Tải bản đầy đủ (.doc) (71 trang)

Thực trạng và giải pháp cung cấp nước sạch đối với các điểm dân cư nông thôn trên địa bàn huyện tứ kỳ tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.2 KB, 71 trang )

Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết nghiên cứu đề tài
Trong một báo cáo mang tên “Đánh giá tình hình thực hiện chỉ tiêu nước
uống và vệ sinh” do Quỹ nhi đồng thế giới (Unicef) và Tổ chức Y tế thế giới
(WHO) thực hiện đã lên tiếng cảnh báo rằng thế giới đang phải đối mặt với tình
trạng thiếu nước sạch và điều kiện vệ sinh kém. Hiện nay, có đến 2,6 tỷ người trên
trái đất (tức 40% dân số thế giới) thiếu những điều kiện vệ sinh cơ bản, và hơn 1 tỷ
người đang sử dụng nguồn nước không an toàn cho sức khỏe. Ông David Agnew,
Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc Unicef Canada phát biểu: “Báo cáo này đã gióng lên
hồi chuông cảnh tỉnh đối với cộng đồng thế giới. Chúng ta mất đi 4.000 trẻ em mỗi
ngày – đó là một thực trạng đau lòng và bức xúc hiện nay”. Mặc dù, tỷ lệ dân số
thế giới có nguồn nước an toàn hơn để sử dụng đã tăng lên 83 % so với 77 % vào
năm 1990, nhưng do tốc độ gia tăng dân số lại cao hơn tốc độ phát triển nguồn
nước sạch, nên tình trạng khan hiếm nước sạch sẽ trở nên căng thẳng và phổ biến ở
nhiều vùng, quốc gia trên thế giới, nhất là với người dân đang sinh sống tại các
nước đang và kém phát triển.
Một nghiên cứu khác của Liên Hợp Quốc trong năm 2002 nói rằng đến năm
2025, trên toàn thế giới cứ 3 người thì có một người bị đe dọa vì thiếu nước ngọt.
Diễn đàn Thế giới lần thứ 5 của Liên Hợp Quốc (17/3/2009) tại Thổ Nhĩ Kỳ một
lần nữa nhấn mạnh tính cấp thiết cần phải bảo vệ nguồn tài nguyên nước quý giá
này. Theo đó nước sẽ trở thành tài nguyên quan trọng như dầu mỏ để làm đầu mối
cho các cuộc tranh chấp quan trọng trên thế giới, sự khan hiếm, sự cạnh tranh ngày
càng tăng và những tranh luận về nước trong thế kỷ 21 có thể thay đổi rất nhiều
cách chúng ta đánh giá và sử dụng nguồn nước.
Theo Đánh giá Tổng quan về Ngành nước do Chính phủ và các nhà tài trợ
phối hợp thực hiện gần đây cho thấy, nước có thể là yếu tố chính cản trở sự phát
triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Nhu cầu sử dụng nước của Việt Nam tăng


mạnh từ 79,61 tỷ m3/năm vào năm 2000 có thể lên đến vài trăm tỷ m 3/năm vào
những thập niên đầu thế kỷ 21. Theo ý kiến của các chuyên gia ngành nước, ở
nước ta sự thiếu hụt nguồn nước mặt sẽ trầm trọng vào năm 2010, nhiều tỉnh ở ven
biển Trung Bộ và Tây Nguyên, tổng lượng nước cần dùng sẽ vượt tổng nguồn
nước từ 1,3-3,6 lần. Trong suốt mùa khô cạn, nhiều con sông lớn đang phải đối mặt
với nguy cơ cao về thiếu nước bất thường hoặc cục bộ và chắc chắn nguy cơ thiếu
nước này sẽ tiếp tục tăng lên trong tương lai.

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Hiện nay, dân số của Việt Nam sống ở khu vực nông thôn có 60.415.311
triệu người, chiếm 70,4% dân số cả nước [6]. Vấn đề nông nghiệp – nông thôn
không chỉ là vấn đề kinh tế mag còn là vấn đề chính trị trong mối quan hệ nông
nghiệp – công nghiệp, giữa nông dân với công nhân và tầng lớp trí thức; giữa nông
thôn và thành thị. Nó đòi hỏi Nhà nước phải quan tâm đúng mức đến phát triển
nông nghiệp – nông thôn. Trong đó nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn có
ý nghĩa hết sức quan trọng đối với sức khỏe và sự phát triển bền vững của nông
nghiệp – nông thôn – nông dân.
Nhận thức được tầm quan trọng của nước sạch đối với đời sống nhân dân và
phát triển kinh tế nông thôn, Chính phủ đã ban hành Chiến lược Quốc gia về Nước
sạch và vệ sinh nông thôn từ năm 2000-2010 được phê duyệt tại Quyết định số
104/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ. Với mục tiêu cụ thể là đến năm 2010 có
85% dân cư nông thôn dụng nước hợp vệ sinh với số lượng 60 lít/người/ngày và
đến năm 2020 hầu hết cư dân nông thôn sử dụng nước sạch đạt tiêu chuẩn chất
lượng quốc gia với số lượng 60 lít/người/ngày. Chiến lược là một định hướng quan

trọng cho công tác quản lý nhà nước đối với cấp nước sạch nông thôn, góp phần
đáng kể vào cải thiện đời sống người dân.
Tuy nhiên, trên thực tế kết quả đạt được của Ngành cấp nước sạch nông
thôn còn rất khiêm tốn, theo ông Nguyễn Tôn – Chủ tịch Hội cấp thoát nước Việt
Nam cho biết: ở khu vực nông thôn có 11,7% người dân sử dụng nước máy, 31%
hộ gia đình sử dụng giếng khoan, 31,2% số hộ gia đình sử dụng giếng khơi, số còn
lại chủ yếu sử dụng nước ao, hồ (11%), nước mưa và nước đầu nguồn sông suối.
Như vậy, để đảm bảo cho người dân được tiếp cận nguồn nước hợp vệ sinh với giá
thành hợp lý và chất lượng nước đạt tiêu chuẩn thì trách nhiệm từ phía các cơ quan
nhà nước là rất lớn. Việc đáp ứng nhu cầu nước sạch của người dân nông thôn cần
nhằm vào các mục tiêu như: đảm bảo sức khỏe cho nhân dân; nâng cao, cải thiện
cơ sở hạ tầng và điều kiện sống ở các vùng nông thôn; đảm bảo sử dụng tài nguyên
nước tiết kiệm và hiệu quả; nâng cao ý thức trách nhiệm của cộng đồng dân cư
nông thôn trong sử dụng nước sạch và bảo vệ môi trường.
Huyện Tứ Kỳ là một trong 12 huyện, thành phố của tỉnh Hải Dương có
nhiều tiềm năng thuận lợi cho việc đầu tư, xây dựng các mô hình cấp nước sạch
phục vụ cho nhu cầu sử dụng nước sạch của người dân trên địa bàn huyện. Để có
sự đánh giá đầy đủ về tình hình cung cấp và sử dụng nước sạch và hiệu lực, hiệu
quả của công tác quản lý nhà nước đối với cấp nước sạch của huyện Tứ Kỳ, qua
thực tế tìm hiểu em đã lựa chọn đề tài: “Thực trạng và giải pháp cung cấp nước
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

sạch đối với các điểm dân cư nông thôn trên địa bàn huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải
Dương”. Đề tài sẽ tập trung vào nghiên cứu những nội dung cơ bản về nước sạch,
cung cấp nước sạch và quản lý nhà nước về cấp nước sạch của huyện Tứ Kỳ.

2. Mục đích, nhiệm vụ của đề tài
2.1 Mục đích
- Nghiên cứu những lý luận chung về nước sạch
- Tìm hiểu tình hình sử dụng, cung cấp nước sạch cho các điểm dân cư nông
thôn trên địa bàn huyện Tứ Kỳ
- Đánh giá được hiệu quả quản lý nhà nước đối với cấp nước sạch của huyện Tứ Kỳ
- Tìm kiếm mô hình cấp nước hoạt động hiệu quả để thí điểm cho những
vùng có điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tương tự
- Đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà
nước về cung cấp nước sạch của huyện Tứ Kỳ.
2.2 Nhiệm vụ
- Tổng hợp những lý luận về nước sạch và sự cần thiết của quản lý nhà nước
đối với sử dụng, cung cấp nước sạch nông thôn.
- Thu thập số liệu và phân tích thực trạng cung cấp, sử dụng nước sạch của
các điểm dân cư nông thôn của huyện Tứ Kỳ
- Phân tích hoạt động quản lý chủ yếu của chính quyền địa phương đối với
cấp nước sạch huyện Tứ Kỳ
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng
- Đề tài sẽ tập trung vào 2 hoạt động chủ yếu đó là:
+ Cung cấp và sử dụng nước sạch của các điểm dân cư nông thôn.
+ Quản lý nhà nước về cấp nước sạch nông thôn
3.2 Phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về tình hình sử dụng, cung cấp nước sạch của các điểm
dân cư nông thôn trên địa bàn huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương.
4. Phương pháp nghiên cứu

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D



Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu: thu thập số liệu, phân
tích, tổng hợp, thống kê và phỏng vấn trực tiếp.
5. Bố cục của Khóa luận
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo vào phụ lục, khóa
luận được bố cục thành 3 chương:
Chương I. Lý luận chung về nước sạch và quản lý nhà nước đối với cấp
nước sạch nông thôn.
Chương II. Thực trạng sử dụng và cung cấp nước sạch cho các điểm dân cư
nông thôn trên địa bàn huyện Tứ Kỳ.
Chương III. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng và cung cấp
nước sạch nông thôn huyện Tứ Kỳ

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ NƯỚC SẠCH VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CẤP NƯỚC SẠCH NÔNG THÔN
1.1. Một số khái niệm liên quan
1.1.1. Sự phân phối nước trong tự nhiên
Thủy quyển là lớp vỏ lỏng không liên tục bao quanh trái đất gồm nước ngọt,
nước mặn ở cả trạng thái cứng, lỏng, hơi. Nước ở trạng thái lỏng là một dạng chất

liệu giúp cho mọi sự sống trên địa cầu. Tất cả các sinh vật đều được cấu tạo bởi
những tế bào chứa ít nhất 60% nước. Đối với hầu hết việc sử dụng nước của con
người cũng như sử dụng trong nông nghiệp và công nghiệp chất lượng nước cũng
quan trọng không kém gì số lượng nước.
Sự phân phối nước trong thiên nhiên được khái quát như sau: [2;3]
- Lượng nước trên trái đất tập trung chủ yếu ở đại dương, bao phủ khoảng
70% diện tích bề mặt của trái đất, gồm có Thái Bình Dương, Đại Tây Dương, Ấn
Độ Dương và Bắc Băng Dương. Trong các đại dương, người ta lại chia ra các vùng
biển có diện tích nhỏ hơn như biển Ban Tích, biển Bắc, biển Nam Trung Hoa..Tuy
nhiên một số biển không có liên hệ với đại dương như biển Caxpi, biển Aran…
được gọi là biển hồ. Một phần đại dương hoặc biển ăn sâu vào đất liền được gọi là
vịnh Thái Lan và vịnh Bắc Bộ. Các đại dương và biển cả chiếm trên 97% tổng
lượng nước trên trái đất. Tuy nhiên, con người không thể sử dụng nước mặn cho sinh
hoạt và trong các quy trình sản xuất nông nghiệp, công nghiệp được. Nước mặn có thể
gây ngộ độc muối cho cơ thể sinh vật và gây ăn mòn các thiết bị kim loại trong công
nghiệp.
- Lượng nước ngọt ở trong lòng đất và băng hà ở 2 cực là nước không chứa
thứ muối có trong nước biển, khá tinh khiết chiếm trên 2% tổng lượng nước trên trái
đất, tuy nhiên do ở xa nơi sinh sống của loài người, vị trí thiên nhiên khắc nghiệt nên
chi phí khai thác rất lớn. Nước ngọt không ô nhiễm thích hợp để con người dùng cho
sinh hoạt, ăn uống, những lộ trình di cư cùng các địa điểm lập nghiệp ngày xưa của
con người đều chịu ảnh hưởng bởi khả năng tìm được nguồn nước uống. Có một
thời các nguồn nước ngọt sạch đã được xem là không bao giờ cạn.
- Con người và các loài thực vật, động vật khác tập trung chủ yếu ở khu vực sông
ngòi nhưng lượng nước sông chỉ chiếm 0,02% tổng lượng nước, không đủ cho cả nhân

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính


Khóa luận tốt nghiệp

loại sử dụng trong sinh hoạt và sản xuất công – nông nghiệp. Ô nhiễm nguồn nước
thường là ô nhiễm nước sông.
- Lượng nước mưa phân phối trên trái đất không đồng đều, tùy theo vị trí
địa lý, biến động thời tiết có nơi mưa quá nhiều gây lũ lụt, có nơi thiếu nước, hạn
hán kéo dài. Chẳng hạn lượng mưa ở sa mạc dưới 100 mm/năm, trong khi nhiều
vùng nhiệt đới lượng mưa có thể đạt 5000 mm/năm.
Hiện nay, con người mới chỉ khai thác được 0,017% lượng nước có trên địa
cầu. Lịch sử thế giới cũng đã ghi nhận các cuộc xung đột giữa một số nước cũng
như vùng lãnh thổ vì muốn tranh giành nguồn nước. Chẳng hạn như: tranh chấp
nguồn nước sông Mê Kông giữa các quốc gia Lào, Việt Nam, Campuchia, Thái
Lan về lũ lụt và phân bổ quốc tế; tranh chấp nguồn nước sông Nile chủ yếu giữa
các quốc gia là Ai Cập, Ethiopia, Sudan về đất phù sa, đổi hướng dòng sông, lũ lụt,
nước tưới và phân bổ quốc tế…Mỗi ngày trên thế giới có hàng ngàn người chết vì
những nguyên nhân liên quan tới nước như đói, khát, dịch bệnh… Vì vậy, nước là
yếu tố thiết yếu đối với phát triển và xóa đói giảm nghèo. Khả năng tiếp cận với
nước sinh hoạt là nhu cầu căn bản của con người và là trọng tâm của các mục tiêu
phát triển thiên niên kỷ.
1.1.2. Khái niệm nước sạch
Trong tổng lượng nước ngọt có một phần nhỏ được dành cho mục đích sinh
hoạt và ăn uống của con người, và chúng ta vẫn gọi đó là nước sạch. Và ngày nay
trước nguy cơ ô nhiễm, cạn kiệt nguồn nước thì vấn đề nước sạch đã trở thành mối
bận tâm lớn của nhiều quốc gia trong đó có Việt Nam.
Các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học khi tìm hiểu về nước sạch dùng
cho sinh hoạt của con người đều thống nhất với cách hiểu đó là: “Nước sạch là nước phải
trong, không có màu, không có mùi vị, không chứa các mầm bệnh và các chất độc hại”. [2].
Đối với Việt Nam tại Quyết định số 09/2005/QĐ-BYT ngày 11/3/2005 của
Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Tiêu chuẩn vệ sinh nước sạch, hiện nay được thay thế

bằng Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước tại Thông tư số
05/2009/BYT, thì nước sạch là nước dùng cho các mục đích sinh hoạt cá nhân và
gia đình, không sử dụng làm nước ăn uống trực tiếp. Nếu dùng trực tiếp cho ăn
uống thì phải xử lý để đạt Tiêu chuẩn vệ sinh nước ăn uống ban hành kèm theo Quyết
định số 1329/2002/QĐ –BYT ngày 18 tháng 4 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
1.1.3. Các khái niệm liên quan [3;5]

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

- Nguồn nước: chỉ các dạng tích tụ nước tự nhiên hoặc nhân tạo có thể khai
thác, sử dụng được bao gồm sông, suối, kênh rạch, biển, hồ, đầm, ao, các tầng
chứa nước dưới lòng đất; mưa, băng, tuyết và các dạng tích tụ khác.
- Tài nguyên nước: được quy định trong luật Tài nguyên nước năm 1998 bao
gồm các nguồn nước mặt, nước mưa, nước dưới đất, nước biển trong lãnh thổ nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Nước biển, nước dưới đất thuộc vùng đặc quyền
kinh tế, thềm lục địa. Nước khoáng nóng thiên nhiên do Luật khoáng sản quy định.
- Bảo vệ tài nguyên nước: là các biện pháp phòng, chống suy thoái, cận kiệt
nguồn nước, đảm bảo an toàn nguồn nước, bảo vệ khả năng phát triển tài nguyên nước.
- Vùng bảo hộ vệ sinh khu vực lấy nước: là vùng phụ cận khu vực lấy nước từ
nguồn nước được quy định phải bảo vệ để phòng, chống ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt.
- Ô nhiễm nguồn nước: là sự thay đổi tính chất lý hóa, thành phần sinh học
của nước vi phạm tiêu chuẩn cho phép.
- Hoạt động cấp nước: là các hoạt động có liên quan trong lĩnh vực sản xuất,
cung cấp, tiêu thụ nước sạch,bao gồm: quy hoạch, tư vấn thiết kế, đầu tư xây dựng,
quản lý vận hành, bán buôn, bán lẻ nước sạch và sử dụng nước sạch .

- Kỹ thuật cấp nước: là giải pháp đem nước sạch đến từng hộ gia đình, nhóm dân
cư và các cụm chuyên dùng đảm bảo các yêu cầu về kinh tế kỹ thuật và vệ sinh môi trường.
- Người sử dụng nước: là một hay một nhóm người sử dụng nước từ công
trình cấp nước cho mục tiêu sinh hoạt hoặc sản xuất.
- Đơn vị cấp nước: là tổ chức, cá nhân thực hiện một phần hoặc tất cả các
hoạt động khai thác, sản xuất, truyền dân, bán buôn, bán lẻ nước sạch.
1.1.4. Điểm dân cư nông thôn và nhu cầu về cấp nước sạch nông thôn
Điểm dân cư nông thôn là một địa bàn sinh sống của dân cư, trong đó người
dân có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau (làng, xóm, thôn, bản, ấp…).
Hiện nay, do thực hiện các chính sách phát triển kinh tế nông thôn của nhà
nước (sự phát triển của kinh tế hộ, kinh tế tư nhân, kinh tế hợp tác xã..) nên các
điểm dân cư nông thôn của nước ta đã có sự thay đổi đáng kể cả về quy mô và chất
lượng cuộc sống. Thực tế đã diễn ra những mâu thuẫn giữa sự phát triển các điểm dân cư
với sự đáp ứng của các cơ sở hạ tầng của các địa phương, nhất là các nội dung liên quan
thiết thực đối với đời sống người dân như cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn.

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Nguồn nước được sử dụng cung cấp cho mục đích sinh hoạt của người dân
nông thôn bao gồm các loại:
- Nước mặt: là nước tồn tại trên mặt đất liền hoặc hải đảo. (sông, suối, ao, hồ..)
- Nước ngầm: là nước tồn tại trong các tầng chứa nước dưới mặt đất.
Hiện nay ở nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã xây dựng và vận hành hệ
thống cấp nước tập trung nhằm phục vụ nhu cầu nước sạch cho một hoặc nhiều
điểm dân cư lân cận. Đây là hướng đi được nhà nước khuyến khích vì nó huy động

được sự tham gia của cộng đồng dân cư nông thôn và chất lượng nước cung cấp
được đảm bảo hơn.
Hệ thống cấp nước tập trung hoàn chỉnh: là một hệ thống bao gồm các công
trình khai thác, xử lý nước, mạng lưới đường ống cung cấp nước sạch đến khách
hàng sử dụng nước và các công trình phụ trợ có liên quan.
Mạng lưới cấp nước: là hệ thống đường ống truyền dẫn nước sạch từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu thụ, bao gồm mạng cấp I, mạng cấp II, mạng cấp III và các
công trình phụ trợ có liên quan.
+ Mạng cấp I: là hệ thống đường ống chính có chức năng vận chuyển nước tới
các khu vực của vùng phục vụ cấp nước và tới các khách hàng sử dụng nước lớn.
+ Mạng cấp II: là hệ thống đường ống nối có chức năng điều hòa lưu lượng
cho các tuyến ống chính và bảo đảm sự làm việc an toàn của hệ thống cấp nước.
+ Mạng cấp III: là hệ thống các đường phân phối lấy nước từ các đường ống
chính và ống nối dẫn nước tới người sử dụng nước.
Công trình phụ trợ là: các công trình hỗ trợ cho việc quản lý, vận hành, bảo
dưỡng, sửa chữa đối với hệ thống cấp nước như sân, đường, nhà xưởng, tường rào,
trạm biến áp, các loại hố van, hộp đồng hồ.
Bất kỳ khu vực dân cư và sản xuất nào cũng cần hệ thống cấp nước sạch.
Cấp nước sạch trở thành một trong nhiều tiêu chí quan trọng để đánh giá sự phát
triển của xã hội, đánh giá sự tin tưởng, hài lòng của nhân dân vào các đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước.
1.2. Vai trò của nước sạch đối với đời sống con người
1.2.1. Vai trò của nước sạch đối với đời sống con người

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp


Nước là một vật phẩm quý giá nhất mà tạo hóa đã ban tặng cho hành tinh
của chúng ta và chính nó là khởi nguồn của sự sống: vạn vật không có nước không
thể tồn tại, con người cũng không là ngoại lệ.
Ngoài chức năng tham gia vào chu trình sống, nước còn là chất mang năng
lượng (hải triều, thủy năng), chất mang vật liệu và tác nhân điều hòa khí hậu, thực
hiện các chu trình tuần hoàn vật chất trong tự nhiên.
Theo các nghiên cứu khoa học, con người có thể nhịn ăn được khoảng 3
tuần nhưng họ sẽ chết khát nếu 3 ngày không có nước uống. Trong cơ thể con
người nước chiếm tới 75% trọng lượng, hàng ngày mỗi người cần tối thiểu 60 – 80
lít nước, tối đa tới 150 – 200 lít nước hoặc nhiều hơn cho sinh hoạt, riêng lượng
nước ăn uống vào cơ thể ít nhất cũng tới 1,5 – 2 lít mỗi ngày. Nước nuôi dưỡng,
làm sạch cơ thể, đối với tư duy của con người cũng phụ thuộc vào nước, không có
nước thì không có năng lượng tạo ra hoạt động của hệ thần kinh .[8]
Điều này cho thấy tầm quan trọng của nước sạch đối với sự sống và sức
khỏe con người. Đặc biệt là theo nghiên cứu, khảo sát thực tế của các cơ quan chức
năng, nước sinh hoạt của người dân tại nhiều khu vực của nước ta đã bị ô nhiễm
trong nguồn nước thô (chưa qua xử lý).
Dưới đây là hình minh họa mức sử dụng nước trung bình của một gia đình
trung lưu vùng Đông Nam Á: [3]

Tiêu chuẩn dùng nước cho từng đầu người thường tùy thuộc vào mức độ
phát triển kinh tế của từng vùng và điều kiện cấp nước. Mức sử dụng nước trong

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp


gia đình cho các yêu cầu trên thường biến động khá lớn do mức sống, điều kiện khí
hậu, lãnh thổ, tập quán… khác nhau.
1.2.2. Vai trò của nước sạch đối với đời sống dân cư nông thôn
Ngoài những phân tích về vai trò của nước sạch đối với đời sống con người
nói chung, thì với các điểm dân cư nông thôn hoạt động cung cấp nước sạch cũng
giữ vị trí rất quan trọng, nó ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình CNH – HĐH nông
nghiệp - nông thôn và giải quyết các vấn đề giữa nông thôn và thành thị.
Trước hết có thể thấy cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn có mối quan hệ
chặt chẽ với Chiến lược xóa đói giảm nghèo. Vì vậy, nếu người dân nông thôn
không được tiếp cận và sử dụng nguồn nước đảm bảo về chất lượng thì hầu như
mọi nỗ lực của chúng ta cho công tác xóa đói giảm nghèo là không có ý nghĩa.
Khu vực nông thôn là nơi tỷ lệ nhiễm các dịch bệnh liên quan tới việc sử
dụng nguồn nước không đảm bảo còn lớn. Do người dân nông thôn vẫn giữ những
thói quen sử dụng nước truyền thống không đảm bảo vệ sinh. Đối với nước ta, theo
bác sĩ Nguyễn Huy Nga (Vụ Y tế dự phòng – BYT): ở Việt Nam, chúng ta có gần
80% loại bệnh tật có liên quan đến nguồn nước và vệ sinh môi trường mà chủ yếu
là do chất lượng nước, nhất là các bệnh về đường ruột, bệnh tả, thương hàn.
Trong số các đối tượng chịu ảnh hưởng do sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm,
thì trẻ em và phụ nữ là nhóm đối tượng dễ bị tổn thương nhất. Hiện có tới 90% phụ
nữ ở nông thôn mắc các bệnh phụ khoa; tỷ lệ người nhiễm giun sán, giun đũa, giun
móc...của nước ta được xếp vào loại cao nhất thế giới. Những khảo sát gần đây của
Bộ Y tế cũng cho thấy 100 % trẻ em từ khoảng 4-14 tuổi ở nông thôn miền Bắc
nhiễm giun đũa, từ 50-80 % nhiễm giun móc. Gần đây nhất điển hình là dịch bệnh
tiêu chảy cấp nguy hiểm xảy ra vào cuối năm 2007, với gần 2.000 người mắc,
trong đó có 295 trường hợp dương tính với phẩy khuẩn tả tại 13 tỉnh, thành phố.
Bên cạnh đó, tính chất và mức độ ô nhiễm môi trường nước ngày một gia
tăng ở nông thôn. Đây được xem là dạng ô nhiễm gây nguy hiểm trực tiếp, hàng
ngày và khó khắc phục đối với đời sống người dân cũng như sự phát triển bền
vững của đất nước. Khu vực nông thôn của Việt Nam do hoạt động lao động sản

xuất của con người mà môi trường ở đây cũng đã có những điểm ô nhiễm nặng nề.
Đó là nguồn ô nhiễm gây tác động rất lớn đến lượng nước mặt của các con sông,
nơi là điểm lấy nước cho nhiều nhà máy cấp nước sạch. Trước tình hình đó mọi
người dân vừa phải biết lựa chọn các nguồn nước phù hợp với mục đích sử dụng

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

nhất là phục vụ cho ăn uống và sinh hoạt, đồng thời cần phải tích cực tham gia vào các hoạt
động bảo vệ môi trường và nguồn nước, tham gia xây dựng và bảo vệ các công trình cấp nước.
Từ những phân tích trên cho chúng ta có cơ sở khẳng định vai trò đặc biệt
quan trọng của nước sạch đối với sức khỏe trước mắt và lâu dài của cư dân nông
thôn. Việc đảm bảo các mục tiêu về nước sạch không chỉ có tác động tích cực đối
với khu vực nông thôn mà xét trong mối tương quan với thành thị, trong giải quyết
các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội của đất nước.
1.3. Quản lý nhà nước đối với cấp nước sạch nông thôn
Nông nghiệp – nông thôn là một bộ phận quan trọng trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội của nước ta. Quản lý nhà nước về nông thôn chính vì vậy luôn
giữ một vị trí đặc biệt, nó thể hiện sự định hướng phát triển nông nghiệp – nông thôn
trong từng thời kỳ nhất định phù hợp với đường lối, mục tiêu chung của cả nước.
Quản lý nhà nước về cấp nước sạch nông thôn là hoạt động chấp hành –
điều hành của cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành hoạt động quản lý về cấp
nước sạch nhằm đạt được các mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ sinh
nông thôn giai đoạn 2001-2020.
1.3.1. Sự cần thiết khách quan của quản lý nhà nước (QLNN) đối với cấp
nước sạch nông thôn

1.3.1.1. Vai trò của QLNN đối với vấn đề nước sạch nông thôn
Nhà nước là chủ thể quản lý mọi mặt đời sống kinh tế – xã hội trong đó có
vấn đề cấp nước sạch và vệ sinh nông thôn. Để đảm bảo các chủ trương, chính
sách, pháp luật của nhà nước trong lĩnh vực nước sạch được triển khai vào trong
thực tế, không lực lượng nào ngoài nhà nước có đủ các điều kiện về tổ chức bộ
máy điều hành, nguồn nhân lực, vật lực và cả một hành lang pháp lý đủ mạnh để
thực hiện chức năng quản lý đó.
Vai trò của quản lý nhà nước trong cung cấp nước sạch nông thôn còn nhằm
bảo vệ lợi ích của các bên trong cấp nước sạch nông thôn như: bên cung cấp dịch
vụ được nhà nước ưu đãi về tiền thuê đất, tiền điện vận hành…; bên thụ hưởng là
người dân, tổ chức với chất lượng nước đảm bảo và giá thành hợp lý. Nhiệm vụ
của ngành cấp nước sạch nông thôn được thể hiện qua các mặt sau: [3]
- Khảo sát tất cả các nguồn nước có thể khai thác và sử dụng được
- Đánh giá chất lượng nguồn nước

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

- Xác định phương thức khai thác nguồn nước
- Các biện pháp xử lý nước cấp, nước xả
- Xây dựng các sơ đồ vận hành các hệ thống cấp nước
- Xác định được nhu cầu sử dụng nước và chỉ tiêu cấp nước
- Vận hành và bảo dưỡng hệ thống
- Thu phí cấp nước để tái sản xuất.
1.3.1.2. Vai trò của nước sạch đối với đời sống người dân nông thôn
Như đã trình bày trong phần nội dung trên, vai trò của nước sạch đối với đời

sống con người là vô cùng quan trọng, là nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng
cuộc sống và sức khỏe của bản thân mỗi người. Nước sạch đồng thời cũng là tiêu
chí đánh giá sự phát triển của một quốc gia thông qua việc đảm bảo nhu cầu về
nước sạch cho công dân của mình.
Hiện nay, không chỉ đối với đô thị mà ngay cả nông thôn nhu cầu được sử
dụng nước hợp vệ sinh ngày một gia tăng, nước sạch ngoài dùng cho sinh hoạt tại
các hộ gia đình còn được sử dụng cho các hoạt động công cộng.
Chính vì vậy để lĩnh vực này hoạt động có hiệu quả đòi hỏi cần có sự can
thiệp, quản lý của nhà nước với vai trò là người định hướng, tạo môi trường.
1.3.1.3. Tình trạng ô nhiễm nguồn nước nông thôn
Ngày nay mặc dù đã có những tiến bộ trong việc khoan dò, dẫn thủy và
thanh lọc nhưng các vấn đề về chất lượng, số lượng nguồn nước uống vẫn luôn là
mối quan tâm hàng đầu của rất nhiều quốc gia. Và ngày nay khi chúng ta đã dành
ưu tiên quá mức cho phát triển kinh tế, khi con người phải sống chung với những
nguồn nước “chết” thì chúng ta mới hiểu rằng chúng ta có lẽ sẽ bị cạn kiệt nguồn
nước ngọt quý hiếm này.
Không phải ngẫu nhiên Liên Hợp Quốc phát động thập kỷ quốc tế hành
động “Nước sạch vì sự sống” bắt đầu từ năm 2005. Cũng không phải ngẫu nhiên
các nhà hoạt động xã hội kêu gọi đánh thuế nước toàn cầu và thành lập “Nghị viện
nước thế giới”. Bởi nguyên nhân căn bản là nguồn nước ngọt dùng được cho nhu
cầu sinh hoạt của con người đang bị thu hẹp về diện tích và tình trạng ô nhiễm
đang hết sức căng thẳng. Bên cạnh đó các quốc gia đặc biệt là các nước đang và
kém phát triển chưa thực sự dành những ưu tiên cũng như chưa có hành động
quyết liệt để đảm bảo nước sạch cho người dân.
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp


Đối với nông thôn nước ta các nguồn ô nhiễm nước chủ yếu từ các lĩnh vực:
- Ô nhiễm nước do sản xuất nông nghiệp: do hiện nay Việt Nam có 70%
[1]dân số đang sinh sống ở nông thôn, phần lớn các chất thải của con người và gia
súc không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo của
Bộ nông nghiệp & Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung bình biến
đổi từ 1.500 – 3.500 MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông Hậu, tăng lên
tới 3.800 – 12.500 MNP/100ml ở các kênh tưới tiêu.[9]
Trong sản xuất nông nghiệp do tập quán canh tác còn lạc hậu, tình trạng lạm dụng
các thuốc bảo vệ thực vật và phân bón hóa học dẫn đến các nguồn nước ở sông, hồ, kênh
mương bị ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường nước và sức khỏe của người.
- Ô nhiễm nước do sản xuất công nghiệp tại các khu vực nông thôn: mặc dù
tình trạng ô nhiễm môi trường nước do công nghiệp ở các vùng nông thôn chưa
gay gắt, bức xúc như tại các đô thị, thành phố lớn như Hà Nội, Tp. Hồ Chí Minh,
Hải Phòng…Tuy nhiên cùng với quá trình đô thị hóa nông thôn thì mức độ ô
nhiễm cũng đang gia tăng.
Các xí nghiệp hoặc cụm công nghiệp thường xuyên vứt bỏ một phần hoặc
tất cả các chất thải của mình vào trong hệ thống cống rãnh của cộng đồng. Chẳng
hạn quan khảo sát một số làng nghề sản xuất sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy,
dệt nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m 3/ ngày không qua
xử lý gây ô nhiễm và suy thoái môi trường xung quanh một cách nghiêm trọng.
Tác động từ thực trạng ô nhiễm môi trường nước lên hoạt động cấp và sử
dụng nước sạch nông thôn là rất lớn. Bởi trên thực tế đa số người dân nông thôn
vẫn sử dụng nguồn nước tự nhiên từ sông, hồ; hay từ nước giếng khoan, giếng khơi
với những biện pháp xử lý đơn giản; kể cả đối với các nhà máy cấp nước sạch
cũng lấy nguồn nước mặt từ các con sông. Như vậy, nếu các nguồn nước đó chứa
các mầm bệnh thì vô hình dung chúng ta lại tái sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm cho
mục đích sinh hoạt của mình. Đây là một thực tế rất đáng lo ngại và để ngăn chặn, phòng ngừa
tình trạng này trách nhiệm thuộc về toàn xã hội mà trước hết là từ phía cơ quan nhà nước.

1.3.2. Nội dung quản lý nhà nước về cấp nước sạch nông thôn
1.3.2.1. Tổ chức bộ máy quản lý

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Nhiệm vụ cần làm và trước tiên đối với lĩnh vực cấp nước và vệ sinh nông
thôn là phải tổ chức một hệ thống cơ quan quản lý từ TW đến địa phương nhằm
đảm nhiệm tốt các chức năng, nhiệm vụ quản lý về cấp nước sạch nông thôn.
Theo Luật Tài nguyên nước có hiệu lực từ tháng 1 năm 2000, Nhà nước
thống nhất quản lý tài nguyên nước và tất cả những người sử dụng và các cơ quan
(trừ các hộ gia đình) phải xin phép của Bộ NN & PTNN hoặc UBND tỉnh sở tại
nếu muốn sử dụng tài nguyên nước.Thẩm quyền và trách nhiệm đối với ngành
nước được quy định tại Điều 58 của Luật Tài nguyên nước.
Đối với nước ta trách nhiệm đối với ngành cấp nước sạch nói chung được
phân chia cụ thể tại Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn giai
đoạn 2001 – 2020. Trong đó Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan quản
lý chính đối với cấp nước sạch nông thôn.
Sự phân cấp quản lý và giám sát các công trình cấp nước của một quốc gia
được minh họa bằng sơ đồ sau: [3]

- Lập kế hoạch chiến lược

CẤP QUỐC
GIA


- Hoạch định chính sách
- Định mức, tiêu chuẩn
- Quản lý CTQG
- Giám sát các dự án cấp nước
- Cung cấp kỹ thuật, đào tạo
-…

- Thực hiện dự án cấp nước
CẤP TỈNH

CẤP HUYỆN


- Khảo sát thiết kế công trình
- Thi công và quản lý dự án
- Huấn luyện cấp cơ sở
-…

- Quản lý hệ thống ở cộng đồng
- Khai thác, bảo dưỡng công trình
- Thu phí dùng nước
-…

Để đảm bảo cho các dự án cấp nước sạch được thực hiện hiệu quả và thống
nhất trong phạm vi cả nước, Chính phủ đã thành lập Trung tâm quốc gia nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn thuộc Bộ NN & PTNT với chức năng, nhiệm vụ

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D



Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

được quy định tại Quyết định số 45/2008/QĐ – BNN ngày 11/3/2008. Theo đó
Trung tâm quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn là đơn vị sự nghiệp
trực thuộc Bộ NN & PTNT, có tư cách pháp nhân, có kinh phí hoạt động từ ngân
sách, có con dấu và tài khoản riêng, hoạt động theo cơ chế tự chủ, tự chịu trách
nhiệm, phục vụ quản lý nhà nước của Bộ trong lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi
trường nông thôn trên phạm vi cả nước.
Cơ cẩu tổ chức của Trung tâm bao gồm các phòng, ban và các đơn vị trực thuộc
khác:
- Phòng hành chính, tổng hợp
- Phòng kế hoạch và hợp tác quốc tế
- Phòng huấn luyện, truyền thông
- Phòng khoa học công nghệ
- Phòng kiểm nghiệm chất lượng nước và môi trường
- Bộ phận thường trực miền Trung
- Bộ phận thường trực miền Nam
Tại các tỉnh thành đều thành lập Trung tâm nước sạch và vệ sinh môi trường
nông thôn nhằm triển khai kế hoạch, nhiêm vụ cấp nước sạch trên thực tế. Một Ủy
ban thường trực liên bộ về Chương trình mục tiêu quốc gia về cấp nước và vệ sinh
nông thôn được thành lập tháng 7 năm 2002 nhưng mới chỉ họp một lần và địa vị
pháp lý chưa được quy định chính thức.
Như vậy, để thực hiện mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ
sinh nông thôn chúng ta đã tổ chức một hệ thống cơ quản lý nhà nước điều hành
trực tiếp lĩnh vực này. Đây là một nội dung quan trọng bởi các chiến lược, chương
trình, chính sách sẽ không thể đi vào thực tế nếu không có bộ máy truyền tải, tổ
chức thực hiện và một đội ngũ nhân lực đủ năng lực để thực thi nhiệm vụ.
1.3.2.2. Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện chiến lược, chính sách và

các văn bản pháp luật về lĩnh vực cấp nước sạch
Đến thời điểm hiện tại, Chính phủ đã ban hành được các chính sách quan
trọng liên quan trực tiếp đến cấp nước sạch nông thôn như sau:
- Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn giai đoạn 2000 –
2020 được phê duyệt tại Quyết định số 104/2000/QĐ – TTg ngày 25/8/ 2000 của
Thủ tướng Chính Phủ.
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Đây là chiến lược quan trọng nhất cho lĩnh vực nước sạch và vệ sinh nông
thôn. Nguyên tắc thực hiện chiến lược này là sự bền vững chứ không phải tiến độ
thực hiện. Theo chiến lược nước sẽ được xem là một loại hàng hóa kinh tế, việc ra
quyết định và quản lý được thực hiện ở cấp thấp nhất phù hợp và chú trọng đến sự
tham gia của phụ nữ. Đề cập đến các nội dung này chiến lược đã dần tạo dựng một
thị trường nước sạch tại các điểm dân cư nông thôn, qua đó nâng cao ý thức, trách
nhiệm của cộng đồng dân cư bằng việc coi nước sạch là một hàng hóa và khi sử
dụng người dân sẽ phải trả phí.
- Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo giai đoạn
2000-2010 với mục tiêu:
+ Đến năm 2005: 60 % cư dân nông thôn được tiếp cận với nước sạch với
mức trung bình 50 lít/ng/ng.
+ Đến năm 2010: 85 % cư dân nông thôn được tiếp cận nguồn nước sạch
với mức 06 lít/ng/ng. Trước mắt cần đặc biệt chú ý cấp nước sạch cho các nhà trẻ,
trường mẫu giáo, trường học và các bệnh viện ở nông thôn.
- Các mục tiêu phát triển của Việt Nam: cũng đưa ra mục tiêu đến năm 2010, 60
% dân cư nông thôn được tiếp cận với nước sạch và an toàn, đến năm 2015 là 85%.

- Chiến lược môi trường của Chính phủ Việt Nam 2000-2010: mục tiêu là
đến năm 2010, 85% dân cư nông thôn được sử dụng nước ăn uống hợp vệ sinh.
Các chiến lược trên là sự định hướng quan trọng cho sự phát triển của ngành
cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn nước ta. Trên cơ sở đó Chính phủ
cùng các bộ, ngành liên quan đã xây dựng và ban hành hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật quản lý đối với tài nguyên nước và lĩnh vực cấp nước sạch. Tạo môi
trường pháp lý cho các chủ thể trong xã hội tham gia lĩnh vực này được đảm bảo
về quyền và nghĩa vụ. Đó là:
- Luật Tài nguyên nước năm 1998 có hiệu từ tháng 1 năm 2000 đây là văn
bản có giá trị pháp lý cao nhất, quản lý chung đối với tài nguyên nước và khai thác,
sử dụng nguồn nước vào mục đích sinh hoạt.
- Nghị định số 179/1999/NĐ – CP ngày 30 tháng 12 năm 1999 của Chính
phủ quy định việc thi hành Luật tài nguyên nước.
- Nghị định số 162/2003/ NĐ – CP ngày 19 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ ban
hành Quy chế thu thập, quản lý, khai thác, sử dụng dữ liệu, thông tin về tài nguyên nước.

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

- Nghị định số 34/2005/NĐ – CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ
quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực tài nguyên nước
- Nghị định số 117/NĐ – CP của Chính phủ quy định về sản xuất, cung cấp, tiêu
thụ nước sạch đối với hệ thống cấp nước tập trung hoàn chỉnh tại các khu vực đo thị, nông
thôn.
- Quyết định số 99/2002/QĐ – TTg ngày 23/7/2002 của Thủ tướng Chính
phủ về thành lập Ủy ban thường trực Quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn.

- Thông tư liên tịch số 95/2009 giữa Bộ Tài chính – Bộ Xây dựng – Bộ NN
& PTNT về hướng dẫn nguyên tắc, phương pháp xác định và thẩm quyền quyết
định giá tiêu thụ nước sạch tại các đô thị, khu công nghiệp, khu vực nông thôn .
- Thông tư số 05/2009/QĐ – BYT ngày 17/6/2009 của Bộ Y tế về ban hành
“Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước”.
-…
Do đặc thù của ngành nước nên công tác quản lý đòi hỏi phải có sự phối
hợp giữa các bộ, ngành liên quan. Hệ thống văn bản quản lý về tài nguyên nước và
nước sạch cần thường xuyên được nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện nhằm đảm bảo
hiệu lực, hiệu quả của nhà nước và đáp ứng nhu cầu giải quyết công việc từ thực tế.
1.3.2.3. Đào tạo nguồn nhân lực quản lý, lưu trữ các tài liệu, thông tin về
tài nguyên nước và cấp nước sạch nông thôn
Nhằm vận hành bộ máy quản lý nhà nước về tài nguyên nước, đồng thời để
triển khai các chương trình, kế hoạch về nước sạch và vệ sinh nông thôn thì nhu
cầu đào tạo một đội ngũ nhân lực cho ngành cấp nước là cần thiết và quan trọng.
Trong Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn cũng nêu mục đích
của việc phát triển nguồn nhân lực đó là: cung cấp đủ và sắp xếp lại cho hợp lý cán
bộ nhân viên trong lĩnh vực cho phù hợp với nghề nghiệp và yêu cầu nhiệm vụ
mới; bồi dưỡng cho cán bộ ở trung ương và địa phương về Chiến lược Quốc gia về
cấp nước và vệ sinh nông thôn, các kiến thức và kỹ năng về lập chương trình, kế
hoạch, điều phối, quản lý theo cách tiếp cận dựa trên nhu cầu đối với cấp nước
sạch và vệ sinh nông thôn.
Hiện nay, tài liệu và thông tin về tình hình cung cấp, sử dung nước sạch
nằm ở nhiều cơ quan khác nhau: Bộ NN & PTNT, Bộ Y tế, Bộ Tài nguyên – Môi
trường, Ban chỉ đạo quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường và ở TTNSH &
VSMTNT tại các tỉnh thành. Vì vậy, cần được hệ thống hóa để theo dõi nguồn
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính


Khóa luận tốt nghiệp

nước, sử dụng các số liệu được thu thập từ quá trình thực hiện Chiến lược Quốc gia
về cấp nước và vệ sinh nông thôn.
Nhu cầu đào tạo nhân lực về quản lý, lưu trữ thông tin tài liệu về tài nguyên
nước còn xuất phát từ vai trò quan hệ hợp tác của nước ta với các nước bạn, các tổ
chức quốc tế về nước sạch. Các hoạt động đó cần những thông tin đầy đủ và yêu
cầu độ chính xác cao, vì vậy đội ngũ làm công tác quản lý thông tin về tài nguyên
nước phải được đào tạo đúng chuyên môn, nghiệp vụ.
Trên thực tế, công tác lưu trữ các thông tin tài liệu về tài nguyên nước ở các
cấp nhìn chung còn yếu. Việc thiết lập các cơ sở dữ liệu, thống kê về các nguồn
nước cần được thực hiện ở cả TW và địa phương. Cần nắm chắc các thông số về
trữ lượng nước ngầm, nước mặt, khả năng có thể khai thác được, số lượng đã khai
thác và khả năng phục hồi của nguồn nước.
1.3.2.4. Công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm
Bên cạnh, các nội dung về tổ chức bộ máy, tạo dựng môi trường pháp lý,
đào tạo đội ngũ nhân lực cho lĩnh vực cấp nước sạch thì nội dung thanh tra, kiểm
tra và xử lý vi phạm cũng được xem là một nội dung quan trọng. Trên thực tế có
rất nhiều doanh nghiệp, đơn vị sản xuất, hộ gia đình…có hành vi vi phạm pháp luật
về tài nguyên nước, như xả nước thải chưa qua xử lý vào các con sông gây ra tình
trạng ô nhiễm, suy thoái, suy giảm chất lượng nguồn nước, hay sản xuất, kinh
doanh nước sạch không đạt tiêu chuẩn về chất lượng nước… Đó đều là những
hành vi cần có sự cưỡng chế và xử lý theo đúng luật định.
Mặt khác vai trò của công tác thanh tra, kiểm tra còn nhằm vào việc phòng
ngừa, ngăn chặn và phát hiện sớm những hành vi vi phạm trước khi để xảy ra hậu
quả trên thực tế. Luật tài nguyên nước có quy định nhiệm vụ, thẩm quyền của
thanh tra chuyên ngành ở trung ương về tài nguyên nước trực thuộc Bộ NN &
PTNT, và thanh tra chuyên ngành ở địa phương thuộc Sở NN & PTNT.
1.4 Những yếu tố tác động đến quản lý nhà nước về cấp nước sạch nông thôn

1.4.1. Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực có nguồn tài nguyên nước khá
dồi dào với một mặt tiếp giáp với biển Đông và hệ thống sông ngòi dày đặc. Là
nước có kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa với lượng mưa trung bình hàng năm thuộc
loại cao khoảng 2000 mm/năm, gấp 2,6 lần lượng mưa trung bình của vùng lục địa
trên thế giới (800 mm) và của Châu Âu (789 mm) [21] nơi gặp gỡ của nhiều nhánh

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

sông lớn trên thế giới. Vì vậy tài nguyên nước của Việt Nam khá phong phú: lượng
nước mặt sản sinh nội lãnh thổ là 32,5 tỷ m3/ năm, ngoài dòng chảy phát sinh trong
vùng nội địa, hàng năm lãnh thổ Việt Nam nhận thức thêm lưu lượng nước từ Nam
Trung Quốc và Lào vào khoảng 889 m3/ năm [7].
Tài nguyên nước mặt, nước ngầm có thể khai thác và sử dụng cho các hoạt
động công nghiệp – nông nghiệp – dịch vụ là rất phong phú, trong đó có hoạt động
cung cấp, sử dụng nước sạch chiếm một phần nhỏ trong tổng trữ lượng nước ngọt
của cả nước. Đây là một thuận lợi rất lớn cho nước ta khi thực hiện các mục tiêu
kinh tế - xã hội. Nhà nước cần có quy hoạch sử dụng nước một cách tiết kiệm và
hiệu quả vì đây là tài nguyên vừa vô hạn vừa hữu hạn, có thể tái sinh, có khả năng tự
tái tạo nhưng vẫn có thể bị cạn kiệt hoặc bị ô nhiễm nếu không được quản lý chặt chẽ.
Tuy nhiên, tài nguyên nước của nước ta phân bố không đều giữa các mùa
trọng năm và giữa các vùng trong cả nước, với địa hình chủ yếu là đối núi, độ dốc
mạnh đã ảnh hưởng đến khả năng khai thác nguồn nước cho sinh hoạt của người
dân. Lượng mưa của nước ta phân phối không đều trong năm. Có khoảng 65 – 90
% lượng mưa tập trung trong mùa mưa, 10 – 35% lượng mưa rơi vào mùa khô.

Mùa mưa thường bắt đầu từ tháng 4, 5 ở Bắc Bộ, phần Bắc phía bắc của Bắc trung
bộ (Thanh Hóa, Nghệ An), Tây Nguyên và Nam bộ cho đến tháng 9, 10, ở Bắc bộ ,
Bắc trung bộ, tháng 10, 11 ở Tây Nguyên, Nam bộ; ở ven biển Trung bộ, mùa mưa
xuất hiện ngắn, thường là tháng 8, 9,11,12. [9]
Phần lớn tài nguyên nước sông của nước ta (khoảng 60%) được hình thành
trên phần lưu vực nằm ở nước ngoài, lượng dòng chảy sông ngòi phân bố không
đều trong lãnh thổ và biến đổi mạnh theo thời gian, nên tình trạng khan hiếm
nguồn nước đã và đang xảy ra ở nhiều nơi nhất là trong mùa khô cạn. Bên cạnh đó
có tới 60 % số số nguồn nước tập trung ở Đồng bằng sông Cửu Long ( đồng bằng
này chiếm 12% diện tích cả nước – 3,9 triệu ha với dân số khoảng 21% dân số cả
nước), trong khi phần lãnh thổ còn lại chỉ có gần 40% số lượng nước nhưng lại
chiếm tới gần 80% dân số và 90 % khối lượng hoạt động sản xuất kinh doanh. Đặc
biệt ở Đông Nam Bộ và lưu vực sông Đồng Nai – Sài Gòn, lượng nước bình quân
đầu người chỉ đạt khoảng 2.900 m3/người/năm bằng 28 % so với trung bình của cả nước.[9]
Ngoài những yếu tố được phân tích trên, ngày nay biến đổi khí hậu được
nhắc đến như là một trong nhiều nguyên nhân gia tăng khó khăn cho công tác quản
lý nhà nước nói chung và về cấp nước sạch nông thôn nói riêng. Việt Nam là một
trong 5 vùng, lãnh thổ trên thế giới chịu tác động nặng nề từ biến đổi khí hậu,

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

những thảm họa liên quan tới nước xảy ra ở nước ta như lũ lụt, hạn hán, xói mòn,
sạt lở đất..là hậu quả của sự tác động qua lại giữa các yếu tố thủy văn – khí tượng
khắc nghiệt và hoạt động kinh tế không bền vững của con người gây ra.
Tình trạng lũ lụt xảy ra ở đồng bằng sông Cửu Long, thành phố Hà Nội

trong thời gian qua không những trở ngại cho việc tổ chức sản xuất, ảnh hưởng
nghiêm trọng đến sức khỏe người dân, mà còn gây khó khăn cho công tác quản lý
đặc biệt là công tác vệ sinh môi trường, thu dọn rác thải, xác gia súc, gia cầm chết,
mùi xú uế, rác thải tràn ngập sau những ngày ngập lụt, nguồn nước sinh hoạt của nhân
dân bị ô nhiễm nặng nề, các loại bệnh phát sinh do nguồn nước bị ô nhiễm bùng phát.
Bên cạnh lũ lụt, tình trạng hạn hán kéo dài tại nhiều vùng ở nước ta cũng
gây khó khăn cho công tác quản lý nhà nước trong việc đảm bảo nguồn nước cho
sản xuất và sinh hoạt của nhân dân. Do phụ thuộc vào lượng mưa hàng tháng nên
đa phần khu vực miền núi, miền trung thiếu nước đặc biệt là vào mùa khô. Người
dân thuộc các tỉnh vùng núi phía Bắc như Bắc Kạn, Lào Cai, Hà Giang và vùng
Tây Nguyên, Bình Thuận, Ninh Thuận …số người dân nông thôn được tiếp xúc với nguồn
nước sạch chỉ trên 28 % và thường xuyên phải chịu khát ít nhất 1-2 tháng trong mùa khô.
Những phân tích về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên và biến đổi khi hậu đã
đặt ra cho công tác quản lý nhà nước về vấn đề cấp nước và vệ sinh môi trường
nông thôn nhiều khó khăn, thách thức. Các yếu tố này đòi hỏi nhà nước trước khi
tiến hành một chương trình, dự án về cấp nước cho vùng nông thôn nào cần phải
có sự phân tích kỹ về điều kiện tự nhiên, vị trí và nhu cầu sử dụng nước của người
dân bản địa. Như vậy, mới có được cách thức đầu tư hiệu quả với chi phí thấp mà
lợi ích mang lại cho người dân là lớn nhất.
1.4.2. Sự gia tăng dân số
Việt nam là một quốc gia có quy mô dân số lớn và vẫn tiếp tục tăng về số
lượng tuyệt đối. Theo số liệu của cuộc tổng điều tra Dân số và Nhà ở ngày 1 tháng
4 năm 2009 thì dân số nước ta là 85.789.573 triệu người. Trong 10 năm (1999 2009) dân số Việt Nam tăng thêm 9,47 triệu người, bình quân mỗi năm tăng 947
nghìn người. Với dân số hiện nay nước ta đứng thứ 3 ở khu vực Đông Nam Á và
thứ 13 trên thế giới. Dân số của khu vực nông thôn hiện đang ở con số 60.415.311
người chiếm tới 70,4 % dân số cả nước. [6]
Quy mô dân số lớn đã dẫn tới mật độ dân số/ km 2 ở nước ta cũng luôn cao.
Theo thống kê năm 2005, Việt Nam có khoảng 83.119 triệu người, mật độ trung
bình 252 người/km2, vùng đồng băng Sông Hồng khoảng 1.200 người/km 2…Theo
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D



Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

các nhà khoa học của Liên Hợp Quốc tính toán, để có cuộc sống thuận lợi, bình
quân trên 1 km2 chỉ nên có 35 – 40 người. Như vậy ở Việt Nam, mật độ dân số đã
gấp khoảng 6-7 lần “mức độ chuấn”. Quy mô dân số lớn đang tạo ra nhiều sức ép đối với
sự phát triển kinh tế như giải quyết việc làm, tình trạng thất nghiệp; và đối với hệ thống cơ
sở hạ tầng ở cả thành thị và nông thôn, lượng nước sạch trên đầu người sẽ giảm.
Ngoài đặc điểm về quy mô dân số và mật độ dân cư thì nhìn chung dân số
nước ta phân bố không đều giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị; chất lượng
dân số chưa cao, tỷ lệ dân thành thi thấp (năm 2004 mới đạt 26,3%),….Và các đặc
điểm này đều có những tác động theo chiều hướng khác nhau đến quản lý nhà nước
về cấp nước nông thôn. Nhà nước cần tính toán nhu cầu sử dụng nước đối với từng vùng
dân cư, để lựa chọn loại hình và công nghệ cấp nước phù hợp với nhu cầu sử dụng.
Đối với nông thôn nơi tập trung trên 70% dân cư sinh sống, thì sự gia tăng
dân số cũng sẽ kéo theo sự gia tăng về nhu cầu nước sạch cho sinh hoạt và ăn uống
của người dân. Đồng thời dân số tăng nhanh cũng gây những tác động tiêu cực đến
môi trường tự nhiên trong đó có môi trường nước, làm suy thoái, ô nhiễm nguồn nước.
Quản lý nhà nước về cấp nước nông thôn phải có sự kết hợp của nhiều bộ, ngành liên quan
để đảm bảo thực hiện mục tiêu của Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn.
1.4.3. Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Sự tăng trưởng kinh tế trong những thập niên qua đã tạo ra động lực mạnh
đến quá trình xóa đói giàm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho
nhân dân. Tuy vậy, Việt nam vẫn còn là nước đang phát triển và sức sản xuất cũng
như mức sống của người dân, nhất là những vùng nông thôn nghèo chưa tương
xứng với tiềm năng.
Hiện nay, mức đầu tư của toàn xã hội cho công tác nước sạch và vệ sinh

nông thôn còn quá thấp. Theo báo cáo của Bộ nông nghiệp & Phát triển nông thôn
thì thực tế qua những năm thực hiện Chiến lược Quốc gia về cấp nước và vệ sinh
nông thôn, mức đầu tư mới đạt trên 60.000 đ/người (trong đó đầu tư từ ngân sách
nhà nước trung bình chỉ đạt 1.000đ) nếu so sánh với chiến lược được Chính phủ
phê duyệt bình quân 1 triệu đồng/ người vào năm 2010 thì mới chỉ đạt 6%. Nhu
cầu về nguồn vốn đầu tư cho cấp nước nông thôn đang là một thách thức đối với
các cơ quan quản lý nhà nước.
Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn đang làm
chuyển biến mạnh mẽ bộ mặt nông thôn Việt nam. Công nghiệp hóa gắn liền với
đô thị hóa đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn đồng thời quy tụ và phát
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

triển các điểm làng, ấp, thôn lớn và xóa bỏ dần các điểm xóm, trại quá nhỏ lẻ. Đây
là một thuận lợi cho việc đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cấp nước sạch nông thôn,
tránh được hiện tượng manh mún, phân tán.
Tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn do hệ quả của
quá trình đô thị hóa và đẩy mạnh phát triển kinh tế thành thị cũng tác động đến
công tác quản lý nhà nước về nước sạch nông thôn. Sự cách biệt khá xa về thu
nhập, mức sống, điều kiện học hành, điều kiện thụ hưởng nước sạch, vệ sinh môi
trường, khám chữa bênh, đi lại và thụ hưởng văn hóa, nghệ thuật… là một nguyên
nhân quan trọng khiến người dân nông thôn đổ xô lên thành thị gây nhiều phức tạp
trong quản lý nhà nước ở cả nông thôn và thành thị.
Hiện nay cấp nước sạch nông thôn vẫn gặp những khó khăn đó là:
- Hệ thống công trình, hạ tầng và cơ sở phục vụ nông thôn như hệ thống
tưới tiêu, mạng lưới cấp nước đang được xây dựng khá nhiều, tuy nhiên chưa đồng

bộ, có nơi phân tán với quy mô khác nhau chưa hẳn tương ướng với nhu cầu và
hiệu quả sử dụng. Chất lượng các công trình thường là trung bình hoặc kém.
- Chi phí về điện cho các trạm bơm, trạm cấp nước còn khá cao khiến cho
giá thành cung cấp nước trên mỗi đơn vị lớn, đặc biệt là các công trình loại vừa và nhỏ.
- Ô nhiễm môi trường nông thôn có nguy cơ gia tăng, người dân vẫn chưa
bỏ thói quen xả rác xuống nguồn nước, chuồng trại chăn nuôi gia súc, gia cầm trên
sông rạch, ao hồ vẫn còn phổ biến, sử dụng quá mức phân bón, thuốc diệt cỏ…làm
sụt giảm chất lượng nước, đất và tài nguyên động – thực vật.
- Trình độ của người dân nông thôn còn thấp, những hiểu biết về môi trường
và sự cần thiết của nước sạch còn hạn chế. Người dân nông thôn chưa có tập quán
trả tiền sử dụng nước và đây cũng là khó khăn nhất định cho việc thực hiện các dự
án của nhà nước và tư nhân.
Đánh giá được mức độ và chiều hướng tác động tích cực và tiêu cực của quá
trình đô thị hóa, sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, sẽ giúp cho công tác
quản lý nhà nước về cấp nước nông thôn có được những bước đi và cách làm hợp lý, hiệu quả.
1.4.4. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực cấp nước nông thôn
Do tốc độ tăng trưởng kinh tế chưa cao, kém bền vững và ngân sách nhà nước
đầu tư cho lĩnh vực cấp nước sạch nông thôn còn hạn chế. Trong khi đó cấp nước
nông thôn là một lĩnh vực cần nguồn đầu tư lớn và phạm vi hoạt động rộng. Vì vậy
hợp tác quốc tế để tranh thủ các nguồn vốn nước từ nước ngoài là hết sức cần thiết.
Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Ngày 15 tháng 5 năm 2006 tại Hà Nội, Bộ NN & PTNT, các nhà tài trợ và
các tổ chức phi chính phủ đã cùng ký Bản ghi nhớ thành lập Quan hệ hợp tác Cấp
nước sạch và vệ sinh nông thôn, đồng thời thành lập văn phòng điều phối trực

thuộc Bộ NN & PTNT. Nhiều nhà tại trợ như Ngân hàng thế giới (WB), Chương
trình nước sạch và vệ sinh khu vực Đông Nam Á, Unicef Việt Nam, Ngân hàng
phát triển Châu Á, Đại sứ quán các nước Australia, Đan Mạch, Thụy Điển, Hà
Lan..đã tham gia ký kết bản ghi nhớ này.
Quan hệ đối tác cấp nước và vệ sinh môi trường sẽ đi vào hoạt động từ
tháng 5 năm 2006, tập trung vào hỗ trợ các hoạt động đối thoại chính sách, chia sẻ
thông tin, nghiên cứu cấp địa phương, quốc gia và vùng lãnh thổ. Quan hệ đối tác
ra đời góp phần tăng cường hiệu quả sử dụng nguồn lực trong ngành cấp nước nông thôn
thông qua việc xây dựng một cơ chế phối hợp, điều hành và hài hòa hỗ trợ cho các chương
trình mục tiêu quốc gia về cấp nước và vệ sinh nông thôn và các chương trình khác.
Sự tham gia đầu tư của các nhà tài trợ là vô cùng quan trọng để giảm bớt
sức ép về nguồn vốn cho Chính phủ Việt Nam. Tháng 12 năm 2004 WB đã thông
qua một khoản tín dụng 112 triệu USD cho cấp nước đô thị và tháng 10 năm 2005
lại tiếp tục thông qua khoản tín dụng 46 triệu USD cho cấp nước và vệ sinh nông
thôn. Như vậy, để đảm bảo nguồn vốn đầu tư từ các đối tác nước ngoài được sử
dụng đúng mục đích và theo định hướng ưu tiên của nhà nước, chúng ta cần tập
trung xây dựng các nội dung quản lý nhà nước về cấp nước và vệ sinh nông thôn một
cách đầy đủ và hoàn thiện, tạo dựng môi trường thuận lợi cho các hoạt động đầu tư.

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CUNG CẤP VÀ SỬ DỤNG
NƯỚC SẠCH CỦA CÁC ĐIỂM DÂN CƯ NÔNG THÔN TRÊN ĐỊA BÀN
HUYỆN TỨ KỲ - TỈNH HẢI DƯƠNG

2.1. Giới thiệu về huyện Tứ Kỳ tỉnh Hải Dương
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên
2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên
a. Vị trí địa lý [10]
Huyện Tứ Kỳ là một trong 12 đơn vị hành chính của tỉnh Hải Dương – một
tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc gồm: Hà Nội – Hải Phòng – Hải
Dương – Hưng Yên – Bắc Ninh – Vĩnh Phúc.
Tứ Kỳ nằm giữa vùng châu thổ sông Hồng từ 106 o15’ đến 106o27’ kinh đông
và 21o48’ đến 21o55’ vĩ độ bắc, tiếp giáp với các huyện, thành phố:
- Phía Bắc giáp thành phố Hải Dương
- Phía Tây giáp huyện Gia Lộc
- Phía Đông và Đông Bắc giáp huyện Thanh Hà
- Phía Tây Nam giáp huyện Ninh Giang
- Phía Nam và Đông Nam giáp Hải Phòng
Tứ Kỳ nằm dọc theo trục tỉnh lộ 191 cũ nay là 391, nối quốc lộ 5 và quốc lộ
10 đi Hải Phòng và Thái Bình, trung tâm huyện cách Hà Nội 60 km về phía Đông
Nam, cách Hải Phòng 40 km, cách trung tâm thành phố Hải Dương 17 km. Lãnh
thổ của huyện được bao bọc bởi 2 con sông là sông Thái Bình, sông Luộc và hệ
thống thủy nông Bắc – Hưng – Hải (gồm sông Tứ Kỳ và sông Cầu Xe). Tứ Kỳ có
vị trí thuận lợi trong giao lưu kinh tế với các đô thị lớn như Hà Nội, Hạ Long, Hải
Dương, Thái Bình và các tỉnh đồng bằng sông Hồng, các tỉnh miền núi phía Bắc.
Huyện Tứ Kỳ gồm 1 thị trấn (Tứ Kỳ) và 26 xã (Ngọc Sơn, Kỳ Sơn, Ngọc
Kỳ, Tân Kỳ, Đông Kỳ, Tây Kỳ, Hà Kỳ, Phượng Kỳ, Đại Đồng, Hưng Đạo, Tái
Sơn, Bình Lãng, Quang Phục, Dân Chủ, Quảng Nghiệp, Đại Hợp, Quang Khải,
Minh Đức, Tứ Xuyên, Văn Tố, Cộng Lạc, An Thanh, Tiên Động, Quang Trung,
Nguyên Giáp, Hà Thanh).
b. Địa hình [10]

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D



Học viện Hành chính

Khóa luận tốt nghiệp

Huyện Tứ Kỳ có địa hình nhìn chung là khá bằng phẳng, thấp dần từ phía
Tây Bắc sang Đông Nam theo hướng nghiêng của đồng bằng Bắc Bộ. Khu vực có
địa hình cao ở các xã: Ngọc Sơn, Kỳ Sơn, Đại Đồng, Hưng Đạo…các xã có địa hình thấp,
trũng hơn là: Tứ Xuyên, Văn Tố, Nguyên Giáp, An Thanh, Cộng Lạc, Tiên Động,…
Diện tích đất có địa hình cao chiếm ưu thế hơn nên thuận lợi cho phát triển
sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, phát triển cây công
nghiệp ngắn ngày, cây ăn quả, các cây trồng khác. Tuy nhiên, do địa hình cao nên
nhiều xã gặp khó khăn đối với việc tìm kiếm nguồn nước cho sinh hoạt vì nguồn
nước ngầm tầng nông thường có trữ lượng thấp.
c. Khí hậu.
Tứ Kỳ mang đầy đủ tính chất của kiểu khí hậu nhiệt đới gió mùa, có sự
phân hóa khí hậu theo 2 mùa chính (mùa hè và mùa đông) và 2 mùa chuyển tiếp.
Mùa hè kéo dài từ tháng 5 đến tháng 9, khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều. Mùa đông
kéo dài từ tháng 11 đến tháng 3 năm sau, chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới lục
địa đã biến tính nhiều trong quá trình di chuyển song vẫn con khá lạnh và khô.[11]
Nhiệt độ thay đổi giữa các tháng trong năm khá lớn, nhiệt độ trung bình
khoảng 23oC, tháng nóng nhất (tháng 6,7) lên đến 36 – 37 oC, và tháng lạnh nhất
xuống tới 6 -7oC (tháng 12,1). Tổng lượng nhiệt cả năm là 8.500 oC. Độ ẩm trung
bình hàng năm là 80 – 85 %, cao nhất là 99% và thấp nhất là 80%.[10]
Lượng mưa trung bình hàng năm khoảng 1.500 – 1650 mm, năm cao nhất
lên tới 2311 mm và năm thấp nhất là 1154 mm và phân bố không đều theo thời
gian. Lượng mưa tập trung chủ yếu vào các tháng 6,7,8,9 (tháng 8 có lượng mưa
cao nhất 416 mm). Trong khi đó, tháng 12 lượng mưa thấp nhất, chỉ đạt 11 mm, cá
biệt có những năm chỉ đạt 5 mm.[10]
Với đặc điểm khí hậu như vậy huyện Tứ Kỳ rất có nhiều thuận lợi cho phát triển

sản xuất nông nghiệp và lượng nước mưa dùng cho sinh hoạt cũng lớn. Tuy nhiên, lượng
mua phân bố không đều tạo ra sự mất cân đối nước cục bộ theo thời gian, gây tình trạng
thiếu nước và ngập úng lụt ảnh hưởng đến sản xuất và sinh hoạt của người dân.
d. Thủy văn [12]
Trên địa bàn huyện Tứ Kỳ có 2 sông lớn chảy qua là sông Thái Bình (đoạn
qua Tứ Kỳ là 28,5 km), sông Luộc (đoạn qua Tứ Kỳ là 20 km). Nước thủy triều
theo cửa sông Văn Úc và cửa sông Thái Bình ảnh hưởng trực tiếp đến hệ thống
thủy văn cũng như môi trường thiên nhiên của huyện.

Nguyễn Thị Xiêm – KH7D


×