Tải bản đầy đủ (.pdf) (62 trang)

đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam tuqwf 1986 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.64 KB, 62 trang )

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới
sự hướng dẫn của ThS Nguyễn Văn Dũng.
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu của khóa luận chưa
từng được công bố ở bất kỳ một công trình nghiên cứu nào. Đó là những
kết quả đúng, nếu sai tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày 25 tháng 4 năm 20011
Tác giả khóa luận

Lê Đức Thuận


2

LỜI CẢM ƠN
Tác giả khóa luận xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa
Lịch Sử, các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy bộ môn Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, cùng các cán bộ trong Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
2 đã tạo điều kiện giúp đỡ em hoàn thành tốt khóa luận của mình.
Đặc biệt, em xin chân thành cảm ơn ThS Nguyễn Văn Dũng – người
thầy đã tận tình quan tâm, chỉ bảo, giúp đỡ em hoàn thành khóa luận này
trong suốt thời gian qua.
Khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ năm 1986 đến
năm 2006” là một đề tài hay và hấp dẫn. Song do thời gian có hạn cũng như
sự hạn chế về khả năng, khóa luận không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót.
Kính mong thầy cô và các bạn đọc xem xét và đóng góp ý kiến
Em xin chân thành cảm ơn!


Hà Nội, ngày 25 tháng 04 năm 2011
Tác giả khóa luận

Lê Đức Thuận


3

MỤC LỤC
Trang
Mở đầu

…………………………………………………………

1

Nội dung

…………………………………………………………

6

Chương 1.

Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa
tập trung, bao cấp thời kỳ trước năm 1986………...

1.1.

Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế theo cơ chế kế

hoạch hóa tập trung, bao cấp…………………………..

1.2.

6

Những bước đột phá nhằm xác lập từng bước những
yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam…………………………………

Chương 2.

6

11

Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ năm
1986 đến 2006………………………………………..

2.1.

Lý luận chung về nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa………………………………………….

2.2.

15

15


Quá trình phát triển tư duy của Đảng về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa…………………..

20

Một số đánh giá và bài học kinh nghiệm…………...

45

3.1.

Một số đánh giá……………………………………….

45

3.2.

Bài học kinh nghiệm…………………………………..

50

…………………………………………………………

55

Chương 3.

Kết luận


Tài liệu tham khảo…………………………………………………..

58


4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Từ khi có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3-2-1930), lịch sử Việt
Nam đã bước sang một trang mới vô cùng vẻ vang. Nhân dân Việt Nam dưới
sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên làm cuộc cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công, lập nên nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa nhân
dân Việt Nam bước vào kỉ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đang lãnh đạo công cuộc đổi mới
đất nước với mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh”. Để đạt được mục tiêu ấy thì trong công cuộc phát triển kinh tế xã hội
nói chung, việc lãnh đạo và xây dựng phát triển thể chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa là vấn đề cần được đặc biệt quan tâm.
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chỉ ra rằng, không thành công trên lĩnh
vực kinh tế thì không giữ vững được con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội
và không củng cố và hoàn thiện được hệ thống chính trị, hệ thống đó không
tránh khỏi thoái hóa, khủng hoảng và có thể sụp đổ. Rõ ràng là “giành được
chính quyền đã khó, nhưng giữ vững được chính quyền càng khó hơn”. Giữ
vững được chính quyền hay không phụ thuộc nhiều vào thắng lợi của đường
lối kinh tế của Đảng.
Qua hơn 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện (từ năm 1986),
nước ta đã chuyển đổi thành công từ mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
quan liêu bao cấp sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa. Trong quá trình đó, chúng ta vừa tổng kết thực tiễn, vừa nghiên cứu bổ
sung lý luận, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Tuy nhiên, quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã


5

hội chủ nghĩa ở nước ta chưa theo kịp yêu cầu của công cuộc đổi mới và hội
nhập quốc tế. Hệ thống luật pháp, cơ chế chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và
thống nhất. Các yếu tố thị trường, các loại thị trường hình thành và phát triển
chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Nhận thức về nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế kinh tế thị trường định hưỡng
xã hội chủ nghĩa còn nhiều hạn chế. Công tác lý luận của Đảng chưa theo kịp
đòi hỏi của thực tiễn. Những hạn chế ấy đã được thấy rõ trong thực tiễn phát
triển xã hội cũng như trong nhiều văn kiện, trong các đại hội Đảng thừa
Là công dân được sinh ra và lớn lên khi Đảng bắt đầu tiến hành lãnh
đạo đổi mới toàn diện đất nước, lại là sinh viên theo học ngành lịch sử Đảng,
em chọn đề tài “Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ năm 1986 đến năm 2006” làm đề
tài khóa luận của mình nhằm nhận thức rõ thêm về sự phát triển tư duy nhận
thức cũng như sự lãnh đạo của Đảng trong việc xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đồng thời mong muốn đưa
ra một số ý kiến nhận xét và các bài học kinh nghiệm để khắc phục những hạn
chế trên.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cả về mặt
phương diện thực tiễn và lý luận đã và đang trở thành một vấn đề cấp thiết,
trở thành mối quan tâm chung của toàn dân tộc.
Đã có nhiều hội thảo mang tầm cỡ quốc gia, quốc tế tiêu biểu như : Hội

thảo lý luận giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Trung Quốc
với chủ đề “Chủ nghĩa xã hội và kinh tế thị trường- Kinh nghiệm Trung Quốc
và kinh nghiệm Việt Nam” diễn ra hai ngày 8 và 9 tháng 10 năm 2003 tại thủ
đô Bắc Kinh- Trung Quốc
Đã có nhiều nghiên cứu của cá nhân và tập thể xung quanh vấn đề này


6

như : Đề tài khoa học cấp nhà nước KX 01 “Kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa” nghiệm thu 2005
Đã có nhiều cuốn sách có giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc xung
quanh vấn đề này như: “ Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” do
PGS.TS Mai Ngọc Cường chủ biên, “ Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do PGS.TS Đinh Xuân LýTS Phạm Công Nhất đồng chủ biên…
Ngoài ra còn hàng loạt các bài nghiên cứu, tham luận được đăng trên
các tạp chí như: Tạp chí Cộng sản, Lý luận chính trị, Nghiên cứu lý luận,
Nghiên cứu kinh tế…
Như vậy, vấn đề Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam đã được nghiên cứu ở nhiều cấp độ và
phương diện, song đây lại là đề tài luôn nóng bỏng và rất cần được quan tâm.
Mỗi một kỳ Đại hội, mỗi một giai đoạn lịch sử trôi qua,bằng những cách tiếp
cận khác nhau… chúng ta lại luôn có cái nhìn ngày càng mới mẻ và toàn diện
hơn về vấn để này. Bởi vậy, em mạnh dạn chọn đề tài này làm khóa luận tốt
nghiệp của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Mục đích của khóa văn là làm sáng tỏ quá trình nhận thức, tư duy lý
luận của Đảng từ khi tiến hành đổi mới kinh tế cũng như quá trình lãnh đạo
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ 1986 đến

2006. Trên cơ sở làm rõ vấn đề trên sẽ rút ra được những nhận xét và đưa ra
những bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ trước tới nay.


7

3.2. Nhiệm vụ
Bài khóa luận sẽ giải quyết những vấn đề sau:
- Làm rõ được đặc điểm bản chất và hạn chế của nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung, bao cấp mà Đảng ta xây dựng thời kỳ trước 1986.
- Nêu lên được những bước đột phá về tư duy kinh tế nhằm xác lâp
từng bước những yếu tố của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam.
- Làm rõ quá trình phát triển tư duy lý luận của Đảng về kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ đại hội VI (1986) đến Đại hội X
(2006).
- Nêu lên được những thành tựu và hạn chế trong quá trình Đảng lãnh
đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
qua đó đưa ra được những nhận xét và bài học kinh nghiệm.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được tính từ khi Đảng bắt đầu đổi
mới đường lối kinh tế, từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, cụ thể là từ đại hội Đảng VI (12-1986) đến trước đại
hội XI (1-2011). Trong quá trình làm luận văn, có mở rộng phạm vi nghiên
cứu ra trước năm 1986 để thấy rõ được những vấn đề về nền kinh tế kế hoạch
hóa, bao cấp khiến Đảng quyết định đổi mới và trình bày thêm về đường lối
xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mà đại hội lần
thứ XI (1-2011) nêu lên.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu

4.1. Nguồn tư liệu
Nguồn tư liệu được sử dụng trong khóa luận là các văn kiện đại hội
Đảng, các nghị quyết, báo cáo chính trị của Đảng, các bản báo cáo về sự phát
triển kinh tế của Đảng và một số địa phương gửi lên Trung ương…các sách


8

báo tuyên truyền về đường lối của Đảng…Ngoài ra có sử dụng các công trình
nghiên cứu của nhiều tác giả trong nước và nước ngoài liên quan đến vấn đề
kinh tế thị trường và Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Bài luận sử dụng kết hợp phương pháp lịch sử và phương pháp logic là
chủ yếu, có sử dụng các phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh, phân tích
tổng hợp trong từng nội dung cụ thể.
5. Đóng góp của khóa luận
- Khóa luận sẽ trình bày một cách tổng quát, dễ hiểu về quá trình Đảng
lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam từ những ngày đầu đổi mới đến nay.
- Khóa luận có thể dung làm tài liệu tham khảo cho việc học tập và
nghiên cứu về đường lối cách mạng của Đảng.
6. Bố cục khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, bố cục của khoá
luận sẽ gồm 3 chương :
Chương 1. Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung,
bao cấp thời kỳ trước năm 1986
Chương 2. Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từ năm 1986 đến 2006
Chương 3. Thành tựu, hạn chế và những bài học kinh nghiệm rút ra

trong quá trình Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam


9

Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ
KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG, BAO CẤP
THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1986

1.1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THEO CƠ CHẾ
KẾ HOẠCH HÓA TẬP TRUNG, BAO CẤP
1.1.1. Lý luận chung về kinh tế kế hoạch hóa
Kế hoạch hóa là gì? Theo từ điển tiếng việt thì kế hoạch hóa là tổ chức
và lãnh đạo công việc một cách có kế hoạch (thường là trên quy mô lớn).
Đối với lĩnh vực kinh tế, dựa vào cách thức giải quyết các vấn đề cơ
bản của kinh tế học, từ xưa tới nay các quốc gia luôn muốn tìm và xây dựng
cho mình những mô hình kinh tế thích hợp nhằm mang lại lợi ích lớn nhất về
kinh tế nói riêng và sự phát triển xã hội nói chung. Tổng hợp các mô hình
kinh tế trong lịch sử, ta thấy có ba mô hình kinh tế chủ yếu là : mô hình kinh
tế thị trường tự do, mô hình kinh tế mệnh lệnh (hay kế hoạch hóa tập trung)
và mô hình kinh tế hỗn hợp.
* Kinh tế thị trường (market economy) là nền kinh tế mà trong đó
các quyết định của các cá nhân về tiêu dùng các mặt hàng nào, các quyết định
của các doanh nghiệp về sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và các quyết
định của người công nhân về việc làm cho ai đều được thực hiện dưới sự tác
động của giá cả thị trường. Thị trường mà nhà nước không can thiệp vào gọi
là thị trường tự do hoàn toàn. Tuy nhiên, thị trường tự do hoàn toàn chỉ tồn tại
trong một thời gian ngắn, bởi Nhà nước vẫn phải có tác động khi có những

biến đổi kinh tế diễn ra, đặc biệt là các cuộc khủng hoảng kinh tế
* Kinh tế kế hoạch hóa tập trung (command economy hay centrallyplanned economy) là nền kinh tế mà trong đó chính phủ đưa ra mọi quyết


10

định về sản xuất và phân phối. Cơ quan kế hoạch của chính phủ quyết định sẽ
sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế nào, và phân phối cho ai. Sau đó, các
hướng dẫn cụ thể sẽ được phổ biến tới các hộ gia đình và các doanh nghiệp.
* Kinh tế hỗn hợp (mixed economy) là nền kinh tế mà trong đó chính phủ
vận hành nền kinh tế theo tín hiệu thị trường. Trong nền kinh tế hỗn hợp,
chính phủ có thể hạn chế được những khiếm khuyết cũng như phát huy những
ưu điểm của nền kinh tế kế họach hóa tập trung và nền kinh tế thị trường. Do
những tính ưu việt đó mà hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng mô
hình kinh tế hỗn hợp. Tùy theo mức độ chính phủ can thiệp vào nền kinh tế
mà một nền kinh tế có thể lệch về hướng thị trường hay kế hoạch tập trung.
Như vậy có thể thấy rằng, trong cả ba mô hình kinh tế từng tồn tại
trong lịch sử thì đều là nền kinh tế kế hoạch hóa, tức xây dựng một nền kinh
tế có kế hoạch, mỗi mô hình kinh tế đều có những ưu và khuyết điểm riêng.
Điểm khác biệt nhất của chúng là ở chỗ mức độ Nhà nước can thiệp vào nền
kinh tế là ít hay nhiều mà thôi.
Trong 3 mô hình kinh tế nói trên thì kinh tế kế hoạch hóa tập trung là
mô hình kinh tế mà Nhà nước can thiệp nhiều nhất tới tính kế hoạch của sự
phát triển kinh tế. Mô hình này đã từng được áp dụng ở Liên Xô cũ, ở Trung
Quốc là thời Đại nhảy vọt, và ở Việt Nam là từ sau 1954 đến trước 1986.
1.1.2. Nền kinh tế theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp ở nước ta
trước năm 1986
Có thể khái quát nền kinh tế nước ta trước đổi mới bằng công thức :
công hữu, kế hoạch hóa, phi thị trường, hay còn gọi đó là thể chế kinh tế kế
hoạch hóa tập trung bao cấp. Thể chế này có mấy biểu hiện đặc trưng sau đây:

- Các tư liệu sản xuất chủ yếu được công hữu hóa, với sự xác lập hai
hình thức sở hữu là toàn dân và tập thể, tương ứng với chúng là hai thành
phần kinh tế quốc doanh và tập thể.


11

- Kế hoạch hóa tập trung toàn bộ nền kinh tế quốc dân, Nhà nước trực
tiếp điều hành nền kinh tế thông qua các chỉ tiêu pháp lệnh theo hiện vật được
áp đặt từ trên xuống các đơn vị kinh tế cơ sở, hạch toán kinh tế chỉ là hình
thức.
- Không thừa nhận quan hệ thị trường, quan hệ hàng hóa- tiền tệ chỉ tồn
tại về mặt danh nghĩa, mà thực chất nó là nền kinh tế hiện vật có trao đổi
thông qua các hợp đồng kinh tế giữa Nhà nước với các đơn vị sản xuất dưới
hình thức cấp phát- giao nộp.
Với nền kinh tế này, Nhà nước ta nắm trực tiếp mọi khâu từ sản xuất,
lưu thông đến phân phối, mà bao cấp là một đặc trưng nổi bật:
Bao cấp giá đối với các yếu tố đầu vào sản xuất. Nhà nước quyết định
giá trị tài sản, thiết bị vật tư. Hàng hóa thấp hơn giá trị thực của chúng nhiều
lần so với thị trường. Các doanh nghiệp hoạt động trên cơ sở quyết định hành
chính của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Sản phẩm làm ra phải giao
nộp cho Nhà nước, Nhà nước chịu trách nhiệm lưu thông và phân phối. Lãi
Nhà nước hưởng, lỗ Nhà nước chịu.
Bao cấp vốn đối với đơn vị kinh tế cơ sở nhưng không có chế tài ràng
buộc trách nhiệm vật chất đối với các đơn vị được cấp vốn.
Bao cấp giá đối với hàng hóa tiêu dùng bằng quy định phân phối vật
phẩm tiêu dùng cho cán bộ, công nhân viên chức theo định mức tem phiếu, sổ
gạo đối với 6 mặt hàng thiết yếu là: gạo, thịt lợn, nước mắm, đường, chất đốt,
xà phòng giặt…có thời kỳ được bổ sung thêm vải, mỳ chính…
Giá bán dưới hình thức tem phiếu/ sổ gạo được gọi là giá chỉ đạo, hay

còn gọi là giá cung cấp. Ngoài 6 mặt hàng thiết yếu trên thì những mặt hàng
khác được bán bổ sung sát với giá thị trường, gọi là giá kinh doanh thương
nghiệp hay còn gọi là giá tự do. Cơ chế bán hàng theo 2 giá như vậy được gọi
là cơ chế hai giá. Với có chế này, tiền lương của người lao động được hiện vật


12

hóa, một phần được trả bằng tiền lương hàng tháng, một phần ẩn trong tem
phiếu/ sổ gạo được Nhà nước bao cấp giá.
Để đảm bảo sự vận hành của chế độ kinh tế hiện vật và bao cấp qua giá,
trong bộ máy Nhà nước đã hình thành một hệ thống cơ quan chuyên trách
quản lý vật tư, giá cả guồng máy cơ quan hành chính nhà nước rất bận rộn với
việc định giá, điều chỉnh giá, nhất là trước sức ép khi giá thị trường tự do tăng
lên nhanh chóng.
Thể chế kinh tế nêu trên hình thành ở nước ta có cả nguyên nhân bên
trong và nguyên nhân bên ngoài. Về nguyên nhân bên trong, miền Bắc đi lên
chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế hiện vật, tự cung tự cấp còn phổ biến,
kinh tế hàng hóa còn sơ khai, lại trải qua 9 năm kháng chiến chống Pháp đã
hình thành một hệ thống phân phối bằng hiện vật cho cán bộ, chiến sĩ. Về
nguyên nhân bên ngoài, đó là sự du nhập cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao
cấp vốn được hình thành ở Liên Xô trước đây, rồi sau đó được phổ biến trong
toàn bộ hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Cả lý do bên trong và bên ngoài
tương tác lẫn nhau, lại gặp phải bối cảnh nước ta còn chiến tranh, không ít
mặt của cơ chế đó phù hợp với yêu cầu chỉ đạo kinh tế thời chiến, từ sản xuất,
lưu thông đến phân phối.
Tuy nhiên, sau ngày miền Nam được giải phóng, đất nước thống nhất,
việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp đã dẫn
đến nhiều hệ lụy:
- Chế độ công hữu được thiết lập một cách nóng vội không những

không tạo được động lực mà còn kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển. Sở
hữu tư nhân không được thừa nhận đã làm cho mặt tích cực của các thành
phần kinh tế gắn với sở hữu tư nhân không được phát huy trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
- Cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp duy trì quá lâu đã tạo ra nhiều


13

lực cản đối với việc thực hiện các mục tiêu kinh tế- xã hội. Các cơ quan quản
lý hành chính Nhà nước can thiệp quá sâu vào hoạt động sản xuất kinh doanh
của các đơn vị nhưng lại không chịu trách nhiệm trước quyết định của mình,
vừa gay ra tình trạng thiếu trách nhiệm vừa đẩy các đơn vị sản xuất vào tình
trạng thụ động. Cơ chế đó gây lên tình trạng lãng phí, thất thoát tài sản Nhà
nước, tạo tư tưởng ỷ lại, dựa dẫm, lười biếng của các đơn vị kinh tế cơ sở,
triệt tiêu động lực sáng tạo của người lao động
- Không chú ý đầy đủ quan hệ hàng hóa tiền tệ vô hình chung đã đẩy
đất nước rơi vào nền kinh tế hiện vật (có trao đổi), không khai thác được vai
trò, sức mạnh của quan hệ hàng hóa tiền tệ để phát triển đất nước.
- Chế độ phân phối bình quân và bao cấp đã không gắn được kết quả
sản xuất với năng suất và hiệu quả lao động. Chủ đích đặt ra của phân phối
bình quân qua bao cấp là nhằm đảm bảo công bằng trong khâu phân phối kết
quả sản xuất nhưng việc tạo nên một hệ thống thương nghiệp nhà nước độc
quyền mua và bán, vô hình chung đã tạo nên những đặc quyền đặc lợi gắn
liền với những người nắm giữ: thị trường có tổ chức”, gây bất bình đẳng ngay
trong khâu phân phối. Phân phối hiện vật và bao cấp cũng tạo nên nghịch lý
trong xã hội : người có nhu cầu chưa hẳn được phân phối, còn người được
phân phối chưa hẳn đã có nhu cầu, tự nhiên thúc đẩy hình thành thị trường tự
do để cân đối lại quan hệ cung cầu.
Khủng hoảng kinh tế xã hội vào cuối thập niên 70, đặc biệt là đầu thập

niên 80 của thế kỷ trước là hệ lụy của việc duy trì quá lâu mô hình kinh tế nêu
trên. Do đó, đổi mới kinh tế trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, xuất phát từ
cả nhu cầu hoàn thiện mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa lẫn đòi hỏi thúc bách
của quần chúng.


14

1.2. NHỮNG BƯỚC ĐỘT PHÁ NHẰM XÁC LẬP TỪNG BƯỚC
NHỮNG YẾU TỐ CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam với
những gì đạt được hôm nay là sự vươn lên nhận thức đối với thể chế kế hoạch
hóa tập trung trước đó, là kết quả của một quá trình tìm tòi, phát triển tư duy
lý luận của Đảng.
Mốc đánh dấu sự khai mở một số yếu tố của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là quyết định của Hội nghị Trung ương sáu khóa IV
(9-1979). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa IV phủ định một số yếu tố
của thể chế kinh tế hoạch hóa tập trung bao cấp và đưa ra một số quyết định
có tính thay đổi sau:
- Thừa nhận quyền được bán nông sản của nông dân theo giá thỏa
thuận sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.
- Cần thiết phải kết hợp kế hoạch với thị trường, tuy nhiên thị trường
vẫn chỉ được xem là mặt thứ yếu, bổ sung cho kế hoạch hóa.
- Nhận thấy sự kết hợp cần thiết kết hợp đúng đắn giữa lợi ích Nhà
nước, tập thể và cá nhân lao động.
- Cho sản xuất bung ra với sự huy động của kinh tế tiểu chủ, tiểu
thương, hộ cá thể, tư sản với những hàng tiêu dùng mà ngoài phạm vi Nhà
nước quản lý và phân phối, riêng tư sản chỉ được tham gia sản xuất không
được tham gia lĩnh vực thương nghiệp.

- Gắn với nhận thức đó là “phải khẩn trương kiểm tra, rút kinh nghiệm,
uốn nắn những lệch lạc, thực hiện đúng chủ trương của Đảng về năm thành
phần kinh tế ở miền Nam để tận dụng mọi khả năng về lao động, kỹ thuật
quản lý nhằm phát triển sản xuất” [3,tr16]
Chủ trương nêu trên của Hội nghị Trung sáu khóa IV đã đột phá vào


15

vấn đề được xem là nguyên lý của thể chế kinh tế xã hội trước đổi mới, là chế
độ công hữu và kế hoạch hóa trực tiếp. Hay nói cách khác, việc chấp nhận tư
hữu và quan hệ thị trường tự do trong chừng mực nhất định đã làm cho thể
chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung bao cấp không còn tính thuần túy như vốn
có của nó, đặt ra nhu cầu phải thực hiện lại mô hình kinh tế cho phù hợp với
quy luật khách quan trong thời kỳ quá độ.
Sau nghị quyết Trung ương sáu khóa IV, nhiều quyết định khác nhằm
giải phóng sức sản xuất đã được đưa ra như Chỉ thị 100 (13-1-1981) của Ban
Bí thư Trung ương về khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động, đánh dấu
một bước đổi mới cơ chế quản lý kinh tế trong nông nghiệp; Quyết định
25/CP (21-1—1981) về một số chủ trương và biện pháp nhằm phát huy quyền
chủ động sản xuất- kinh doanh và quyền tự chủ và tài chính của các xí nghiệp
quốc doanh; Quyết định 26/CP (21-1-1981) về việc mở rộng hình thức trả
lương khoán, lương sản phẩm và vận dụng hình thức tiền thưởng trong các
đơn vị sản xuất, kinh doanh của Nhà nước.
“Những điều chỉnh đường lối trên đã tạo ra hình thái “song song tồn
tại” giữa kinh tế công hữu, kế hoạch hóa với kinh tế phi công hữu và thị
trường tự do. Hình thái “hai loại thị trường”, hai “cơ chế” trong một chế độ
kinh tế là nét đặc thù được khai mở từ sự quyết định của Nghị quyết Trung
ương sáu khóa IV.” [11, tr 216]
Sự xuất hiện thị trường tự do vốn tuân theo quy luật giá trị, , quy luật

cung cầu đã buộc Nhà nước phải luôn điều chỉnh giá hàng hóa ở thị trường có
tổ chức để theo kịp giá thị trường tự do. Thị trường tự do theo đó lớn dần lên,
tái sinh các chức năng vốn đã bị thủ tiêu trước đó và đặt ra tình huống : Nếu
không chấp nhận sẽ gây hỗn loạn thị trường, còn nếu chấp nhận thị phát huy
được sức mạnh của nó nhung yêu cầu Nhà nước phải cơ cấu lại chức năng của
mình để quản lý phù hợp. “ Cộng sinh và xung đột giữa hai loại thị trường,


16

hai cơ chế kinh tế thời kỳ trước đổi mới là đặc trưng của quá trình manh nha
thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.” [11,tr
217]
Tuy nhiên, quá trình khai mở các yếu tố của kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trước đổi mới không hề suôn sẻ. Các
quyền tự chủ hạn chế của các doanh nghiệp đã được thừa nhận nhưng luôn
đứng trước nguy cơ bị o ép, thu hồi. Thị trường hình thành 2 loại nhưng thực
chất là sự kỳ thị thị trường tự do, mỗi bước tiến của thị trường tự do nếu
không theo kịp thì sẽ xuất hiện tính chỉ huy của thị trường Nhà nước như
ngăn sông, cấm chợ, điều chỉnh giá cho sát với giá thị trường tự do. Quan hệ
ngoại thương với các nước ngoài phe xã hội chủ nghĩa đã được mở ra nhưng
còn e dè, đề cao cảnh giác. Vài trò của các thành phần kinh tế đã được thừa
nhận nhưng mới chỉ trong một số lĩnh vực, và không thiếu phần kỳ thị. Đó là
sự đan xen giữa cái mới tuy đã bắt đầu xuất hiện nhưng chưa sáng rõ, còn đơn
lẻ, thiếu tính hệ thống với cái cũ tuy bước đầu đã bị phủ định nhưng vần là
dòng chủ đạo và còn tính hệ thống. Vấn đề cốt lõi cho sự xác lập thể chể kinh
tế mới chính là xóa bỏ cơ chế hai giá, hai loại thị trường, hai loại hiện
vật…đang gây khó khăn trong quá trình quản lý kinh tế.
Hội nghị Trung ương lần thứ tám khóa VI (6-1985) đã nhận thức được
căn bệnh mấu chốt trên, chủ trương xóa bỏ cơ chế bao cấp, thực hiện cơ chế

một giá, chuyển sang hạch toán kinh doanh xã hội chủ nghĩa, thừa nhận quy
luật sản xuất hàng hóa.
Nghị quyết nêu lên ba nội dung quan trọng của cải cách là: giá cả, tiền
lương và tiền tệ.
Về cải cách giá cả, phải tính đủ chi phí trong giá thành sản phẩm, đảm
bảo tính đúng, tính đủ chi phí đầu vào, thực hiện cơ chế một giá thống nhất,
khắc phục tình trạng định giá tùy tiện ở nơi này hay nơi khác


17

Về cải cách tiền lương, thay chế độ lương tiền gắn với hiện vật bằng
chế độ tiền lương theo hướng bảo đảm cho người lao động tái tạo sức lao
động, gắn với chất lượng và hiệu quả lao động.
Về cải cách tiền tệ, đổi mới lưu thông tiền tề, thu hút tiền nhàn rỗi, đẩy
nhanh nhịp độ quay vòng đồng tiền, chuyển ngân hàng sang hạch toán kinh
doanh xã hội chủ nghĩa.
Cuộc tổng điều chỉnh giá- lương- tiền không thành công khi cơ chế hai
giá vẫn còn tồn tại. Sau điều chỉnh giá- lương- tiền người ta vẫn không thấy
một giá thống nhất như mong muốn mà tình trạng hai giá vẫn tồn tại và diễn
biến theo mặt bằng giá mới được kích hoạt bởi lạm phát. Tổng điều chỉnh giá
kèm theo đổi tiền cuối năm 1985 đã khiến lạm phát tăng lên dữ dội, kinh tế vĩ
mô bất ổn, sản xuất đình trệ, tăng trưởng suy giảm, nền kinh tế lâm vào tình
trạng khủng hoảng thực sự.
Mặc dù tổng điều chỉnh giá- lương- tiền không thành công, nhưng các
quan điểm về xóa bỏ bao cấp, thực hiện tiền tệ hóa tiền lương, cải cách hệ
thống tiền tệ và sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa- tiền tệ có ý nghĩa rất
quan trọng về mặt nhận thức trong quá trình xác lập thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Khủng hoảng ngày càng trầm trọng
không những không cản trở được tư duy đổi mới, mà kết luận của Bộ Chính

trị về một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế (8- 1986) diễn ra trước thềm Đại
hội VI tiếp tục khẳng định mạch tư duy đó, trong đó nhấn mạnh sự cần thiết
phải sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hóa- tiền tệ, dứt khoát xóa bở cơ chế tập
trung quan liêu bao cấp. Đây là quan điểm kinh tế được Bộ Chính trị kết luận
sau nhiều cuộc thảo luận, tranh cãi sôi nổi trong các cơ quan lãnh đạo Đảng
cũng như trên các báo chí lúc bấy giờ. Tháng 11-1986, trước thềm Đại hội VI
của Đảng, báo Nhân Dân đã đăng tài liệu phổ biến quan điểm mới này với
tiêu đề: “Một số vấn đề thuộc quan điểm kinh tế” với lời mở đầu: “…đây là
một vấn đề thuộc về tư tưởng, quan điểm của Đảng trên cơ sở kết quả nghiên
cứu tổng kết cho đến nay trong quá trình chuẩn bị Đại hội Đảng toàn quốc lần
thứ sáu của Đảng” [11,tr 220].


18

Chương 2
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM
TỪ NĂM 1986 ĐẾN NĂM 2006

2.1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.1.1. Khái niệm kinh tế thị trường và nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa
Nền sản xuất xã hội trong mọi giai đoạn phát triển đều vấp phải giới
hạn về nguồn lực sản xuất và giới hạn về khả năng thỏa mãn các nhu cầu của
con người, do đó như kinh tế học đã chỉ ra, vấn đề cốt yếu của các hệ thống
kinh tế là nhằm giải quyết ba vấn đề cơ bản: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế
nào? Sản xuất cho ai?
Căn cứ vào cách thức giải quyết ba vấn đề nêu trên lịch sử tiến hóa của

nhân loại có thể làm ba hệ thống lớn ( hay còn gọi là ba giai đoạn chủ yếu)
1.Hệ thống kinh tế tự nhiên
2.Hệ thống kinh tế hang hóa mà giai đoạn cao là kinh tế thị trường
3.Người ta cũng dự báo về một hệ thống kinh tế hậu thị trường, hậu
công nghiệp trong tương lai .
Kinh tế thị trường không phải là một giai đoạn độc lập khác biệt so với
kinh tế hàng hóa mà là giai đoạn phát triển cao của kinh tế hàng hóa.
Kinh tế thị trường là mô hình kinh tế mà ở đó các quan hệ kinh tế đều
được thực hiện trên thị trường, thông qua quá trình trao đổi mua bán. Nếu
kinh tế hàng hóa giản đơn chỉ dừng lại ở sự trao đổi sản phẩm thông qua thị
trường trên cơ sở giá trị và giá trị thị trường thì khái niệm kinh tế thị trường
phản ánh trạng thái tồn tại chuyển động của nền kinh tế thị trường, trong đó


19

tất cả các yếu tố sản xuất như thế nào, sản xuất cho ai, khối lượng bao nhiêu,
phân phối trao đổi ra sao… đều được giải quyết thông qua thị trường (đều do
thị trường quyết định theo sự chỉ dẫn của các quan hệ cung – cầu, giá cả…).
thực chất kinh tế thị trường không phải là phương thức sản xuất mà nó chỉ là
cách thức nền kinh tế có hiệu quả cao, là công nghệ để tổ chức nền kinh tế
được loài người sử dụng để phân bố hiểu quả các nguồn lực xã hội.
Kinh tế thị trường có một số đặc trưng cơ bản:
-Trong nền kinh tế thị trường tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất
cao, các chủ thể kinh tế hoàn toàn tự chủ trong sản xuất, kinh doanh trao đổi,
sản xuất. Họ tự bù đắp chi phí sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản
xuất kinh doanh của mình. Các chủ thể kinh tế được tự do kinh doanh theo
luật định. Đây là đặc trưng rất quan trọng của kinh tế thị trường, nó xuất phát
từ những điều kiện, kết quả của việc tồn tại nền kinh tế hàng hóa đồng thời
cũng là biểu hiện và là yêu cầu nội tại của nền kinh tế thị trường.

-Trong nền kinh tế thị trường hàng hóa rất đa dạng, phong phú, nhu cầu
về nguồn hàng cho cả sản xuất và tiêu dùng trong toàn xã hội được thỏa mãn.
Đặc trưng này thể hiện tính ưu việt hơn hẳn của kinh tế thị trường so với kinh
tế tự nhiên. Đồng thời, sự đa dạng và phong phú về số lượng và chủng loại
hàng hóa trên thị trường phản ánh trình độ cao của năng suất lao động; phản
ánh mức độ phát triển của quan hệ trao đổi; thể hiện trình độ phân công lao
động là hơn hẳn so với kinh tế hàng hóa giản đơn.
-Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là động lực, là môi trường để
phát triển kinh tế. Cạnh tranh là tất yếu, nó tồn tại do sự độc lập về lợi ích
kinh tế giữa các chủ thể. Theo yêu cầu của quy luật giá trị thì tất cả các đơn vị
sản xuất đểu sản xuất kinh doanh trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết.
Trong điều kiện đó muốn có nhiều lợi nhuận, thậm chí muốn tồn tại trong thị
trường thì các đơn vị sản xuất kinh doanh phải tìm mọi cách để cải tiến lại kỹ


20

thuật, áp dụng kỹ thuật mới vào sản xuất chi phí, nâng cao năng suất lao
động… thông qua đó lực lượng sản xuất không ngừng được phát triển.
-Cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường là cơ chế thị trường tự do
cạnh tranh, tức là thông qua thị trường để xác định giá trị sử dụng ( Sản xuất
cái gì? Sản xuất như thế nào) và giá trị ( đòi hỏi phải dựa trên hao phí lao
động xã hội cần thiết để hoạch tính kinh doanh). Cơ chế thị trường có thể kích
thích hoạt động của các chủ thể, tạo điểu kiện cho các hoạt động tự do của
chủ thể được phát huy nhờ đó các nguồn lực trong xã hội được động viên, sử
dụng hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, chỉ khi nào lực lượng sản xuất và phân công lao động xã hội
đạt tới trình độ cao, sản xuất hàng hóa phát triển cao, trao đổi hàng hóa trở
nên phổ biến và thị trường mở rộng, các thể chế phù hợp, các loại thị trường
hình thành đồng bộ và vận hành thông suốt thì mới có kinh tế thị trường.

Tính từ khi ra đời kinh tế thị trường đến nay có thể khái quát ba mô
hình kinh tế- Kinh tế thị trường tự do cạnh tranh ( free- macket Economy) là
nền kinh tế chịu sự điều tiết tự phát các quy luật kinh tế của sản xuất hàng
hóa. Trong nền kinh tế này, Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào sự phát
triển kinh tế mà chỉ tạo ra môi trường thuận lợi cho sự cạnh tranh tự do lành
mạnh, nhất là môi trường pháp lý.
Ví dụ: Luật công xưởng Anh năm 1864 là biểu hiện đầu tiên của sự can
thiệp Nhà nước chống lại hình thức tự phát của quá trình xã hội.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã chứng tỏ rằng khi tính
chất xã hội hóa sản xuất đã phát triển tới trình độ nhất định thì kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh không thể phát triển một cách hài hòa, ổn định, bởi
vậy phải có sự điều tiết của Nhà nước để hạn chế tác hại của tính tự phát vô
chính phủ của nền kinh tế thị trường. Nhưng sự can thiệp thái quá của Nhà
nước đến mức gần như triệt tiêu tính năng động của kinh tế thị trường đã dẫn


21

đến sự ra đời mô hình kinh tế chỉ huy (Command Economy) mà điển hình là
kinh tế kế hoạch hóa, tập trung, bao cấp ở Liên Xô và Đông Âu trước đây.
Trong mô hình kinh tế chỉ huy, nhà nước quyết định việc phân bố
nguồn lực, phương hướng đầu tư v.v..hầu như không tính đến nhu cầu thị
trường. Mô hình này có ưu điểm là tập trung được nguồn lực vào những mục
tiêu chủ yếu, nhưng nó thủ tiêu cạnh tranh nên đã kìm hãm tiến bộ kĩ thuật,
và khi chuyển từ phát triển kinh tế bề rộng sang chiều sâu là chủ yếu thì nó
cản trở lực lượng sản xuất dẫn đến trì trệ.
Thực tiễn đã chứng tỏ trong thời đại hiện nay cả hai mô hình kinh tế kể
trên đều kém hiệu quả, vì thế hầu hết các nước trên thế giới đều chuyển sang
mô hình kinh tế hỗn hợp (Mixed Economy), nghĩa là kết hợp kinh tế thị
trường tự do cạnh tranh với sự điều tiết của Nhà nước.

Tùy theo bản chất của Nhà nước và hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi
nước mà sự điều tiết sẽ nhằm những mục tiêu kinh tế- xã hội khác nhau, ưu
tiên lợi ích của giai cấp hay tầng lớp xã hội này hay của giai cấp hay tầng lớp
xã hội khác, mức độ can thiệp của nhà nước ít hay nhiều hơn.
Từ năm 1986, nước ta thực hiện đường lối đổi mới kinh tế, từ kế hoạch
hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vậy
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là gì?
Đại hội IX của Đảng (tháng 4-2001) xác định nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa là “một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân thủ theo
quy luật của kinh tế thị trường vừa dựa trên cơ sở và chịu sự dẫn dắt chi phối
bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội”. Trong nền kinh tế đó,
các thế mạnh của thị trường được sử dụng để “phát triển lực lượng sản xuất,
phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội,
nâng cao đời sống nhân dân”[5, tr.86-87], còn tính định hướng xã hội chủ
nghĩa được thể hiện trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất: sở hữu, tổ chức quản


22

lý và phân phối, nhằm mục đích cuối cùng là dân giàu nước mạnh, tiến lên
hiện đại trong một xã hội do nhân dân làm chủ, nhân ái, có văn hóa, có kỷ
cương, xóa bỏ áp bức và bất công, tạo diều kiện cho mọi người có cuộc sống
ấm no, tự do, hạnh phúc.
Nói kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thì trước hết, đó
không phải là kinh tế kế hoạch hóa tập trung cũng không phải là nền kinh tế
thị trường tư bản chủ nghĩa và cũng chưa hoàn toàn là kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa, vì chưa có đầy đủ các yếu tố xã hội chủ nghĩa.
2.1.2. Tính khách quan của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta
Logic lịch sử phát triển kinh tế của xã hội loài người cho thấy, trong

quá trình phát triển, tiến hóa về kinh tế của nhân loại, quốc gia nào cũng phải
trải qua một thời kỳ dài phát triển kinh tế tự nhiên, tự cấp tự túc. Và tuy sớm
muộn khác nhau nhưng quốc gia nào cũng đã, đang và sẽ bước vào giai đoạn
phát triển kinh tế hàng hóa mà giai đoạn cao của hình thái sản xuất này chính
là kinh tế thị trường.
Việc tổ chức nền kinh tế theo phương thức và nguyên tắc thị trường –
tạo khả năng huy động và khai thác tối đa mọi nguồn lực của xã hội cũng như
mọi nguồn tài nguyên thiên nhiên vào guồng máy sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần cho xã hội. Đồng thời, nó kích thích việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực đó. Tổ chức nền kinh tế theo phương thức và nguyên tắc thị trường
còn tạo môi trường thuận lợi, kích thích phát triển khoa học – công nghệ, sử
dụng hiệu quả thành tựu khoa học công nghệ. Sau đó khoa học công nghệ lại
cũng là nhân tố quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế thị trường phát triển nghĩa là
phát triển kinh tế hành hóa mà giai đoạn cao là kinh tế thị trường đã trở thành
con đường, là nấc thang phát triển tất yếu của bất kỳ một quốc gia nào trong
phát triển kinh tế nói riêng trong quá trình tiến bộ của dân tộc nói chung…


23

2.2. QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN TƯ DUY CỦA ĐẢNG VỀ KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
2.2.1. Sự xác lập bước đầu thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta (1986-1991)
Trước khi tìm hiểu về sự xác lập thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta, chúng ta tìm hiểu khái niệm về thể chế kinh tế thị
trường.
“Thể chế kinh tế thị trường là tổng thể bao gồm các bộ quy tắc, luật lệ
và hệ thống các thực thể, tổ chức kinh tế được tạo lập nhằm điều chỉnh hoạt
động giao dịch, trao đổi trên thị trường” [1,tr 155].

Thể chế thị trường bao gồm :
- Các quy tắc về hành vi kinh tế diễn ra trên thị trường- các bên tham
gia thị trường với tư cách là các chủ thể thị trường
- Cách thức thực hiện các quy tắc nhằm đạt được mục đích hay kết quả
mà các bên tham gia thị trường mong muốn.
- Các thị trường- nơi hàng hóa được giao dịch, trao đổi trên cơ sở các
yêu cầu, quy định của luật lệ (các thị trường quan trọng như hàng hóa và dịch
vụ, vốn, lao động, công nghệ, bất động sản…)
Xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước là một vấn đề phức tạp, để có thể định hình và tiếp tục hoàn thiện như
ngày hôm nay là cả một quá trình phát triển tư duy nhận thức lâu dài của
Đảng.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986) với những quyết định
lịch sử của nó đã mở ra bước ngoặt cho sự xác lập thể chế kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Ba quan điểm lớn trước đó của Bộ
chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa V kết luận đã được thể hiện trong
phần: “Những phương hướng cơ bản của chính sách kinh tế- xã hội” với 3 đề


24

mục: 1. Bố trí lại cơ cấu sản xuất, điều chỉnh lớn cơ cấu đầu tư; 2. Xây dựng
và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, sử dụng và cải tạo đúng đắn
các thành phần kinh tế; 3. Đổi mới cơ chế quản lý. Ba quan điểm lớn này tạo
bước ngoặt đổi mới toàn diện, có hệ thống về thể chế kinh tế ở Việt Nam:
-Thay vì xây dựng một cơ cấu kinh tế ngành gồm công nghiệp và nông
nghiệp, trong đó ưu tiên phát triển công nghiệp nặng để đẩy mạnh công
nghiệp hóa đã chuyển hẳn sang tạo một cơ cấu kinh tế hợp lý, chủ yếu hướng
vào 3 chương trình kinh tế lớn: lương thực- thực phẩm- hàng tiêu dùng và
hàng xuất khẩu.

- Thay vì cải tạo xã hội chủ nghĩa bằng công hữu hóa và tập thể hóa tư
liệu sản xuất, xóa bỏ tư hữu, chuyển sang sử dụng lâu dài cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần.
- Thay vì kế hoạch hóa pháp lệnh tập trung chuyển sang tạo lập cơ chế
sử dụng quan hệ hàng hóa- tiền tệ.
Tuy vậy do nhiều lý do chủ quan và khách quan, Đại hội VI vẫn có
những giới hạn nhất định khi nhận thức về thể chế kinh tế mới. Đại hội VI
phê phán cơ chế cũ nhưng vẫn tách rời giữa kế hoạch và thị trường, xem kế
hoạch hóa là đặc trưng thứ nhất, quan hệ hàng hóa- tiền tệ là đặc trưng thứ hai
của cơ chế quản lý kinh tế mới; khẳng định chính sách một giá là giá kinh
doanh thương nghiệp nhưng vẫn nhấn mạnh “phải có biện pháp tích cực khắc
phục từng bước tính tự phát của giá cả thị trường tự do; thừa nhận vai trò của
các thành phần kinh tế tiểu chủ, cá thể, tư sản nhưng mới chỉ cho phép tư sản
nhỏ được tổ chức, kinh doanh ở một số ngành nghề được tổ chức, kinh doanh
ở một số ngành nghề thuộc khu vực sản xuất, dịch vụ ở những nơi cần thiết
trong cả nước, quy mô và phạm vi hoạt động của tư bản tư nhân bị quy định
tùy theo ngành nghề và mặt hàng; phê phán quản lý hành chính mệnh lệnh,
chuyển các đơn vị kinh tế cơ sở sang hoạch toán kinh doanh nhưng vẫn quan


25

niệm kinh tế quốc doanh phải chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất và lưu thông
để giữ vững vai trò chủ đạo, chi phối các thành phần kinh tế khác.
Sau Đại hội VI, công cuộc đổi mới toàn diện dù đã được khởi động
nhưng tốc độ tiến triển chậm chạp, còn bộc lộ nhiều lúng túng. Hội nghị
Trung ương hai khóa VI (4-1987) nhấn mạnh việc xóa bỏ chế độ trao đổi hiện
vật, vận dụng rộng rãi phương thức mua bán theo giá thỏa thuận, phải tính
đúng, tính đủ đầu vào và xử lý từng bước đầu ra để không cản trở sản xuất và
lưu thông, không đội giá gây biến động thị trường. Hội nghị Trung ương ba

khóa VI (8-1987) quy định giảm các chỉ tiêu pháp lệnh, cho phép xí nghiệp
căn cứ vào nhu cầu thị trường trong và ngoài nước mà chủ động xây dựng
phương hướng phát triển dài hạn cũng như các kế hoạch 5 năm và hàng năm.
Dù đã có những điều chỉnh giá theo phương hướng đúng, tính đủ chi phí đầu
vào, đầu ra và giảm bớt chỉ tiêu pháp lệnh, nhưng tư duy đó vẫn tách rời kế
hoạch với thị trường, vẫn còn cơ chế hai giá, vẫn còn sử dụng giao chỉ tiêu
pháp lệnh về hiện vật cho doanh nghiệp, tức là vẫn tái phạm căn bệnh quản lý
bằng phương pháp hành chính mệnh lệnh. Do đó, mục tiêu bốn giảm (giảm
chi ngân sách, giảm tốc độ tăng giá, giảm lạm phát, giảm khó khăn đời sống
của Nghị quyết Trung ương hai không đạt được mà còn đổi thành 4 tăng, đẩy
nền kinh tế- xã hội những năm 1987-1988 rơi vào đỉnh điểm của khủng
hoảng. Cả guồng máy quản lý lại bị cuốn vào vòng xoáy thường niên là xây
dựng phương án điều chỉnh giá- lương-tiền, làm cho tình hình càng thêm rối
loạn, phức tạp. Thực trạng nền kinh tế đòi hỏi phải có quyết tâm chính trị cao
để đoạn tuyệt với cơ chế kế hoạch hóa tập trung bao cấp.
Hội nghị Trung ương sáu khóa VI (3-1989) đã đóng một mốc quan
trọng đối với quá trình xác lập thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta. Hội nghị đã tổng kết 2 năm thực hiện đường lối đổi mới
kinh tế của Đại hội VI, đánh giá những nguyên nhân chủ quan và khách quan


×