Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

ĐẢNG LÃNH đạo CÔNG tác xây DỰNG và PHÁT TRIỂN hộ PHỤ nữ VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG mỹ cứu nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.07 KB, 78 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

TRẦN THỊ BÍCH PHƯƠNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)

KHÓA LUẬN TỐT NGHỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

HÀ NỘI - 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2


KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
=====***=====

TRẦN THỊ BÍCH PHƯƠNG

ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRONG KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ, CỨU NƯỚC (1954-1975)
KHÓA LUẬN TỐT NGHỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
GV. Phạm Văn Giềng



HÀ NỘI - 2013


LỜI CẢM ƠN
Khóa luận “Đảng lãnh đạo công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ
Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” được hoàn
thành tại Khoa Giáo dục chính trị, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 dưới sự
hướng dẫn trực tiếp của GV Phạm Văn Giềng.
Để hoàn thành khóa luận này, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn chân thành nhất
tới thầy giáo Phạm Văn Giềng người đã hướng dẫn tận tình, góp ý trực tiếp
và giúp đỡ tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Tôi xin cảm ơn tới các thầy cô trong trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2,
đặc biệt là các thầy cô trong khoa Giáo dục chính trị đã giảng dạy tôi trong
suốt thời gian qua.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, thầy cô trong khoa
Giáo dục chính trị, tập thể lớp K35 Giáo dục công dân, các bạn sinh viên cùng
ngành các khóa K35, K36 Giáo dục công dân đã động viên, góp ý và tạo điều
kiện cho tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Trần Thị Bích Phương


LỜI CAM ĐOAN
Khóa luận tốt nghiệp này được hoàn thành dưới sự hướng dẫn của thầy
giáo Phạm Văn Giềng, tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của riêng

tôi. Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Tháng 05 năm 2013
Sinh viên

Trần Thị Bích Phương


BẢNG CHÚ THÍCH CÁC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Từ viết đầy đủ

BCH

Ban chấp hành

CNH-HĐH

Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

Hội LHPN

Hội Liên hiệp phụ nữ


XHCN

Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .......................................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .............................................................. 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................... 3
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 3
6. Đóng góp của khóa luận ............................................................................. 4
7. Kết cấu của khóa luận................................................................................. 4
CHƯƠNG 1: CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1954 .................................................................. 5
1.1. Quá trình ra đời và phát triển của Hội phụ nữ Việt Nam.......................... 5
1.2. Vai trò của công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ Việt Nam đối với
công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ........................................................ 11
CHƯƠNG 2: QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY DỰNG
VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ KHÁNG
CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975) ...................................... 19
2.1. Đường lối xây dựng và phát triển Hội phụ nữ Việt Nam của Đảng ........ 19
2.2. Công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ
kháng chiến chống Mỹ (1954-1975) ............................................................. 26
2.3. Một số kết quả và bài học kinh nghiệm ................................................. 49
KẾT LUẬN.................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 61
PHỤ LỤC .................................................................................................... 63



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại, ở tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh
tế, quân sự, ngoại giao, văn hóa - xã hội, phụ nữ luôn giữ vai trò hết sức quan
trọng. Đặc biệt, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phụ nữ Việt
Nam một lần nữa đã khẳng định vai trò của mình trên mọi lĩnh vực.
Sau năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can
thiệp Mỹ do Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách
mạng dân tộc dân chủ trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc
được hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của
thực dân và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền. Ở miền Bắc, mặc
dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu tranh kiên quyết của
nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối cùng đã rút khỏi Hà
Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp đã phải rút khỏi
miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc khẩn trương khôi
phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành thực hiện các nhiệm
vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhằm tạo tiền đề đưa miền Bắc
từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Ở miền Nam, lợi dụng sự thất bại và
khó khăn của thực dân Pháp, đế quốc Mỹ đã nhảy vào để thay chân Pháp
nhằm biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta
một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa cách
mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù hợp với
xu thế phát triển chung của thời đại. Để thực hiện được các nhiệm vụ, mục tiêu
đã đề ra đòi hỏi Đảng phải tập hợp mọi lực lượng. Vấn đề lực lượng cũng như
phương pháp tập hợp lực lượng cách mạng là một vấn đề lớn rất được Đảng ta
quan tâm, trong đó có vấn đề vận động, lãnh đạo phụ nữ đấu tranh.

1



Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề, tôi quyết định chọn đề tài:
“Đảng lãnh đạo công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ Việt Nam
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954-1975)” để nghiên cứu.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
- Những công trình tìm hiểu và giới thiệu về các phong trào đấu tranh

của phụ nữ cả nước cũng như của phụ nữ từng vùng, từng địa phương. Nghiên
cứu về đề tài phụ nữ Việt Nam đã có nhiều tác giả, nhiều công trình đề cập
đến: Tác phẩm: “Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam tập 1, tập 2” của tác giả
Nguyễn Thị Thập, Nxb Phụ nữ xuất bản (1981, 1982). Ngoài ra, Giáo sư Lê
Thị Nhâm Tuyết với quyển “Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại” đã làm nổi
bật vai trò phụ nữ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, từ buổi đầu
dựng nước đến năm 1968.
- Vấn đề đấu tranh của phụ nữ Việt Nam được đề cập đến trong các bài

viết, các báo cáo tổng kết, bảng tóm tắt thành tích của phụ nữ, trong các bài
phát biểu... đánh giá về vai trò của phụ nữ.
- Những công trình, bài viết, luận án tiến sĩ về phong trào đấu tranh của

phụ nữ Việt Nam trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Dựa trên kết quả nghiên cứu vô cùng quý báu của những người đi trước,
tôi cố gắng sưu tầm, bổ sung những nguồn tư liệu đang còn thiếu để tìm hiểu
về sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác xây dựng và phát triển tổ chức Hội
phụ nữ Việt Nam trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ ác liệt nhất
với những hình ảnh hào hùng xứng đáng với sự cống hiến lớn lao của người
phụ nữ Việt.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích

- Làm rõ quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện công tác vận

động phụ nữ của Đảng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, từ đó

2


rút ra những kinh nghiệm phục vụ công tác vận động phụ nữ trong giai đoạn
hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp hệ thống tư liệu về công tác vận động phụ nữ của Đảng trong

kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.
- Trình bày quá trình Đảng lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác vận động

phụ nữ của Đảng trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ.
- Khẳng định những thành tựu và hạn chế trong quá trình lãnh đạo chỉ đạo

thực hiện công tác vận động phụ nữ của Đảng từ năm 1954 đến năm 1975.
- Rút ra những đặc điểm và những kinh nghiệm phục vụ công tác vận

động phụ nữ của Đảng trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu của đề tài
Quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác xây dựng và phát triển Hội
phụ nữ trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, quá trình chỉ đạo thực
hiện và các kinh nghiệm của công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ của
Đảng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu về quá tình xây dựng và phát triển của Hội

phụ nữ Việt Nam từ năm 1954 đến năm 1975.
5. Phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở phương pháp luận
Đề tài chủ yếu sử dụng phương pháp luận chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin.
- Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở của phương pháp luận, đề tài sử dụng phương pháp nghiên cứu
lịch sử, phương pháp logic, phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, đối

3


chiếu để xử lí, chọn lọc những thông tin chính xác nhằm giải quyết tốt vấn đề
cần nghiên cứu.
6. Đóng góp của khóa luận
- Nêu lên quan điểm, chủ trương lãnh đạo, chỉ đạo công tác vận động

phụ nữ của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ 1954-1975, thể hiện qua các văn
kiện Đảng, các bài viết và nói của các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng.
- Trình bày các phong trào phụ nữ Việt Nam trên cơ sở thực hiện đường

lối, chủ trương của Đảng thời kỳ 1954-1975, qua đó làm nổi bật vai trò, sự
đóng góp của phụ nữ đối với sự nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước.
- Đánh giá, nhận xét về thành công, hạn chế trong lãnh đạo, chỉ đạo công

tác vận động phụ nữ của Đảng và đúc rút các kinh nghiệm lịch sử để vận dụng
vào thực tế công tác vận động phụ nữ hiện tại.
- Góp thêm nguồn sử liệu phục vụ công tác nghiên cứu về lịch sử Đảng,


lịch sử kháng chiến chống Mỹ, cứu nước nói chung và lịch sử phong trào phụ
nữ nói riêng.
- Động viên, giáo dục thế hệ trẻ, khơi dậy tinh thần yêu nước, tinh thần tự
hào dân tộc, truyền thống “uống nước, nhớ nguồn” đối với những hi sinh lớn
lao của các bà, các mẹ, các chị nói riêng và những người anh hùng nói chung.
7. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục thì khóa
luận gồm 2 chương, 5 tiết.

4


Chương 1
CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ
VIỆT NAM TRƯỚC NĂM 1954
1.1. QUÁ TRÌNH RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA HỘI PHỤ NỮ VIỆT
NAM
1.1.1. Quá trình ra đời
Lịch sử dân tộc Việt Nam là lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước.
Trong hàng ngàn năm lịch sử ấy, phụ nữ Việt Nam giữ một vai trò trọng yếu
và hiển nhiên trong lịch sử dân tộc.
Sinh ra trong một đất nước với nền văn minh lúa nước, phụ nữ Việt Nam
đã trở thành lực lượng lao động chính. Bên cạnh đó, nước ta luôn bị kẻ thù
xâm lược, đời sống nghèo khổ. Thực tế khiến người phụ nữ Việt Nam mang
những bản sắc riêng: Vừa là những chiến sĩ chống giặc ngoại xâm kiên cường
dũng cảm, vừa là những người lao động trí óc và lao động chân tay cần cù,
sáng tạo, thông minh, người nghệ sĩ bảo vệ, giữ gìn, phát huy bản sắc và tinh
hoa văn hóa dân tộc, đồng thời là người chủ gia đình dịu hiền, đảm đang,
trung hậu.
Vai trò, vị trí của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến luôn bị đánh giá

thấp. Họ bị những quy định ràng buộc chặt chẽ của xã hội phong kiến trói
buộc như “tam tòng tứ đức”, “công - dung - ngôn hạnh”. Quyền của người
phụ nữ cũng bị hạn chế hơn nhiều so với quyền của nam giới, ít có tiếng nói
trong gia đình và xã hội. Mặt khác, người phụ nữ luôn phải nín nhịn, chấp
nhận địa vị hèn kém của mình trong gia đình và ngoài xã hội. Họ không dám
đoàn kết nhau lại để đòi quyền lợi chính đáng về phía mình. Chính vì vậy,
thời kỳ phong kiến tổ chức hội phụ nữ không được đề cao.
Bên cạnh đó, phụ nữ là lớp người bị áp bức, bóc lột, chịu nhiều bất công
nên luôn có yêu cầu được giải phóng và sẵn sàng đi theo cách mạng. Ngay từ
5


những ngày đầu chống Pháp, phụ nữ đã tham gia đông đảo vào phong trào
Cần Vương, Đông Kinh Nghĩa Thục, Đông Du, còn nhiều phụ nữ nổi tiếng
khác tham gia vào các tổ chức tiền thân của Đảng như: Hoàng Thị Ái, Thái
Thị Bôi, Tôn Thị Quế, Nguyễn Thị Minh Khai...
Vào những năm 1927-1930, bên cạnh những tổ chức quần chúng như:
Công Hội Đỏ, Nông Hội Đỏ, các nhóm tương tế, tổ học nghề đã hình thành
nên nhiều nhóm phụ nữ:
- Năm 1927 nhóm chị Nguyễn Thị Lưu, Nguyễn Thị Minh Lãng, Nguyễn
Thị Thủy và ba chị em ở làng Phật Tích (Bắc Ninh) tham gia Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên, các chị tuyên truyền, xây dựng tổ chức học nghề đăng
ten gồm 30 chị vừa học nghề vừa học chữ.
- Nhóm chị Thái Thị Bôi có các chị Lê Trung Lương, Nguyễn Thị Hồng,
Huỳnh Thuyên tham gia sinh hoạt ở trường nữ học Đồng Khánh.
- Năm 1928, nhóm chị Nguyễn Thị Minh Khai cùng chị Nguyễn Thị
Phúc, Nguyễn Thị An tham gia sinh hoạt hội đỏ của Tân Việt. Nhóm này liên
hệ với chị Xân, chị Thiu, chị Nhuận, chị Liên thành lập tờ Phụ nữ giải phóng
ở Vinh.
Có thể thấy trước năm 1930, phụ nữ ở Việt Nam đã tập hợp nhau lại thành

những nhóm phụ nữ. Sở dĩ có sự hình thành các nhóm phụ nữ này vì họ cùng
chung một mục đích: Cùng học tập, lao động và chiến đấu. Tuy nhiên, do chưa
có hệ tư tưởng chung thống nhất, soi đường nên các nhóm phụ nữ này còn hoạt
động rời rạc, chưa có sự thống nhất nên mức độ đoàn kết chưa cao.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập. Trong Cương lĩnh chính
trị đầu tiên của Đảng đã ghi rõ: “Nam nữ bình quyền” [23,tr1]. Đảng đã sớm
nhận thức được phụ nữ là lực lượng quan trọng của cách mạng và đề ra nhiệm
vụ: Đảng phải giải phóng phụ nữ; Phụ nữ phải tham gia các đoàn thể cách
mạng (công hội, nông hội) và cần thiết phải thành lập tổ chức riêng cho phụ
nữ để lôi cuốn các tầng lớp phụ nữ tham gia cách mạng.
6


Chính vì vậy, ngay từ những năm 1930 một số tổ chức phụ nữ đã hình
thành như: Phụ nữ Liên Hiệp Hội (1930), Phụ nữ Giải Phóng (1930-1931),
Phụ nữ Dân chủ (1936-1939), Phụ nữ phản đế (1939-1941), Đoàn Phụ nữ cứu
quốc (tháng 6-1941). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ chức phụ nữ này là
hạt nhân nòng cốt trong việc vận động phụ nữ tham gia tích cực và góp phần
vào thắng lợi của cách mạng.
1.1.2. Quá trình phát triển
Quá trình phát triển của Hội phụ nữ gắn liền với lãnh đạo của Đảng. Hội
có tiền thân từ nhiều tổ chức phụ nữ như: Phụ nữ Giải Phóng, Phụ nữ Dân
chủ, Phụ nữ phản đế, Đoàn Phụ nữ cứu quốc.
Từ năm 1930 đến năm 1931, tổ chức “Phụ nữ Giải phóng” dần hình
thành, thu hút đông đảo phụ nữ tham gia vào cao trào đấu tranh cách mạng
(điển hình là phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh). Tổ chức đã tuyên truyền, vận
động phụ nữ tham gia đấu tranh đòi quyền lợi kinh tế, đòi cải thiện đời sống,
chống áp bức của đế quốc phong kiến.
Thời kỳ 1936-1939, trước yêu cầu của cách mạng, Nghị quyết Hội nghị
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương tháng 8-1937 về

công tác vận động phụ nữ đặt ra nhiệm vụ chống phát xít, chống chiến tranh
bằng hình thức công khai, hợp pháp. Vì vậy, tổ chức cách mạng của phụ nữ
được đổi thành Hội phụ nữ Dân chủ. Hội đã tuyên truyền đường lối, quan
điểm của Đảng về giải phóng phụ nữ, nam nữ bình đẳng và tổ chức các hoạt
động gắn với tính chất ngành nghề của phụ nữ để đấu tranh đòi tự do dân chủ,
đòi quyền lợi cho phụ nữ.
Tháng 9 năm 1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ. Đảng chủ
trương: Vận động phụ nữ tổ chức các hội phụ nữ phản chiến, các hội cứu tế,
bảo an, để giúp đỡ nhau... chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình. Để phù
hợp với tình hình, Hội lấy tên là Hội phụ nữ Phản đế. Hội đã vận động lực

7


lượng phụ nữ tham gia mít tinh, biểu tình, lập các hội cứu tế, bảo an, tham gia
chống bắt lính với khẩu hiệu chống đế quốc chiến tranh, đòi hoà bình, đòi bồi
thường chiến tranh.
Đầu năm 1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Tại Hội nghị lần thứ 8 của Trung ương Đảng (tháng 5-1941),
Đảng đã ra một quyết định thành lập Mặt trận Việt Minh - tập hợp tất cả lực
lượng yêu nước, kêu gọi toàn dân tiến lên Tổng khởi nghĩa, giành chính
quyền trong cả nước.
Ngày 16-6-1941, Đoàn Phụ nữ Cứu quốc được thành lập. Dưới sự lãnh
đạo của Đảng, đoàn Phụ nữ cứu quốc đã vận động các tầng lớp phụ nữ gia
nhập Mặt trận Việt Minh, gia nhập các đoàn thể cứu quốc đánh Pháp, đuổi
Nhật, xây dựng và bảo vệ cơ sở cách mạng. Phụ nữ là lực lượng hùng hậu,
đóng góp lớn vào thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nhân dân ta và chính quyền
cách mạng đứng trước những khó khăn, thử thách hết sức nặng nề: Lần đầu
tiên điều hành, quản lý một đất nước, một chính quyền non trẻ; một mặt tiến

hành kiến thiết, xây dựng, củng cố chính quyền mới, mặt khác tổ chức các
cuộc vận động chống giặc đói, giặc dốt; đối phó với các lực lượng phản động
trong nước và nước ngoài…
Trong bối cảnh đó, chủ trương lớn của Đảng là mở rộng mặt trận thống
nhất dân tộc, thành lập các tổ chức đoàn thể nhằm tập hợp, động viên, khích
lệ đông đảo lực lượng quần chúng yêu nước không phân biệt dân tộc, giai cấp,
đảng phái.
Thực hiện chủ trương trên, ở Hà Nội, hội viên Đoàn Phụ nữ Cứu quốc
được tập hợp lại. Tháng 10-1945, Ban chấp hành Phụ nữ Cứu quốc Thành
Hoàng Diệu (Hà Nội) được thành lập.

8


Trong năm 1946, Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị đại biểu phụ nữ các
khu, tỉnh miền Bắc do đồng chí Đỗ Mười chủ trì. Hội nghị đã bầu ra Ban liên
lạc Phụ nữ xứ Bắc Bộ, bà Lê Thu Trà được bầu làm trưởng ban.
Tháng 4-1946, đồng chí Phạm Văn Đồng trong phái đoàn thiện chí của
Quốc hội nước ta sang thăm Pháp đã trực tiếp gặp bà Eugenie Cotton, Hội
trưởng Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Pháp, Chủ tịch Liên đoàn Phụ nữ Dân
chủ Quốc tế tìm hiểu về tổ chức, mục tiêu và hoạt động của Hội LHPN Pháp
và Liên đoàn. Khi về nước, đồng chí Phạm Văn Đồng đã báo cáo với Chủ tịch
Hồ Chí Minh về những thông tin đã tìm hiểu được. Chủ tịch Hồ Chí Minh và
Trung ương Đảng đã chỉ thị việc thành lập tổ chức Hội LHPN Việt Nam để
tập hợp rộng rãi các tầng lớp phụ nữ trong cả nước; đồng thời chỉ đạo Tổ chức
Hội LHPN Việt Nam phải gia nhập Liên đoàn phụ nữ Dân chủ quốc tế để
đóng góp vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình, dân chủ và tiến bộ của phụ nữ thế
giới, góp phần nâng cao vị thế của phụ nữ Việt Nam, tranh thủ sự giúp đỡ của
phụ nữ thế giới đối với phụ nữ Việt Nam.
Nhận chỉ thị của Bác, đồng chí Phạm Văn Đồng đã gặp bà Lê Thu Trà

(lúc đó là Bí thư Phụ nữ Cứu quốc Thành Hoàng Diệu – Hà Nội, kiêm trưởng
Ban Liên lạc Phụ nữ Xứ Bắc Bộ) truyền đạt ý kiến của Bác và đề nghị xúc
tiến việc thành lập tổ chức Hội LHPN Việt Nam, trong đó việc đầu tiên là làm
đơn xin gia nhập Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế để tháng 6-1946, khi
đoàn của Chính phủ sang dự Hội nghị Fontainebleau sẽ gửi đơn cho Liên
đoàn Phụ nữ Dân chủ Quốc tế. Lá đơn do bà Lê Thu Trà ký nhân danh Đoàn
Phụ nữ Cứu quốc.
Sau khi nhận được đơn xin gia nhập của Phụ nữ Việt Nam, tháng 7-1946,
Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ quốc tế đã gửi thư trả lời bày tỏ sự ủng hộ đối với
phụ nữ Việt Nam. Bên cạnh sự ủng hộ của Liên đoàn, một số tổ chức phụ nữ
ở các nước cũng khẳng định sự ủng hộ đối với phụ nữ Việt Nam.

9


Cùng thời điểm, việc xây dựng dự thảo Điều lệ Hội LHPN Việt Nam
được tiến hành song song với việc vận động phụ nữ tiêu biểu tham gia tổ chức
Hội.
Ban sáng lập Hội LHPN Việt Nam gồm các bà: Phan Thị An, Nguyễn
Khoa Diệu Hồng, Phùng Thị Cúc, Nguyễn Thị Kim, Nguyễn Thị Thục Viên,
Lê Thị Xuyến, Lê Hằng Phương, Trương Thị Nghĩa, cụ Cả Mọc và phu nhân
của một số nhà tri thức yêu nước như bà Nguyễn Thúy An, bà Trịnh Thị
Điền…
Sau một thời gian tích cực chuẩn bị, ngày 3-10-1946, Bộ trưởng Nội vụ
Huỳnh Thúc Kháng đã ký Nghị định cho phép thành lập Hội LHPN Việt
Nam. Ngày 17-10-1946, báo Cứu quốc đăng toàn văn nội dung Lời Hiệu triệu
của Hội LHPN Việt Nam.
Ngày 20-10-1946, từ các tổ chức tiền thân, trước yêu cầu mới của cách
mạng và phong trào phụ nữ cả nước, Hội chính thức mang tên Hội LHPN Việt
Nam và làm lễ ra mắt tại Quảng trường Nhà hát lớn, Thủ đô Hà Nội. Lần đầu

tiên trong lịch sử nước ta, một đoàn thể quần chúng của phụ nữ được
hoạt động hợp pháp và công khai nhằm đoàn kết, động viên lực lượng
phụ nữ đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng của đất nước. Năm
1948, Hội LHPN Việt Nam chính thức gia nhập Liên đoàn Phụ nữ Dân chủ
Quốc tế.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội đã khích lệ, động viên các tầng lớp phụ
nữ đoàn kết thành một khối, hăng hái tham gia đóng góp, góp phần thực hiện
thành công các nhiệm vụ cách mạng của dân tộc; khẳng định vị thế, vì sự tiến
bộ, phát triển của phụ nữ Việt Nam và phụ nữ trên toàn thế giới.
Sau năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia làm hai miền với 2 chiến lược
cách mạng khác nhau. Xuất phát từ điều kiện đó, ở miền Bắc, Hội LHPN Việt
Nam tiếp tục lãnh đạo, vận động các tầng lớp phụ nữ khôi phục kinh tế, xây

10


dựng Chủ nghĩa xã hội (CNXH), chống chiến tranh phá hoại của đế quốc Mỹ.
Hội đã tham mưu cho Đảng, Nhà nước ban hành các chính sách tiến bộ về
phụ nữ.
Để đáp ứng yêu cầu cách mạng ở miền Nam, ngày 8-3-1961, Hội LHPN
giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Dưới sự lãnh đạo của Hội,
phụ nữ miền Nam luôn đứng trên tuyến đầu chống Mỹ, lập nên những kỳ tích
xứng đáng với 8 chữ vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.
Sau ngày đất nước giải phóng, Đảng chủ trương thống nhất các đoàn thể
nhân dân. Vì vậy, tháng 6-1976, Hội nghị hợp nhất tổ chức Phụ nữ ở hai miền
được tổ chức. Hội LHPN Việt Nam và Hội LHPN giải phóng miền Nam Việt
Nam thống nhất thành Hội LHPN Việt Nam với nhiệm vụ mới: Giáo dục
động viên phụ nữ cả nước tham gia bảo vệ và xây dựng đất nước theo con
đường xã hội chủ nghĩa (XHCN). Dù tên gọi có nhiều thay đổi cho phù hợp
với từng giai đoạn cách mạng, nhưng trước sau vẫn là tổ chức kiên trung của

Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Từ năm 1976 đến nay, Hội LHPN Việt Nam lớn mạnh không ngừng, là tổ
chức chính trị - xã hội nòng cốt, đóng góp to lớn vào thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đồng thời, Hội đã đạt được những bước tiến dài trên con đường
tạo lập vị thế bình đẳng cho phụ nữ Việt Nam.
1.2. VAI TRÒ CỦA CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI
PHỤ NỮ VIỆT NAM ĐỐI VỚI CÔNG CUỘC XÂY DỰNG VÀ BẢO VỆ
TỔ QUỐC
Lịch sử dân tộc Việt Nam đã khẳng định vai trò và những đóng góp to lớn
của phụ nữ Việt Nam trong các thời kỳ xây dựng và phát triển đất nước. Ở
mỗi thời kỳ khác nhau, địa vị của người phụ nữ ngày càng được khẳng định.
Theo những tài liệu khảo cổ học, trong xã hội nguyên thủy, Việt Nam đã
tồn tại thời kỳ Mẫu quyền khá dài với vai trò quan trọng, quyết định của

11


người phụ nữ trong gia đình và xã hội. Phụ nữ là lực lượng chính sản xuất ra
những giá trị vật chất và giá trị tinh thần. Phụ nữ là người chủ yếu giữ việc hái
lượm, tham gia săn bắt, rồi làm nghề nông nguyên thủy, chăn nuôi, thủ công
cùng với công việc trong nhà.
Bước sang thời đại xã hội có giai cấp, vai trò của người phụ nữ Việt Nam
vẫn được khẳng định. Họ là người tham gia đầy đủ vào tất cả hoạt động lao
động trong xã hội và gia đình. Đó là tiền đề để người phụ nữ Việt Nam cổ đại
vẫn tiếp tục có những cống hiến lớn lao vào lịch sử dân tộc.
Trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc cũng như trong cuộc sống
thường ngày, phụ nữ Việt Nam có vị trí và vai trò to lớn. Nhận rõ vị trí, vai
trò của người phụ nữ Việt Nam trong mọi giai đoạn cách mạng, Đảng ta,
đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm quan tâm tới việc bồi dưỡng và
phát triển khả năng to lớn của phụ nữ. Ngay từ năm 1927, trong cuốn “Đường

Kách mệnh”, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: “Muốn thế giới cách mệnh
thành công thì phải vận động đàn bà” và “An nam cách mệnh phải có nữ giới
tham gia mới thành công”. Sau cách mạng tháng Tám, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã chỉ rõ, một trong những nhiệm vụ quan trọng của cách mạng là phải giải
phóng phụ nữ. Người nói: “Phụ nữ là phần nửa của xã hội, nếu không giải
phóng phụ nữ thì không giải phóng một nửa loài người” [22,tr531].
Không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất, người phụ nữ còn đóng
vai trò quan trọng trong đấu tranh chính trị, xây dựng CNXH. Muốn xây dựng
CNXH trước hết phải xây dựng con người CNXH. Con người CNXH ở đây
không thể bỏ qua một lực lượng đông đảo là phụ nữ.
Nói đến vai trò chính trị của người phụ nữ, V.I.Lênin cho rằng: Không
thu hút được phụ nữ tham gia công tác xã hội, đi dân quân, đi vào sinh hoạt
chính trị, nếu không kéo họ thoát khỏi khó khăn, mụ mẫm của việc nội trợ và
bếp núc, thì không thể nào bảo đảm được tự do thật sự, không thể nào xây
dựng được chế độ dân chủ, chứ đừng nói gì xây dựng CNXH nữa [19,tr320].
12


Sinh thời Bác Hồ luôn quan tâm và đánh giá cao vị trí vai trò của phụ nữ
trong quá trình phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam. Bác từng nhấn mạnh:
“Non sông gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cùng già, ra sức dệt thêu
mà thêm tốt đẹp, rực rỡ... Nhân dân ta anh hùng là nhờ có các bà mẹ Việt
Nam anh hùng... Dân tộc ta và Đảng ta đời đời biết ơn các bà mẹ Việt Nam đã
sinh ra và cống hiến những người ưu tú, đã và đang chiến đấu anh dũng tuyệt
vời bảo vệ non sông gấm vóc do tổ tiên ta để lại” [26,tr186].
Người còn khẳng định:
“…người phụ nữ dũng cảm có thể hoàn thành mọi nhiệm vụ mà người
đàn ông dũng cảm có thể làm, dù nhiệm vụ ấy đòi hỏi rất nhiều tài năng và
nghị lực như việc lái các con tàu vũ trụ Phương Đông” [25,tr97].
Tại Đại hội đại biểu Phụ nữ toàn quốc lần thứ III, Chủ tịch Hồ Chí Minh

đã nói:
“Tất cả phụ nữ phải hăng hái nhận lấy trách nhiệm của người làm chủ đất
nước, tức là phải ra sức thi đua tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm để
xây dựng nước nhà, xây dựng CNXH. Muốn làm tròn nhiệm vụ vẻ vang đó,
phụ nữ ta phải xoá bỏ cái tâm lý tự ty và ỷ lại; phải có ý chí tự cường, tự
lập… Phụ nữ phải nhận rõ địa vị người làm chủ và nhiệm vụ người làm chủ
nước nhà; phải có quyết tâm mới, đạo đức mới, tác phong mới để góp phần
xứng đáng vào công cuộc xây dựng CNXH” [23,tr294].
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Bác không chỉ quan tâm
đến sự nghiệp giải phóng phụ nữ mà còn nhìn thấy sức mạnh to lớn của họ
đối với cách mạng và Bác cũng là người tiếp thêm sức mạnh cho họ vùng dậy
đấu tranh, giành độc lập dân tộc. Bác nêu ra nhiều tấm gương chiến đấu hy
sinh của phụ nữ vì Tổ quốc như Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng từ buổi bình
minh của lịch sử và kêu gọi phụ nữ: Như buổi ấy là buổi phong kiến mà đàn
bà, con gái còn biết cách mệnh. Huống chi bây giờ hai chữ “nữ quyền” đã rầm

13


rầm khắp thế giới, chị em ta lại gặp cảnh nước suy vi, nỡ lòng nào ngồi yên
được! Chị em ơi! Mau mau đoàn kết lại! Từ ngày dân Việt Nam tranh được
chính quyền, phụ nữ đều ra sức gánh vác công việc. Nào giúp đỡ chiến sĩ,
tăng gia sản xuất. Nào chống nạn mù chữ, tham gia tuyển cử, Tuần lễ vàng,
Đời sống mới…, việc gì phụ nữ cũng hăng hái.
Trong các cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc
Mỹ xâm lược, nhiều phụ nữ đã tham gia kháng chiến và làm tròn trọng trách
cách mạng mà Đảng và Nhà nước giao phó. Nhiều người là cán bộ lãnh đạo,
là anh hùng, chiến sĩ thi đua trong lao động và chiến đấu, là dũng sĩ từ tiền
tuyến lớn miền Nam có dịp ra thăm miền Bắc XHCN đã được Bác Hồ ân cần
đón tiếp, tặng hoa và quà, được ăn cơm hoặc xem văn nghệ cùng Người. Bác

Hồ luôn luôn coi lực lượng phụ nữ là một bộ phận không thể tách rời của cách
mạng, một trong những nhân tố quan trọng bảo đảm mọi thắng lợi của sự
nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Vì
vậy, ghi nhận những thành tích đóng góp của phụ nữ trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước vĩ đại của dân tộc, Người tặng phụ nữ Việt Nam 8 chữ
vàng: “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang” và khẳng định: “Non sông
gấm vóc Việt Nam do phụ nữ ta, trẻ cũng như già, ra sức dệt thêu mà thêm tốt
đẹp, rực rỡ” [26,tr186]. Đây chính là sự khẳng định của Bác về vị trí, vai trò
không thể thiếu của phụ nữ Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc
cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay.
Trong thư gửi Phụ nữ nhân dịp kỷ niệm khởi nghĩa Hai Bà Trưng và
Quốc tế Phụ nữ ngày 8-3-1952, Bác khẳng định: Trong cuộc kháng chiến to
lớn của dân tộc ta, phụ nữ ta đang gánh một phần quan trọng… Nhiều bà cụ
ngoài bảy tám mươi tuổi, chẳng những đã xung phong đi dân công, mà còn
thách thi đua với các cụ ông và con cháu… Những phụ nữ chân yếu tay mềm
mà “giặc đến nhà đàn bà cũng đánh” đã góp phần không nhỏ đem đến thắng

14


lợi “lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu” trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại,
giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước.
Như vậy có thể thấy trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, phụ nữ
là một lực lượng hùng hậu, một nguồn sức mạnh to lớn. Chính vì vậy, một
yêu cầu cấp bách đặt ra là phải làm sao tập hợp được nguồn sức mạnh dồi dào
này phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghị quyết của Hội nghị
Trung ương I (1930) của Đảng đã phân tích: Lực lượng cách mạng của phụ
nữ là một cái lực lượng trọng yếu. Nếu quảng đại quần chúng phụ nữ không
tham gia vào những cuộc đấu tranh cách mạng thì cách mạng không thể thắng
lợi được. Để phát huy được sức mạnh to lớn của đông đảo phụ nữ thì một yêu

cầu cấp bách đặt ra lúc này là phải lập ra một đoàn thể quần chúng của riêng
phụ nữ. Ngày 20-10-1946, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam chính thức được
thành lập.
Hội LHPN là một tổ chức quần chúng cách mạng của Đảng, có truyền
thống đoàn kết và giác ngộ chính trị cho các tầng lớp phụ nữ tích cực tham
gia cách mạng XHCN, đồng thời đấu tranh để thực hiện nam nữ bình đẳng,
giải phóng phụ nữ. Trong từng giai đoạn cách mạng, các cấp uỷ Đảng càng
cần nhận rõ tác dụng của Hội LHPN, đề cao vai trò của Hội, sử dụng tổ chức
Hội đúng với chức năng của một tổ chức quần chúng. Ngay sau khi thành lập,
Hội LHPN Việt Nam đã xác định cho mình những nhiệm vụ:
Thứ nhất, giáo dục, động viên các tầng lớp phụ nữ thực hiện tốt nhiệm vụ
và các chính sách sản xuất, phục vụ chiến đấu và chiến đấu chống Mỹ, cứu
nước. Phát huy và cổ vũ phong trào “Ba đảm đang” của phụ nữ miền Bắc thi
đua với phụ nữ miền Nam thành phong trào sâu rộng và vững chắc. Giáo dục
ý thức nam nữ bình đẳng, giải phóng phụ nữ, và hướng dẫn phụ nữ phấn đấu
để thực hiện nam nữ bình đẳng.
Thứ hai, phối hợp với các ngành làm tốt công tác phúc lợi đối với phụ nữ
và trẻ em. Hướng dẫn, tổ chức tốt đời sống thích hợp với thời chiến và bảo vệ
sức khoẻ, giải quyết khó khăn cho phụ nữ.
15


Thứ ba, kiểm tra việc thực hiện các luật pháp, chế độ, chính sách của
Đảng và Nhà nước về quyền lợi phụ nữ và trẻ em. Đề xuất với Đảng và Nhà
nước bổ sung những chính sách và chế độ cần thiết đối với phụ nữ và trẻ em.
Thứ tư, xây dựng tổ chức Hội vững mạnh, nhất là ở cơ sở. Bồi dưỡng, đào
tạo đội ngũ cán bộ Hội trong phong trào sản xuất và chiến đấu [6,tr15].
Công tác xây dựng và phát triển Hội phụ nữ được chú trọng có ý nghĩa to
lớn trong việc phát huy sức mạnh của lực lượng phụ nữ trong sản xuất và bảo
vệ Tổ quốc, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Đối với nhiệm vụ huy động phụ nữ tham gia sản xuất nông nghiệp, Hội
LHPN có trách nhiệm giáo dục cho phụ nữ quán triệt phương hướng, nhiệm
vụ, kế hoạch sản xuất và ý nghĩa của các chỉ tiêu chính về sản xuất, động viên
phụ nữ quyết tâm thực hiện các chỉ tiêu, các biện pháp kỹ thuật để bảo đảm
hoàn thành kế hoạch Nhà nước. Các cấp Hội phát hiện và đề xuất những yêu
cầu với cấp uỷ và các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm để tạo điều kiện cho
phụ nữ sản xuất tốt như: Hướng dẫn kỹ thuật, giải quyết công điểm hợp lý,
giải quyết khó khăn về gia đình, con cái, bảo hộ lao động, v.v... Việc trực tiếp
chỉ đạo và quản lý sản xuất, hướng dẫn kỹ thuật là trách nhiệm của các ngành,
các cơ quan phụ trách sản xuất, kỹ thuật.
Hội LHPN chủ động đề xuất với các ngành có liên quan những yêu cầu về
công tác vận động phụ nữ để các ngành kịp thời đưa vào chương trình của các
ngành. Hội tuyên truyền và phổ biến những kinh nghiệm của quần chúng, xây
dựng những điển hình phụ nữ về các mặt, để làm kiểu mẫu vận động phụ nữ
noi theo, giúp các cấp uỷ và các ngành những kinh nghiệm cụ thể trong công
tác lãnh đạo phụ nữ.
Ngay sau khi ra đời tổ chức Hội phụ nữ đã tuyên truyền giác ngộ quần
chúng, xây dựng cơ sở Đảng, làm giao thông liên lạc từng bước phát động chị
em tham gia đấu tranh chống bọn chủ bóc lột, đòi quyền lợi hàng ngày, tham

16


gia rải truyền đơn, diễn thuyết, cắm cờ cách mạng, tiến lên khởi nghĩa cướp
chính quyền góp phần to lớn làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945
thành công. Từ đây mở ra kỷ nguyên độc lập tự do cho toàn dân tộc, đem đến
sự đổi mới cho phụ nữ từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ xã hội, phát
huy tài năng tham gia các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội...
Những chiến công oanh liệt của nhân dân ta trong suốt 30 năm đấu tranh
gian khổ chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược mãi mãi là thiên anh

hùng ca bất diệt trong hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc.
Trong đó có công lao đóng góp to lớn của phụ nữ. Trang sử dân tộc mãi mãi
còn ghi những chiến công vang dội của các đội nữ dân quân du kích, biệt động
nội thành, các đội pháo binh... giáp mặt với quân thù, linh hoạt mưu trí giáng
cho địch những đòn bất ngờ, bắn rơi máy bay, bắn cháy tàu chiến Mỹ, các đội
dân công hỏa tuyến, các đội nữ thanh niên xung phong dũng cảm, xẻ dọc
Trường Sơn đi cứu nước, hàng chục vạn nữ chiến sĩ đã cống hiến cả tuổi thanh
xuân cho sự nghiệp kháng chiến cứu nước vĩ đại. Lịch sử còn ghi những kỳ tích
lẫy lừng của hàng triệu các má, các chị ở tuyến đầu với “Đội quân tóc dài” nổi
tiếng trong thế trận 3 mũi giáp công chống phá ấp chiến lược.
Non sông gấm vóc ngàn năm vẫn tô thắm những hình ảnh sáng ngời chủ
nghĩa anh hùng cách mạng của hàng triệu phụ nữ “Năm tốt” ở Miền Nam,
“Ba đảm đang” ở Miền Bắc, vừa lao động xây dựng đất nước, vừa chi viện
sức người sức của cho tiền tuyến, gánh vác việc nước, đảm đang việc nhà để
chồng con yên tâm đánh giặc, nhiều bà mẹ đã hiến tặng cả đàn con thân yêu
cho độc lập tự do của Tổ quốc, tất cả sự hy sinh gian khổ đó đã hun đúc nên
những người phụ nữ Việt Nam kiên cường xứng đáng với 8 chữ vàng Bác Hồ
kính yêu trao tặng “Anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang”.

17


Tiểu kết chương 1
Trong lịch sử mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, phụ
nữ luôn giữ vị trí quan trọng và có những cống hiến to lớn, góp phần xây
dựng nên truyền thống vẻ vang của dân tộc, đồng thời cũng tạo nên truyền
thống của chính mình.
Ngay từ khi ra đời, nhận thức được vai trò của phụ nữ, Đảng ta đã quyết
định thành lập Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam ngày 20-10-1930.
Lịch sử của phong trào phụ nữ Việt Nam, của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt

Nam gắn liền với lịch sử phát triển của đất nước. Kể từ khi các tổ chức phụ
nữ tiền thân ra đời, người phụ nữ Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng phá
tan thành trì phong kiến, đánh dấu mốc son lịch sử trong vấn đề bình đẳng
giới được xác lập và định chế bằng Hiến pháp và Pháp luật. Tất cả quyền bính
trong nước là của nhân dân Việt Nam. Phụ nữ nước Việt Nam dân chủ Cộng
hòa có quyền bình đẳng với nam giới về các mặt sinh hoạt chính trị, kinh tế,
văn hóa, xã hội và gia đình.
Như vậy, có thể thấy công tác bồi dưỡng, phát triển, vận động phụ nữ đã
trở thành hệ thống có tính lý luận và thực tiễn, là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến
lược của Đảng ta trong mọi thời kỳ cách mạng. Quá trình lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng nói chung, Đảng ta luôn quan tâm tới sự phát triển của phụ nữ,
không chỉ vì phụ nữ là một nửa của xã hội, mà còn là vì phụ nữ nước ta thực
sự có vị trí và vai trò to lớn trong mọi giai đoạn phát triển của lịch sử dân tộc.

18


Chương 2
QUÁ TRÌNH ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC XÂY DỰNG VÀ
PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ
KHÁNG CHIẾN CHỐNG MỸ CỨU NƯỚC (1954 – 1975)
2.1. ĐƯỜNG LỐI XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HỘI PHỤ NỮ VIỆT
NAM CỦA ĐẢNG
2.1.1. Đường lối của Đảng trong xây dựng và phát triển Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam ở miền Bắc
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược và can thiệp Mỹ do
Đảng lãnh đạo đã giành được thắng lợi, song sự nghiệp cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân trên phạm vi cả nước vẫn chưa hoàn thành. Miền Bắc được
hoàn toàn giải phóng, song miền Nam vẫn còn dưới ách thống trị của thực dân
và tay sai. Đất nước tạm thời bị chia làm hai miền.

Ở miền Bắc, mặc dù thực dân Pháp rất ngoan cố, nhưng do tinh thần đấu
tranh kiên quyết của nhân dân ta, nên đến ngày 10-10-1954 tên lính Pháp cuối
cùng đã rút khỏi Hà Nội và ngày 16-5-1955, toàn bộ quân đội viễn chinh Pháp
đã phải rút khỏi miền Bắc. Ngay sau khi hòa bình lập lại, nhân dân miền Bắc
khẩn trương khôi phục kinh tế, hàn gắn vết thương chiến tranh và tiến hành
thực hiện các nhiệm vụ còn lại của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhằm
tạo tiền đề đưa miền Bắc từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đứng trước những biến đổi phức tạp nêu trên, lịch sử lại đặt cho Đảng ta
một yêu cầu bức thiết là phải vạch ra đường lối chiến lược đúng đắn để đưa
cách mạng Việt Nam tiến lên phù hợp với tình hình mới của đất nước và phù
hợp với xu thế phát triển chung của thời đại. Xuất phát từ việc nhận thức sâu
sắc tình hình thế giới và đặc điểm cơ bản của tình hình đất nước sau tháng 71954, trải nhiều hội nghị của Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị, chủ
19


×