Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

Đánh giá hiệu quả các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới tại xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, TP. Hà Nội”

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (392.3 KB, 64 trang )

LỜI CẢM ƠN
Được sự phân công của Bộ môn Quản lý đất đai, Khoa kinh tế và quản
trị kinh doanh Trường Đại Học Lâm Nghiệp và sự đồng ý của giáo viên
hướng dẫn ThS. Bùi Thị Cúc tôi đã thực hiện đề tài : “Đánh giá hiệu quả các
hệ thống sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa trong xây dựng
nông thôn mới tại xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, TP. Hà Nội”
Để hoàn thành khóa luận này. Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô
giáo đã tận tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và rèn luyện ở Trường Đại Học Lâm Nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn, giảng viên ThS. Bùi Thị Cúc
đã tận tình, chu đáo hướng dẫn tôi thực hiện khóa luận này.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng để thực hiện đề tài một cách hoàn chỉnh
nhất. Song do buổi đầu mới làm quen với công tác nghiên cứu khoa học, tiếp
cận với thực tế sản xuất cũng như hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên
không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định mà bản thân chưa thấy được.
Tôi rất mong được sự góp ý của Quý Thầy, Cô giáo và các bạn đồng nghiệp
để khóa luận được hoàn chỉnh hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày……tháng…….năm 2015
Sinh viên thực hiện
Tạ Trần Trưởng

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


TT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18

Chữ viết tắt
CNH - HDH
CN-TTCN
CPTG
DĐĐT
ĐBSH
GCNQSDĐ
GTNC
GTSX
HĐND

HQĐV
HTSDĐ
HTX
KHKT
LX - LM
NTM
STT
TNHH
UBND

Chữ viết đầy đủ
Công nghiệp hoá – hiện đại hoá
Công ghiệp-Tiểu thủ công nghiệp
Chi phí trung gian
Dồn điền đổi thửa
Đồng bằng sông hồng
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
Giá trị ngày công
Giá trị sản xuất
Hội đồng nhân dân
Hiệu quả đồng vốn
Hệ thống sử dụng đất
Hợp tác xã
Khoa học kỹ thuật
Lúa xuân - lúa mùa
Nông thôn mới
Số thứ tự
Thu nhập hỗn hợp
Uỷ ban nhân dân


3


DANH MỤC BẢNG

4


DANH MỤC HÌNH

5


PHẦN 1: ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam với khoảng 70% dân số là nông dân sống ở nông thôn, những
vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn luôn được
Đảng và Chính phủ ta đặt lên hàng đầu để tạo động lực cho sự phát triển bền
vững của đất nước.
Mặc dù vậy, các chính sách phát triển nông nghiệp thường thiên về thúc
đẩy phát triển ngành, có phần xem nhẹ vai trò, lợi ích của chủ thể chính, động
lực chính của phát triển nông nghiệp là nông dân. Phần lớn các chính sách
hầu như chưa quan tâm xử lý tổng thể và hợp lý mối quan hệ giữa các vùng,
các lĩnh vực trong ngành, giữa nông thôn và thành thị, chưa đặt ra và giải
quyết triệt để mối quan hệ giữa các yếu tố chính của mô hình phát triển nông
nghiệp nông thôn… Đây là nguyên nhân chủ yếu, khiến cho sau nhiều thập kỷ
chuyển đổi nền nông nghiệp sang thị trường, đến nay về cơ bản nông nghiệp,
nông thôn Việt Nam vẫn mang tính khép kín, tự cấp tự túc.
Đông Yên là một xã thuần nông thuộc huyện Quốc Oai – TP. Hà Nội,
bao gồm 4 thôn. Xây dựng NTM là một chương trình, dự án quan trọng và
được ưu tiên hàng đầu của xã, sau gần 5 năm thực hiện (từ năm 2009) xã đã

có nhiều thay đổi tích cực. Để đạt được các chỉ tiêu trong bộ tiêu chí NTM
nhiều dự án nhỏ đã được hoàn thành như: xây dựng trường mầm non, tu sửa
lại trường tiểu học, xây dựng hợp tác xã nông nghiệp cho hội nông dân, làm
đường bê tông, thôn xóm cũng như bê tông hóa kênh mương nội đồng, tu bổ
lại chợ cũng như trạm y tế xã…..
Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng, lợi
thế và chưa đồng đều giữa các vùng trong xã. Nông nghiệp phát triển còn kém bền
vững, sức cạnh tranh thấp, chưa phát huy tốt các nguồn lực, chuyển giao khoa học
công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực còn hạn chế, sản xuất nhỏ lẻ, phân tán, năng
suất chất lượng, giá trị gia tăng nhiều mặt hàng còn thấp.
Từ những hạn chế trên của nền nông nghiệp chính quyền xã đã sớm có
những chính sách, chủ trương đúng đắn tạo điều kiện cho nền nông nghiệp xã
6


phát triển. Đáng nói nhất là chủ trương Dồn điền đổi thửa (DĐ ĐT), mạnh
dạn giao đất, giao rừng cho người lao động.
Tuy nhiên sau khi Dồn điền đổi thửa việc xác định những mô hình sử
dụng đất có hiệu quả nhằm nâng cao thu nhập cho người dân chưa thực sự
được quan tâm. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Đánh giá hiệu quả các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền
đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới tại xã Đông Yên, huyện Quốc
Oai, TP. Hà Nội”

7


PHẦN 2
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2.1 Cơ sở lý luận

2.1.1. Đất nông nghiệp và quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
2.1.1.1. Đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp là đất được sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các
ngành nông nghiệp như trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản hoặc sử
dụng vào mục đích nghiên cứu thí nghiệm về nông nghiệp. Khi nói đất nông
nghiệp người ta nói đất sử dụng chủ yếu vào sản xuất của các ngành nông
nghiệp, bởi vì thực tế có trường hợp đất đai được sử dụng vào mục đích khác
nhau của các ngành. Trong trường hợp đó, đất đai được sử dụng chủ yếu cho
hoạt động sản xuất nông nghiệp mới được coi là đất nông nghiệp, nếu không
sẽ là các loại đất khác (tùy theo việc sử dụng vào mục đích nào là chính).
Đất nông nghiệp: Là đất sử dụng vào mục đích sản xuất, nghiên cứu,
thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối và
mục đích bảo vệ, phát triển rừng.
Theo Luật Đất đai năm 2003, đất nông nghiệp được chia ra làm các
nhóm đất chính sau: Đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, đất nuôi trồng
thuỷ sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác.[13]
2.1.1.2. Quan điểm sử dụng đất nông nghiệp
Đất nông nghiệp phải được sử dụng đầy đủ, hợp lý. Điều này có
nghĩa là toàn bộ diện tích đất cần được sử dụng hết vào sản xuất, với việc bố
trí cơ cấu cây trồng, vật nuôi phù hợp với đặc điểm của từng loại đất nhằm
nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi đồng thời gìn giữ bảo vệ và nâng cao
độ phì của đất.
Đất nông nghiệp phải được sử dụng đạt hiệu quả cao. Đây là kết quả
của việc sử dụng đầy đủ, hợp lý đất đai, việc xác định hiệu quả sử dụng đất
thông qua tính toán hàng loạt các chỉ tiêu khác nhau: Năng suất cây trồng, chi
phí đầu tư, hệ số sử dụng đất, giá cả sản phẩm, tỷ lệ che phủ đất. Muốn nâng
8


cao hiệu quả sử dụng đất phải thực hiện tốt, đồng bộ các biện pháp kỹ thuật

và chính sách kinh tế - xã hội trên cơ sở đảm bảo an toàn về lượng thực, thực
phẩm, tăng cường nguyên liệu cho công nghiệp chế biến và nông lâm sản cho
xuất khẩu.[7]
Đất nông nghiệp cần phải được quản lý và sử dụng một cách bền vững. Sự
bền vững ở đây là sự bền vững cả về số lượng và chất lượng, có nghĩa là đất đai
phải được bảo tồn không chỉ đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà còn cho
thế hệ tương lai. Sự bền vững của đất đai gắn liền với điều kiện sinh thái, môi
trường. Vì vậy, các phương thức sử dụng đất nông lâm nghiệp phải gắn liền với
việc bảo vệ môi trường đất, đáp ứng được lợi ích trước mắt và lâu dài.
Như vậy, để sử dụng đất triệt để và có hiệu quả, đảm bảo cho quá trình
sản xuất được liên tục thì việc tuân thủ những nguyên tắc trên là việc làm cần
thiết và hết sức quan trọng với mỗi quốc gia.
2.1.2 Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và phân loại hiệu quả sử dụng đất
2.1.2.1 Khái niệm hiệu quả sử dụng đất
Sử dụng đất nông nghiệp có hiệu quả cao thông qua việc bố trí cơ cấu
cây trồng, vật nuôi là một trong những vấn đề được chú ý hiện nay của hầu
hết các nước trên thế giới. Nó không chỉ thu hút sự quan tâm của các nhà
khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh doanh nông nghiệp mà
còn là sự mong muốn của nông dân, những người trực tiếp tham gia vào quá
trình sản xuất nông nghiệp.[16]
Sử dụng đất đai có hiệu quả là hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa
mối quan hệ người – đất trong tổ hợp các nguồn tài nguyên khác và môi
trường. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, thực hiện đa dạng hóa cây trồng,
vật nuôi trên cơ sở lựa chọn các sản phẩm có ưu thế ở từng địa phương, từ đó
nghiên cứu áp dụng công nghệ mới nhằm làm cho sản phẩm có tính cạnh
tranh cao, đảm bảo sự thống nhất giữa các ngành, đó là một trong những điều
kiện tiên quyết để phát triển nền nông nghiệp hướng về xuất khẩu có tính ổn
định và bền vững, đồng thời phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới
9



hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao nhất.[10]
2.1.2.2 Phân loại hiệu quả sử dụng đất
Khi đánh giá hiệu quả sử dụng đất người ta thường đánh giá trên 3
khía cạnh: Hiệu quả về mặt kinh tế sử dụng đất, hiệu quả về mặt xã hội và
hiệu quả về mặt môi trường.
Hiệu quả kinh tế
Hiệu quả kinh tế là một tiêu chí trong đánh giá tính bền vững quản lý sử
dụng đất. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế, phản ánh về mặt chất lượng
của các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong khi các nguồn lực sản xuất có
hạn, nhu cầu về hàng hóa và dịch vụ của xã hội ngày càng gia tăng và đa dạng
thì nâng cao hiệu quả kinh tế là một xu thế khách quan và bức xúc của sản xuất
xã hội.
Hiệu quả kinh tế là phạm trù chung nhất, nó liên quan trực tiếp tới sản
xuất nông nghiệp và với tất cả các phạm trù và các quy luật kinh tế khác. Vì
thế hiệu quả kinh tế phải đáp ứng được ba vấn đề:
Một là:Mọi hoạt động của con người đều tuân theo quy luật “tiết kiệm thời
gian”, nó là động lực phát triển của lực lượng sản xuất, là điều kiện quyết định
phát triển văn minh xã hội và nâng cao đời sống con người qua mọi thời đại.
Hai là:Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm của lý thuyết
hệ thống. Quan điểm của lý thuyết hệ thống cho rằng nền sản xuất xã hội là
một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành giữa con
người với con người trong quá trình sản xuất... Hệ thống là một tập hợp các
phần tử có quan hệ với nhau tạo nên một chỉnh thể thống nhất và luôn vận
động. Theo nguyên lý đó, khi nhiều phần tử kết hợp thành một hệ thống sẽ
phát sinh nhiều tính chất mới mà từng phần tử đều không có, tạo ra hiệu quả
lớn hơn tổng hiệu quả các phần tử riêng lẻ. Do vậy việc tận dụng khai thác
các điều kiện sẵn có, hay giải quyết các mối quan hệ phù hợp giữa các bộ
phận của một hệ thống với yếu tố môi trường bên ngoài để đạt được khối
lượng sản phẩm tối đa là mục tiêu của từng hệ thống. Đó chính là mục tiêu

10


đặt ra đối với mỗi vùng kinh tế, mỗi chủ thể sản xuất trong mọi xã hội.
Ba là:Hiệu quả kinh tế là một phạm trù phản ánh mặt chất lượng của
các hoạt động kinh tế bằng quá trình tăng cường các nguồn lực sẵn có phục vụ
cho lợi ích của con người. Do những nhu cầu vật chất của con người ngày
càng tăng, vì thế nâng cao hiệu quả kinh tế là một đòi hỏi khách quan của mọi
nền sản xuất xã hội.
Các nhà sản xuất và quản lý kinh tế cần phải nâng cao chất lượng các
hoạt động kinh tế nhằm đạt mục tiêu với một lượng tài nguyên nhất định tạo
ra một khối lượng sản phẩm lớn nhất hoặc tạo ra một khối lượng sản phẩm
nhất định với chi phí tài nguyên ít nhất.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả
đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết quả đạt
được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá
trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt
đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó.
Một phương án đúng hoặc một giải pháp kinh tế kỹ thuật có hiệu quả kinh tế cao
là đạt được tương quan tối ưu giữa kết quả thu được và chi phí nguồn lực đầu tư.
Vì vậy, bản chất của phạm trù kinh tế sử dụng đất là: Với một diện tích
đất đai nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất với
một lượng đầu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng nhu
cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội.
Hiệu quả xã hội
Hiệu quả xã hội là phạm trù có liên quan mật thiết với hiệu quả kinh tế
và thể hiện mục tiêu hoạt động kinh tế của con người, việc lượng hóa các chỉ
tiêu biểu hiện hiệu quả xã hội còn gặp nhiều khó khăn mà chủ yếu phản ánh
bằng các chỉ tiêu mang tính chất định tính như tạo công ăn việc làm cho lao
động, xóa đói giảm nghèo, định canh, định cư, công bằng xã hội, nâng cao

mức sống của toàn dân.
Trong sử dụng đất nông nghiệp, hiệu quả về mặt xã hội chủ yếu được
11


xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp mà chỉ
tiêu quan trọng nhất là giá trị của sản phẩm nông nghiệp đạt cao nhất trên một
đơn vị diện tích. Hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các hệ thống sử
dụng đất nông nghiệp là vấn đề đang được nhiều nhà khoa học quan tâm.
Hiệu quả xã hội trong sử dụng đất hiện nay chủ yếu được xác định bằng
khả năng thu hút lao động, đảm bảo đời sống nhân dân, góp phần thúc đẩy xã
hội phát triển, nội lực và nguồn lực của địa phương được phát huy, đáp ứng
nhu cầu của hộ nông dân về ăn, mặc, và nhu cầu sống khác. Sử dụng đất phù
hợp với tập quán, nền văn hoá của địa phương
Hiệu quả môi trường
Hiện nay, tác động của môi trường sinh thái diễn ra rất phức tạp và theo
nhiều chiều hướng khác nhau. Cây trồng được phát triển tốt khi phát triển phù
hợp với đặc tính, tính chất của đất. Tuy nhiên, trong quá trình sản xuất dưới
tác động của các hoạt động sản xuất, quản lý của con người hệ thống cây
trồng sẽ tạo nên những ảnh hưởng rất khác nhau đến môi trường.
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả môi trường là hiệu quả mang
tính lâu dài, vừa đảm bảo lợi ích hiện tại mà không làm ảnh hưởng xấu đến
tương lai, nó gắn chặt với quá trình khai thác, sử dụng và bảo vệ tài nguyên
đất và môi trường sinh thái.[9]
Trong sản xuất nông nghiệp, hiệu quả hoá học môi trường được
đánh giá thông qua mức độ sử dụng các chất hoá học trong nông nghiệp.
Đó là việc sử dụng phân bón và thuốc bảo vệ thực vật trong quá trình sản
xuất đảm bảo cho cây trồng sinh trưởng và phát triển tốt, cho năng suất
cao và không gây ô nhiễm môi trường.
Hiệu quả sinh học môi trường được thể hiện qua mối tác động qua

lại giữa cây trồng với đất, giữa cây trồng với các loại dịch hại nhằm giảm
thiểu việc sử dụng hoá chất trong nông nghiệp mà vẫn đạt được mục tiêu
đề ra.
Hiệu quả vật lý môi trường được thể hiện thông qua việc lợi dụng
12


tốt nhất tài nguyên khí hậu như ánh sáng, nhiệt độ, nước mưa của các kiểu
sử dụng đất để đạt được sản lượng cao và tiết kiệm chi phí đầu vào.
Bên cạnh cách phân loại hiệu quả nói trên, người ta còn có thể căn cứ
vào yêu cầu tổ chức và quản lý kinh tế, căn cứ vào các yếu tố cơ bản về sản
xuất, phương hướng tác động vào sản xuất cả về mặt không gian và thời
gian... Tuy nhiên, dù nghiên cứu ở bất cứ góc độ nào thì việc đánh giá hiệu
quả cũng phải xem xét về mặt không gian và thời gian, trong mối liên hệ
chung của toàn bộ nền kinh tế. Ở đó, hiệu quả bao gồm hiệu quả kinh tế, xã
hội và môi trường với một mối quan hệ mật thiết thống nhất và không thể tách
rời nhau.Có như vậy mới đảm bảo cho việc đánh giá hiệu quả được đầy đủ,
chính xác và toàn diện.
2.1.3 Dồn điền đổi thửa trong xây dựng nông thôn mới
Sau 3 năm thực hiện ( 2009-2011), chương trình mục tiêu quốc gia về
xây dựng nông thôn mới đã được triển khai và cơ bản đạt yêu cầu đề ra. Một
trong những mục tiêu quan trọng trong quy hoạch xây dựng nông thôn mới là
vận động nông dân tiến hành dồn điển, đổi thửa, sắp xếp lại ruộng đồng. Đây
là khâu quan trọng để hình thành vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa ổn
định, lâu dài, là yếu tố quyết định thúc đẩy sản xuất nông nghiệp. Trong xây
dựng nông thôn mới, DĐĐT không phải là một tiêu chí. Tuy nhiên, với những
địa phương có diện tích đất nông nghiệp manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, bình
quân mỗi hộ dân sở hữu nhiều ô, thửa ruộng phân tán trên nhiều cánh đồng,
như hầu hết các xã của Hà Nội. Bước vào xây dựng nông thôn mới, nếu tiến
hành thành công công tác DĐĐT sẽ có tác động tích cực tới hầu hết 19 tiêu

chí trong xây dựng nông thôn mới.
a) Khái niệm
Bản chất của quá trình này là dồn ghép các ô thửa nhỏ thành ô thửa lớn,
sắp xếp quy hoạch lại ruộng đất, khắc phục tình trạng manh mún ruộng đất,
phân tán ruộng đất, tổ chức thiết kế lại đồng ruộng, hệ thống thủy lợi, giao
thông nội đồng, nâng cao hệ số sử dụng đất, đẩy nhanh chuyển dịch sản xuất
13


theo hướng sản xuất hàng hóa, phát triển kinh tế hộ và trang trại. Củng cố
quan hệ sản xuất, thực hiện CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn.[15]
b) Ý nghĩa tầm quan trọng của dồn điền đổi thửa đối với phát triển kinh tế
nông hộ
Tập trung ruộng đất là ước nguyện của những người nông dân mạnh dạn,
dám nghĩ dám làm mong muốn làm giàu trên mảnh đất quê hương.
Dồn điền đổi thửa tạo ra những thửa đât lớn hơn, các hộ dân có điều kiện
áp dụng cơ giới hóa trong sản xuất, tăng năng suất lao động, giảm thời gian
lao động, giảm công lao động, giảm những hao phí không cần thiết khi ruộng
đất manh mún, phân tán trên nhiều xứ đồng. Từ đó khuyến khích, tạo điều
kiện thúc đẩy phân công lao động trong hộ hợp lý tạo điều kiện dịch chuyển
lao động trong hộ từ sản xuất nông nghiệp thuần túy sang hoạt động trong
những lĩnh vực phi nông nghiệp có hiệu quả kinh tế cao.
Dồn điền đổi thửa tạo điều kiện thuận lợi cho hộ sản xuất với quy môn
lớn, xây dựng nhiều mô hình sản xuất theo hướng hàng hóa, phấn đấu thực
hiện cánh đồng 50 triệu, tăng thu nhập ổn định từ sản xuất nông nghiệp.
Tạo điều kiện giúp hộ nông dân yên tâm sản xuất, giúp hộ chủ động, đầu
tư thâm canh tăng năng suất, sản xuất kết hợp với những cây trồng vật nuôi có
hiệu quả, phù hợp với điều kiện nhân lực, vật lực của hộ cũng như điều kiện
tại địa phương.
Ruộng đất tập trung giúp hộ giảm được công lao động ở một số khâu chủ

yếu, đặc biệt là những lúc chính vụ như thu hoạch, gieo trồng....Từ đó các hộ
có điều kiện tập trung lao động sản xuất ở những lĩnh vực khác, cũng như
giúp hộ có cơ cấu thu nhập đa dạng từ nhiều nguồn hơn, giảm tối đa rủi ro
gặp phải khi điều kiện sản xuất nông nghiệp bất lợi dẫn tới mất mùa, năng
suất thấp.
Ruộng đất lớn tạo điều kiện cho các hộ có khát vọng nghiên cứu, tiếp
cận những giống cây trồng vật nuôi có năng suất chất lượng cao hơn, các hộ

14


có những điều kiện áp dụng những tiến bộ KHKT mới vào trong sản xuất tiết
kiệm chi phí đồng thời nâng cao thu nhập cho hộ.
2.2 Cơ sở thực tiễn
2.2.1 Thành tựu sử dụng đất sau DĐĐT của một số nước trên Thế Giới
Việc dồn điền đổi thửa được tiến hành lần đầu tiên trên Thế giới tại Châu
Âu vào thời Trung cổ.
a/ Tập trung ruộng đất ở Trung Quốc
Từ thời phong kiến đến nay, quyền sở hữu ruộng đất luôn là yếu tố trung
tâm trong mối quan hệ giữa chính quyền và nông dân Trung Quốc. Hiến pháp
Trung quốc quy định đất đai thuộc sở hữu toàn dân do nhà nước thống nhất
quản lý, nông dân chỉ có “ quyền sử dụng” đất nông nghiệp theo hợp đồng 30
năm. Quyền sử dụng đất thuộc sở hữu tập thể, nông dân không được chuyển
nhượng hoặc cho thuê vào mục đích phi nông nghiệp. Điều đó có nghĩa là
chính quyền địa phương có thể thu hồi đất vào bất cứ lúc nào. Công nghiệp
hóa và đô thị hóa trong 30 năm qua đã làm cho hàng chục triệu nông dân bị
mất đất canh tác. Những cuộc biểu tình phản đối của nông dân bị mất đất là
nguyên nhân chính gây bất ổn xã hội ở Trung Quốc hiện nay.
Một thực tế là ruộng đất ở Trung Quốc rất manh mún, mỗi nông hộ sử
dụng một khoảnh đất nhỏ, bình quân 0,67 ha/hộ gia đình. Những nông dân ra

thành phố kiếm việc làm đã lên tới 200 triệu người trong những năm vừa qua,
phải nhờ người thân canh tác những khoảnh ruộng đó hoặc bỏ ruộng hoang
mà không thể bán đi được. Vì chưa trả đất canh tác lại cho nhà nước, những
công nhân nhập cư này vẫn bị coi là nông dân và chỉ có thể làm những công
việc đơn giản, có mức lương thấp. Trong khi đó ở thành phố, cư dân đô thị từ
lâu đã được phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất không hạn chế và rất
nhiều người giàu lên rất nhanh cùng với sự sôi động của thị trường đất đô thị.
Mặt khác chính quyền địa phương thường xuyên có những quyết định ảnh
hưởng xấu người nông dân.

15


Quá trình cải cách nông nghiệp chia 2 giai đoạn, giai đoạn 1 từ năm
1978-1984 và giai đoạn 2 từ 1985-1990 sau đó đề ra phương hướng phát triển
nông nghiệp nông thôn cho thập kỷ 90. Cách thực hiện cải cách nông nghiệp
của nước này trong những năm qua là khoán ruộng đất cho các hộ nông dân
theo nguyên tắc:
Thứ nhất, tôn trọng nguyện vọng của quần chúng nhân dân, không được áp
đặt. Hai là phải đảm bảo theo nguyên tắc số lượng và giá trị ngang bằng (nghĩa là
những thửa ruộng có cùng cấp độ hoặc đã được cải tạo nâng độ màu mỡ thì khi
điều chình phải quy đổi theo hệ số để đền bù về mặt kinh tế). Chỉ thị số 18 năm
1990 của Trung Quốc quy định “ổn định quan hệ ruộng đất nhận khoán không có
nghĩa là không cho phép có sự điều chỉnh về mảnh ruộng và số lượng ruộng
khoán, những thửa ruộng quá phân tán không thuận tiện cho việc canh tác thì có
thể căn cứ nguyện vọng quần chúng mà điều chỉnh”.
Theo xu hướng cạnh tranh của nền kinh tế thị trường đặc biệt là trong
nông nghiệp, Trung Quốc đang tiến hành chủ trương dồn điền đổi thửa. Nước
này dự kiến sẽ tăng thêm được 1,7 triệu ha đất trồng trọt tính tới năm 2020
thông qua việc dồn điền đổi thửa hiện nay. Công tác tăng cường hiệu quả cho

nông nghiệp đang được chính phủ Trung Quốc quan tâm chặt chẽ trong thời
gian gần đây, do một diện tích đất rất lớn đã bị đô thị hóa, chuyển đổi mục
đích sử dụng trong những năm công nghiệp hóa.
Hiện nay Trung Quốc tiếp tục chuẩn bị ra dự thảo cải cách ruộng đất
theo hướng tự do hóa thị trường và hạn điền sử dụng đất canh tác cho nông
dân từ 30 năm hiện nay lên 70 năm như với đất ở. Điều này sẽ tạo động lực
mới cho công cuộc tích tụ ruộng đất phát huy hiệu quả cao.
2/ Tập trung ruộng đất ở Đài Loan
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt quan trọng đối với nông nghiệp, có
ảnh hưởng lớn đến tăng năng suất lao động nông nghiệp. Chính sách ruộng
đất hợp lý sẽ khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực tự nhiên này, nhất là
ở những nước mà nông nghiệp vị trí chủ yếu trong nền kinh tế quốc dân. Ở
16


Đài Loan, đầu tiên chính phủ thực hiện chính sách giảm tô để giảm bớt gánh
nặng cho nông dân, sau đó đưa ra chính sách “ hạn điền” quy định số lượng
ruộng đất được phép tư hữu đối với các chủ đất. Số ruộng đất vượt mức hạn
điền được chính phủ định giá và tạo điều kiện về tín dụng cho nông dân mua
trả góp trong thời hạn dài. Chính sách giao đất cho nông dân còn được áp
dụng đối với cả đất thuộc sở hữu nhà nước. Vì vậy, người sản xuất nông
nghiệp gắn bó với ruộng đất, yên tâm đầu tư chủ động áp dụng khoa họccông nghệ nhằm nâng cao năng suất, hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Khi
nông nghiệp phát triển, ruộng đất hạn hẹp đã cản trở nông dân kinh doanh
lớn, chính phử đài loan đã đưa ra chủ trương khuyến khích nông dân “ chung
nhau kinh doanh”. “ủy thác kinh doanh”, “thay mặt kinh doanh”...v...v... để
tập trung ruộng đất đạt tới quy mô cần thiết của nông nghiệp hàng hóa, khai
thác có hiệu quả hơn nguồn tài nguyên đất đai hạn hẹp, thúc đẩy tăng cường
nông nghiệp với tốc độ khoảng 4%/ năm trong suốt thời gian từ 1952-1981.
3/ Tập trung ruộng đất phát triển trang trại ở Hà Lan
Cơ sở của nền nông nghiệp Hà Lan là các trang trại gia đình theo chế độ

tư hữu. Tỷ lệ sở hữu đất có tương đối lớn, các trang trại thuê đất sản xuất kinh
doanh chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ. Nhưng do quỹ đất nhỏ, bình quân theo đầu người
ít, việc mở rộng quy mô trang trại không dễ, biện pháp khả thi vẫn nhờ một
phần vào đất thuê.
Hà lan là một nước có nền kinh tế thị trường hoàn chỉnh, đảm bảo các
chủ trang trại có toàn quyền quyết định hoạt động sản xuất và quyền định đoạt
tài nguyên của mình, khuyến khích chủ trang traị hoạt động kinh doanh thu
lợi nhuận tối đa. Thoạt đầu là kinh tế tiều nông, sản xuất tự cấp, tự túc, hiệu
quả rất thấp, kinh tế hàng hóa phát triển, vốn được tích lũy, kinh tế hộ tiểu
nông chuyển dần sang hộ sản xuất hàng hóa nhỏ, tiếp đó chuyển sang hộ sản
xuất chuyên môn hóa, rồi dần dần chuyển sang trang trại lớn hiện đại, sản
xuất vì lợi nhuận, tạo nên kinh tế tổng hợp “nông- công- thương”. Ngày nay,
nền tảng của sức cạnh tranh quốc tế của nông nghiệp Hà Lan là những tổ hợp
17


nông-công- thương, trong đó tế bào cấu thành những tổ hợp này chính là
những trang trại gia đình tràn đầy sức sống.
Các trang trại được tích tụ ruộng đất để có quy môn đủ lớn, gắn liền
với quá trình tạo việc làm phi nông nghiệp, đủ sức thu hút nông dân “ly nông”
, giảm thiểu nhanh số lượng nông dân và giải thể các trang trại nhỏ làm ăn
kém hiệu quả.
Việc mở rộng quy môn trang trại dựa vào 2 chính sách của nhà nước.
Một là chính sách mua và thuê đất (ở Hà Lan có 2 hệ thống sở hữu đất, đất tư
hữu được mua bán, đất công hữu do nhà nước đầu tư quai đê lấn biển thì cho
thuê thời gian dài). Hai là chính sách khuyến khích trang trại làm ăn kém
được giải thể.
Sự phát triển của nền kinh tế Hà Lan thúc đẩy chuyển dịch lao động từ
nông nghiệp sang các ngành phi nông nghiệp đã làm cho số lượng trang trại
bớt dần. Năm 1950, cả nước Hà Lan có 400.000 trang trại, đến năm 1980 còn

14.500, năm 1990 còn 12.500, năm 2000 chỉ còn khoảng 100.000. Số lao
động nông nghiệp từ 1959-1980 giảm được một nửa từ đó đã giảm nhanh số
lượng nông dân và lực lượng nông dân làm nông nghiệp không hiệu quả đều
dời khỏi nông nghiệp. Lặp lai trong nông nghiệp là lực lượng nông dân làm
ăn giỏi, đam mê với nghề nông, ham muốn lập nghiệp, làm giàu từ nghề nông.
Đây là một nguyên nhân quan trọng đẩm bảo hiệu quả sản xuất và năng lực
cạnh tranh của nông nghiệp Hà Lan hơn hẳn nhiều nước khác trên thế giới.
2.2.2 Sử dụng đất và DĐĐT ở Việt Nam
Nghị quyết 10-TW ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp (gọi tắt là “Khoán 10”) đã giúp Việt Nam từ nước nhập
khẩu lương thực trở thành quốc gia xuất khẩu gạo lớn thứ 2 thế giới.Tuy
nhiên, đến nay “Khoán 10” đã bộc lộ những hạn chế nhất định khi đất nước
bước vào công cuộc CNH - HĐH nông nghiệp, nông thôn. Khảo sát của Viện
Quy hoạch và thiết kế nông nghiệp cho thấy 100% số hộ nông dân cho rằng
ruộng đất manh mún đã gây cản trở cho sản xuất.[20]
18


Nghị định 64/CP của Chính phủ ngày 27/09/1993 về việc giao đất nông
nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài với mục đích sản
xuất nông nghiệp theo phương châm có tốt, có xấu, có gần, có xa. Điều này
đã làm cho số thửa ruộng tăng lên đáng kể. Theo số liệu của Tổng cục Địa
chính năm 1998, bình quân một hộ vùng đồng bằng sông Hồng có khoảng 7
thửa trong khi ở vùng núi phía Bắc, con số này còn cao hơn từ 10 - 20 thửa.
Số liệu điều tra từ 42.167 nông hộ ở tỉnh Hưng Yên cho thấy sau khi giao đất
năm 1993, trung bình một hộ có 7,6 thửa. Vào năm 1998, Chính phủ đã đề ra
chính sách khuyến khích nông dân đổi ruộng cho nhau để tạo thành những
thửa có diện tích lớn hơn. Từ đó, các tỉnh trên miền Bắc, đặc biệt là vùng
Đồng bằng sông Hồng đã thành lập các Hội đồng thực hiện thí điểm công tác
“Dồn điền đổi thửa”. Theo báo cáo trên toàn quốc khoảng 700 xã ở 20 tỉnh đã

và đang thực hiện công tác chuyển đổi ruộng đất, tuy nhiên tiến trình vẫn còn
rất chậm. Trên thực tế ở những vùng này đất đai được chia lại cho các hộ
nông dân với mục tiêu là giảm số thửa ruộng.[17]
Tình hình thực hiện dồn điền đổi thửa ở một số tỉnh trong nước.
Quy mô diện tích đất sản xuất của các hộ nông dân sau khi được giao
đất và cấp GCNQSDĐ là rất nhỏ bé, nhất là đối với các tỉnh miền Bắc. Thực
trạng này đặt ra yêu cầu phải tập trung lại đất nông nghiệp đối với mỗi hộ sản
xuất, giảm số thửa và tăng quy mô mỗi thửa ở từng hộ để tạo ra những diện
tích sản xuất tập trung cùng loại sản phẩm ở từng địa phương. Đặc biệt khi
sản xuất hàng hóa đã bắt đầu phát triển, người sản xuất phải tính toán hiệu
quả kinh tế, tìm các giải pháp để giảm chi phí sản xuất.
Nhận thức được sản xuất manh mún, chưa tạo ra được những vùng sản
xuất lớn, tập trung nên sản phẩm nông nghiệp chưa thực sự trở thành hàng
hóa, giá trị nông nghiệp chưa cao.Thái Bình xác định công tác dồn điền đổi
thửa là nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nông thôn mới. Trên cơ
sở đó, UBND tỉnh đã phê duyệt Đề án số 214/QĐ-UBND ngày 15/2/2011 về
việc dồn điền đổi thửa đất nông nghiệp, thực hiện quy hoạch xây dựng nông
19


thôn mới và Kế hoạch số 20/KH-UBND ngày 16/8/2011 về kế hoạch dồn điền
đổi thửa đất nông nghiệp thực hiện quy hoạch xây dựng nông thôn mới. Kết
quả đến hết quý I năm 2013, Thái Bình cơ bản đã thực hiện xong dồn điền đổi
thửa gắn với chỉnh trang đồng ruộng. Tỉnh đã giảm được 499.930 thửa, chỉ
còn 462.187 thửa, bình quân chung toàn tỉnh là 1,79 thửa/hộ. Cùng với kết
quả dồn điền đổi thửa, người dân đã tự nguyện góp trên 2.000ha đất để làm
công trình giao thông, thuỷ lợi nội đồng.Khối lượng đào đắp giao thông, thuỷ
lợi nội đồng bình quân mỗi xã khoảng 50.000m3. Hệ thống giao thông, thuỷ
lợi nội đồng được các xã thực hiện theo đúng quy hoạch. Cụ thể, thiết kế bờ
vùng cách bờ vùng là 500m-800m; bờ thửa cách bờ thửa 100m, mặt bờ vùng

rộng 4,5m. Cứ cách 500m có một điểm tránh xe, bờ thửa rộng 2,5m, đủ tiêu
chuẩn để cho máy gặt đập liên hợp hoạt động. Dọc bờ vùng, bờ thửa có
mương tưới tiêu nước và thuận lợi cho việc sử dụng cơ giới vào sản xuất. Đây
là điều kiện thuận lợi để xây dựng và thực hiện cánh đồng mẫu lớn; là điều
kiện tốt để các tập thể, cá nhân mạnh dạn đầu tư vốn để mua máy móc phục
vụ sản xuất nông nghiệp, góp phần làm giảm chi phí, tăng năng suất lao động,
hạ giá thành sản phẩm. Qua thực tế ở các xã đã dồn điền đổi thửa, chỉnh trang
nội đồng, máy móc, cơ giới được đầu tư, nên khâu làm đất đạt 100%, vận
chuyển đạt 100%, gặt khoảng 80%, bơm nước 100%.
Tại tỉnh Nam Định, tính đến hết quý I năm 2013 đã có 132/209 xã thực
hiện xong công tác dồn điền đổi thửa. Các xã, thị trấnđã kết hợp DĐĐT với
chỉnh trang, kiến thiết đồng ruộng, làm giao thông và thủy lợi nội đồng; hình
thành các vùng sản xuất tập trung; cơ bản quy gọn được quỹ đất công; giảm
số thửa bình quân (từ 3,27 xuống còn 1,5 - 2,5 thửa/hộ; nhiều xã 75 – 80% số
hộ chỉ còn 1 thửa/hộ); đặc biệt sau 2 năm đã vận động các hộ nông dân góp
được trên 1.000 ha đất, đắp được được gần 2.000 km đường giao thông nội
đồng. Sau DĐĐT hầu hết các xã, thị trấn đã xây dựng kế hoạch từng bước tổ
chức sản xuất theo mô hình cánh đồng mẫu lớn. Các huyện chỉ đạo, triển khai
tốt, cơ bản hoàn thành công tác DĐĐT trong năm 2012 là: Giao Thủy, Xuân
20


Trường, Nghĩa Hưng, Trực Ninh.[25]
Tại Thủ Đô Hà Nội: Thực hiện Chương trình số 02 – CT/TU ngày
29/8/2011 của Thành uỷ về “Phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới
từng bước nâng cao đời sống nhân dân giai đoạn 2011 – 2015”. UBND thành
phố đã xây dựng kế hoạch số 171/KH-UBND ngày 13/11/2013 về việc thực hiện
dồn điền đổi thửa đất sản xuất nông nghiệp năm 2012 – 2014. Theo báo điện tử
Đảng cộng sản Việt Nam ngày 02/7/2014: “Tổng diện tích đất nông nghiệp cần
thực hiện dồn điền đổi thửa tại thành phố là 76.365,07 ha. Đến hết quý I năm

2014, tổng diện tích đã thực hiện dồn điền đổi thửa tại thành phố là 73.500,0ha,
đạt 96% so với kế hoạch”.
Tóm lại, thực hiện dồn điền đổi thửa ở các địa phương, đồng ruộng
được cải tạo, tạo được những thửa ruộng lớn thuận lợi cho việc cơ giới hóa,
nông dân có điều kiện đầu tư mua sắm máy móc phục vụ sản xuất nông
nghiệp, giải phóng sức lao động nhất là những khâu lao động nặng nhọc như
làm đất, bơm nước, tuốt lúa….và dịch vụ phục vụ phục vụ sản xuất trong
nông thôn có điều kiện để phát triển.
Dồn điền đổi thửa ở các địa phương làm thay đổi cách nghĩ, cách làm
của nhiều hộ nông dân, trước đây họ còn do dự, chần chừ với thói quen canh
tác trên thửa ruộng nhỏ, lẻ tẻ, chật hẹp, nay chuyển sang sản xuất ở những
thửa ruộng lớn, nếp nghĩ, cách làm cũng vượt khỏi tầm suy nghĩ “tự túc, tự
cấp” để vươn lên sản xuất hàng hóa, vươn lên làm giàu, phù hợp với tiến trình
Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.
2.2.3 Những nghiên cứu nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại Việt
Nam
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới ẩm châu Á, có nhiều thuận lợi cho
phát triển sản xuất nông nghiệp.Tuy nhiên, nguồn tài nguyên đất có hạn, dân
số nước ta lại đông.Mặt khác, dân số tăng nhanh làm cho bình quân diện tích
trên đầu người ngày càng giảm. Theo dự kiến, nếu tốc độ tăng dân số là 1 –
1,2%/năm thì dân số Việt Nam sẽ là 100,8 triệu người vào năm 2015. Vì thế,
21


nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là yêu cầu thiết yếu đối với Việt
Nam trong những năm tới.
Ngay từ những năm 1960, Bùi Huy Đáp đã nghiên cứu đưa cây lúa
xuân giống ngắn ngày và tập đoàn cây vụ đông vào sản xuất, do đó đã tạo ra
sự chuyển biến rõ nét trong sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông Hồng.
Vùng ĐBSH, với diện tích đất nông nghiệp chiếm khoảng 44% tổng diện

tích đất tự nhiên toàn vùng. Trong đó có gần 90% đất nông nghiệp dùng để
trồng trọt (Dự án quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Hồng, 1994). Vì vậy,
đây là nơi thu hút nhiều công trình nghiên cứu khoa học, góp phần định
hướng cho việc xây dựng các hệ thống cây trồng và sử dụng đất thích hợp.
Trong đó phải kể đến các công trình như: nghiên cứu đưa cây lúa xuân đã tạo
ra sự chuyển biến rõ nét trong sản xuất nông nghiệp vùng đồng bằng sông
Hồng (Ngô Thế Dân, 2001); Vấn đề luân canh bố trí hệ thống cây trồng để
tăng vụ, gối vụ, trồng xen để sử dụng tốt hơn nguồn lực đất đai, khí hậu
(Nguyễn Điền 2001); Hiệu quả sử dụng đất canh tác trên đất phù sa sông
Hồng huyện Mỹ Văn -Tỉnh Hải Hưng của tác giả Vũ Thị Bình,1993; Đánh giá
kinh tế đất lúa vùng ĐBSH của tác giả Quyền Đình Hà,1993; Quy hoạch sử
dụng đất vùng ĐBSH của tác giả Phùng Văn Phúc,1996.
Công trình nghiên cứu phân vùng sinh thái, hệ thống giống lúa, hệ
thống cây trồng vùng đồng bằng sông Hồng do Đào Thế Tuấn chủ trì và hệ
thống cây trồng vùng đồng bằng sông Cửu Long do Nguyễn Văn Luật chủ trì
cũng đưa ra một số kết luận về phân vùng sinh thái và hướng áp dụng những
giống cây trồng trên những vùng sinh thái khác nhau nhằm khai thác sử dụng
đất đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Chương trình đồng trũng 1985 – 1987 do Ủy ban kế hoạch Nhà nước
chủ trì, chương trình bản đồ canh tác 1988 – 1990 do Ủy ban khoa học Nhà
nước chủ trì cũng đã đưa ra những quy trình hướng dẫn sử dụng giống và
phân bón có hiệu quả trên các chân ruộng vùng úng trũng đồng bằng sông
Hồng, góp phần làm tăng năng suất, sản lượng cây trồng các vùng sinh thái
22


khác nhau.
Các đề tài nghiên cứu do Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì
đã tiến hành nghiên cứu hệ thống cây trồng trên các vùng sinh thái khác nhau như
vùng miền núi, vùng trung du và vùng đồng bằng nhằm đánh giá hiệu quả cây

trồng trên từng vùng đất đó. Từ đó định hướng cho việc khai thác tiềm năng đất
đai của từng vùng sao cho phù hợp với quy hoạch chung của nền nông nghiệp cả
nước, phát huy tối đa lợi thế so sánh của từng vùng.
Những năm gần đây, chương trình quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông
Hồng (VIE/89/032) đã nghiên cứu đề xuất dự án phát triển đa dạng hóa nông
nghiệp đồng bằng sông Hồng (Dự án Quy hoạch tổng thể đồng bằng sông Hồng,
1994). Các công trình nghiên cứu đã vận dụng phương pháp đánh giá đất đai của
FAO thực hiện trên bản đồ tỷ lệ 1/250000 cho phép đánh giá ở mức độ tổng hợp
phục vụ cho quy hoạch tổng thể vùng đồng bằng sông Hồng.
Các đề tài nghiên cứu trong chương trình KN – 01 (1991 – 1995) do Bộ
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì đã tiến hành nghiên cứu hệ thống
cây trồng trên các vùng sinh thái khác nhau như vùng núi và trung du phía
Bắc, vùng đồng bằng sông Cửu Long… nhằm đánh giá hiệu quả của các hệ
thống cây trồng trên từng vùng đất đó.
Đề tài đánh giá đất và hướng sử dụng đất bền vững trong sản xuất nông
nghiệp của huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh.[9]
Đề tài đánh giá hiệu quả một số mô hình đa dạng hóa cây trồng vùng
đồng bằng sông Hồng của Vũ Năng Dũng – 1997 cho thấy, ở vùng này đã
xuất hiện nhiều mô hình luân canh 3 – 4 vụ/năm đạt hiệu quả kinh tế cao. Đặc
biệt ở vùng ven đô, vùng tưới tiêu chủ động đã có những điển hình về sử dụng
đất đai đạt hiệu quả kinh tế cao. Nhiều loại cây trồng có giá trị kinh tế cao đã
được bố trí trong công thức luân canh: cây ăn quả, hoa, cây thực phẩm cao
cấp, đạt giá trị sản lượng bình quân từ 30 – 35 triệu đồng/năm.
Nhìn chung nền nông nghiệp Việt Nam đang có hướng đi lên, phần
nào đáp ứng được vấn đề bảo vệ môi trường, bảo vệ đất, hướng tới một
23


nền nông nghiệp bền vững.
Tuy nhiên, ở Việt Nam việc nghiên cứu về đất và sử dụng đất mới được

thực hiện trên phạm vi vùng không gian rộng, cho nên tính thực tiễn của nó chưa
cao. Do vậy, trong thời gian tới cần phải có những nghiên cứu về đất và sử dụng
đất mang tính cụ thể hơn, thực tiễn hơn cho từng địa phương (cấp xã, cụm xã,
cấp huyện), có như vậy thì mới mang lại hiệu quả cao trong sử dụng đất .

24


PHẦN 3
MỤC TIÊU, NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu thực trạng và hiệu quả của công tác dồn điền đổi thửa trong
sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại điểm nghiên cứu.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất sản xuất
nông nghiệp tại điểm nghiên cứu.
3.2 Yêu cầu của đề tài
- Nắm được tình trạng dồn điền đổi thửa tại điểm nghiên cứu.
- Xác định được hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau dồn điền đổi thửa
tại điểm nghiên cứu.
3.3 Đối tượng nghiên cứu
- Đất nông nghiệp tại điểm nghiên cứu
- Thực trạng dồn điền đổi thửa tại điểm nghiên cứu
- Hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại điểm nghiên cứu
- Hiệu quả của các hệ thống sử dụng đất nông nghiệp tại điểm nghiên
cứu.
3.4 Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi thời gian : Từ khi bắt đầu công tác dồn điền đổi thửa (từ năm
2009 đến nay).
- Phạm vi không gian : địa bàn xã Đông Yên, huyện Quốc Oai, TP Hà Nội
3.5 Nội dung nghiên cứu

- Phân tích điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tại điểm nghiên cứu.
- Đánh giá tình hình quản lý và sử dụng đất tại điểm nghiên cứu.
- Đánh giá được hiện trạng và hiệu quả của các hệ thống sử dụng đất tại
điểm nghiên cứu.
- Đánh giá được hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp sau khi thực hiên
chính sách dồn điền đổi thửa tại điểm nghiên cứu.
25


×