Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Đánh giá hiệu quả các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới tại xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, TP Hà Nội 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (368.39 KB, 56 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập tại trường và làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, đóng góp ý kiến quý báu từ các thầy
giáo, cô giáo cũng như ngành Quản Lý Đất Đai và Ban giám hiệu nhà trường,
tôi không chỉ được tiếp thu các kiến thức mà còn được trưởng thành hơn dưới
sự rèn luyện của môi trường đại học.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến cô giáo Bùi Thị Cúc, người đã
trực tiếp hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này, cùng các thầy cô trong bộ
môn Quản lý đất đai đã giảng dạy tôi trong suốt thời gian tham gia học tập tại
trường.
Ngoài ra trong thời gian nghiên cứu tại xã Liệp Tuyết, tôi cũng nhận
được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của UBND xã, các phòng ban và nhân dân của
xã.
Sau thời gian nghiên cứu đề tài và lên kế hoạch đến nay luận văn của
tôi cũng đã cơ bản hoàn thành, mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng chắc chắn
không tránh khỏi những thiếu sót nhất định.Chính vì vậy tôi rất mong nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô trong bộ môn để nghiên cứu của tôi
được hoàn thiện hơn.
Với lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 11 tháng 05 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Bùi Văn Xuân

1


MỤC LỤC

2



Ký hiệu

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Diễn giải

DĐĐT

Dồn điền đổi thửa

UBND

Ủy ban nhân dân

GTSX

Giá trị sản xuất

CPTG

Chi phí trung gian

HQĐV

Hiệu quả đồng vốn

GTNC

Giá trị ngày công




Lao động

HTSDĐ

Hệ thống sử dụng đất

STT

Số thử tự

LX – LM

Lúa xuân – lúa mùa

CNH – HĐH

Công nghiệp hóa – hiện đại hóa

CN – TTCN

Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp

3


DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1: Hiện trạng sử dụng đất điểm nghiên cứu năm 2014giai đoạn 2010 –
2014.

Bảng 4.2: Biến động sử dụng đất tại điểm nghiên cứu
Bảng 4.3: Kết quả thực hiện dồn điền đổi thửa tại điểm nghiên cứu.
Bảng 4.4: Các kiểu sử dụng đất chính tại điểm nghiên cứu.
Bảng 4.5: Hiệu quả của các HTSDĐ hàng năm.
Bảng 4.6: Hiệu quả kinh tế của HTSDĐ cây ăn quả
Bảng 4.7: Hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất tại điểm nghiên cứu
Bảng 4.8: Nhu cầu sử dụng và tiêu thụ nông sản
Bảng 4.9: Sơ đồ SWOT về các HTSDĐ đất tại điểm nghiên cứu.

4


DANH MỤC HÌNH
Hình 4.1 : Cơ cấu kinh tế tại điểm nghiên cứu năm 2014.
Hình 4.2. Diện tích các HTSDĐ trước và sau DĐĐT.

5


ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội phát triển, dân số tăng nhanh kéo theo những đòi hỏi ngày càng
tăng về lương thực thực phẩm, chỗ ở cũng như các nhu cầu về văn hóa, xã
hội. Con người đã tìm mọi cách để khai thác đất đai nhằm thỏa mãn những
nhu cầu ngày càng tăng đó. Vậy là đất đai, đặc biệt là đất nông nghiệp có hạn
về diện tích nhưng lại có nguy cơ bị suy thoái dưới tác động của thiên nhiên
và sự thiếu ý thức của con người trong quá trình sản xuất. Để khai thác hết
tiềm năng và lợi thế sẵn có, phát triển bền vững theo hướng CNH – HĐH, giữ
vững bản sắc văn hóa dân tộc…Đảng và nhà nước ta đã đưa ra chủ trương
xây dựng nông thôn mới.
Xã Liệp Tuyết thuộc huyện Quốc Oai, Thành phố Hà Nội, có tổng diện

tích là 383,97 ha, trong đó diện tích đất nông nghiệp của toàn xã là 250,41 ha
chiếm 65,22%. Vì vậy việc định hướng cho người dân trong xã khai thác và
sử dụng hợp lý, có hiệu quả đất sản xuất nông nghiệp sau khi dồn điền đổi
thửa là một trong những vấn đề hết sức cần thiết để nâng cao hiệu quả sử
dụng đất. Để giải quyết vấn đề này thì việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp nhằm đề xuất hướng sử dụng đất thích hợp là việc rất quan
trọng.
Xuất phát từ ý nghĩa thực tiễn trên và nhu cầu sử dụng đất, để nâng cao
thu nhập sau khi thực hiện DĐĐT chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:
“ Đánh giá hiệu quả các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp sau dồn
điền đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới tại xã Liệp Tuyết, huyện Quốc
Oai, TP Hà Nội”.

Chương 1.TỔNG QUAN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
66


1.1 . Cơ sở lý luận của vấn
1.1.1. Đất nông nghiệp

đề nghiên cứu

Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là nền tảng để định cư và tổ chức các hoạt động kinh
tế xã hội, nó không chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không
thể thay thế được, đặc biệt là đối với sản xuất nông nghiệp. Đất là cơ sở của
sản xuất nông nghiệp, là yếu tố đầu vào có tác động mạnh mẽ đến hiệu quả
sản xuất nông nghiệp, đồng thời cũng là môi trường duy nhất sản xuất ra
lương thực thực phẩm nuôi sống con người. Việc sử dụng đất có hiệu quả và
bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức

sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương lai.
Căn cứ vào mục đích sử dụng đất đai được chia thành các loại như sau:
- Đất nông nghiệp.
- Đất phi nông nghiệp.
- Đất chưa sử dụng.
Đất nông nghiệp là loại đất được xác định chủ yếu để sản xuất nông
nghiệp như trông trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, bảo vệ và phát triển
rừng hoặc nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp,lâm nghiệp.Đất nông nghiệp
là sản phẩm của tự nhiên trải qua quá trình lao động của con người làm thay
đổi các tính chất khác nhau của đất để phục vụ cho quá trình sản xuất nông
nghiệp.[2]
1.1.2.

Vai trò của đất nông nghiệp
Trong sản xuất nông nghiệp đất đai có vai trò hết sức quan trọng bởi vì

nó là nguồn lực là cơ sở tự nhiên để tạo ra các sản phẩm nông - lâm - ngư
nghiệp.
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất đặc biệt và duy nhất. Con người
chúng ta muốn tồn tại thì cần phải có cái ăn, muốn có cái ăn thì không chỉ dựa
vào những thứ có sẵn trong thiên nhiên ban tặng mà phải lao động sản xuất để
tạo ra của cải vật chất là lương thực thực phẩm để nuôi sống con người và đáp

77


ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội và nơi duy nhất sản xuất ra những thứ
ấy đó chính là đất nông nghiệp.
Đất nông nghiệp là môi trường sống là môi trường không gian để sản
xuất nông nghiệp.Sản xuất nông nghiệp có đặc thù là sản xuất ngoài trời tiếp

xúc với thiên nhiên.Cây phải sống trên đất, quang hợp nhờ ánh nắng mặt trời,
hút nước và chất dinh dưỡng từ đất.Đó chính là môi trường sống, là không
gian để sản xuất. Muốn sản xuất phát triển thì ta phải giữ gìn và bảo vệ môi
trường không vi phạm các quy luật tự nhiên, không chỉ khai thác mà còn phải
bảo vệ, cải tạo và bồi bổ đất đai, tạo lập môi trường sống tốt nhất cho cây
trồng vật nuôi.
Đất nông nghiệp là tư liệu sản xuất chủ yếu để sản xuất hàng hóa. Khi
tham ra vào quá trình sản đất nông nghiệp vừa là tư liệu sản xuất đặc biệt vừa
là đối tượng lao động. Để sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa thì trước
hết cần phải có diện tích đất nông nghiệp đủ lớn kết hợp với các yếu tố khác
như lao động, công cụ lao động, khoa học kỹ thuật, chất lượng giống cây
trồng, phân công lao động theo từng chuyên khâu... thì mới có điều kiện tạo ra
khối lượng sản phẩm hàng hóa đủ lớn để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Ngoài những điều kiện trên sản xuất nông nghiệp theo hướng hàng hóa cũng
có thể tận dụng các lợi thế riêng, các điều kiện đặc thù của từng vùng đất để
tạo ra sản phẩm hằng hóa chất lượng cao. Tóm lại dù khoa học công nghệ có
hiện đại tới đâu thì sản xuất nông nghiệp vẫn phải cần có không gian đất nông
nghiệp nhất định và đất nông nghiệp đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong
1.1.3.

nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa hiện đại.
Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
Hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp tổ
chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợii thế,
khắc phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những hoàn
cảnh cụ thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh tế
quốc dân, cũng như cần gắn sản xuất trong nước với thị trường quốc tế…

88



Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu cây
trồng vật nuôi là một trong những vấn đề bức xúc hiện nay của hầu hết các nước
trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học, các nhà
hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà còn là mong muốn
của nông dân - những người trực tiếp tham gia sản xuất nông nghiệp.
Căn cứ vào nhu cầu thị trường, thực hiện đa dạng hoá cây trồng vật
nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương. Từ đó,
nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh tranh
cao - đó là điều kiện tiên quyết phát triển được nền nông nghiệp bền vững.
-

Quan điểm sử dụng đất đai bền vững:
Phát triển nông nghiệp bền vững chiếm vị trí quan trọng nhiều khi có

tính quyết định trong sự phát triển chung của xã hội. Khái niệm chung về phát
triển nông nghiệp bền vững trong sự phát triển của xã hội loài người mới chỉ
hình thành rõ nét trong những năm 1990 qua các hội thảo và xuất bản. Điều
cơ bản nhất của phát triển nông nghiệp bền vững là cải thiện chất lượng cuộc
sống trong sụ tiếp cận đúng đắn về môi trường để giữ gìn những tài nguyên
cơ bản nhất cho thế hệ sau. Có rất nhiều định nghĩa về nông nghiệp bền vững
tuỳ theo tình hình cụ thể.
Theo FAO: Nông nghiệp bền vững bao gồm quản lý có hiệu quả tài
nguyên cho nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu cuộc sống của con người đồng
thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên môi trường và bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên.[10]
Theo Bộ Nông nghiệp Canada: Hệ thống nông nghiệp bền vững là hệ
thống có hiệu quả kinh tế, đáp ứng nhu cầu xã hội về an ninh lương thực,
đồng thời giữ gìn và cải thiện tài nguyên thiên nhiên và chất lượng của môi
trường sống cho đời sau.[10]

Các định nghĩa có thể có nhiều các biểu thị khác nhau, song về nội
dung bao gồm ba thành phần cơ bản sau:

99


- Bền vững an ninh lương thực trong thời gian dài trên cơ sở hệ thống
nông nghiệp phù hợp điều kiện sinh thái và không tổn hại môi trường.
- Bền vững về tổ chức quản lý, hệ thống nông nghiệp phù hợp trong
mối quan hệ con người cho cả đời sau.
- Bền vững thể hiện ở tính cộng đồng trong hệ thống nông nghiệp hợp lý.
Định nghĩa của Piere Croson (1993): Một hệ thống nông nghiệp bền
vững phải đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao về ăn và mặc thích hợp có
hiệu quả kinh tế, môi trường và xã hội gắn với tăng phúc lợi trên đầu người.
Đáp ứng nhu cầu là một phần quan trọng cần đưa vào định nghĩa vì sản lượng
nông nghiệp cần thiết phải được tăng trưởng trong những thập kỷ tới. Phúc lợi
cho mọi người vì phúc lợi của đa số dân trên thế giới đều còn rất thấp.
Trong tất cả các định nghĩa, thì điều quan trong nhất là biết sử dụng
hợp lý tai nguyên đất đai, giữ vững và cải thiện chất lượng môi trường, có
hiệu quả kinh tế, năng xuất cao và ổn định, nâng cao chất lượng cuộc sống,
bình đẳng giữa các thế hệ và hạn chế rủi ro.
Khái niệm về quản lý đất bền vững được nhận biết trong khung khái niệm về
nông nghiệp thế giới.Trong thực tế mọi người thường nhầm lẫn giữa bảo vệ đất và
quản lý đất bền vững.Quản lý đất bền vững phải được hiểu với khái niệm rộng, bao
gồm toàn bộ hoạt động nông nghiệp có tác động đến các thông số về đất.
Trong lịch sử canh tác nông nghiệp của nước ta, hệ thống sử dụng đất
trồng lúa nước là hệ thống canh tác khá bền vững.hệ thống canh tác sử dụng
đất dốc còn tồn tại khá nhiều vấn đề cần giải quyết: xói mòn, rửa trôi, thoái
hoá đất, ...
1.1.4.


Phân loại hiệu quả sử dụng đất
1.1.4.1.
Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá tính bền vững quản lý sử
dụng đất. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh về mặt chất lượng
của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi các nguồn lực sản xuất có
hạn, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của xã hội ngày càng gia tăng và đa dạng
10


thì nâng cao hiệu quả kinh tế là một xu thế khách quan và bức xúc của sản xuất
xã hội[11].
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần gía trịthu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra
là phần gí trị của ngườn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xem xét cả về
phần so sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ
giữa hai đại lượng đó.
Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng: Bản chất của phạm trù kinh
tế sử dụng đất là “với một diện tích đất đai nhất định sản xuất ra một khối
lượng của cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao
động thấp nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội”.
2.1.4.2.
Hiệu quả xã hội
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được
xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp mà chỉ
tiêu quan trọng nhất là giá trị của sản phẩm nông nghiệp đạt cao nhất trên một
đơn vị diện tích [8].
Hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất

nông nghiệp là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm.Hiệu quả xã
hội trong sử dụng đất hiện nay chủ yếu được xác định bằng khả năng thu hút
lao động, đảm bảo đời sống nhân dân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển,
nội lực và nguồn lực của địa phương được phát huy, đáp ứng nhu cầu của hộ
nông dân về ăn, mặc, và nhu cầu sống khác. Sử dụng đất phù hợp với tập
quán, nền văn hoá của địa phương.
2.1.4.3. Hiệu quả môi trường
Hiệu quả môi trường là vấn đề mang tính toàn cầu, ngày nay đang được
chú trọng quan tâm và không thể bỏ qua khi đánh giá hiệu quả. Hiệu quả môi
trường được thể hiện ở chỗ: Loại hình sử dụng đất phải bảo vệ được độ màu
mỡ của đất đai, ngăn chặn được sự thoái hoá đất bảo vệ môi trường sinh thái.
11


Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh thái (>35%) đa dạng sinh
học biểu hiện qua thành phần loài.[3]
Trong thực tế, tác động của môi trường sinh thái điễn ra rất phức tạp và
theo chiều hướng khác nhau. Cây trồng được phát triển tốt khi phát triển phù
hợp với đặc tính, tính chất của đất.Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới
tác động của các hoạt động sản xuất, quản lý của con người hệ thống cây
trồng sẽ tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang tính
lâu dài, vừa đảm bào lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến tương
lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên đất và
môi trường sinh thái.[13]
1.1.5. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
- Các yếu tố tự nhiên
Chất lượng đất : Sản xuất nông nghiệp trên đất tốt thì có hiệu quả sử
dụng đất cao. Tuy nhiên, để hình thành đất với độ phì nhiêu cần thiết cho
canh tác nông nghiệp thì phải trải qua quá trình hàng nghìn năm, thậm chí

hàng vạn năm. Vì vậy mỗi khi sử dụng đất nông nghiệp cần cân nhắc kỹ để
không rơi vào tình trạng chạy theo lợi ích trước mắt mà không chú ý đến mục
tiêu phát triển tương lai.
Khí hậu thời tiết: Thời tiết là trạng thái khí quyển đặc trưng bởi một tập
hợp các yếu tố khí tượng quan trắc được trong một thời điểm hoặc một
khoảng thời gian ngắn nhất định. Sự kết các trị số của các yếu tố khí tượng rất
khác nhau, ngoài ra nó biến thiên liên tục và đột ngột theo thời gian. Vì vậy,
nhìn chung thời tiết biểu hiện muôn hình muôn vẻ. Việt Nam nằm trong vòng
cung Châu Á – Thái Bình Dương, là nơi gặp gỡ của các luồng gió mùa với
gió tín phong tây Thái Bình Dương nên tính chất gió mùa thể hiện rõ rệt: khắp
trong nước có 2 mùa, mùa mưa có lượng mưa chiếm 80 – 85% lượng mưa cả
năm, mùa khô thuỷ triều xâm nhập sâu vào châu thổ nên đất bị nhiễm mặn, gây
khó khăn cho hoạt động sản xuất nông nghiệp. Điều này cũng ảnh hưởng lớn
12


đến việc lựa chọn giống cây trồng phù hợp với từng miền, từng vùng lãnh thổ,
theo từng mùa khác nhau. Mặc dù các mùa lặp đi lặp lại theo từng năm nhưng
cũng có những biến đổi thất thường không giống nhau cũng làm ảnh hưởng đến
năng suất của cây trồng. Nếu thời tiết thuận lợi, mưa nắng điều hoà thì làm cho
năng suất chất lượng của nông sản thu hoạch tăng và ngược lại.
Một số hiện tượng thời tiết gây bất lợi cho sản xuất của ngành nông
nghiệp:
+ Hiện tượng bão: mùa hè là thời gian thường có những trận mưa lớn kèm
theo những trận gió xoáy, gió lốc gây thiệt hại không nhỏ cả về con người lẫn
vật chất như các công trình xây dựng nơi cơn bão đi qua, vật nuôi chết, các loại
cây lương thực có thể sẽ không cho thu hoạch hoặc thu hoạch rất ít.
+ Rét đậm, rét hại và sương muối: Mùa đông lạnh còn kèm theo là
sương muối, đây là hiện tượng thời tiết phổ biến ở trung du miền núi phía bắc.
Rét đậm, rét hại và sương muối khiến cho các loại cây lương thực dễ bị chết,

nhất là mạ mới cấy, năng suất các cây ăn quả giảm.
Hệ thống thủy lợi: Trong hoạt động nông nghiệp nước là tài nguyên vô
cùng quan trọng và không thể thiếu. Cây trồng cần phải được tưới lượng nước
phù hợp mới đảm bảo đựơc các quá trình sinh trưởng phát triển diễn ra tốt.Vì
vậy, cần có một hệ thống tưới tiêu với các kênh, mương….phù hợp sao cho
dẫn nước được tới từng khu vực, đảm bảo lượng nước cần thiết cho cây trồng.
Nước ta có hệ thống sông ngòi dày đặc, từ Bắc đến Nam lại là lưu vực của 2
con sông lớn là Sông Hồng và Sông Mê Kông nên rất thuận lợi cho sản xuất
nông nghiệp.
-

Các yếu tố con người
Biện pháp kĩ thuật canh tác là các tác động của con người vào đất đai,

cây trồng, vật nuôi nhằm tạo nên sự hài hòa giữa các yếu tố của các quá trình
sản xuất để hình thành, phân bố và tích lũy năng suất kinh tế. Đây là những
tác động thể hiện sự hiểu biết sâu sắc đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều
kiện môi trường và thể hiện những dự báo thông minh và sắc sảo[11]. Trên cơ
13


sở nghiên cứu các quy luật tự nhiên của sinh vật lựa chọn các tác động kỹ
thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các đầu vào nhằm đạt các mục tiêu
sử dụng đất đề ra. Các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỹ thuật,
giống mới, thủy lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với
tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghiệp sản xuất tiến bộ là
một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh. Cho đến
giữa thế kỷ 21, trong nông nghiệp nước ta, quy trình kỹ thuật có thể góp phần
đến 30% của năng suất kinh tế. Như vậy, nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc
biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai thác đất theo chiều sâu và

nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp [11].
Công tác quy hoạch và bố trí sản xuất: Phát triển sản xuất hàng hoá phải
gắn với công tác quy hoạch và phân vùng sinh thái nông nghiệp. Cơ sở để tiến
hành quy hoạch dựa vào điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đặc trưng cho
từng vùng. Việc phát triển sản xuất nông nghiệp phải đánh giá, phân tích thị
trường tiêu thụ và gắn với quy hoạch phát triển công nghiệp chế biến, kết cấu
hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực và các thể chế pháp luật về bảo vệ tài
nguyên, môi trường. Đó sẽ là cơ sở để phát triển sản xuất, khai thác các tiềm
năng của đất đai, nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phát triển sản
xuất hàng hoá.
Cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất nông lâm nghiệp: Trong các yếu tố cơ
sở hạ tầng phục vụ sản xuất, yếu tố giao thông vận tải là quan trọng nhất, nó
góp phần vào việc trao đổi tiêu thụ sản phẩm cũng như dịch vụ những yếu tố
đầu vào cho sản xuất. Các yếu tố khác như thủy lợi, điện, thông tin liên lạc,
dịch vụ, nông nghiệp đều có sự ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng.
Trong đó, thuỷ lợi và điện là yếu tố không thể thiếu trong điều kiện sản xuất
hiện nay.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm nông lâm sản là cầu nối giữa người sản
xuất và tiêu dùng, ở đó người sản xuất thực hiện việc trao đổi hàng hoá .
Theo Nguyễn Duy Tính [8], ba yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến hiệu quả sử
dụng đất nông nghiệp là năng suất cây trồng, hệ số quay vòng đất và thị
14


trường cung ứng đầu vào và tiêu thụ đầu ra. Trong cơ chế thị trường, các
nông hộ hoàn toàn tự do lựa chọn hàng hoá họ có khả năng sản xuất, đồng
thời họ có xu hướng hợp tác, liên doanh, liên kết để sản xuất ra những nông
sản hàng hoá mà nhu cầu thị trường cần với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu
thị hiếu của khách hàng. Muốn mở rộng thị trường phải phát triển hệ thống
cơ sở hạ tầng, hệ thống thông tin, dự báo, mở rộng các dịch vụ tư vấn...

Đồng thời, quy hoạch các vùng trọng điểm sản xuất hàng hoá để người sản
xuất biết nên sản xuất cái gì? bán ở đâu? mua tư liệu sản xuất và áp dụng
khoa học công nghệ gì? Sản phẩm hàng hoá của Việt Nam đa dạng, phong
phú về chủng loại, chất lượng, giá rẻ và đang được lưu thông trên thị trường
là điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng
hoá có hiệu quả[11].
Phát triển nông nghiệp nước ta thực sự khởi sắc sau sự kiện đổi mới của
pháp luật và một loạt chính sách về đất đai bắt đầu là Nghị quyết 10 của Bộ
chính trị vào tháng 4 năm 1988, người nông dân được giao đất nông nghiệp sử
dụng ổn định, lâu dài, được thừa nhận như một đơn vị kinh tế và được tự chủ
trong sản xuất nông nghiệp. Sự ra đời của Luật Đất đai 1993; sau đó là luật sửa
đổi bổ sung luật đất đai năm 1998 và năm 2001; Luật Đất đai năm 2003; Nghị
định 64/CP năm 1993 về giao đất nông nghiệp và Nghị định 02/CP năm 1994
về giao đất rừng và một loạt các văn bản liên quan khác đã đem lại luồng gió
mới cho sản xuất nông nghiệp. Nước ta từ chỗ phải nhập khẩu lương thực nay
đã có thể tự túc lương thực và trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai
trên thế giới.
Sự ổn định chính trị - xã hội và các chính sách của Nhà nước: ổn định
chính trị là yếu tố then chốt để tạo nên sự khác biệt giữa Việt Nam và các
nước khác trong khu vực. Đầu tư vào một nước có nền chính trị ổn định tạo
tâm lý yên tâm về khả năng tìm kiếm lợi nhuận và thu hồi vốn, giúp các nhà
1.1.6.

đầu tư có thể tính toán chiến lược đầu tư lớn và dài hạn.
Chính sách dồn điền đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới
15


2.1.6.1.


Khái niệm về dồn điền đổi thửa
Dồn điền đổi thửa (Regrouping of lands, trong tiếng Anh, hay

Remenbrement, trong tiếng Pháp) là việc tập hợp, dồn đổi các thửa ruộng nhỏ
thành thửa ruộng lớn, trái ngược với việc chia các mảnh ruộng to thành các
mảnh ruộng nhỏ. Có 2 cơ chế chủ yếu để thực hiện dồn điền đổi thửa:
Một là, Để cho thị trường ruộng đất, và các nhân tố phi tập trung tham
gia vào, nhà nước chỉ hỗ trợ sao cho cơ chế này vận hành tốt hơn.
Hai là, thực hiện các biện pháp can thiệp hành chính, tổ chức phân chia
lại ruộng đất, thực hiện các quy hoạch có chủ định. Theo cách này, các địa
phương đều xác định là DĐĐT sẽ không làm thay đổi các quyền của nông hộ
đối với ruộng đất đã được quy định trong pháp luật.Tuy nhiên, việc thực hiện
quá trình này có thể làm thay đổi khả năng tiếp cận ruộng đất của các nhóm
nông dân hưởng lợi khác nhau dẫn đến thay đổi bình quân ruộng đất ở các
2.1.6.2.

nhóm xã hội khác nhau.
Nguyên nhân tiến hành dồn điền đổi thửa
Chủ trương của Đảng và Nhà nước ta là tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
đổi mới cơ chế kinh tế nông nghiệp nông thôn, thừa nhận hộ nông dân là đơn
vị kinh tế tự chủ trong nền kinh tế thị trường. Tuy nhiên trước nhu cầu của sự
công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nức, nền công nghiệp và đặc biệt là vấn đề
ruộng đất trong nông nghiệp đã bộc lộ nhưng tồn tại nảy sinh mới cần phải
được quan tâm giải quyết, đó chính là tình trạng ruộng đất quá manh mún,
phân tán. Việc tạo nhiều ô thửa lớn là việc làm cần thiết để tạo tiền đề cho
việc thực hiện công nghiệp hóa hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
Mặt khác khi thực hiện giao đất còn nhiều sai sót dẫn đến tình trạng
khiếu kiện kéo dài gây mất ổn định ở cơ sở; quy hoạch sử dụng đất, quy
hoạch kiến thiết lại ruộng đồng thiếu khoa học, thiếu tầm nhìn chiến lược
đang gây trở ngại lớn cho việc đổi mới quản lý, tổ chức lại sản xuất nhất là

chuyển dịch cơ cấu kinh tế.

2.1.6.3.

Mục đích của dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp
16


Mục đích của công tác dồn điền đổi thửa là nhắm khắc phục tình trạng
manh mún đất đai. Tạo điều kiện để áp dụng các tiến bộ khoa học – kỹ thuật
vào sản xuất, đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo
hướng sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế hộ gia đình và kinh tế trang trại,
giảm chi phí sản xuất và tăng thu nhập trên đơn vị diện tích và góp phần nâng
cao đời sống cho người dân.
Quy hoạch lại ruộng đồng thành những vùng sản xuất tập trung, vùng
chuyên canh lớn, để có thể dễ dàng quản lý và sử dụng đất đai theo hướng
chuyên môn hóa đạt kết quả cao.
1.2. Cơ sở thực tiễn của vấn đề
1.2.1. Hiệu quả sử dụng đất sau


nghiên cứu
DĐĐT trên thế giới

Ở Nhật Bản:
Vào những năm trước năm 1960 tình trạng đất đai manh mún xảy ra
phổ biến trên khắp nước Nhật. Mỗi hộ nông dân có nhiều thửa ruộng nhỏ,
phân tán xa nhau.
Để đẩy mạnh phát triển nông nghiệp, Chính phủ Nhật Bản đã ban hành
Luật cơ bản về nông nghiệp từ quy mô nhỏ lên quy mô lớn.dựa trên ba mục

tiêu chính “ rộng, chắc chắn, sâu”.
-

Rộng: nâng kích thước của thửa lên đến 3000 m2.

-

Chắc chắn: cải tạo lại nền đất. xây dựng hệ thống thoát nước cho từng thửa
và toàn bộ khu vực để có thể áp dụng KH – KT một cách tối ưu.

-

Sâu: cải tầng canh tác ruộng đất đảm bảo độ dày khoảng 1m.
Công tác chuyển đổi là hết sức khó khăn và phức tạp, vì vậy có nơi làm

dần từng bước, lúc ban đầu từ 500 m2/thửa sau vài năm đã lên đến 3000
m2/thửa. Kết quả là khoảng 2 triệu ha trong 2,7 triệu ha đất trồng lúa nước đã
được chuyển đổi, số còn lại chủ yếu là đất trồng cỏ. Trước chuyển đổi bình
quân mỗi hộ nông dân có từ 3 đến 4 thửa đất, sau chuyển đổi họ chỉ còn từ 1
đến 2 thửa.

17


Việc chuyển đổi đất nông nghiệp làm tăng năng suất máy nông nghiệp,
tăng sức sản xuất của đất đai, tăng năng suất lao động của người nông dân,
tạo điều kiện phát triển hàng hóa để nâng cao sức cạnh tranh của nông nghiệp.
Năng suất lúa tăng cao kể từ khi tiến hành chính sách mới từ 3000 kg
gạo/ha/năm năm 1960 lên 6000 kg gạo/ha/năm năm 1992. Hiện nay chính
sách chuyển đổi tiếp tục được thực hiện với quy mô dồn điền cao hơn lên tới

1 – 2 ha.[1]


Ở Mỹ:
Mỹ là một nước có nền công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới, đã
thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá mà bước đi ban đầu là thực hiện việc
tập trung đất đai và xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ nông nghiệp. Nông
nghiệp nước Mỹ mà điển hình là mô hình kinh tế trang trại, tất cả các yếu tố
đầu vào, đầu ra đều là hàng hoá với khối lượng lớn.Nhà nước Mỹ cấp đất cho
hộ nông dân, cho phép mua bán hoặc thuê đất để hình thành trang trai.Các
trang trại sản xuất hoàn toàn trên ruộng đất có quy mô bình quân là 108 ha,
còn các trang trại đi thuê có quy mô bình quân 229 ha.Các trang trại vừa canh
tác trên đất tự có vừa trên đất đi thuê có quy mô đất bình quân là 357 ha. Việc
tích tụ và tập trung ruộng đất để đi vào công nghiệp hoá hiện đại hoá tạo ra ưu
thế cạnh tranh về chất lượng nông sản và giá thành ở nước Mỹ.[1]



Ở Malayxia:
Sở hữu đất đai nằm trong hai thành phần chính là các đại điền chủ sở
hữu diện tích canh tác ít nhất là 40 ha và nông dân sở hữu diện tích canh tác
nhỏ.
Diện tích thuộc sở hữu người nông dân thì nhỏ, mặt khác sản xuất theo
phương thức truyền thống nên hiệu quả thấp. Trong khi đó sản xuất nông
nghiệp quy mô lớn của các đại điền chủ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn
nhiều so với quy mô sản xuất nhỏ của người nông dân.
Tại quốc gia này chương trình phát triển đất đai nằm trong cải cách
ruộng đất bắt đầu thực hiện 1996-1970 và tiếp tục 1971-1990. Cơ quan củng
cố và khôi phục đất đai có nhiệm vụ thực hiện việc củng cố, tập trung lại
18



những mảnh ruộng nhỏ và manh mún từ đó làm tăng sản lượng cây trồng và
1.2.2.
1.2.2.1.

hiệu quả kinh tế.[1]
Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau DĐĐT tại một số tỉnh trên cả nước
Vấn đề về manh mún đất đai ở nước ta
Ở Việt Nam, tình trạng manh mún ruộng đất diễn ra khá phổ biến nhất
là khu vực Trung du và miền núi Bắc bộ. Trên thực tế khái niệm manh mún
ruộng đất xuất hiện từ khi chia ruộng cho hộ nông dân theo nghị đinh 64/CP
năm 1993 của Chính phủ. Theo số liệu tổng hợp của Bộ Tài nguyên và Môi
trường cho thấy, cả nước có khoảng 75 triệu thửa đất, bình quân mỗi hộ có
khoảng 0.25 đến 0.5 ha đất nông nghiệp, bình quân mỗi hộ có 6,8 thửa đất.
khu vực có độ manh mún cao nhất là Trung du miền núi phía Bắc và đồng
bằng sông Hồng.
Theo số liệu của Tổng cục địa chính năm 1998, bình quân 1 hộ thuộc
vùng Đồng bằng sông Hồng có khoảng 7 thửa trong khi ở vùng núi phía Bắc
con số này còn cao hơn từ 10 – 20 thửa. Số liệu điều tra từ 43167 nông hộ ở
tỉnh Hưng Yên cho thấy sau khi giao đất năm 1993, trung bình một hộ có 7,6
thửa. Vào năm 1988, Chính phủ đã đề ra chính sách khuyến khích nông dân
đổi ruộng chon hay để tạo thành những ô thửa có diện tích lớn hơn. Từ đó các
tỉnh trên miền bắc đặc biệt là vùng Đồng bằng sông Hồng đã thành lập các
hội đồng thực hiện thi hành thí điểm công tác dồn điền đổi thửa.

1.2.2.2.


Thành tựu đạt được tại 1 số tính trên cả nước.


Tỉnh Nam Định:
Sau vụ mùa năm 2011, trên địa bàn tỉnh đã có 91/209 xã, thị trấn triển

khai DĐĐT, trong đó có 84/96 xã, thị trấn xây dựng nông thôn mới. Đến hết
nằm 2011, có 57 xã, thị trấn đã hoàn thành giao đất ngoài thực địa, Hải Hậu là
huyện đầu tiên hoàn thành công tác DĐĐT ( 35/35 xã, thị trấn).
19


Sau vụ mùa nằm 2012, có thêm 108 xã, thị trấn triển khai DĐĐT. Như
vậy đã có 199/209 xã, thị trấn thực hiện DĐĐT, trong đó 75 xã, thị trấn đã
hoàn thành việc giao đất ngoài thực địa cho người dân, 33 xã, thị trấn đang
tập trung hoàn thành các công trình giao thông thủy lợi nội đồng, bốc thăm vị
trí chuẩn bị giao đất ngoài thực địa.
Nhìn chung công tác DĐĐT tại các xã, thị trấn đã giao đất tại thực địa
cơ bản đã đạt yêu cầu: đã kết hợp DĐĐT với chỉnh trang, kiến thiết đồng
ruộng, làm giao thông và thủy lợi nội đồng, hình thành các vùng sản xuất tập
trung, giảm số thửa của mỗi hộ gia đình (từ 3,5 xuống còn 1,5 thửa/ hộ)
Sau 2 nằm thực hiện công tác DĐĐT, với sự vận động nhân dân đã góp
được hơn 1000 ha đất, đắp được gần 2000km đường giao thông nội đồng.
Hầu hết tất cả các xã, thị trấn đã từng bước xây dụng kế hoạch sản xuất theo
mô hình cánh đồng mẫu lớn. Dự kiến năm 2013 tỉnh sẽ hoàn thành công tác
DĐĐT.
Sau DĐĐT các mô hình sử dụng đất cho thấy hiệu quả rõ rệt so với
trước DĐĐT. Số mô hình sử dụng đất giảm đi nhưng năng suất của các mô
hình tăng lên nhiều lần. Góp phần làm tăng thêm thu nhập cho người dân
trong tỉnh.



Tỉnh Lào Cai:
Triển khai ở xã Quang Kim, huyện Bát Sát năm 2004.
Quang kim có diện tích 171 ha đất nông nghiệp chia cho 1135 hộ dân ở

17 thôn, bản bình quân mỗi hộ gia đình có từ 6 – 7 thửa. Đầu năm 2004, Đảng
ủy UBND xã Quang Kim đã ra Nghị quyết về DĐĐT xác định đây là giải
pháp giúp nông dân làm giàu. Trưởng ban chỉ đạo là Bí thư Đảng ủy xã trực
tiếp chỉ đạo công tác DĐĐT. Trong hội nghị, cán bộ xã tuyên truyền chủ yếu
về lợi ích và cách thức thực hiện việc DĐĐT để toàn bộ nhân dân được biết
và nghiêm túc thực hiện.
Sau DĐĐT giá trị sản xuất đã tăng từ 3 – 4 lần so với trước DĐĐT, đời
sống của nhân dân từng bước được cải thiện và nâng cao. Từ DĐĐT xã
20


Quang Kim rút ra những kinh nhiệm quý báu trong công tác DĐĐT như: cán
bộ phải luôn sát cánh cùng nhân dân, cán bộ thực hiện phải gương mẫu, tiên
phong thực hiện…
Những khó khăn sau việc DĐĐT thường xuất hiện đó là các vấn đề về
cây giống, vật nuôi chưa đáp ứng kịp thời cho người dân tiến hành sản xuất,
nguồn vốn vay để người dân duy trì phát triển còn chưa đủ và có thời gian
ngắn hạn chưa đủ để người dân quay vòng vốn, thị trường tiêu thụ sản phẩm
cho người nông dân còn nhiều vướng mắc.


Tỉnh Bắc Ninh:
Triển khai tại xã Phú Lâm, huyện Tiên Du từ năm 2002; xã Mộ Đạo,

huyện Quế Võ từ năm 2003; xã Châu khê, thị xã Từ Sơn từ năm 2005; xã
Thụy Hòa, huyện Yên Phong từ năm 2007; thôn Đoan Bái, xã Đại Bái; thôn

Ngô Cương, xã Nhân Thắng; thông Đông Cao, xã Đông Cứu; thôn Phương
Độ, xã Bình Dương; thôn Du Tràng, thôn Cổ Tiết, xã Giang Sơn, huyện Gia
Bình từ năm 2008
Trên cơ sở một số huyện đã thực hiện DĐĐT bước đầu đạt được kết
quả nhất định. BCH Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh đã phấn đấu đến hết năm 2011
hoàn thành kế hoạch DĐĐT trên địa bàn tỉnh với nguyên tắc : “ Giữ nguyên
số khẩu, định xuất, diện tích đã giao cho các hộ từ năm 1992 – 1993. Về
phương án chuyển đổi phải ổn định diện tích cánh tác của các thôn, HTX và
giữ nguyên danh giới sử dụng đất. Quá trình thực hiện đảm bảo ổn định, công
khai, dân chủ, đúng pháp luật, tạo sự đồng thuận trong dân cư.Đối với những
vùng quy hoạch khu công nghiệp, đô thị… được cấp có thẩm quyền phê duyệt
không thực hiện trong giai đoạn này.Giao Sở tài nguyên – Môi trường hoàn
chỉnh hướng dẫn quy trình thực hiện DĐĐT. Các ngành, địa phương nghiên
cứu đề xuất cơ chế hỗ trợ trên 4 lĩnh vực: chỉ đạo, khảo sát thiết kế, đo đạc
bản đồ và cải tạo nâng cấp giao thông nội đồng”


Tỉnh Nghệ An:

21


Theo thống kê của các huyện, thành, thị trên địa bàn tỉnh Nghệ An có
319 xã có khả năng dồn điền đổi thửa.Năm 2014, trên địa bàn tỉnh đã có 251
xã tiến hành chuyển đổi ruộng đất vượt chỉ tiêu 38 xã so với kế hoạch đề ra
của năm 2014. Trong đó có đến 180 xã đã hoàn thành việc chuyển đổi diện
tích tại thực địa, 71 xã đang thực hiện và 68 xã chưa thực hiện.
Hiện tại đã có 76.430,79 ha diện tích đất nông nghiệp đủ điều kiện dồn
điền đổi thửa với sự tham gia của 320.497 hộ. Quy mô bình quân thửa đất sau
dồn điền đổi thửa là 1.214,19 m 2/thửa. việc xây dựng hệ thống giao thông,

thủy lợi nội đồng sau khi dồn điền đổi thửa đã đáp ứng được yêu cầu thực tiễn
với khối lượng đào đắp lên tới 7.182.896,98 m3 gồm có các huyện Quỳnh
Lưu, Quế Phong, Diễn Châu, Thanh Chương…
Qua 2 năm thực hiện, toàn tỉnh đã xây dựng được trên 375 mô hình sản
xuất có hiệu quả như: sản xuất rau an toàn, lúa, ngô, lạc, măng tây xanh… có
năng xuất cao. Tính đến tháng 7/2014 các địa phương đã triển khai được 28
mô hình, trong đó có 18 mô hình sản xuất lúa với diện tích 1.267,0 ha, năng
xuất lúa đạt từ 65 – 70 tạ/ha ở các huyện Diễn Châu, Yên Thành, Quỳnh Lưu,
Nghi Lộc; 06 mô hình sản xuất ngô với diện tích 201 ha cho năng suất từ 58
-65 tạ/ha ở các huyện Tân Kỳ, Anh Sơn; 04 mô hình sản xuất lạc với diện tích
91 ha cho năng suất từ 40 – 45 tạ/ha ở các huyện Diễn Châu, Nghi Lộc.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện DĐĐT đã đạt được nhiều thành
tựu đáng khen nhưng vẫn còn tồn tại nhiều khuyết điểm trong công tác thực
hiện như: việc tổ chức xây dựng đề án DĐĐT của một số xã còn chậm, chưa
cụ thể; công tác tuyên truyền, vận động, thuyết phục nhân dân ở một số huyện
chưa đạt được sự hưởng ứng cao từ người dân.


TP Hà Nội:
Hiện tại, thành phố Hà Nội đã tiến hành DĐĐT được 95,9% kế hoạch

(tức 73.237,03/76.365,07 ha). Trong đó, một số huyện thực hiện DĐĐT được
diện tích lớn, như: Chương Mỹ, Sóc Sơn, Phú Xuyên, Mỹ Đức, Ứng Hòa,
Thanh Oai. Trong thời gian 02 năm từ năm 2012 – 2014, toàn thành phố đã
22


DĐĐT được khối lượng diện tích đất nông nghiệp đã DĐĐT đều được quy
hoạch lại, đào đắp mương máng, giao thông nội đồng theo tiêu chuẩn, tiêu chí
nông thôn mới. Trên cơ sở đó, cơ giới hóa đã và đang được các tập thể xã,

HTX và các tư nhân đầu tư vào đồng ruộng ở các khâu của quá trình sản xuất:
làm đất, cấy và thu hoạch lúa... Thực tế cho thấy, trước khi DĐĐT, bình quân
mỗi hộ có 7-15 ô, thửa ruộng, thậm chí là 27-39 ô, thửa nhưng đến nay chỉ
còn 1-2 ô thửa.
Sau DĐĐT nhiều cánh đồng mẫu lớn sản xuất lúa chất lượng cao đã
hình thành ở hầu hết các huyện có quy hoạch sản xuất lúa. Bên cạnh đó, nhiều
mô hình sản xuất nông nghiệp hàng hóa đem lại giá trị kinh tế cao ra đời, như:
mô hình trồng hoa ở Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Trì, Đông Anh,... đạt giá
trị 0,5-1,5 tỷ/ha/năm, thậm chí 2 tỷ/ha/năm; mô hình trồng cây ăn quả ở một
số xã thuộc huyện Đan Phượng, Hoài Đức, Thanh Oai, Thanh Trì, Gia Lâm,
Đông Anh, Mê Linh,... đạt giá trị 0,5-1,5 tỷ/ha/năm; mô hình chăn nuôi tập
trung xa khu dân cư ở Sơn Tây, Ba Vì, Ứng Hòa, Chương Mỹ, Thanh Oai,
Đan Phượng, Quốc Oai... đạt giá trị 1-2 tỷ đồng;...
Bên cạnh những kết quả đạt được thời gian qua, vẫn còn những tồn tại,
hạn chế.Hiện, diện tích chưa DĐĐT nằm rải rác trên địa bàn 48 xã thuộc 12
huyện. Đáng lưu ý, một số địa phương do nhiều lý do khác nhau đã để nhân
dân phản ứng, tụ tập, khiếu kiện đông người gây mất trật tự an ninh khu vực,
thậm chí biến thành điểm nóng ảnh hưởng chung phong trào của thành phố...
Đến nay, một số địa phương vẫn để ruộng hoang không cấy lúa vụ chiêm
xuân, như: xã Cao Viên (Thanh Oai) 121ha; xã Tuyết Nghĩa (Quốc Oai) 50ha;
Nguyễn Trãi (Thường Tín) 42ha và Hòa Bình (Thường Tín) 15ha.
Nhìn chung công tác DĐĐT trên cả nước đang diễn ra hết sức nhanh
chóng, đã đạt được những thành công nhất định sau khi thực hiện thành công.
Có thể thấy rằng chủ trương DĐĐT của nhà nước ta là một điều hết sức đúng
đắn, góp phần nâng cao đời sống, cũng như cải thiện đời sống của người
dân.Mục đích cuối cùng của công tác DĐĐT là làm sao cho thửa ruộng có
23


diện tích lớn hơn, canh tác có hiệu quả hơn nhằm đem lại lợi ích cho người

nông dân. Năng suất của các loại cây trồng sau DĐĐT đều tăng lên tạo nền
tảng để phát triển kinh tế đất nước ta.

Chương 2. MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU

24


2.1. Mục tiêu nghiên cứu
2.1.1. Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả của các hệ thống sử dụng đất sau khi DĐĐT tại điểm
nghiên cứu.
2.1.2. Mục tiêu cụ thể
Đề xuất giải pháp sử dụng đất nông nghiệp hiệu quả, bền vững theo
hướng sản xuất hàng hóa.
2.2. Đối tượng nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu


Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là quỹ đất nông nghiệp, các yếu tố
liên quan sử dụng đất và hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã
Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.


-

Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi thời gian : Sau DĐĐT (năm 2014).
Phạm vi không gian: địa bàn xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, TP Hà Nội.

2.3. Nội dung nghiên cứu

-

Đánh giá điều kiện tự nhiên, KT – XH điểm nghiên cứu
Hiện trạng sử dụng đất các HTSDĐ
Đánh giá hiệu quả các HTSDĐ nông nghiệp
Lựa chọn loại hình sử dụng đất có hiệu quả
Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
2.4. Phương pháp nghiên cứu
2.4.1. Phương pháp thu thập
2.4.1.1. Chọn điểm nghiên cứu

số liệu

Chọn điểm nghiên cứu là vấn đề hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng đến
tính chính xác, khách quan và tính thực tiễn của kết quả nghiên cứu. qua điều
tra sơ bộ điểm nghiên cứu là một xã thuần nông ở huyện Quốc Oai có diện
tích đất sản xuất nông nghiệp lớn và có điều kiện thuận lợi cho phát triển
nông nghiêp, hơn nữa xã là một trong những xã thực hiện chính sách dồn điền
đỏi thửa nhanh và đảm bảo yêu cầu trên địa bàn huyện Quốc Oai, do đó tôi đã
2.4.1.2.

chọn điểm nghiên cứu làm địa điểm để thực hiện đề tài nghiên cứu của mình.
Thu thập số liệu thứ cấp
25


×