Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (724.21 KB, 85 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
************

NGUYỄN THỊ THẢO

ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN TỪ NĂM 1991
ĐẾN NĂM 2011

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Người hướng dẫn khoa học
Th.s TRẦN THỊ THU HÀ

HÀ NỘI - 2015


LỜI CẢM ƠN
Trong thời gian nghiên cứu và hoàn thành khóa luận, em đã nhận được sự
quan tâm, giúp đỡ quý báu của các thầy, cô giáo trong khoa Lịch sử, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội 2 và sự động viên của gia đình, bạn bè. Em xin chân thành
cảm ơn.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất đến cô giáo,
Th.s Trần Thị Thu Hà đã tận tình hướng dẫn em suốt thời gian qua để em hoàn
thành khóa luận.
Do thời gian và trình độ nhận thức còn hạn chế, mặc dù đã rất cố gắng nhưng
những vẫn đề em trình bày trong khóa luận cũng không thể tránh khỏi những thiếu
sót. Vì vậy, em kính mong nhận được sự chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo và sự
đóng góp ý kiến của các bạn để khóa luận của em có thể hoàn thiện hơn nữa.


Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thảo


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan những vấn đề tôi trình bày trong khóa luận là kết quả nghiên
cứu của bản thân tôi, được sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Trần Thị Thu Hà, không
trùng với kết quả của các công tình nghiên cứu khác.
Nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm!
Hà Nội, ngày 4 tháng 5 năm 2015
Sinh viên thực hiện

Nguyễn Thị Thảo


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT

APEC

: Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương

ASEAN

: Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á

ARF


: Diễn đàn khu vực ASEAN

AU

: Liên minh Châu Phi

BCHTƯ

: Ban Chấp hành Trung ương

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

CNH – HĐH : Công nghiệp hóa – hiện đại hóa
CT/TW

: Chỉ thị Trung ương

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam

NGO

: Tổ chức phi chính phủ

Nxb


: Nhà xuất bản

TCPCPNN

: Tổ chức phi chính phủ nước ngoài

PACCOM

: Ban Điều phối viện trợ nhân dân

QĐ/TTg

: Quyết định thủ tướng

QĐ/TW

: Quyết định Trung ương

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

WTO

: Tổ chức thương mại thế giới


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................................. 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................................... 4
5. Đóng góp của khóa luận ............................................................................ 5
6. Bố cục của khóa luận ................................................................................. 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7
Chương 1. ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN
DÂN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001............................................................ 7
1.1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
CỦA ĐẢNG .................................................................................................. 7
1.1.1 Cơ sở lý luận ..................................................................................... 7
1.1.1.1 Chủ nghĩa Mác – Lênin .............................................................. 7
1.1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh ............................................................... 8
1.1.2 Cơ sở thực tiễn ................................................................................ 12
1.1.2.1 Bối cảnh quốc tế ....................................................................... 12
1.1.2.2 Bối cảnh trong nước ................................................................. 15
1.2 QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI
NHÂN DÂN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001 ......................................... 16
1.2.1 Quan điểm chủ trương của Đảng về đối ngoại và đối ngoại
nhân dân ................................................................................................... 16
1.2.2 Đổi mới cơ cấu tổ chức và hoạt động đối ngoại nhân dân .............. 20
1.3 ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001 ................................................................ 25
1.3.1 Phong trào hòa bình......................................................................... 25


1.3.2 Phong trào đoàn kết nhân dân Á – Phi – Mỹ Latinh ....................... 27
1.3.3 Hoạt động hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các
nước .......................................................................................................... 29
1.3.4. Công tác vận động phi chính phủ nước ngoài................................ 31

Chương 2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN
DÂN TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2011.......................................................... 36
2.1 BỐI CẢNH LỊCH SỬ ........................................................................... 36
2.1.1 Bối cảnh quốc tế .............................................................................. 36
2.1.2 Bối cảnh trong nước ........................................................................ 37
2.2 TIẾP TỤC ĐỔI MỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN PHỤC VỤ CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ HỘI NHẬP
QUỐC TẾ (2001 – 2011) ............................................................................ 39
2.2.1 Bước phát triển mới trong quan điểm, chủ trương của Đảng về
đối ngoại và đối ngoại nhân dân .............................................................. 39
2.2.2 Hoàn thiện một bước cơ cấu bộ máy hoạt động đối ngoại nhân
dân ............................................................................................................ 43
2.3 MỞ RỘNG VÀ ĐA DẠNG HÓA HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI
NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN (2001 – 2011) .................................................. 47
2.3.1 Phong trào hòa bình, đoàn kết và vấn đề chất độc da cam
(điôxin) ..................................................................................................... 47
2.3.1.1 Phong trào hòa bình ................................................................. 47
2.3.1.2 Phong trào đoàn kết nhân dân Á – Phi – Mỹ Latinh ............... 48
2.3.1.3 Vấn đề chất độc da cam (điôxin) ............................................. 49
2.3.2 Hoạt động hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các
nước .......................................................................................................... 52
2.3.3 Công tác vận động viện trợ phi chính phủ nước ngoài ................... 58


2.3.4 Công tác đối ngoại tôn giáo, nhân quyền. ....................................... 62
Chương 3. NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .............. 67
3.1. NHẬN XÉT .......................................................................................... 67
3.1.1 Ưu điểm ........................................................................................... 67
3.1.2 Hạn chế ............................................................................................ 70

3.2. MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .................................................. 71
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 77


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi quốc gia, nhân tố quốc tế
luôn giữ một vai trò quan trọng. Không một quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển
được nếu không có quan hệ với thế giới bên ngoài.
Đầu thập niên 90 đến những năm đầu của thế kỷ XXI, kinh tế tri thức ngày
càng phát triển, cuộc cách mạng khoa học và công nghiệp có những bước phát triển
nhảy vọt, thúc đẩy xã hội hóa vật chất phát triển, đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế,
phát triển nhiều ngành kinh tế mới. Cải cách và mở cửa xuất hiện như một trào lưu
tại nhiều nước trên thế giới. Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập quốc tế mang lại cơ
hội cho nhiều nước và khu vực, đồng thời cũng đặt ra những thách thức gay gắt đối
với tất cả các nước, nhất là những nước đang và kém phát triển.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế của Việt Nam, ta đã tiến hành các hoạt động
ngoại giao dưới nhiều hình thức khác nhau. Trong đó, đối ngoại nhân dân là bộ
phận cấu thành quan trọng của mặt trận ngoại giao nước nhà, góp phần thực hiện
nhiệm vụ, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, phục vụ sự nghiệp cách
mạng Việt Nam. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, công tác đối ngoại
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng đã tạo nên mặt trận đoàn kết rộng rãi chưa
từng có của nhân dân thế giới ủng hộ cuộc kháng chiến của nhân dân ta, đóng góp
to lớn vào thắng lợi cuối cùng của sự nghiệp thống nhất đất nước. Bước sang những
năm đầu thế kỉ XXI, tình hình thế giới có những diễn biến hết sức phức tạp, khó
lường và xuất hiện những yếu tố bất lợi cho cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế
giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các thế lực thù địch gia
tăng chính sách cường quyền, áp đặt, can thiệp thô bạo vào chủ quyền của các quốc
gia – dân tộc, sự bùng phát của các cuộc xung đột sắc tộc, tôn giáo, chủ nghĩa

khủng bố, nhiều quốc gia rơi vào tình trạng mất ổn định chính trị, khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Hậu quả tiêu cực của toàn cầu hóa dẫn tới tình trạng bất bình đẳng, phân
hóa giàu nghèo trên thế giới và trong phạm vi các quốc gia ngày càng sâu sắc. Ở

1


trong nước các thế lực thù địch ráo riết thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” và
tăng cường chống phá cách mạng Việt Nam bằng nhiều phương thức, kể cả thông
qua con đường quan hệ nhân dân và hoạt động của các tổ chức phi chính phủ…
Tình hình đó gây cản trở đến việc mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân. Do đó
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác đối ngoại nói chung, đối ngoại
nhân dân nói riêng là yêu cầu cấp thiết đặt ra trong bối cảnh đất nước đang trên con
đường đổi mới và hội nhập quốc tế.
Ngày nay trong điều kiện mới, nhiệm vụ mới nhằm phát huy những thành
tựu đã đạt được, các kỳ Đại hội của Đảng trong thời kỳ đổi mới từng bước đề ra
những đường lối, chủ trương đúng đắn lãnh đạo công tác đối ngoại nhân dân góp
phần quan trọng tạo ra thế và lực mới cho đất nước bước vào thời kì đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập quốc tế đạt được những thành công
vững chắc. Tìm hiểu về đổi mới toàn diện quá trình lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động đối ngoại nhân dân thời kì từ năm 1991 đến năm 2011, từ đó khẳng định
những ưu điểm, chỉ ra những hạn chế và bước đầu đúc kết một số kinh nghiệm qua
thực tiễn lãnh đạo hoạt động đối ngoại nhân dân của Đảng là việc làm cần thiết, có
ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc nhằm không ngừng đẩy mạnh hoạt động đối
ngoại nhân dân trong những thập kỷ tới. Do đó, em chọn đề tài “Đảng lãnh đạo
hoạt động đối ngoại nhân dân từ năm 1991 đến năm 2011” làm khóa luận tốt
nghiệp chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Đối ngoại nhân dân là một trong những hoạt động đối ngoại của Đảng và
Nhà nước góp phần tạo môi trường hòa bình, hữu nghị, ổn định để phát triển đất

nước. Do đó, ở Việt Nam đã có nhiều ấn phẩm và công trình nghiên cứu về hoạt
động đối ngoại nhân dân. Tiêu biểu như cuốn sách “Hoạt động đối ngoại nhân dân
Việt Nam”, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2003, do Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị Việt Nam biên soạn. Cuốn sách đã trình bày các hoạt động ngoại giao nhân
dân của Việt Nam từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời năm 1945 đến
thời kì đất nước hòa bình, ổn định và phát triển năm 2003. Cuốn “Đối ngoại Việt

2


Nam thời kì đổi mới” Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, năm 2005, cuốn sách đã trình
bày các quan điểm, chủ trương của hoạt động đối ngoại từ khi thự hiện đường lối
ngoại thời kì đổi mới (từ năm 1986), qua đó để thấy được đường lối đối ngoại của
Đảng là đúng đắn. Bài viết “Công tác đối ngoại nhân dân” Tạp chí lý luận chính
trị, tháng 3/2006, trang 20 – 25, “Hoạt động đối ngoại nhân dân những năm đầu thế
kỉ XXI” của Lê Thị Tình, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 7/2009. Trong những năm thế kỉ
XXI hoạt động đối ngoại nhân dân của Đảng đã có sự thay đổi mới, nhiều hoạt động
đối ngoại nhân dân được phát triển hơn cả về chiều rộng và chiều sâu, Đường lối
đối ngoại của Đảng ngày càng phù hợp với sự phát triển của đất nước cũng như thế
giơi.“Việt Nam trong thế giới của thập kỉ thứ hai thế kỉ XXI”, Nguyễn Trung, Tạp
chí nghiên cứu và thảo luận, số 18, tháng 3/2010, quá trình Việt Nam ra hội nhập
cùng thế giới đạt được nhiều thành công vững chắc, quan hệ hữu nghị của Việt Nam
với các nước được mở rộng hơn. Luận án “ Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt
động đối ngoại nhân dân từ năm 1986 - 2006” Lê Thị Tình, Học viện Chính trị
hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, năm 2012, Luận án cho thấy quan điểm và chủ
trương của Đảng về đối ngoại nhân dân ngày càng đổi mới và phát triển, cùng với
nhiều hoạt động đối ngoại nhân dân phi chính phủ mới hơn . Luận văn “Ngoại giao
nhân dân theo phong cách Hồ Chí Minh” Phạm Thị Huyền Trang, Học viện Ngoại
giao, tháng 7/2013, Tư tưởng ngoại giao nhân dân của Hồ Chí Minh được trình bày
cụ thể, qua đó thấy được tầm nhìn chiến lược của Đảng trong vấn đề đối ngoại nhân

dân hiện nay… Như vậy, đã có nhiều công trình đề cập đến đối ngoại nhân dân của
Đảng ta từ nhiều cách tiếp cận khác nhau. Và hoạt động đối ngoại nhân dân của
Đảng xuyên suốt thời kì từ năm 1991 đến năm 2011 là vấn đề chưa được khai thác
sâu, trên cơ sở kế thừa, tiếp thu các đề tài nghiên cứu trước, khóa luận sẽ đi sâu khai
thác để thấy rõ sự sáng suốt, tài tình của Đảng trong vấn đề đối ngoại nhân dân từ
năm 1991 đến năm 2011.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích

3


Làm rõ chủ trương, chính sách của Đảng ta trên lĩnh vực đối ngoại nhân dân
giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2011 và rút ra những kinh nghiệm về sự lãnh đạo
hoạt động đối ngoại nhân dân. Hệ thống hóa, khái quát hóa những tư liệu đã có, bổ
sung thêm một số tư liệu mới để làm sáng tỏ vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày có hệ thống quan điểm, chính sách của Đảng và quá trình chỉ đạo
hoạt động đối ngoại nhân dân trong những năm đất nước đổi mới và hội nhập.
- Từ kết quả hoạt động trên một số lĩnh vực, làm rõ thành quả của hoạt động
đối ngoại nhân dân góp phần tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
- Tổng kết những kinh nghiệm bước đầu của Đảng trong lãnh đạo hoạt động
đối ngoại nhân dân.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian: Khóa luận tập trung nghiên cứu từ năm 1991 đến 2011, tức là
từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991) đến Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI (1/2011) của Đảng.
- Về không gian: Sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động đối ngoại nhân dân
bao gồm rất nhiều nội dung. Đặc biệt trong thời kì hội nhập quốc tế, thì nội dung

hoạt động đối ngoại nhân dân diễn ra rất phong phú, thể hiện trên nhiều lĩnh vực
của đời sống xã hội. Tuy nhiên do khả năng của tác giả và trong khuôn khổ của một
khóa luận tốt nghiệp chuyên nghành Lịch sử Đảng, đề tài chỉ đề cập đến vài mặt nổi
trội của hoạt động này trong từng giai đoạn để minh họa cho việc hiện thực hóa chủ
trương, chính sách đối ngoại nhân dân của Đảng vào trong thực tiễn cuộc sống, xã
hội.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Khóa luận được thực hiện trên cơ sở tham khảo, sử dụng, kế thừa và tiếp thu
các nguồn tư liệu: Các văn kiện Đảng qua các kỳ Đại hội; Các tài liệu lưu trữ của

4


Bộ Ngoại giao, Ban Đối ngoại Trung ương; những bài nói, bài viết của các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước, Bộ Ngoại giao; Một số sách, báo, tạp chí về đối ngoại.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình giải quyết những nhiệm vụ đề ra, khóa luận quán triệt và
tuân thủ hệ thống quan điểm, nguyên lý, phương pháp luận cơ bản của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và đường lối đối ngoại.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng, phương pháp nghiên
cứu chủ yếu của khóa luận là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Ngoài ra,
khóa luận còn sử dụng một số phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, so
sánh…
5. Đóng góp của khóa luận
5.1. Về mặt lý luận
Tái hiện những nét chính yếu quá trình hoạch định và lãnh đạo thực hiện
đường lối đối ngoại nhân dân của Đảng từ năm 1991 đến năm 2011. Khóa luận đã

góp phần bổ sung, phát triển và làm phong phú thêm kiến thức lý thuyết của vấn đề
đối ngoại nhân dân trong thời kì mới.
5.2. Về mặt thực tiễn
Hệ thống tư liệu bước đầu góp phần tổng kết đường lối đối ngoại nhân dân
của Đảng trong 20 năm (1991 – 2011) đổi mới và phát triển đất nước. Bước đầu rút
ra một số kinh nghiệm cho công tác đối ngoại nhân dân trong giai đoạn hiện nay.
Bài khóa luận có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho các bạn sinh viên
nghành Lịch sử Đảng và Lịch sử Ngoại giao.
6. Bố cục của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, khóa luận gồm 3 chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo hoạt động động đối ngoại nhân dân từ năm 1991
đến năm 2001

5


Chương 2: Đảng lãnh đạo hoạt động đối ngoại nhân dân từ năm 2001 đến
năm 2011
Chương 3: Nhận xét và một số bài học kinh nghiệm.

6


NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001
1.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN CỦA
ĐẢNG
1.1.1. Cơ sở lý luận

1.1.1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin
Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng
lý luận, những quy định của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại cũng được xây dựng trên
nền tảng lý luận này.
C.Mác, Ănghen, Lênin không trực tiếp đề cập đến vấn đề đối ngoại nhân
dân. Nhưng theo quan điểm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác, quần chúng nhân dân làm ra lịch sử. Lịch sử xã hội là lịch sử
của con người do chính con người tạo ra thông qua hoạt động tồn tại và chủ yếu là
hoạt động sáng tạo của mình. Quan hệ giữa các dân tộc, các quốc gia bắt đầu từ sự
trao đổi sản phẩm thừa giữa các bộ lạc và trải qua các thời kì lịch sử mở rộng về
không gian và lĩnh vực (buôn bán, giao lưu hữu nghị, hiểu biết lẫn nhau và hòa
bình, giao lưu văn hóa…).
Trong một nước, dân là gốc. Đường lối chính trị và chính sách đối ngoại của
chính phủ một nước có đáp ứng được nhu cầu, lợi ích và nguyện vọng của nhân dân
thì mới được nhân dân chấp nhận, thực hiện và mới có hiệu quả. Thái độ của nhân
dân có tác động quyết định đối với sự tồn tại và khả năng hoạt động của chính phủ.
V.I.Lênin từ nhận thức về vai trò của nhân dân ngày càng tăng trong lịch sử
đã đi đến kết luận về ảnh hưởng ngày càng mạnh mẽ của các dân tộc đối với chính
sách đối ngoại của các quốc gia. Trong quá trình hoạt động cách mạng, Lênin rất

7


coi trọng công tác vận động quốc tế ủng hộ cách mạng và nhân dân nước Nga, đặc
biệt là vận động nhân dân, các cá nhân và tổ chức chính trị - xã hội các nước. Sau
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917, Lênin đã cùng với Đảng và Nhà nước Xô
Viết, các đảng anh em ở các nước, vận động phong trào nhân dân rộng lớn ủng hộ
và bảo vệ chính quyền Xô Viết. Hoạt động đối ngoại nhân dân (ngoại giao nhân
dân) của nước Nga Xô Viết và sau đó là Liên Xô đã góp phần quan trọng thực hiện
các nguyên tắc đối ngoại của Nhà nước Xô Viết, chủ yếu là nguyên tắc chủ nghĩa

quốc tế vô sản và nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình giữa các nước có chế độ chính trị
khác nhau. [10, tr.9].
Như vậy, mặc dù C.Mác, Ănghen, Lênin không đề cập trực tiếp đến đối
ngoại nhân dân nhưng ta cũng có thể hiểu C.Mác, Ănghen, Lênin đều cho rằng
trong ngoại giao thì đối ngoại nhân dân có vị trí rất quan trọng. Tiếp thu triết học
Mác – Lênin một cách sáng tạo, Đảng ta đã và đang xây dựng một đường lối đối
ngoại nhân dân hữu nghị, hòa bình, hợp tác mang đặc trưng riêng của CNXH
1.1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh
“Đối ngoại nhân dân” hay “ngoại giao nhân dân” là khái niệm chỉ những
hoạt động đối ngoại do các tổ chức đoàn thể quần chúng, chính trị - xã hội, nghề
nghiệp và cá nhân tiến hành không với danh nghĩa đại diện cho Nhà nước.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đối ngoại (hay ngoại giao nhân dân) là lực
lượng, binh chủng quan trọng của mặt trận ngoại giao. Đó là công việc của nhiều
nghành, nhiều cấp: “Ta có hai mặt công tác quan trọng là nội chính và ngoại
giao… Đây không phải chỉ là các đại sứ quán, tổng lãnh sự quán là những cơ quan
chuyên môn phụ trách, mà còn các tổ chức khác như ngoại thương, văn hóa, thanh
niên, phụ nữ, công đoàn cũng đều làm ngoại giao cả” [11, tr.168].
- Hoạt động đối ngoại trong tư tưởng Hồ Chí Minh:
Thứ nhất, Độc lập tự chủ, tự lực tự cường, tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn
lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình
đẳng. Đây là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thể hiện nhất quán toàn bộ
quá trình hoạt động cách mạng của Người trong hoạt động đối ngoại, được Người

8


đúc kết thành chân lý của thời đại: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”; “Chúng ta
thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô
lệ” [11, tr.480].
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh phải có thực lực, thực lực là cái

chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn. Muốn tranh thủ được sự
ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập tự chủ đúng đắn. Tư tưởng độc lập
tự chủ và tự lực tự cường trong tư tưởng Hồ Chí Minh xa lạ với sự biệt lập và chủ
nghĩa biệt phái. Để chiến thắng kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần trong bối cảnh
thời đại mới, Hồ Chí Minh luôn chủ trương tăng cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp
tác quốc tế và coi đây là một vấn đề có tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối
cách mạng Việt Nam, nhằm tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ quốc tế, làm
tăng thêm khả năng tự lực tự cường, tạo điều kiện làm chuyển biến so sánh lực
lượng có lợi cho cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, Tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các dân tộc.
Là một chiến sĩ quốc tế chân chính Hồ Chí Minh không chỉ đấu tranh cho độc lập
của dân tộc mình, mà còn đấu tranh cho độc lập của tất cả các dân tộc khác. Trong
quan hệ giữa Việt Nam với các nước láng giềng Lào, Campuchia, Trung Quốc cũng
như với các quốc gia, dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh thực hiện nhất quán quan
điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ và quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời
mong muốn các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt
Nam trên cơ sở những nguyên tắc đó.
Thứ ba, Đoàn kết tập hợp tất cả các lực lượng có thể tập hợp được, kết hợp
sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại trong hoạt động đối ngoại. Xuất phát từ
nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin và truyền thống văn hóa Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh luôn đề cao vai trò, sức mạnh của đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.
Theo Người, đoàn kết làm nên sức mạnh, đoàn kết làm nên thành công. Trong hoạt
động đối ngoại của mình, Người luôn tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ của nhân dân thế
giới, cho cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Tuy nhiên, trong đoàn

9


kết tập hợp lực lượng Người luôn phân biệt rõ đâu là bạn, đâu là kẻ thù để có kế sách

đoàn kết phù hợp.
Thứ tư, Đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù. Xuất phát từ nguyên lý chủ
nghĩa Mác – Lênin trong việc xác định bạn thù trong quan hệ quốc tế và ngoại giao
truyền thống Việt Nam – coi trọng sự hòa hiếu với tất cả các dân tộc, phân biệt giữa
nhân dân và tập đoàn thống trị hiếu chiến của các nước. Trong quan hệ đối ngoại,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn lấy hòa bình hữu nghị và đạo lý làm tiêu chí để phân
biệt bạn thù, phân biệt dân tộc với bọn phản động, hiếu chiến trong chính phủ đối
phương. Đối với Người, ai làm gì lợi ích cho nhân dân, cho Tổ Quốc ta đều là bạn.
Bất kì ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ Quốc ta là kẻ thù.
Trên cơ sở phân biệt rõ bạn, thù, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề ra phương châm
trong quan hệ quốc tế là “thêm bạn, bớt thù”, “tránh đối đầu”, “không gây thù oán
với một ai” và trong xử lý quan hệ với các nước phải làm sao “dàn xếp sao cho đại
sự thì thành tiểu sự và tiểu sự thì thành vô sự”.
Có thể nói, nguyên tắc đoàn kết quốc tế, thêm bạn bớt thù, trong tư tưởng Hồ
Chí Minh thể hiện rõ phương châm về đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm bạn với các
nước dân chủ. Đây là một tư tưởng vượt thời đại, xét bối cảnh phân cực sâu sắc của
chính trị quốc tế từ sau chiến tranh thế giới thứ hai.
- Phương thức hoạt động đối ngoại trong tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ:
trong hoạt động đối ngoại phải dựa vào sức mạnh nội lực – sức mạnh về kinh tế,
chính trị, quân sự… của đất nước làm nền tảng. Muốn thắng lợi trên mặt trận đối
ngoại phải có thực lực làm cơ sở, do đó, việc xây dựng thực lực về chính trị, kinh tế,
quân sự của đất nước – sức mạnh nội lực là hết sức quan trọng, quyết định sự thành
công của hoạt động đối ngoại. Phải phối hợp ngoại giao với chính trị, quân sự thông
qua hoạt động quốc tế của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và ngoại giao nhân dân,
tạo nên sức mạnh tổng hợp để giành thắng lợi. Thắng lợi trên mặt trận đối, ngoại giao
sẽ tạo tiền đề, điều kiện để tăng thực lực cách mạng, tạo “thế” cho đất nước trong
quan hệ chính trị quốc tế.

10



Trong quan hệ đối ngoại, phải biết lợi dụng mâu thuẫn của kẻ thù để phân
hóa kẻ thù, sao cho ít kẻ thù nhất, nhiều bầu bạn nhất. Phải biết thắng từng bước,
“kết hợp giữa đánh và đàm” để xây dựng và chuyển hóa lực lượng tiến tới giành
thắng lợi hoàn toàn. Tuy nhiên, sử dựng phương thức “vừa đánh, vừa đàm” là một
vấn đề nghệ thuật. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đứng đầu là nhà ngoại
giao bậc thầy Hồ Chí Minhthường nhắc nhở rằng: Chúng ta cần nêu cao tinh thần tự
lực cánh sinh, chống tư tưởng sợ Mỹ, tư tưởng đàm phán khi chưa có điều kiện
thuận lợi, muốn kết thúc chiến tranh với bất cứ giá nào, tư tưởng ỷ lại vào sự giúp
đỡ của nước ngoài, không tin tưởng vào sức mình.
Chính việc sử dụng đa dạng, linh hoạt, phong phú nhiều phương thức đối
ngoại khác nhau, mà Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát huy hết
sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại vào cuộc đấu tranh giải phóng dân
tộc, đưa đến thành công của cách mạng Việt Nam.
- Đối tác của hoạt động đối ngoại trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Một trong những nguyên tắc trong quan hệ quốc tế song phương hay đa
phương mà chủ nghĩa Mác – Lênin đưa ra từ rất sớm, đó là việc phải xác định được
đối tác mà mình định xây dựng quan hệ: là bạn, là đồng minh, hay kẻ thù. Trên cơ
sở đó, xây dựng chủ trương, đường lối và mục tiêu với từng đối tác cụ thể. Khi xác
định đúng bản chất của đối tác, kể cả đó là kẻ thù, những người cộng sản không
phải chỉ biết thủ tiêu mối quan hệ, mà trái lại phải duy trì mối quan hệ với các đối
tác đó, trên nguyên tắc đã được xác định sao cho quyền lợi dân tộc và mục tiêu cuối
cùng của cách mạng không bị xâm hại.
Trên nền tảng tư tưởng đó, với tư tưởng đa dạng hóa quan hệ quốc tế, làm
bạn với tất cả các nước dân chủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mở rộng biên độ đối tác
trong hoạt động đối ngoại không chỉ đối với các đảng phái, Chính phủ của các
nước, mà còn với các cá nhân, thuộc các tầng lớp, nghề nghiệp có khuynh hướng
chính trị khác nhau, đến các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức phi chính phủ có tình
cảm với Việt Nam trên toàn thế giới, ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa của nhân

dân ta.

11


Đối với chính phủ các nước, bạn bè quốc tế trong phe xã hội chủ nghĩa, Hồ
Chí Minh thể hiện tình cảm chân thành “vừa là đồng chí, vừa là anh em” trên tinh
thần trong sáng, thủy chung, phát huy đoàn kết, hữu nghị, hợp tác “có lý”, “có tình”.
Đối với đối phương, Hồ Chí Minh đấu tranh cho lý lẽ, đề cao chính nghĩa, lẽ
phải, thức tỉnh lương tâm, đồng thời tỏ rõ lòng mong muốn hòa bình, hợp tác cùng
có lợi, quan tâm đến lợi ích chính đáng của đối phương về lợi ích kinh tế, văn hóa.
Phân biệt rõ bạn thù, nhân dân với bọn hiếu chiến trong giới cầm quyền đối phương.
Những tình cảm chân thành của Hồ Chí Minh với các đối tác, góp phần làm
sâu sắc thêm truyền thống ngoại giao hòa hiếu, nhân nghĩa của dân tộc. Tập hợp
được rộng rãi các lượng yêu chuộng hòa bình trên thế giới ủng hộ cuộc đấu tranh
chính nghĩa của nhân dân Việt Nam đi đến thắng lợi.
- Phong cách Hồ Chí Minh trong ngoại giao nhân dân
Là toàn bộ các hoạt động của Hồ Chí Minh biểu hiện qua hệ giá trị và tư
tưởng về ngoại giao nhân dân mang dấu ấn Hồ Chí Minh, trong đó có sự kết hợp hài
hòa các giá trị truyền thống của dân tộc, văn hóa của Phương Đông và Phương Tây
cùng việc vận dụng sáng tạo, có chọn lọc các tư tưởng tiến bộ của nhân loại thể hiện
ý chí, tư tưởng đó của Hồ Chí Minh. Phong cách Hồ Chí Minh trong ngoại giao
nhân dân bao gồm phong cách ứng xử, phong cách tư duy, phong cách biểu đạt
trong hoạt động ngoại giao nhân dân của Người.
Trong bối cảnh đất nước bước vào thời kì hội nhập sâu vào nền kinh tế thế
giới, những nội dung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn còn nguyên giá trị và
là ngọn cờ tư tưởng, lý luận để Đảng ta vạch ra đường lối đối ngoại đúng đắn đưa
cách mạng nước ta đi đến đích cuối cùng – xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội,
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
1.1.2. Cơ sở thực tiễn

1.1.2.1. Bối cảnh quốc tế
Trong những năm 1991 đến năm 2001, tình hình thế giới diễn biến hết sức
nhanh chóng, phức tạp, có những đột biến lớn làm thay đổi cục diện chính trị thế

12


giới. Các nước, các dân tộc đối diện nhiều vấn đề mới bao gồm những cơ hội, điều
kiện thuận lợi để phát triển và cả những khó khăn, thách thức không nhỏ.
Về tình hình chính trị: Vào đầu thập niên 90, một trật tự thế giới mới dần
được hình thành nguyên nhân là do sự sụp đổ của các nước Xã hội chủ nghĩa ở
Đông Âu và Liên Xô (năm 1991) khiến trật tự thế giới hai cực tồn tại trong suốt nửa
thế kỉ từ sau chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt. Lực lượng trên thế giới thay đổi
theo chiều hướng có lợi cho Mỹ và các nước tư bản phát triển, đẩy phong trào cách
mạng thế giới vào tình thế bất lợi và khủng hoảng, thoái trào mang tính toàn cầu.
Về tình hình kinh tế: Có những biến động lớn:
Thứ nhất, ưu tiên phát triển kinh tế trở thành một xu hướng chung của mọi
quốc gia dân tộc.
Chiến tranh Lạnh tuy không phủ nhận vai trò kinh tế, song về cơ bản sức
mạnh chính trị quân sự trở thành nhân tố chủ yếu đảm bảo vị trí cường quốc của
một quốc gia. Tuy nhiên, khi chiến tranh Lạnh kết thúc, hòa hoãn trong quan hệ
quốc tế trở thành xu thế chủ đạo, cuộc chạy đua về kinh tế giữa các nước trên thế
giới đang dần thay thế cho cuộc chạy đua về vũ trang. Tất cả các nước trên thế giới
đều điều chỉnh đường lối, tập trung sức phát triển kinh tế - xã hội, cố gắng ổn định
kinh tế, đồng thời mở rộng cửa, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, tăng cường
hợp tác với quốc tế nhằm đưa đất nước phát triển. Như vậy, kinh tế đã trở thành
nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia, đảm bảo vai trò vị trí
của các quốc gia đó trong đời sống quốc tế.
Thứ hai, xu hướng liên kết khu vực trở thành điểm nổi bật của kinh tế thế
giới.

Quá trình hợp tác, liên kết và nhất thể hóa nền kinh tế khu vực diễn ra mạnh
mẽ và sôi động từ năm 1992. Nhiều tổ chức và diễn đàn kinh tế đa phương ở từng
khu vực đã được hình thành như Mỹ hình thành khu vực tự do thương mại Bắc Mĩ
(NAFTA); các nước ASEAN lập khu vực mậu dịch tự do AFTA… Cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ và xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới… là động lực
quan trọng thúc đẩy quá trình hợp tác, liên kết và nhất thể hóa nền kinh tế khu vực.

13


Tuy nhiên, ở đầu thập niên 90, nền kinh tế thế giới vẫn trong tình trạng suy
thoái và gặp không ít khó khăn thử thách. Nguyên nhân chính do cuộc khủng hoảng
vùng Vịnh, giá dầu lửa đã tác động mạnh đến kinh tế các nước, bên cạnh đó nguồn
vốn đầu tư thiếu nghiêm trọng, tình trạng mắc nợ vẫn chưa được giải quyết về cơ
bản, quan hệ kinh tế - thương mại còn nhiều hạn chế do bế tắc trong vòng thương
lượng buôn bán quốc tế.
Thứ ba, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị khủng hoảng sâu sắc
về lý luận, đường lối, tổ chức và phong trào hoạt động do sự sụp đổ của các nước
Xã hội chủ nghĩa ở Châu Âu nhất là Liên Xô. Trước yêu cầu đó buộc các tổ chức
dân chủ quốc tế phải tìm cách đổi mới, chuyển hướng hành động gắn bó với lợi ích
của quần chúng.
Tại khu vực Châu Á – Thái Bình Dương, đặc biệt là khu vực Đông Nam Á từ
cuối thập niên 80, đầu thập niên 90 là một khu vực phát triển năng động, là nơi tập
trung các nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Đặc biệt nền kinh tế Trung Quốc phát
triển nhanh nhất thế giới với tỉ lệ tăng trưởng lên tới 9,5% trong thời kì từ 1978 đến
năm 1996 [20, tr.13 -14]. Đông Á trở thành khu vực có tốc độ tăng trưởng cao hàng
đầu thế giới.
Thứ tư, xu thế toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ. Toàn cầu hóa không chỉ là kết quả của sự phát triển lực
lượng sản xuất mà còn gắn với những thúc đẩy của quan hệ sản xuất. Sự gắn kết

giữa yêu cầu cao của xã hội hóa lực lượng sản xuất với những điều chỉnh về mặt
quan hệ sản xuất càng thúc đẩy quá trình toàn cầu hóa diễn ra nhanh hơn. Xu thế
vận động của toàn cầu hóa đang tạo điều kiện cho tất cả các nước – miễn là không
tự khép kín, đóng cửa – thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, tuyên truyền,
quảng bá về nước mình, dân tộc mình đến với các nước, các dân tộc khác. Đây là
điểm thuận lợi, tích cực cho phần nhiều các nước đang mong muốn hiểu biết lẫn
nhau, tiến tới hợp tác cùng phát triển. Nhưng mặt khác cũng có thể nhận thấy rõ, đó
là không ít quốc gia, nhân danh toàn cầu hóa, nhân danh hợp tác, chia sẻ lợi ích…

14


để áp đặt, cưỡng bức hình ảnh, mô hình của nước mình, quốc gia mình đối với các
nước khác, dân tộc khác.
Bước chuyển biến của bối cảnh quốc tế còn gắn liền với sự phát triển mạnh
mẽ của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ. Với bản chất của nó, toàn cầu hóa
và cuộc cách mạng khoa học - công nghệ tác động lẫn nhau, làm cho thế giới vận
động liên tục và đều có một điểm chung đó là đang tạo ra những điều kiện để các
quốc gia hướng đến xây dựng một nền kinh tế tri thức. Những thành tựu khoa học
mới và tốc độ quay vòng từ nghiên cứu khoa học tới việc ứng dụng tạo ra những
hiệu quả và hiệu suất cực kỳ lớn trong hoạt động kinh tế - thương mại là nền tảng
cơ bản của nền kinh tế này.
Như vậy, nhìn chung sau chiến tranh lạnh các quốc gia trên thế giới vừa tập
trung ưu tiên giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở trong nước vừa đẩy mạnh đấu
tranh giành lấy những điều kiện thuận lợi nhất để phát triển. Do đó, xu thế hòa bình,
hợp tác cùng phát triển, giải quyết mọi tranh chấp bất đồng thông qua đàm phán
thương lượng chính trị trở thành xu thế chủ đạo trong đời sống quốc tế đương đại.
1.1.2.2. Bối cảnh trong nước
Năm 1991, đánh dấu Việt Nam thực hiện sự nghiệp đổi mới gần được 5
năm, nhưng trên nhiều mặt vẫn gặp những khó khăn nghiêm trọng. Trong khi đất

nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội thì chế độ XHCN ở Đông Âu sụp
đổ và Liên Xô tan rã. Việt Nam mất gần như hoàn toàn chỗ dựa chính trị quốc tế,
viện trợ kinh tế và quân sự, thị trường quốc tế. Sản xuất suy giảm và đời sống
nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (1986 – 1996) Việt Nam về cơ bản
đã thoát khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng kéo dài. Tình hình kinh
tế - xã hội đã đạt được những thành tựu quan trọng “trong vài năm trở lại đây, tỷ lệ
nghèo đói ở Việt Nam đã giảm đi đáng kể… Tỷ lệ người dân có mức chi tiêu bình
quân ở dưới ngưỡng nghèo chung đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống còn 37%
vào năm 1998…” [20, tr.25]. Từ chỗ thiếu ăn triền miên, năm 1988 phải nhập hơn
45 vạn tấn gạo đến năm 1998 đã xuất khẩu được 1,4 triệu tấn gạo, đứng hàng thứ ba

15


trên thế giới về xuất khẩu lương thực [21, tr55]. Hàng hóa trên thị trường, nhất là
hàng tiêu dùng ngày càng dồi dào, đa dạng, tiến bộ về mẫu mã và chất lượng. Công
tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khía theo hướng tích cực, góp phần tạo
môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Quan
hệ quốc tế của Việt Nam tiếp tục được thúc đẩy mở rộng theo phương châm đa
phương hóa, đa dạng hóa.
Với hình ảnh của một nước vươn lên trong khó khăn, đạt được nhiều thành
tựu trong phát triển kinh tế, tình hình chính trị - xã hội ổn định tạo cho Việt Nam
một hình ảnh về một quốc gia đang đổi mới, hữu nghị và mến khách.
Trên lĩnh vực đối ngoại: Đạt được những thành tựu đáng kể, tạo môi trường
quốc tế thuận lợi hơn cho công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đẩy lùi
sự bao vây, cô lập của các thế lực thù địch đối với nước ta, nâng cao uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế.
Mặc dù đạt được những thành tựu trên, nhưng đất nước ta vẫn còn gặp không
ít khó khăn trở ngại: Các nhân tố chưa ổn định và các vấn đề nóng bỏng còn nhiều,

đất nước vẫn chưa ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội, số người không có
việc làm hoặc việc làm thất thường rất lớn, đời sống văn hóa tinh thần có biểu hiện
suy thoái, chất lượng giáo dục giảm, nhiều giá trị đạo đức bị suy đồi…
Như vậy, với những yếu tố mới của bối cảnh quốc tế và trong nước xuất
hiện, đòi hỏi Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo, chủ động đón nhận thời cơ, tranh thủ
vốn, khoa học – công nghệ hiện đại của thế giới để xây dựng đất nước vững mạnh
về mọi mặt, đồng thời chủ động ứng phó với những nguy cơ, thách thức mới.

1.2. QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ ĐỐI NGOẠI NHÂN
DÂN TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001
1.2.1. Quan điểm chủ trương của Đảng về đối ngoại và đối ngoại nhân dân
Bối cảnh quốc tế và trong nước đặt ra cho Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ
VII (6/1991) nhiệm vụ lịch sử là tiếp tục khẳng định và hoàn thiện thêm đường lối
đổi mới, tìm cách đưa đất nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, đồng thời
ngăn chặn những ảnh hưởng xấu do tác động của việc CNXH ở Đông Âu và Liên

16


Xô đang tan rã từng phần, hoàn thành những đường nét cơ bản về con đường đi lên
CNXH ở nước ta. Thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ
lên CNXH và chiến lược ổn định, phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000”. Đại hội
VII xác định mục tiêu tổng quát là vượt qua khó khăn, thử thách, ổn định và phát
triển kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã
hội, đua đất nước ta cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng.
Nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu tổng quát nêu trên, trên cơ sở nhận thức
sâu sắc hơn bối cảnh quốc tế và trong nước trước những diễn biến phức tạp của hệ
thống XHCN thế giới, chính sách đối ngoại của Đảng được Đại hội đề ra là:
“Giữ vững hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp

phần tích cực vào sự nghiệp đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội” [3, tr.88].
Cũng tại Đại hội này, Đảng chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với
tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở
nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình bằng lời khẳng định: “Với chính sách đối ngoại
rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” [3, tr.147]. Tuyên
bố này có ý nghĩa lịch sử to lớn, bởi nói được đưa ra trước khi Liên Xô – thành trì
của CNXH, sụp đổ 6 tháng. Điều này thể hiện tư duy nhạy bén, khoa học đối với
thời cuộc cũng như tính độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng trong hoạch định đường
lối. Tuyên bố này đã đưa lại cho đất nước những kết quả quan trọng trong lĩnh vực
đối ngoại trong giai đoạn tiếp theo.
Với chủ trương đối ngoại nêu trên, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII
của Đảng đã tạo nên bước phát triển có tính đột phá trong nhận thức của Đảng về
bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong quá trình đổi mới.
Sau Đại hội Đảng lần thứ VII, tình hình thế giới diễn biến ngày càng phức
tạp và xấu đi một cách nhanh chóng. Tháng 6/ 1992 (6 tháng sau khi Liên Xô tan rã
hệ thống XHCN thế giới sụp đổ), nhằm phát triển và cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội

17


VII, Hội nghị lần thứ ba của Ban Chấp hành Trung ương Khóa VII (6/1992) thông
qua nghi quyết “thời cuộc hiện nay và nhiệm vụ của chúng ta” khẳng định: “Công
tác đối ngoại ngày càng có vị trí quan trọng, góp phần kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, yếu tố dân tộc và yếu tố quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu
tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên” [3, tr.4]. Phát huy những truyền thống đạt
được, Đảng đề ra nhiệm vụ đối ngoại:
Trong bối cảnh hiện nay, chúng ta càng phải mở rộng và nâng cao hiệu quả
hoạt động đối ngoại nhằm góp phần thực hiện mục tiêu tổng quát trong 5 năm (1991

– 1995) mà Đại hội VII đề ra: “Vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển
kinh tế - xã hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa
nước ta cơ bản vượt qua khủng hoảng hiện nay”. “Chúng ta gia sức giữ vững hòa
bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo môi trường và điều kiện quốc tế
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời đóng góp tích cực
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội” [3, tr.4-5].
Để thực hiện những nhiệm vụ đó, về công tác đối ngoại Đảng chỉ rõ: “Phải
có chính sách khôn khéo, cách làm có hiệu quả để mở rộng hợp tác với bên ngoài
nhằm khai thác tốt nhất tiềm lực và lợi thế bên trong”.
Vì vậy, chúng ta mở rộng “đa dạng hóa và đa phương hóa” quan hệ đối
ngoại cả về chính trị, kinh tế, văn hóa và khoa học - kĩ thuật, cả về Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân, các tổ chức phi chính phủ, trên nguyên tắc: “Tôn trọng
độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của
nhau, bình đẳng và cùng có lợi, bảo vệ và phát triển kinh tế, giữ vững và phát huy
những truyền thống và bản sắc tốt đẹp của nền văn hóa dân tộc” [3, tr.6].
Cũng trong văn kiện này, lần đầu tiên đối ngoại nhân dân được ghi rõ trong
Nghị quyết của Đảng với nhiệm vụ: “Mở rộng và đổi mới hoạt động đối ngoại nhân
dân nhằm giữ gìn hòa bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời
góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc

18


×