Tải bản đầy đủ (.doc) (86 trang)

Giải pháp về nhà ở cho người thu nhập thấp theo hướng tiền chế lắp ghép

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.29 KB, 86 trang )

21
PHÀN I : MỎ ĐÀU
l. Lí do chọn đề tài
Tăng trưởng kinh tế cần đi đôi với việc tạo nên một sự ổn định và an toàn cho người
Thành
phổNhư
Hồ vậy
Chí mới
Minhgiúp
là đầu
tàu lao
kinhđộng
tế phía
là một
trọng
điếm
kinh
của
lao động.
người
toànNam,
tâm toàn
ý góp
phần
vào
quátếtrình

cả
phát triển chung của xã hội. Chính quyền địa phưong có trách nhiệm tạo những điều
nuớc,
chiếmlợitỉ nhất


lệ phần
trămquyết
GDP vấn
lớn nhất
nuớc.
Tp NTNT.
Hồ Chí Đó
Minh
chỉ chiếm
kiện thuận
đế giải
đề vềcảnhà
ở cho
không
chỉ là 0.6%
trách
diện
tích
7,63%
dânthần
số nhung
chiếm
tới cách
20,2 %
tống
sảnlý,
phâm,
% giải
giá trị
sản

nhiệm
màvàcòn
là tinh
nhân văn
trong
thức
quản
qua 27,9
đó còn
quyết
xuất
nghiệp
và về
34,9%
án nước
Vào năm
tp.HCM
đượccông
những
vấn nạn
quy dự
hoạch
đô thị,ngoài.
môi trường
sinh2011,
thái và
an ninhcóxã6.344.000
hội.
lao động, trong đó 139.000 người có độ tuối ngoài lao động nhung vẫn tham gia làm
việc.giữa

Nămthập
2007,
nhập
ở thành
2.100máy
USD/năm,
cao
Từ
niênthu80,
khibình
quá quân
trình đầu
Đổi người
mói bắt
đầu điphố
vàođạtguồng
phát triển,
hon
kinhnhiều so với trung bình cả nước.
tế thị trường được Đảng và Nhà nước đánh giá đúng bản chất khách quan của nó, nền
Với
tiềm năngchuyển
kinh tếhướng
sẵn cómạnh
như vậy,
nênnhư
Tp.HCM
là miền
kinh các
tế Tp.HCM

mẽ. Và
một thực
tế, điđất
đôihứa
vớicho
phátnhững
triển
người
đổi đời
và tìmthức.
co hội
phátquyền
triển. sở
Hàng
năm ,một
lớn khăn
ngườinhu
tù’ cầu
các
luôn làmuốn
khó khăn
và thách
Chính
tại nhận
thức lượng
được khó
miền
nước
dồnnên
về thành

đó gồm
nhiều
nhà ở trên
cho đất
người
laođổ
động
đã bắtphố.
đầu Trong
xây dựng
chiếnrất
lược
nhàngười
ở, đề thuộc
ra mộtcác
số
thành
( công
nhân,
viên,
thương
nhân....),
độ tuổi
khácthành
nhau
chuôngphần
trìnhkhác
mô nhau
hình giải
quyết

nhàsinh
ở cho
NTNT.
Đen
nay đâ các
đạt được
nhũng
(trẻ
vị thành
người
thành,
đích rạch,
khác
tựu đáng
kể : niên,
chương
trìnhtrưởng
giải tỏa
di dờingười
5000già,...)
căn hộcùng
sốngvới
trêncác
và mục
ven kênh
nhau
(họcquyết
tập, tìm
làm,ở tìm
hội đầu

tư...).
Những
người
là nguồn
máu
giúp giải
nhu việc
cầu nhà
của cơ
cư dân
tại đây
cũng
như làm
đẹpnày
bộ mặt
sông nước
duy
trì sự thịnh vượng và phồn vinh cho đô thị phương Nam hoa lệ này. Sự tập trung
đô thị...
ào ạt này cộng với nhu cầu nhà ở của bộ phận dân cư bản địa tạo nên một cơn sốt về
thị
Họ đó
có cũng
quyềncòn
tìmnhiều
cho mình
mộtgiải
mái quyết
ấm đếđược
phụcmột

hồi
Tuytrường
nhiên nhà
bên ở.
cạnh
thiếumột
sót,ngôi
vẫn nhà,
chỉ mới
sức
động
sau cầu
ngàychỗ
làmở.việc
mệtquyền
nhọc vẫn
và hưởng
thụ hoay
nhũưgvềphúc
lợi mà
phầnlao
nhỏ
về nhu
Chính
còn loay
bài toán
nhàhọở góp
khi
phần đem
lại. Tuy

nhiên,
thực tếsách,
nhứcxã
nhối
chỉ cónhư
mộtkhả
lượng
trong
chưa
có được
sự đồng
bộmột
về chính
hội,làcũng
năngnhỏ
về người
công nghệ.
số nhũưg
laopháp
độngchưa
này có
năngđể
tạođem
dụưg
Đồng
thờingười
các giải
thậtđủsựkhả
rõ ràng
lạicho

hiệumình
quả.một ngôi nhà.
Cuộc
nhà đất
toàn
1999
Địa đó
Chính
Nhà Đất
chức thực
Năm điều
2005tra
-Chính
phủ
banthành
hànhnăm
Luật
Nhàdoở,sởsau
ban - hành
Nghịtô Định
số :
hiện
theo Quyết Định
của UBND Nghị
Tp.HCM
cho
: có 1.007.012
90/2006/NĐ-CP,
Nghị 3376/QĐ-UBĐT
Định số : 167/2007/NĐ-CP,

Quyết
sốbiết
: 18/NQ-CP
tháng
ngôi
nhà,
riêngQuyết
nhà cấp
3,4sốvà: nhà
bợ có tới 803.573
căn,Định
chiếm
tống số nhà,
4 năm
2009,
định
66/2009/QĐ-TTg,
Quyết
số79,8%
67/2009/QĐ-TTg.
nhà
chưa
có giấy
hợpsổlệchính
chiếmsách
60%.
đó,cơtạibản
cáctạo
quận
Trong

đó quy
địnhtờmột
làmTrong
tiền đề
nênven
sự còn
thuậnđấtlợinông
cho
nghiệp,
nhà chưa có giấy tờ hợp lệ chiếm 70%, còn đối với các quận mới và huyện
phát
ngoại
thành
thìhội,
tù’ giải
75%quyết
đến 95%.
triến nhà
ở xã
một phần đối tượng thuộc NT,NTNT.


3
tổng số 1 triệu lao động trực tiếp và khoảng 1.2 đến 1.5 triệu lao động gián tiếp có
chồ
ở, chỉ có khoảng 2/3 trong tổng sổ 2 triệu cán bộ, công chức tự lo được nhà ở cho
mình, số còn lại (chủ yếu tập trung ở các đô thị lớn) phải ghép hộ, ở nhờ, ở tạm...
Các số liệu thống kê được cho thấy vẫn còn quá nhiều nhu cầu về nhà ở chưa được
giải quyết. Tâm thức người Việt rất xem trọng việc sở hữu một ngôi nhà, có “ an cư”
mới “lạc nghiệp”. Ba giai đoạn quan trọng nhất của một đời người là “cưới vợ,sinh

con và xây nhà”. Ngôi nhà gắn liền với sự ốn định về kinh tế và tinh thần, là niềm tự'
hào cả một đời người. Chi phí đế tạo ra một căn nhà đối với NTNT là một con số
khống lồ, có khi cả đời lao động họ cũng không kiếm đủ số tiền đó. Chi phí xây nhà
bao gồm giá cả vật tư, nhân công và giá đất. vấn đề được đặt ra là ngoài nhũng yếu tố
không thế kiếm soát, phải phụ thuộc vào thị trường như giá đất, giá nhân công thì
những yếu tố khác như công nghệ thi công, vật liệu xây dựng lại dựa vào trình độ
khoa học công nghệ, yếu tố mà chúng ta có thể nắm quyền chủ động.
Tại các nước trên thế giới, và thậm chí ở các nước phát triển, họ cũng phải đối mặt
với vấn đề về nhà ở cho NTNT như chúng ta hiện nay, điều này diễn ra cách đây hon
nửa thế kỉ (1945-1960). vấn để được các nước đặt ra là làm sao cho sổ lượng sản
phẩm nhiều và giả thấp. Những yêu cầu này chỉ có thế giải quyết được bằng phương
pháp sản xuất hàng loạt (mass production) và lắp ghép (prefab). Phương pháp mà
cách đây gần 1 thế kỉ, Henry Ford sáng chế ra và đưa vào sản xuất trong công nghiệp
chế tạo ô tô. Ket quả là các nước này đã giải quyết rất tốt khi đáp ứng được nhu cầu
về nhà ở cho NTNT.
Công nghiệp lắp ráp hiện nay đã tiến một bước dài về công nghệ. Nó góp phần giảm
giá thành sản phẩm đáng kế và đáp ứng được nhu cầu lớn về số lượng sản phẩm.
Tp.HCM có những điều kiện thuận lợi về kinh tế, xã hội cũng như công nghệ đế ứng
dụng phương pháp này vào thực tiễn. Neu chính quyền thành phố có một tầm nhìn và


4
chính sách đúng đắn, công nghệ này sẽ đem lại một hướng giải quyết khả thi trong
lĩnh vực nhà ở cho NTNT.
Vấn đề nhà ở cho người NTNT phải do một hệ thống mới giải quyết được, nó bao
gồm về chính sách, tài chính, quy hoạch, kỹ thuật, kiến trúc và phương pháp quản lý.
Nhiều đề án đã nghiên cún các yếu tố trên của vấn đề, trong phạm vi nhỏ hẹp của
luận
án, người viết chỉ đưa ra một xu hướng thiết kế kiến trúc nhằm đóng góp một phần
nào đó vào việc đem lại sự an cư cho người dân thành phố.

2. Ý nghĩa và mục tiêu nghiên

cứu
Ý nghĩa
Nhà ở cho NTNT có tiêu chí hàng đầu là giá thành thấp. Trong khi đó xu hướng lắp
ghép đi kèm với công nghệ sản xuất hàng loạt luôn đem lại một giá thành phải chăng
vì mục đích của công nghệ mass production là giảm giá thành sản xuất, tạo ra số
lượng lớn sản phẩm, mở rộng thị trường tiêu thụ. Vì vậy, xu hướng này có ý nghĩa to
lớn về mặt co sở trong vấn đề giải quyết nhà ở cho NTNT. Đây là điểm khởi đầu của
ý tưởng về nhà tiền chế - lắp ghép cho người thu nhập thấp.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu và đánh giá các chương trình được thực hiện trong nước nói chung,
Tp.HCM nói riêng cũng như tại một số nước tiên tiến trên thế giới để làm cơ sở đề
xuất các giải pháp thiết kế và xây dựng nhằm giảm được chi phí sản phẩm mà vẫn
đáp
ứng được những nhu cầu sinh hoạt của một hộ gia đình NTNT tại tp.HCM hiện nay.
3. NỘÌ dung nghiên cứu


5

-

Tìm hiểu những kinh nghiệm về tố chức không gian kiến trúc, tích hợp và
loại

trừ

các không gian trong nhà ở.
-


Xây những những cơ sở lí luận đế đưa ra những mô hình khả dĩ đáp đứng với
nhu
cầu về nhà ở cũng như trình độ công nghệ tại Tp.HCM.

4. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
-

Phương pháp thu thập thông tin : từ các nguồn tài liệu liên quan đến đề tài, từ
các
Sở, Ban ,Nghành quản lý của Tp.HCM, các điều tra về xã hội. Từ đó phân
tích,

tống

hợp và rút ra nhũng kết luận cho đề tài.
-

Phân tích tác động của các điều kiện kinh tế, xã hội ở Tp.HCM đối với kiến
trúc

nhà

ở.
-Vận dụng các kiến thức về thiết kế kiến trúc, về công nghệ vật liệu trong thiết kế
nhà
ở cho NTNT.


6


PHÀN II: NỘI DUNG NGHIÊN cứu
Chưong I TÓNG QUAN VÈ NHÀ Ở CHO NGUỜI THU NHẬP THÁP THEO
HƯỚNG LẮP GHÉP (PREFAB HOUSE))
1.1. Lịch sử phát trỉến của nhà ở cho ngưòi thu nhập thấp và nhà ở lắp

ghépỊl]
1.1.1.

Tống quan về quá trình phát triến nhà ở cho NTNT

a. Khái niệm nhà ở cho NTNT

Cùng với quá trình đô thị hóa là sự tăng cao nhu cầu về nhà ở do nguời dân đố dồn
về
thành thị tìm việc làm. Đây là một quy luật tất yếu và là một bài toán nan giải cho
chính quyền đô thị phải đối mặt. Nguời lao động là nguồn máu đế nuôi sống và duy
trì sự phồn vinh và thịnh vượng của đô thị, họ có quyền tìm cho mình một nơi cư trú
ốn định. Nhà ở cho NTNT hay còn có thê gọi là nhà ở xã hội vì nỏ là loại hình nhà
phục vụ cho nhu cầu của một tầng lớp xã hội chua đủ điều kiện xây nhà.
Theo chỉ thị số 07/2003/CT-UB, ngày 23/04/2003 của UBND TP, đối tượng NTNT
bao gồm :
+ Nhóm 1 : Các đối tượng hưởng lương từ Ngân sách nhà nước đang làm việc trong
các cơ quan hành chánh sự nghiệp (kể cả các cơ quan Đảng, đoàn thể).
+ Nhóm 2 : Cán bộ, công nhân, viên chức làm việc trong các doanh nghiệp thuộc các
thành phần kinh tế.
+ Nhóm 3 : Sinh viên các trường cao đắng, đại học.


7

việc tại TP như các công nhân làm việc tại các công trường xây dựng, các cơ sở , xí
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp xan cài trong khu dân cư hoặc nhân dân lao động làm
nghề tự do. Ngoài ra còn có những người nghèo do thất nghiệp, bệnh tật, già yếu,
neo
đơn, có số lượng không nhiều và thuộc đối tượng nghiên cứu và đây là các đối tượng
giải quyết của nghành lao động - thương binh - xã hội (LĐ-TB-XH).
Trong Quyết định số 145/2004/QĐ-UB ngày 25/4/2004 của ƯBND TP thì hiện nay
hộ nghèo có thu nhập không ốn định và bình quân dưới 6.000.000VND/người/năm.
heo khảo sát gần đây của người viết, mức thu nhập một cả nhân trang trải vừa đủ
các nhu cầu sổng tại Tp.HCM dao động từ 3.5 triệu - 4 triệu/người/thủng. Theo đó,
họ không có khả năng dành dụm đê mua nhà. Như vậy, phải xác định lại chuân
nghèo
theo tình trạng lạm phát hiện nay là 4 triệu/ngườì/tháng hay 48 triệu/người/năm tại
Tp.HCM.
Nhà ở cho người thu nhập thấp (NTNT) là một loại hình nhà ở cho một bộ phận cư
dân đô thị có mức thu nhập dưới mức trung bình. Mức thu nhập này không đủ cho họ
xây dựng cho mình một ngôi nhà ( chỉ với chức năng cơ bản là để ở). NTNT bao
gồm
người nghèo, các cán bộ công nhân viên chức, sinh viên học sinh, ...hay nói một cách
tổng quát là những người lao động không đủ khả năng xây cho bản thân một căn nhà
bằng chính công sức lao động của họ.
b. Lược khảo quá trình phát triến nhà ở cho NTNT

Vấn nạn nhà ở cho người thu nhập thấp hình hành cùng với quá trình đô thị quá.


8
Khi mà lượng người đố dồn về thành phố tìm việc làm, quỹ đất thành phố có hạn mà
nhu cầu về nhà lại tăng cao nên giá đất tăng lên là một quy luật tự nhiên của kinh tế
thị trường. Đổi với công nhân hoặc những người có thu nhập thấp, tiền lưong cũng

chỉ
có thể để duy trì cuộc sổng, một phần tiền tiết kiệm họ còn để gánh vác nhiều chi phí
(gởi tiền về phụ giúp gia đình, cưới xin, con cái, bệnh tật...), vói nhiều lo toan như
vậy, họ không dám mơ cho mình một mái ấm gia đình nho nhỏ mà đành sống trong
các khu nhà trọ, khu 0 chuột, hoặc những người có điều kiện khá hơn thì ở trọ tại
những nơi có điều kiện tương đổi thoải mái hơn.
Các nước trên thế giới đã đối diện với vấn đề này tù' rất sớm vì họ trải quá các giai
đoạn phát triển thị trường sớm hơn ta. Ớ các nước phương Tây, tù' sau Thế chiến thứ
II đã có nhũng thành công nhất định về mặt nhà ở cho NTNT. Những thành công này
một phần là đóng góp của các kiến trúc sư có lương tâm nghề nghiệp và tinh thần xã
hội cao. Những năm 40-50 thế kỉ 20 có rất nhiều trí thức có tên tuổi chịu ảnh hưởng
của chủ nghĩa xã hội, họ luôn muốn đem công sức của mình phục vụ cho xã hội và
cộng đồng. Trào lưu kiến trúc theo chủ nghĩa công năng mà Walter Gropius giương
cao ngọn cờ và Le Corbusier là người phát huy nó lên mức đại chúng là một trong
những trào lưu chủ đạo và có ý nghĩa nhân văn sâu sắc. Ngoài việc phủ nhận những
giá trị xa hoa và phù phiếm của chủ nghĩa kinh viện, trường phái kiến trúc công năng
còn muốn đem lại một nền kiến trúc trong sáng và phục vụ cho số đông, một nền
kiến
trúc vì cộng đồng.
Nhiều kiến trúc sư bậc thầy đã bở nhiều công sức và trí tuệ, đóng góp các sáng kiến
về quy hoạch, kiến trúc, kỹ thuật nhằm tạo quỹ nhà theo phương châm “Nhiều, tốt,
rẻ”. Điến hình là công trình tòa nhà ở Marseille, một di sản kiến trúc vĩ đại của nhân
loại về tính nhân văn, một kết tinh của tinh thần cách mạng và những triết lý của chủ
nghĩa công năng của kiến trúc sư bậc thầy Le Corbusier. Qua công trình này, ông còn


9
nhìn của một người chủ nghĩa xã hội, ông nâng tầm nghề nghiệp của mình lên một
bước, đó là nhấn mạnh vai trò xã hội của kiến trúc.
Các chung cư mang quy mô một khu ở của Le Corbusier đã giải quyết được một

lượng lớn nhu cầu về nhà ở cho người dân Pháp sau thế chiến vì nhà cửa đã bị tàn
phá
trong chiến tranh. Tuy sau này các chung cư này bộc lộ nhiều yếu điếm về tố chức
kiến trúc, bố trí không gian, cũng như về mối quan hệ cá nhân và cộng đồng thì
không
vì vậy mà ta có thế quên đi vì lý tưởng gì mà nó đã tùng tồn tại.
Tại Singapore, giai đoạn đầu lập quốc, chính quyền địa phương vô cùng quan tâm
đến
việc cung cấp nhà ở cho người dân. Nhà nước Singapore non trẻ muốn đem lại một
tâm lý ốn định cho người dân sau nhiều biến động về chính trị. Singapore thực hiện
rất nhiều chính sách nghiêm khắc và hiệu quả, kết quả là đến nay hơn 80% người dân
Singapore có nhà riêng ( bao gồm nhà ở riêng biệt hoặc căn hộ...).
Tại Việt Nam, trước đây trước 1975, tại miền Bắc xuất hiện một loạt chung cư lắp
ghép tấm lớn theo công nghệ bê tông do Liên Xô chuyến giao. Loại hình chung cư
này đáp ứng cho người dân có nhu cầu về nhà ở, vì lúc đó không có khái niệm người
thu nhập thấp. Tuy nhiên, loại hình nhà ở này nhanh chóng không đáp ứng được thực
tế sử dụng của người dân trong giai đoạn phát triển và dần rơi vào quên lãng, chỉ còn
được tưởng nhớ như một hoài niệm về một thời đã qua.
Đất nước ta mở cửa hội nhập thế giới trong những năm 80, phát triến theo kinh tế thị
trường, kéo theo đô thị hóa xuất hiện, kết quả là các dòng người lao động lũ lượt dồn
về các trung tâm kinh tế lớn như Tp.HCM, Hà Nội, Đà Nằng,...Nhu cầu nhà ở tăng


10
Khi mà quá trình đô thị hóa còn tiếp diễn thì vấn đề nhà ở sẽ còn tồn tại. Đứng ở vai
trò quản lý vĩ mô thì nhà nuớc phải có những tầm nhìn chiến luợc về chính sách nhà

và đất đai, dự trữ và phát triển quỹ đất cũng như thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ
thuật nhằm tạo ra các giải pháp cho vấn đề nhà ở đô thị.
1.1.2.


Lược khảo về nhà ở theo hướng tiền chế- lắp

ghép
a. Khái niệm và phân loại nhà Tiền chế (Prefab)[3Ị
Nhà tiền chế là loại hình nhà mà toàn bộ công trình hoặc các phần, các cấu kiện của
công trình được sản xuất tại nhà máy và được chuyên chở tới vị trí công trường đế
lắp ráp vào vị trí xây dựng.
Có 3 dạng nhà lắp ráp, theo định nghĩa của Hiệp hội Quốc Gia Các nhà thầu Xây
Dựng Công Trình tại Hoa Kỳ (The National Association of Building Manuíacturers NABM) :
-

Mobile home (Nhà Di Động) : Một cấu trúc được lắp ráp tại nhà máy và sử
dụng
không cổ định,, thường có chiều rộng từ 8 ’(2.4m) đến 14 ’(4.2m) và chiều dài
hơn
32 ’(9.6m) được đặt trên một khung gầm đế di chuyên đến những địa điếm
không
cần phải đáp ứng các tiêu chuân xây dựng địa phương. Thường dược định giả
như
một động sản, đảnh thuế tương tự một xe máy hoặc tài sản cả nhân.

Tuy tên gọi là Nhà Di Động, nhưng loại hình này không phải được thiết kế để di


11
Nhà Mô-đun cũng được vận chuyển nhưng chỉ một lần, từ nhà máy đến công trường
xây dựng, nơi nó được gắn kế vào nền móng. Chúng là loại hình cư trú cố định. Nhà
Mô-đun tại Hoa Kì thường gồm 2 phần, hoặc 2 mô-đun riêng biệt và kết nói với nhau
tại công trường. Hầu hết các nhà sản xuất Nhà Mô-đun tại Hoa Kì đều cung cấp loại

hình nhà gồm 2 mô-đun mà khi kết nối lại có mặt bằng hình chữ nhật (cũng có ngoại
lệ, ví dụ như một nhà sản xuất tung ra sản phấm có hình chữ A). Theo lý thuyết, thì
không bắt buộc chỉ có 2 mô-đun và hình dạng chữ nhật, nhưng thực tế là như vậy.
Prefabricaíed home (Nhà tiền chế) ỉ Các cẩu kiện sản xuất tại nhà máy, được
chuyên chở tới công trường đê lắp ráp nên công trình hoặc một cấu trúc nhà.
Đây là loại hình nhà có giá trị đắt nhất trong 3 loại, còn có tên gọi là nhà bộ phận
(component house). Nó bao gồm các thành phần được chế tạo và lắp ráp sẵn tại nhà
máy, được chuyên chở tới công trường và lắp đặt vào đúng vị trí bởi các công nhân
lành nghề hoặc chính chủ nhà.
Nhà Tiền chế bao gồm các thành phần có kích thước tiêu chuẩn, nên có thể đáp ứng
được các yêu cầu thiết kế mang tính riêng biệt. Đôi khi, loại hình nhà này dễ dàng
thỏa mãn được phong vị cá nhân hơn cả các công trình thi công theo phương pháp
truyền thống. Trong 3 loại hình nhà lắp ráp, Nhà Tiền Chế đạt được sự đa dạng nhất
về thiết kế cũng như hiệu quả sử dụng không gian. Nhiều tác phẩm kiến trúc theo
hướng

này

đã

chiếm

những

giải

thưởng

cao


quý

về

kiến

trúc.

b.Lược sử phát triển nhà tiền chế
Hệ thống xây dụng nhà tiền chế có thế bắt nguồn tù' thế kỷ 17, khi một ngôi nhà
ghép bằng các tấm panel gồ được chuyển từ Anh đến Cape Ann năm 1624 để
phục
vụ nhu cầu nhà ở cho một đội tàu đánh cá. Thụy Điến cũng giới thiệu một kỹ
thuật
xây dựng các cabin nhỏ bằng log gỗ chỉ một vài thập kỷ sau đó.Vào thế kỷ 19,


12
năm 1849 là một ví dụ. Tòa nhà bằng sắt được vận chuyến đến các thuộc địa Anh
sau này là 1 ví dụ khác. Những năm đầu của thế kỷ 20, các kiến trúc sư cũng như
kỹ sư đã thử nghiệm các hệ thống này cho lĩnh vực nhà ở. Tại Liverpool, Anh, JA
Brodie phát triển đơn vị khung gỗ đôi vào năm 1904. Bốn năm sau, Thomas
Edison phát triển một kiểu nhà đúc hoàn toàn bằng bê tông cốt thép- có thế cung
cấp nhà ở cho công nhân không chỉ an toàn và giá cả phải chăng mà còn, như
được mô tả bởi tạp chí “khoa học Mỹ”, "nghệ thuật, thoải mái, vệ sinh và không
đồng nhất" . Mặc dù ý định của Edison rất nhân văn, công trình này không bao
giò'
được xây dựng bởi vì đơn giản là nó quá nặng.
Đen năm 1908, Thành công của mẫu xe Model T của Henry Ford chứng minh
rằng sản xuất hàng loạt có thế được sử dụng đế sản xuất một đối tượng lớn, chất

lượng cao, mà ví dụ là chiếc xe hơi .Sản xuất tại nhà máy mang lại giá thấp hơn

chất lượng tốt hơn nhiều đối với hàng hóa tiêu dùng,nhiều người đã hy vọng rằng
có thể ứng dụng các kỹ thuật sản xuất nhà ở tương tự' như vậy đế cải thiện chất
lượng, khả năng chi trả, và khả năng tiếp cận. Công nghiệp hóa đã ứng dụng vào
xu hướng tiền chế không lâu sau khi mẫu xe Model T đã đi vào sản xuất.và vào
cuối thập niên 1910, một số công ty bắt đầu các mẫu nhà tiền chế chất lượng cao,
có thể lắp ráp với một sự phong phú về chủng loại.
Công ty Aladdin, được thành lập vào năm 1906, là công ty đầu tiên cung cấp một
ngôi nhà “Kit” lắp ráp thực sự bao gồm các bộ phận được chế tạo trước và đánh
số.Tuy nhiên, công ty đầu tiên và đáng chú ý nhất trong lĩnh vục nhà “kit” là
Sears, Roebuck & Co, họ bán nhà thông qua một danh mục sản phẩm và văn
phòng kinh doanh có gần 100.000 khách hàng từ năm 1908 và 1940. Giá các bộ
nhà “kit” dao động từ $ 650 đến $ 2.500, mỗi bộ nhà “Kit” được vận chuyển
bằng


13
gũi hơn.Mục tiêu của công ty Sear là làm cho việc sở hữu căn nhà dễ dàng như
việc mua một cái bàn hay một cái ghế.Khái niệm đóng gói và vận chuyển các
thành phần chất lượng cao đi kèm các hướng dẫn chính xác cho người mua nghe
thật hợp lí. Số lượng nhà bán được giúp cho Sears có thế duy trì sự linh hoạt và
cung cấp cho khách hàng một loạt các mẫu thiết kế. Chiến lược tiếp thị khéo léo
thuyết phục hàng nghìn người Mỹ rằng ngôi nhà của công ty Sears sẽ cung cấp
cho họ sự thoải mái và an ninh như những giấc mơ của họ.
Một tương lai ảm đạm cho lĩnh vực nhà ở do sự tàn phá của chiến tranh thế giới
I,
các nước châu Âu chấp nhận công nghệ tiền chế như là một giải pháp đem đến
hiệu quả về thời gian và chi phí xây dựng. Anh, Pháp, và Đức đã phát triển hệ
thống tiền chế bằng bê tông và thép trong khi Thụy Điến tập trung vào hệ thống

gỗ. Có lẽ thành tựu nổi bật nhất trong lĩnh vực kiến trúc ở giai đoạn phát triển
này
ở Châu Ầu thuộc về kiến trúc sư người Pháp Le Corbusier. 1914, Ngôi nhà DomIno của ông định hình một loại khung chịu lực bằng bê tông cốt thép, bao gồm
các
sàn, cột và cầu thang, loại bỏ hệ thống tường chịu lực.
Le Corbusier đã phát triển một số chương trình nhà ở sản xuất hàng loạt và là
một
người ủng hộ nhiệt thành của thế loại này, điều này thể hiện rõ ràng trong tinh
thần
bài tham luận của ông "nhà sản xuất hàng loạt" được viết vào năm 1919: "Neu
chủng ta loại trừ khỏi trái tim và tâm trí của mình tất cả các khái niệm cũ xưa về
nhà ở, và nhìn vào vấn đề dưới một góc độ quan trọng và khách quan, chúng ta
sẽ
đi đến khải niệm House Machine - “Nhà là cái máy đê ở ”, nhà sản xuất hàng


14
của Phong cách Kiến trúc quốc tế sẽ ảnh hưởng đến các nền kiến trúc trong vài
thập kỷ tới.
Walter Gropius, người sáng lập trường Bauhaus, đã kêu gọi cho việc công nghiệp
hóa nhà ở từ những năm 1910. Thật sự, đó là một trong những mục tiêu phát triển
chính của trường Bauhaus trong nỗ lực tạo ra "một nền kiến trúc mới cho một
thời
đại mới". Năm 1923, cùng cộng tác với Adolf Meyer, Gropius phát triển các khối
nhà ở “Building Block”, một hệ thống nhà mái bằng tiêu chuấn hóa. Ba năm sau
đó, ông thiết kế hệ thống xây dựng cho một bất động sản nhà ở tại ToertenDessau. Không thiếu các kiến trúc sư và kỹ sư quan tâm đến việc khám phá
những
khả năng của thép trong thời gian này. Công ty Muche & Paulick, công ty Carl
Kaestner , công ty Anh em Woehr, và công ty Bruane Roth, tất cả đã phát triến
một thế thức nhà thép vào năm 1926.

Những thử nghiệm ban đầu này vẫn chưa cập bến Hoa Kỳ bởi vì các tác phẩm
của
những nhà cách tân Châu Âu như Le Corbusier, Gropius, Mies van der Rohe,
Alvar Aalto, và JJP Oud thật sự không quen thuộc với hầu hết người Mỹ. Nhưng
khi Bảo tàng Nghệ thuật Hiện đại ở New York tổ chức cuộc triển lãm về kiến trúc
đầu tiên vào năm 1932 với chủ đề, Phong cách quốc tế : Kiến trúc kể từ năm
1922, các nhà Cách tân châu Âu đã được giới thiệu đến Hoa Kỳ. Triết lý và
phong
cách của nhóm học giả đáng kính này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến các kiến trúc sư
Hoa Kỳ. Phong cách quốc tế không có tác động lớn vào kiến trúc của Hoa Kỳ
thời
kì đầu, nhung tác động của nó vào quá trình kiến trúc trong vòng ba mươi năm
tới


15
Ví dụ như Buster Keaton, đóng vai chính trong một bộ phim ngắn về xây dựng
nhà tiền chế. Trong Một Tuần (1921), Buster và cô dâu mới của mình tự hào về
việc kinh doanh trong việc tạo ra ngôi nhà mơ ước, một kiểu nhà tiền chế với các
hướng dẫn rắc rối.
Các nhà thầu xây dựng và kiến trúc sư rất quan tâm đến lời hứa công nghệ nhà
sản
xuất hàng loạt và đã thử nghiệm với các vật liệu và công nghệ khác nhau. Năm
1927, Robert Tappan giới thiệu một ngôi nhà khung thép và Buckminster Fuller
đã
giới thiệu thiết kế của mình,sau này gọi là nhà Dymaxion.Tuy nhiên, ngành công
nghiệp nhà tiền chế vẫn chậm chạp phát triến Trong cuộc suy thoái kinh tế 1929,
nghành công nghiệp nhà sản xuất hàng loạt đã tạo ra một sự hứng khởi thật sự.
Động lực cho sự hứng khởi đó là niềm hy vọng hệ thống nhà tiền chế sẽ giúp
kích

thích nền kinh tế đang tụt hậu.
Ngành công nghiệp nhà ở đi theo mô hình của ngành công nghiệp ô tô đế phát
triển các quá trình xây dựng .Và hơn nữa, Cuộc Suy thoái Kinh tế đã nuôi dưỡng
một môi trường mà trong đó nhà được chế tạo tại nhà máy dường như là lựa chọn
thực tế duy nhất. Archibald MacLeish tuyên bố trong một ấn bản năm 1932 của
tạp chí Fortune rằng "Bây giờ, lập luận rằng ngôi nhà chi phí thấp trong tương lai
sẽ được sản xuất toàn bộ, hoặc từng bộ phận, tại các nhà máy trung tâm, và lắp
ráp
tại công trường đã lỗi thời. Nói cách khác,nó sẽ được sản xuất theo cùng một
cách
như sản xuất ô tô.”


16
Các bộ nhà lắp ráp không chỉ cho những người có nhu cầu có thể xây dựng ngôi nhà
đầu tiên của họ, các công ty xây dựng còn phố biến loại hình nhà di động (mobiĩe
house). Nhiều người muốn một nhà nghỉ hoặc nhà nghỉ bãi biến. Đối với những
người
quan tâm đến việc ngôi nhà nghỉ, bộ lắp ráp nhà nghỉ đã được phát minh vào những
năm 1920.Nhưng sau sự sụp đố của thị trường chứng khoán năm 1929, gần như
không nhiều người có tiền cho gia đình riêng của họ, và phát minh này bị thị trường
bỏ bê.
Nhà di động, đã bị loại đầu tiên trong lĩnh vục tiền chế, đã hồi phục sau Thế chiến
II. Các cựu chiến binh trở về và cần nhà ở, và nhiều người đã dùng vì thích hợp cho
các hệ thống đường cao tốc mới. Nhà di động cũng rẻ, do đó, cuối cùng, nhiều người
đã ngùng di chuyến từ thị xã đến thị trấn và dùng lại, sử dụng nhà di động của họ
như
một hộ khẩu thường trú.
Đen năm 1970, chính phủ liên bang đã quyết định điều chỉnh các nhà sản xuất vì lý
do

an toàn, và năm 1976 chính phủ đã thông qua bộ luật Tiêu chuẩn xây dụng và Phát
triến Đô thị và nhà ở - thường được gọi là Bộ luật HƯD. Bô luật này đặt tiêu chuân
cho hệ thống sưởi, hệ thống ổng nước và hệ thống điện, cũng như thiết kế kiến trúc,
xây dựng , an toàn cháy nô và hiệu quả năng lượng . (Năm 1994, chính phủ cập nhật
Bộ luật HUD bao gồm các tiêu chuấn cao hơn cho nhà tiền chế.)
Sau đó, nhà tiền chế trở thành cứu cánh cho việc cung cấp nhà ở cho người thu nhập
thấp. Tuy nhiên, trong vài thập kỷ qua - và đặc biệt là kế tù’ khi xảy ra cuộc khủng
hoảng nhà ở hiện tại - sự đổi mới đã cho phép các nhà sản xuất phục vụ cho một thị
trường cao cấp hơn và cho những mục đích cao hơn là kiến trúc xanh. Các nước đang


17
Báng biêu các cột mốc quan trọng của nhà tiền chế
1624 - Ngôi nhà tiền chế đầu tiên, một ngôi nhà gô panel hóa, được vận chuyến từ
Anh tới Massachusetts (Hoa Kỳ) làm nhà ở cho một đội tàu đánh bắt cả.
1849 - nhà Kit được vận chuyên bằng đường sắt đê đáp ứng các khu định cư cho công
nhân trong Caỉi/ornia Goỉd Rush.
1908 - Công ty Sears bắt đầu một chương trình bán nhà lắp ráp, cuối cùng bán hơn
70.000 căn nhà.
1929 - Buckminster Fuller thiết kế một phiên bản ban đầu nhà ông Dymaxion, với một
mải vòm kim loại cỏ thế dễ dàng thảo rời và vận chuyên, năm 2001, công trình này
được trưng bày trong viện bảo tàng Michigan như là một kiệt tác thiết kế lắp ráp.
1936 - Frank Lloyd Wright thiết kế Nhà Usonỉan sử dụng một hệ thong lưới diêm cho
phép lặp lại các chi tiết và kích thước.
1937- Hiệp hội An toàn xây dựng Mỹ bủn 1.000 prefabs cho sharecroppers ở
Missouri. Năm 1940, hơn 10.000 nhà tiền chế được xây dimg.
1946 - Chiến tranh đã kích thích thị trường, nhà tiền chế đóng một vai trò quan trọng
trong Chương trình nhà ở khan cấp cho các ciru chiến binh của tông thong Truman
(Contemporay Housing Program). Lời hứa hô trợ của liên bang gần gấp ba số lượng
nhà prẹfab được xây dựng, đến 280.

1949 - Fuller trình bày Nhà Wichita dế phô trương về công nghệ. Có 30.000 dại biếu
quan tâm. Cuối cùng chỉ có hai sản phâm được xây dựng.
1953 -? Carỉ Koch thiết kế Nhà Techbuilt, một cấu trúc khung gô và hệ thống dược
panel hóa. Trở thành một thành công lớn trong thập niên 1950 và đầu những năm


18

1974 - Kiến trúc sư Israel Zvi Hecker tạo ra các nhà Ramot phức tạp, một cẩu trúc tô
ong tạo ấn tượng được làm bằng 720 phần polyhedric.
1996 - IKEA giới thiệu nhà đúc săn BoKlok . BoKỉok hiện đang được kỉnh doanh ở
Thụy Điến, Phan Lan, Đan Mạch, Na Uy, và Anh.
Những năm 2000 - Một thập kỷ mới cho nhà tiền chế . Romero nối tiếng với Rocío
LV, Michelle Glidehouse của Kauýmann và Breezehouse của Marmol Radziner.
2003 - Tạp chỉ Live ra mắt công trình nhà tiền chế của mình. Một thiết kế của Nghị
quyết: 4 Kiến trúc được lựa chọn đê xây dựng ở Bắc Carolina.
2008 - Bảo tàng Nghệ thuật hiện đại New York xây dựng một đài tưởng niệm cho về
kiến trúc tiền chế.
1.2.

Tổng quan về xu hướng nhà ở cho người thu nhập thấp theo hướng lắp

ghép
tại các nước trên thế giới [4] [43]
1.2.1.
Hoa Kì
Trong thời kì đại khủng hoảng kinh tế tại Mỹ 1933, hàng loạt công nhân thất nghiệp,
nông dân bỏ làng quê lên thành phố tìm việc làm do nghề nông thất bát. Dân cư dồn
tụ về các thành phố lớn. Thêm nữa, sau Chiến tranh Thế giới lần thứ II, nhu cầu về
nhà ở lại lần nữa tăng đột ngột khi các cựu chiến binh trở về từ cuộc chiến.

Tại Hoa Kỳ, IBS (Industried Building System) - Hệ thống xây dựng nhà công nghiệp
nhận được sự chú ý rộng rãi vào đầu những năm 1930, minh chứng bằng việc xây
dựng hàng loạt các loại nhà thép tiền chế (preíab) , nhưng giấc mơ đầu tiên về ứng
dụng IBS lụi tàn nhanh chóng do giá cạnh tranh không hợp lý, vốn đầu tư cao và
không phù hợp các tiêu chuẩn địa phương. Tuy nhiên, xu hướng được đảo ngược sau


19
đều sử dụng khung gỗ, hệ thống bê tông tiền chế vẫn được sử dụng mạnh mẽ, đặc
biệt
trong các khu vực nguy hiểm do các tác động của môi trường như lũ lụt và lốc xoáy.
Thật vậy, việc áp dụng bê tông tiền chế phải đối mặt với sức đề kháng trong đầu nhà
nước do xuất hiện đồng bằng các tấm, nguy cơ thấm nước và những khó khăn của
việc lắp đặt vật liệu cách nhiệt. Tuy nhiên, loại cấu tạo này là kết quả củanhững
phương pháp công nghệ tiên tiến như cải tiến kỹ thuật trộn bê tông, khuôn mẫu được
cải thiện, và một loạt các cải tiến hoàn thiện bề mặt.
Một nghiên cún được thực hiện bởi PCA (Hiệp hội Xi măng Portland) chỉ ra rằng
70% của người mua chọn nhà của họ trên cơ sở chi phí . Mặt khác, kiến trúc họp lý,
linh hoạt, cách âm cách nhiệt tốt cũng là những tiêu chí xem xét tiếp theo. Tuy nhiên,
suy nghĩ đã thay đối theo thời gian, người mua nhà đã đưa những yếu tố khác như
tốc
độ xây dụng nhanh và khả năng thi công dễ dàng vào cân nhắc khi mua một ngôi
nhà.
1.2.2.

Vương quocẢnh[4J

Tương tự với Hoa Kỳ, sau chiến tranh thế giới II, Anh quốc đối diện với một nhu cầu
lớn về nhà ở cho người dân do đất nước bị tàn phá năng nề trong chiến tranh. Chính
phủ thành lập Chương trình nhà ở khẩn cấp (Temporary Housing Program) nhằm

mục
tiêu cung cấp đủ nhu cầu về nơi cư trú của người dân.
Khi so sánh theo thấm mỹ kiến trúc ngày nay, lĩnh vực nhà ở tiền chế nhỏ, nhàm
chán
và có lẽ không xứng đáng với mở rộng nghiên cún. Tuy nhiên, bản chất ngoan cường
của nhà tiền chế là bất ngờ đầu tiên. 156.623 bungaìows đã được sản xuất cho thuê
dưới sự bảo trợ của Chương trình nhà ở cấp tốc. 1.944 nhà ở tạm thời, mỗi thiết kế


20
Nhà Ớ Quốc Gia, hơn 21.014 đã được mua lại bởi chính quyền địa phương và còn
giá
trị tài sản. Đen giữa năm 1964, trong 124.455 bungaìow được phân bổ ở Anh và xứ
Waìes chỉ có 29% - 36.088 bungalow đã được dỡ bỏ. Đen cuối giai đoạn 1945-1966,
32.176% bungalow ở Scotland, khoảngl3.585 căn vẫn còn thuộc Chương trình, 671
đã được chuyển giao cho chính quyền địa phương, và 56%, 17.920 bungalow, đã
được dỡ bỏ. Đen cuối năm 1971, ở Scotland các bungalow vẫn còn tồn tại, 3.505
bungaìow hoặc 11% số lượng bungalow ban đầu không còn xem như nhà ở tạm thời
mà được liệt vào danh mục tài sản kiên cố.
Việc sử dụng của IBS tại Vương quốc Anh đã trở nên rõ ràng hơn vào giữa những
năm 1900 sau khi tiêu huỷ phố biến của chứng khoán nhà ở trong thời chiến tranh thế
giới thứ hai. Đen năm 1960, hơn 165.000 ngôi nhà bê tông tiền chế đã được xây
dựng
ở nhiều tỉ lệ khác nhau, từ ngôi nhà gỗ nho nhỏ đến các toà nhà cao tầng.
Trong năm 1999, bê tông tiền chế chiếm khoảng 25% thị trường các sản phẩm xi
măng. Bao gồm một loạt các sản phấm được sử dụng trong ngành công nghiệp xây
dựng như kết cấu, khối, cầu, đá đúc, và lớp hoàn thiện kiến trúc. Trong số các sản
phẩm này, các tầng bị đình chỉ đại diện cho việc sử dụng cao hơn với sản lượng trong
thời hạn tấn sản phấm được bán mỗi năm.
Mặt khác, tiềm năng đáng kể của bê tông đúc sẵn là trong việc xây dựng nhà ở tầng

trệt với 60% của sử dụng. Thật vậy, sử dụng của nó có kinh nghiệm chia sẻ thị
trường
tăng gấp đôi từ năm 1994 đến 1999. Song song với xu hướng này, bê tông đúc sẵn
đang cố gắng thâm nhập vào nhà sàn phía trên. Nó cũng dự đoán rằng tầng trên sẽ có
40% các ngôi nhà mới vào năm 2001. Tuy nhiên, việc xây dựng nề truyền thống vẫn
chiếm ưu thế thị phần của 90% đế lại thị trường đúc sẵn với chỉ 10% thị phần. Vì


21
1.2.3.

Nhật Bản

Sự nghiệp công nghiệp của ngành công nghiệp nhà ở tại Nhật Bản bắt đầu vào năm
1960 và kế từ đó chia sẻ thị trường đã thay đối đáng kể trong việc sử dụng của IBS.
Xây dựng nhà đúc sẵn ở Nhật Bản chiếm khoảng 20% của tất cả các ngôi nhà trong
năm tài chính Nhật Bản năm 1999 (tháng 4 năm 1999 - Tháng 3 năm 2000). Trong sổ
đó, hệ thống khung thép thống trị thị trường tiền chế với thị phần 73%, hệ thống
khung bằng gỗ với 18% trong khi bê tông cốt thép khung với 9%. Với tham chiếu
này, nhà ở khung gỗ đã tăng 2%, và khung nhà thép đã tăng 3%, trong khi khung nhà
bê tông trải qua một trở ngại lớn của -12% như trong Bảng 1.0. (Nagahama, 2000).
Xây dựng nhà ở của các nhà cung cấp Nhật Bản xây dựng đúc sẵn và Hiệp hội các
nhà sản xuất, một thành viên 110 nhóm ngành công nghiệp của các nhà sản xuất nhà
ở, đại diện cho 227.863 đơn vị, tăng 1,1% trong JFY năm 1999. Trong này, hầu hết
các ngành công nghiệp xây dựng đúc sẵn, tập trung ở 3 thị trường chính đô thị với
các
cụm dân cư liên tục, cụ thể là, khu vực Kanto (Tokyo-Yokohama), khu vực Chubu
(Nagoya) và khu vực Kinki (Osaka và Hyogo). Tuy nhiên, doanh số bán hàng tại thị
trường này đã trải qua một sự suy giảm 0,8% so với năm trước như là kết quả của
cuộc suy thoái kinh tế rotracted đi kèm với sự suy giảm trong chi tiêu của người tiêu

dùng. Mặc dù vậy, xây dựng ngành công nghiệp Nhật Bản vẫn được coi là thiết bị
sản
xuất tích hợp cao và tự động và các cơ sở sản xuất các thành phần xây dựng nhà ở và
người mua nhà cung cấp cả kế hoạch sàn chung chung và khả năng đế tùy chỉnh.
1.2.4.Singapore
Sau khi thành lập nước, đảo quốc này phải đối mặt với vấn đề giải quyết chồ ở cho
người dân do quỹ đất của Singapore có hạn và yêu cầu phải cung cấp nhà ở nhanh
chóng để ốn định nền kinh tế. Do đó chính phủ đã hướng đến việc giải quyết nhu cầu
nhà ở bằng phương pháp xây nhà lắp ghép.


22
tiên bằng cách sử dụng một bảng điều khiển độc quyền của Pháp lớn và hệ thống chế
tạo trên 10 khối tiêu chuẩn 16 căn hộ tầng. Tuy nhiên, các dự án có kinh nghiệm
nhiều vấn đề kỹ thuật và quản lý và phải đuợc hoàn thành theo phương pháp thông
thường cuối cùng.
Mặc dù thất bại trước đó, HDB đã không lùi bước, thực sự là một sáng kiến can đảm
đế cố gắng IBS một lần nữa vào năm 1973 và 1979 trong quan điểm về sự cần thiết
đế
hoàn thành các đơn vị ở 100,000 trong mục tiêu Chương trình Xây dựng lần thứ năm
(1981-1985). Như một kết quả của nỗ lực liên tục, HDB đã thực hiện một thành tựu
đáng kế trong việc áp dụng của IBS cho việc xây dựng các chương trình nhà ở công
cộng.Ngoài ra, thông qua chương trình toàn diện của nó liên tục và hợp tác công
nghiệp, IBS có thế đạt được thị phần đáng kế trong ngành công nghiệp xây dựng
trong nhũng năm gần đây như thế hiện trong hình 2.0.
HDB đã giới thiệu sự đổi mới lớn trong khu vực của các hệ thống xây dụng cuốn tiểu
thuyết trong đó bao gồm íerrocement toàn cho hệ thống, hệ thống phòng tắm đúc
sẵn,
bê tông đúc sẵn dự ứng lực hệ thống sàn composite, bê tông đúc sẵn kiến trúc mặt
tiền

và các thanh gia cố trước khi cắt và uốn cong trước.
7.2.5.

HongKong

Hong Kong là một trong những địa điểm trên thế giới có mật độ xây dựng và nhu
cầu
về nhà ở lớn nhất thế giới. Là trung tâm kinh tế tài chính trong khu vực cũng như thế
giới.
1.2.6.

Malaysia


23
khối 17 căn hộ tầng, và 4 khối căn hộ 4 tầng bao gồm khoảng 3.000 đơn vị căn hộ
chi
phí thấp và 40 rất nhiều cửa hàng tầng. Dự án đã được trao cho Gammon / Larsen
Nielsen bằng cách sử dụng các hệ thống của Đan Mạch lớn của bảng điều khiển công
nghiệp hóa hệ thống đúc sẵn.
Trong khi đó, các dự án thí điếm thứ hai được xây dựng ở Pulau Pinang với việc xây
dựng 6 khối căn hộ tầng và 3 khối nhà 18 căn hộ tầng bao gồm 3.699 đơn vị và 66
rất
nhiều cửa hàng dọc theo Dải Riíle Jalan. Dự án đã được trao cho Hochtief / Chee
Seng sử dụng hệ thống Estiot Pháp (Din, 1984).
Với tham chiếu đến hai dự án thí điếm, một so sánh hiệu suất giữa các hệ thống IBS
và hệ thống thông thường đã được thực hiện về chi phí, năng suất và chất lượng.Đó

phát hiện ra rằng dự án thí điếm đầu tiên phát sinh chi phí cao hơn 8,1% so với một
tòa nhà tương tự' bằng cách sử dụng phương pháp xây dựng thông thường, trong khi

dự án thứ hai là 2,6% thấp hơn.Trong nhiệm kỳ của tốc độ xây dựng, cả hai dự án
cần
27 tháng đế hoàn thành, bao gồm thời gian cần thiết để thiết lập các nhà máy
recasting.Chất lượng của kết thúc xây dựng cũng đã được tìm thấy là tốt hơn so với
phương pháp xây dựng thông thường.
Trong kết luận, tổng thế hiệu suất của một IBS là cạnh tranh với các phương pháp
xây
dựng thông thường.Ke từ đó, việc sử dụng của IBS là sâu sắc hơn với sự tham gia
của
khu vực tư nhân và khu vực công cộng như Trung tâm Nghiên cứu nhà ở Universiti
Putra Malaysia nhằm mục đích thúc đấy và phát triến hệ thống xây dựng cuốn tiếu
thuyết.


24
thiện đáng kể trong lĩnh vực nghiên cứu và phát triến của IBS. Hình 1,0 cho thấy
nguồn của IBS tại Malaysia theo nguồn gốc của quốc gia.
Tại Malaysia, IBS nói chung được chia thành bốn loại, cụ thế là:
a) Hệ thống ván khuôn - bảng hình thức và hình thức nửa đường hầm
b) Khung hình hệ thống - bê tông đúc sẵn và bê tông đúc sẵn thép
c) Bảng điều chỉnh hệ thống bảng điều khiển bánh sanđwich, nửa sàn rồng cốt

lõi

tấm

và bảng điều khiến cụ thế rắn
d) Khối hệ thống - khối lồng vào nhau, khối rỗng, khối vững chắc và khối nhẹ

Hệ thống bảng mẫu đại diện cho thị phần lớn (32%) tiếp theo là bảng điều

khiến

bởi

bức tường bê tông đúc sẵn (21%).
Hệ thống khung đúc sẵn tăng phố biến thấp, bởi vì nó đòi hỏi độ chính xác và vốn
xây
dựng cao cao bắt đầu. Hệ thống khối chủ yếu được sử dụng cho tường không cấu
trúc
như là một thay thế cho gạch và thạch cao thông thường.
Tại Malaysia, ngành công nghiệp xây dựng đã bị chậm trong việc áp dụng của IBS
do
một số lý do:

c) Các ngành công nghiệp xây dựng bị phân mảnh, đa dạng và liên quan đến

nhiều


25
bên. Đồng thuận là cần thiết trong việc sử dụng của IBS trong giai đoạn lập kế
hoạch.
Tuy nhiên, chủ sở hữu, nhà thầu và kỹ su vẫn còn thiếu thông tin khoa học về lợi ích
kinh tế của IBS.
d) Thiếu R & D trong khu vực của hệ thống xây dựng cuốn tiểu thuyết mà sử

dụng

vật


liệu địa phương.Đa số của IBS ở Malaysia được nhập khâu tù' các nước phát
triến,

do

đó làm tăng chi phí xây dựng.Mức độ kỹ thuật tại các trường đại học địa
phương

hiếm

khi giảng dạy về thiết kế và xây dựng của IBS.
e) Các lợi ích kinh tế của IBS là không được ghi nhận ở Malaysia. Kinh nghiệm

quá
khứ cho thấy IBS là tốn kém hơn do cạnh tranh khốc liệt tù' hệ thống xây
dựng

thông

thường. Hơn nữa, có một sự tù' bỏ của người lao động giá rẻ nước ngoài tại
Malaysia.
e) Việc sử dụng của IBS ở Nhật Bản và Thụy Điển là thành công do chất lượng

cao



năng suất cao. Nhưng, ở Malaysia, kịch bản là khác nhau, hầu hết các dự án
xây


dựng

với IBS là chất lượng thấp và chi phí xây dựng cao.
g) Thiếu khuyến khích và thúc đẩy từ chính phủ trong việc sử dụng của IBS. Nhiều
kiến trúc sư và kỹ sư vẫn không hay biết của các yếu tố cơ sở của IBS là mô-đun
phối
hợp


26
150.000 đơn vị chi phí thấp minimium trong giai đoạn 1997-1999.Trái ngược với
điều
này, nhóm thu nhập cao vẫn thích phương pháp xây dựng thông thường tạo thành
khối rắn và thạch cao có thế kéo dài hơn rằng suốt đời.Tuy nhiên, các xu hướng
trong
nhóm này hiện đang di chuyển theo hướng nhà ở công nghiệp có kết hợp các tính
năng như cách nhiệt và âm thanh cũng như nhà ở hiệu quả và thân thiện với môi
trường.
3.2.8.

Thái Lan

Thị phần cho IBS ở Thái Lan đang phát triến rất nhanh chóng do tình trạng thiếu lao
động và lãi suất cao. IBS chính là bức tường và tấm đúc sẵn. Các hệ thống cũ đã
được
sử dụng cách đây hơn 20 năm trong khi hệ thống này đã được sử dụng trên thị trường
trong 10 năm. Một hệ thống khác được phố biến trong nhũng năm gần đây là bê tông
có ga nồi hấp là một viên gạch nhẹ, được biết đến ở địa phương như Superblock. Tốc
độ tăng trưởng hàng năm của IBS ở Thái Lan là khoảng 30% vào năm 1996. Có
khoảng 20.

3.2.9.

ÚC

Bê tông đúc sẵn đầu tiên ngọn hải đăng được xây dựng vào năm 1904 tại Trụ
Bradley,
Sydney. Trong đầu những năm 1950, chính phủ úc đã mời Wimpey George & Sons
Ltd của Vương quốc Anh để xây dựng nhà ở bằng cách sử dụng hệ thống xây dựng

tông đúc sẵn tấm nghiêng đế giúp khắc phục sự thiếu hụt cấp nơi ăn nghỉ tại
Canberra. Việc sử dụng của IBS tại úc trở nên rõ ràng sau khi sự tàn phá của Darwin
bởi cơn bão Tracy Giáng sinh năm 1974. Sau khi vụ việc, khoảng 425 cơn bão bằng


×