chỉnh việc phân bổ vốn và huy động thêm nhiều nguồn vốn cho phát triển
nông, lâm, ngƣ nghiệp và kinh tế nông thôn. Có chính sách khuyến khích và
trợ giúp nông dân trong xây dựng kết cấu hạ tầng, chuyển giao công nghệ,
giải quyết khó khăn về vốn, về giá cả vật tƣ nông nghiệp và hàng nông sản, về
thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp.
Đại hội VIII nêu ra những nội dung khái quát của công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp và nông thôn, đặt trong mối quan hệ với các nội dung cơ
bản của đƣờng lối công nghiệp hóa đất nƣớc. Đƣờng lối đó đã phát huy nội
lực nền kinh tế và quyết định mục tiêu, những bƣớc đi phù hợp ngay từ đầu
của nền kinh tế.
Trƣớc những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn trong quá trình thực hiện
đƣờng lối công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Hội nghị
Trung ƣơng 4 (12/1997) đã tập trung bàn sâu về kinh tế – xã hội. Hội nghị đã
nhận định về việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và
nông thôn: “đã làm đƣợc một bƣớc nhƣng còn lúng túng, khó khăn, rất chậm
chạp”. Từ sự phân tích tình hình thực tế đất nƣớc, xác định những nguyên
nhân hạn chế trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, Hội
nghị đã đề ra phƣơng hƣớng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hƣớng
22


đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và dân chủ hóa với nội dung chủ yếu
trƣớc tiên là: đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế gắn với phân
công lao động ở nông thôn; thực hiện tốt các chủ trƣơng phát triển nông, lâm,
ngƣ nghiệp đã đƣợc xác định trƣớc đó. Đẩy nhanh chƣơng trình thủy lợi hóa,
thoát lũ, củng cố hệ thống đê điều trong cả nƣớc. Đẩy mạnh công nghệ sinh
học. Triển khai dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, phủ xanh 40% diện tích đất
cả nƣớc. Triệt để giao đất, rừng, ổn định đời sống đồng bào định canh, định
cƣ, di dân. Tổ chức lại công nghiệp chế biến thủy hải sản.
Cuối năm 1998, đƣờng lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,

nông thôn đi vào thực hiện đƣợc hai năm. Để có hệ thống chính sách, luật
pháp hoàn chỉnh và xây dựng thành chƣơng trình thực hiện đồng bộ, Bộ chính
trị ra Nghị quyết riêng về vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn. Nghị
quyết 06 của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng (khóa VIII) ngày 10/11/1998
là bƣớc phát triển cao hơn, đầy đủ hơn về nội dung đƣờng lối, chủ trƣơng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, nông thôn.
Nghị quyết đã đƣa ra 4 quan điểm và 6 mục tiêu về nông nghiệp, nông
thôn trong đó nhấn mạnh: phải coi trọng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong
phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn. Đƣa nông nghiệp và kinh tế
nông thôn lên sản xuất lớn là nhiệm vụ quan trọng trƣớc mắt và lâu dài. Đẩy
mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế gồm phát triển nông nghiệp với công nghiệp
chế biến, ngành nghề hình thành sự liên kết nông – công nghiệp – công
nghiệp – dịch vụ và thị trƣờng trên địa bàn nông thôn. Phát huy lợi thế từng
vùng và cả nƣớc, áp dụng nhanh tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển
nông nghiệp hàng hóa đa dạng. Phát triển nền nông nghiệp với nhiều thành
phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo cùng với kinh tế
hợp tác xã dần dần trở thành nền tảng hợp tác và hƣớng dẫn kinh tế tƣ nhân
phát triển theo đúng luật, tạo điều kiện khuyến khích mạnh hộ nông dân đầu

23


tƣ phát triển sản xuất, kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp dịch vụ nông
thôn.
Quá trình thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị, của Trung ƣơng Đảng
về công nghiệp hóa, hiện đại hóa hóa nông nghiệp, nông thôn diễn ra khẩn
trƣơng ở nhiều địa phƣơng trong cả nƣớc và đã thu đƣợc những kết quả quan
trọng bƣớc đầu về phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn theo hƣớng
hiện đại, văn minh. Sự phát triển kinh tế, xã hội nhất là nông nghiệp, xây
dựng nông thôn năm 1999 và 2000 đã chứng minh đƣờng lối đúng đắn của

Đảng, đó là một bƣớc chuyển quan trọng lớn lao trong thời kỳ đổi mới xây
dựng đất nƣớc.
1.2.2. Quá trình lãnh đạo thực hiện phát triển kinh tế nông nghiệp của
Đảng bộ Yên Bái
Thực hiện chỉ thị số 51 ngày 09/03/1995 của Ban Bí thƣ Trung ƣơng
Đảng về chỉ đạo đại hội các cấp, tiếp thu và vận dụng quan điểm chiến lƣợc
của Đảng trong các văn kiện đại hội Đảng lần thứ VIII vào điều kiện cụ thể
của địa phƣơng, Đảng bộ Yên Bái đã gấp rút hoàn thành về nội dung và tổ
chức cho Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIV.
Trƣớc tình hình thực tế trong tỉnh, nắm vững đƣờng lối, sự chỉ đạo của
Đảng đề ra tại đại hội VIII, Đại hội đại biểu Đảng bộ Yên Bái lần thứ XIV
diễn ra từ ngày 02 – 04/05/1996 với tƣ tƣởng chỉ đạo: Trí tuệ - đổi mới – dân
chủ - kỷ cƣơng – hành động. Đại hội Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XIV xác
định mục tiêu tổng quát nhiệm kỳ 1996 – 2000: khai thác mọi tiềm năng thế
mạnh và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên trong, tranh thủ khai thác
nguồn lực từ bên ngoài để phát triển đạt tốc độ tăng trƣởng cao; kết hợp hài
hòa giữa mục tiêu tăng trƣởng kinh tế với các mục tiêu tiến bộ xã hội; bảo vệ
sự bền vững của môi trƣờng sinh thái, giữ vững sự ổn định chính trị, quốc
phòng và an ninh, xây dựng Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị cơ sở vững
mạnh. Tăng tích lũy từ nội bộ nền kinh tế để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
24


đại hóa. Phấn đấu đến năm 2000 đƣa tỉnh Yên Bái ra khỏi đói nghèo, trở
thành một tỉnh phát triển của khu vực miền núi. Phấn đấu tăng gấp 2,5 lần
GDP bình quân đầu ngƣời vào năm 2000, đạt nhịp độ tăng trƣởng bình quân
hàng năm của thời kỳ 1996 – 2000 là 11%; thời kỳ 2000 – 2010 là 12,5% và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế năm 2000: nông – lâm nghiệp 33%; công nghiệp –
dịch vụ: 67%. Đến năm 2010, tỷ trọng nông – lâm nghiệp 20%; công nghiệp –
dịch vụ: 80%; xóa nạn đói giáp hạt, rút ngắn khoảng cách giàu nghèo. [25, tr.

50 - 51]
Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và Đại hội đại biểu
Đảng bộ Yên Bái XIV, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh xây dựng 5 nhiệm vụ,
mục tiêu trong đó nhấn mạnh kinh tế nông nghiệp:
Tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông – lâm – công nghiệp chế
biến, dịch vụ và xuất khẩu theo hƣớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa: phát
triển một nền sản xuất nông – lâm nghiệp toàn diện theo hƣớng sản xuất hàng
hóa nhiều thành phần, tạo ra nhiều vùng sản xuất luân canh, thâm canh và
kinh doanh tổng hợp; chú trọng sản xuất lƣơng thực, bố trí hợp lí cơ cấu mùa
vụ đƣa 35 – 40% diện tích ruộng một vụ lên 2 vụ, phát triển mạnh cây màu
lƣơng thực, đƣa tổng sản lƣợng lƣơng thực lên 190.000 – 195.000 tấn đạt mức
bình quân 270 – 280 kg/ngƣời; tập trung thâm canh có hiệu quả cây công
nghiệp và cây ăn quả, đƣa diện tích chè lên 1 vạn ha và cà phê lên 5000 ha
vào năm 2000. Quy hoạch vùng và xác định tập đoàn cây ăn quả phù hợp với
khí hậu thổ nhƣỡng của từng vùng, tập trung cải tạo cơ bản diện tích vƣờn tạp
thành vƣờn hàng hóa. Hình thành một số vùng sản xuất tập trung đối với một
số loại cây ăn quả có giá trị kinh tế cao: nhãn, vải, cam…đến đầu năm 2000
có từ 5000 – 6000 ha và đạt 6000 – 7000 tấn quả. Phấn đấu đƣa tỷ trọng cây
công nghiệp, cây ăn quả trong ngành trồng trọt từ 10,4% lên 20% năm 2000.
[25, tr. 55]

25


×