ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
TRẦN THỊ THÚY HÀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Hà Nội, 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
------------------------------
TRẦN THỊ THÚY HÀ
ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2010
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 62.22.56.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LỊCH SỬ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Quang Minh
Hà Nội, 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn của PGS. TS Phạm Quang Minh.
Các số liệu trong luận án là trung thực, bảo đảm tính khách quan. Các tài
liệu tham khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 20 tháng 06 năm 2016
Tác giả luận án
Trần Thị Thúy Hà
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài ..................................................................................... 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 3
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu .................................................. 5
5. Đóng góp khoa học của luận án .................................................................... 6
6. Kết cấu của luận án ....................................................................................... 7
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ............................. 9
1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN VIỆT
NAM.................................................................................................................. 9
1.2. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN ........................ 18
1.3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÃ ĐƯỢC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU...... 21
Chương 2. SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐỐI VỚI
HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 1991-2001 ...............26
2.1. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ LÃNH ĐẠO MỞ RỘNG HOẠT
ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN CỦA ĐẢNG TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2001
......................................................................................................................... 26
2.1.1. Đối ngoại nhân dân trước năm 1991 .................................................... 26
2.1.2. Đặc điểm, tình hình trong giai đoạn mới ............................................... 33
2.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN ........... 40
2.2.1. Chủ trương của Đảng ........................................................................... 40
2.2.2. Sự chỉ đạo của Đảng ............................................................................. 48
Tiểu kết chương 2............................................................................................ 63
Chương 3. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG
ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN GIAI ĐOẠN 2001 - 2010 ................................. 66
3.1. NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI CỦA TÌNH HÌNH THẾ GIỚI VÀ
TRONG NƯỚC............................................................................................... 66
3.1.1. Tình hình thế giới .................................................................................. 66
3.1.2. Tình hình trong nước ............................................................................. 70
3.2. ĐẢNG LÃNH ĐẠO HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN ........... 74
3.2.1. Chủ trương của Đảng ........................................................................... 74
3.2.2. Sự chỉ đạo của Đảng ............................................................................. 79
Tiểu kết chương 3.......................................................................................... 101
Chương 4. NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM .......................................... 103
4.1. NHẬN XÉT............................................................................................ 103
4.1.1. Một số ưu điểm .................................................................................... 103
4.1.2. Một số hạn chế .................................................................................... 110
4.1.3. Một số kết quả đạt được của hoạt động đối ngoại nhân dân ............. 124
4.2. MỘT SỐ KINH NGHIỆM ..................................................................... 131
4.2.1. Xuất phát từ thực tiễn, nhận thức đúng tình hình, kịp thời tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng.......................................................................................... 131
4.2.2. Quán triệt sâu sắc chủ trương và nguyên tắc đối ngoại của Đảng, bảo đảm
lợi ích dân tộc chân chính, giữ vững độc lập tự chủ, tự lực, tự cường................. 137
4.2.3. Đa dạng hóa, đa phương hóa các hoạt động đối ngoại nhân dân, đồng
thời xác định trọng tâm, chú trọng tính hiệu quả và chiều sâu .................... 138
4.2.4. Coi trọng công tác nghiên cứu, dự báo và xây dựng đội ngũ làm đối ngoại
nhân dân ......................................................................................................... 141
Tiểu kết chương 4.......................................................................................... 143
KẾT LUẬN .................................................................................................. 145
TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
PHỤ LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
ASEAN Free Trade Area
Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC
Asia - Pacific Economic Co-operation
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương
ASEAN
Association of Southeast Asian Nations
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
ASEM
The Asia - Europe Meeting
Diễn đàn hợp tác Á-Âu
BCHTƯ
Ban Chấp hành Trung ương
ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam
ĐNND
Đối ngoại nhân dân
ĐTNCSHCM
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh
Eds
Edited
Chủ biên
EU
Europe Union
Liên minh châu Âu
HLHPNVN
Hội liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
LĐLĐVN
Liên đoàn Lao động Việt Nam
MIA
Missings in Actions
Người Mỹ mất tích trong chiến tranh (Việt Nam)
NAFTA
North America Free Trade Agreement
Hiệp định Thương mại tự do Bắc Mỹ
NVNONN
Người Việt Nam ở nước ngoài
NXB
Nhà xuất bản
ODA
Official Development Assistance
Hỗ trợ phát triển chính thức
PACCOM
People's Aid Coordinating Committee
Ban điều phối viện trợ nhân dân
POW
Prisoners in war
Tù nhân chiến tranh
TAFTA
Khu vực tự do thương mại xuyên Đại Tây Dương
TCPCPNN
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài
MTTQVN
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
VUFO
Vietnam Union of Friendship Organizations
Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
WTO
World Trade Organization
Tổ chức thương mại thế giới
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Hoạt động đối ngoại nhân dân (ĐNND) là các hoạt động đối ngoại
không thuộc ngoại giao Nhà nước và đối ngoại của Đảng, mà do các tổ chức
chính trị - xã hội, các hội nghề nghiệp, các tổ chức như các viện nghiên cứu,
các trường đại học hay các cá nhân thuộc các tầng lớp nhân dân thực hiện với
các đối tác tương ứng nước ngoài. Hoạt động ĐNND của Việt Nam do Vụ
Đối ngoại nhân dân (Ban Đối ngoại Trung ương Đảng) và Liên hiệp các tổ
chức hữu nghị Việt Nam (VUFO) quản lý và trực tiếp điều phối; hai cơ quan
này phối hợp với Bộ Ngoại giao trong việc thực hiện các hoạt động ĐNND.
ĐNND không bị hạn chế bởi nghi thức ngoại giao, có lực lượng tham
gia đông đảo, cơ sở sâu rộng, phương thức linh hoạt, là bộ phận quan trọng
hợp thành nền ngoại giao quốc gia. Cùng với đối ngoại của Đảng và ngoại
giao nhà nước, ĐNND tạo nên thế “kiềng ba chân” vững chắc của mặt trận
đối ngoại.
Những năm cuối của thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, chưa bao giờ ĐNND
lại được nhắc đến nhiều như vậy. Các chính phủ nhận ra rằng quan hệ đối
ngoại của mỗi quốc gia không chỉ được điều phối bởi ngoại giao truyền thống
(G2G - Government to Government - quan hệ giữa các nhà nước) mà còn
được hỗ trợ đắc lực bởi ĐNND (P2P - people to people relations - quan hệ
giữa nhân dân các nước với nhau). Theo đó, các quốc gia khác nhau về tư
tưởng chính trị, tiềm lực kinh tế, trình độ phát triển có các chính sách và thực
hiện các hoạt động ĐNND theo các hình thức, nội dung và mục đích khác
nhau. Thậm chí các tổ chức chính trị - kinh tế khu vực (EU, ASEAN, v.v),
cũng đã xây dựng chiến lược cụ thể cho hoạt động ĐNND của mình, nhằm
thúc đẩy sự hiểu biết và mối quan hệ lâu dài giữa các thành viên và các đối
tác của họ. ĐNND được xem là phương tiện, là công cụ phục vụ hoạt động
1
chính trị của các quốc gia, các cường quốc, các nước phát triển, các nước
đang phát triển và các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ quốc tế.
Trước những biến động và xu thế của thế giới cuối thế kỷ XX, Đảng
cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) đã kịp thời chuyển hướng chiến lược đối ngoại
nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước. Việt Nam thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá đa phương hoá quan hệ đối
ngoại, theo tinh thần Việt Nam muốn là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các
nước trong cộng đồng thế giới. Nếu trong thời kỳ chiến tranh cách mạng,
ĐNND đã trở thành một kênh quan trọng làm nhiệm vụ thông tin, tuyên
truyền góp phần tạo dựng “ngoại lực” ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa
của dân tộc, phá thế bị bao vây, cô lập. Ngày nay, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
ĐNND ngày càng phát huy vai trò và vị trí quan trọng trong việc thực hiện
đường lối, chính sách đối ngoại, góp phần quảng bá mạnh mẽ hình ảnh về đất
nước, con người và văn hóa Việt Nam cũng như đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam đến với cộng đồng quốc tế, cộng đồng người
Việt Nam ở nước ngoài (NVNONN) giúp tăng cường sự hiểu biết, giao lưu,
hợp tác, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho sự phát triển của đất nước, bảo
vệ lợi ích quốc gia, bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, củng cố vị thế quốc
tế của Việt Nam, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, mở rộng quan hệ
song phương và đa phương, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của hoạt động
ĐNND, do đó việc đi sâu nghiên cứu sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với hoạt
động ĐNND, đặc biệt là thời kỳ 1991-2010, từ những thành tựu đạt được cũng
như những hạn chế của hoạt động ĐNND rút ra những kinh nghiệm thiết thực
cho việc nâng cao hiệu quả của hoạt động ĐNND trong thời gian tới là rất quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
Xuất phát từ thực tế trên, nghiên cứu sinh lựa chọn đề tài “Đảng Cộng
sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại nhân dân từ năm 1991 đến năm
2
2010” làm Luận án Tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
Tập trung làm sáng tỏ sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với hoạt động
ĐNND từ năm 1991 đến năm 2010, trên cơ sở đó đánh giá toàn diện hoạt động
này và rút ra một số bài học kinh nghiệm phục vụ cho sự nghiệp đổi mới.
2.2. Nhiệm vụ
- Khái quát hoạt động ĐNND của Việt Nam trước năm 1991.
- Phân tích những yếu tố tác động tới quá trình hình thành, phát triển
chủ trương ĐNND của ĐCSVN từ năm 1991 đến năm 2010
- Trình bày một cách hệ thống chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng Cộng
sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam về hoạt động ĐNND từ năm 1991 đến
năm 2010.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế trong quá trình Đảng lãnh đạo hoạt
động ĐNND từ năm 1991 đến năm 2010, rút ra một số nhận xét và kinh nghiệm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của luận án là sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với
hoạt động ĐNND.
3.2. Phạm vi
Về nội dung khoa học: ĐNND là một lĩnh vực hoạt động rất rộng, phức
tạp, có nhiều vấn đề đang vận động, phát triển, cần được tiếp tục nghiên cứu,
tổng kết, đưa ra những nhận định có tính khoa học. Thực hiện mục đích nghiên
cứu, luận án tập trung làm rõ chủ trương và quá trình chỉ đạo thực hiện của
Đảng đối với hoạt động ĐNND trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa.
Mặt khác, chủ thể thực hiện công tác ĐNND rất đa dạng và phong phú nên
luận án tìm hiểu hoạt động ĐNND của một số tổ chức chính trị - xã hội chịu
3
trách nhiệm chính về hoạt động ĐNND như Liên hiệp các tổ chức hữu nghị
Việt Nam (VUFO), Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (MTTQVN), Liên đoàn Lao
động Việt Nam (LĐLĐVN), Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam (HLHPNVN),
Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh (ĐTNCS HCM), Hội Cựu chiến binh
Việt Nam, và Hội Nông dân Việt Nam.
Về thời gian: giới hạn về thời gian của đề tài là từ năm 1991 đến năm
2010, nhưng để có một cái nhìn toàn diện, có tính kế thừa và liên tục nghiên
cứu sinh cũng khái quát hoạt động ĐNND của Việt Nam trước năm 1991.
Năm 1991, trong hoàn cảnh đất nước gặp khó khăn mọi mặt, kinh tế
khủng hoảng, bị bao vây cấm vận, tình hình thế giới và khu vực đang có
những biến động lớn, phức tạp, chưa định hình, ĐCSVN đã thông qua Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội với những
định hướng lớn về đối ngoại. Thực hiện định hướng chiến lược đề ra trong
Cương lĩnh năm 1991, qua các kỳ Đại hội tiếp theo, Đảng đã xây dựng thành
công đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ với chính sách đối ngoại rộng mở,
đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại. Cương lĩnh năm 1991 và
những chính sách tiếp theo của Đảng về đối ngoại nói chung và ĐNND nói
riêng đã mở đường và thúc đẩy quá trình hội nhập khu vực và hội nhập quốc
tế của đất nước. Hoạt động ĐNND cũng có bước trưởng thành rõ rệt, góp
phần nâng cao hơn nữa vị trí, vai trò, và uy tín quốc tế của Việt Nam, tạo điều
kiện thuận lợi cho Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại.
Phạm vi thời gian nghiên cứu của luận án là đến năm 2010, một năm ý
nghĩa của ngoại giao Việt Nam, vào thời điểm này chủ trương của Đảng về
ĐNND cùng những hoạt động ĐNND đã và đang góp phần hiệu quả cho
đường lối đối ngoại của đất nước. Năm 2010 đánh dấu hai mươi năm thực hiện
định hướng chiến lược được nêu trong Cương lĩnh năm 1991, là năm kết thúc
nhiệm kỳ Đại hội khóa X của Đảng, chuẩn bị cho một nhiệm kỳ Đại hội mới Đại hội XI - trong tình hình mới với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời
4
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung năm 2011). Việc lựa chọn năm 2010
làm thời điểm kết thúc phạm vi nghiên cứu của luận án cũng góp phần nhìn lại
chặng đường đã qua, rút ra những kinh nghiệm cho các năm tiếp theo.
Năm 2001 được lấy làm mốc phân chia giai đoạn nghiên cứu của luận
án vì đây là một năm bản lề với nhiều sự kiện ngoại giao ý nghĩa, đánh dấu sự
phát triển vượt bậc trong quan hệ đối ngoại, chứng minh tính đúng đắn, phù
hợp của đường lối đối ngoại của Đảng những năm đầu thời kỳ đổi mới.
Về không gian: Trong không gian của chủ thể thực hiện hoạt động
ĐNND (Việt Nam) với một số quốc gia trong khu vực và trên thế giới có sự
liên quan, tương tác.
4. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tài liệu
Để thực hiện luận án, nghiên cứu sinh dựa vào các nguồn tư liệu sau:
- Các văn kiện của Đảng, Nhà nước.
- Tài liệu báo cáo tổng kết của một số tổ chức chính trị - xã hội về hoạt
động đối ngoại và hợp tác quốc tế hiện đang được lưu trữ tại Trung tâm lưu
trữ Quốc gia, Cục lưu trữ thuộc Văn phòng Ban chấp hành Trung ương
ĐCSVN, ban Hợp tác quốc tế của Trung ương MTTQVN, Trung ương Đoàn
TNCSHCM, Trung ương Hội LHPN Việt Nam, Trung ương Hội Nông dân,
Trung ương Hội Cựu chiến binh, VUFO.
- Các công trình nghiên cứu về đường lối đối ngoại của Việt Nam, về
quan hệ hữu nghị giữa Việt Nam với các quốc gia và các vùng lãnh thổ trên
thế giới qua các thời kỳ, kỷ yếu hội thảo khoa học, các bài báo, sách có liên
quan do các cơ quan nghiên cứu uy tín đã công bố như Viện nghiên cứu Quan
hệ Quốc tế thuộc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Ngoại
giao, Đại học Quốc gia Hà Nội…
- Tài liệu thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam, các nguồn thông
tin được khai thác qua các website của các cơ quan Đảng và Nhà nước, thông
cáo báo chí… cũng được sử dụng để làm rõ một số nội dung có liên quan.
5
- Các luận án, luận văn và các nguồn tư liệu hiện đang được lưu trữ tại
các thư viện như thư viện Quốc gia, thư viện Quân đội, thư viện Học viện
ngoại giao, thư viện Viện Lịch sử Đảng (Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh), Trung tâm thông tin thư viện Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà Nội và Phòng tư liệu khoa Lịch sử - Trường Đại học Khoa học
Xã hội và Nhân văn Hà Nội…
- Một số công trình của các nhà nghiên cứu nước ngoài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về ngoại giao và hoạt động đối ngoại
nói chung, ĐNND nói riêng, luận án sử dụng chủ yếu phương pháp nghiên
cứu có tính chuyên ngành là phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Bên
cạnh đó, luận án có kết hợp một số phương pháp như: phương phá nghiên cứu
quốc tế và quan hệ quốc tế, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp
so sánh đối chiếu, hệ thống hóa.
Một cách tổng quát, luận án được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp
nghiên cứu của khoa học lịch sử, ngoài ra có kết hợp với các phương pháp
liên ngành khác. Các phương pháp nghiên cứu trên được vận dụng phù hợp
với từng nội dung của luận án.
5. Đóng góp khoa học của luận án
Trên cơ sở tập hợp, hệ thống hóa, bổ sung tư liệu mới, xử lý nguồn tư
liệu một cách khoa học, luận án có những đóng góp sau:
Về tư liệu
- Cung cấp một số tư liệu gốc hiện được lưu trữ trong các trung tâm lưu
trữ của Nhà nước, của Đảng và một số tổ chức chính trị - xã hội thể hiện chủ
trương và sự chỉ đạo của ĐCSVN đối với hoạt động ĐNND từ năm 1991 đến
năm 2010.
- Cung cấp nguồn tài liệu tham khảo cập nhật, có hệ thống phục vụ cho
lĩnh vực nghiên cứu chủ trương ĐNND nói riêng và đường lối đối ngoại nói
chung của ĐCSVN.
6
Về nội dung khoa học
- Làm rõ chủ trương ĐNND của ĐCSVN từ năm 1991 đến năm 2010,
qua đó làm nổi bật vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động ĐNND.
- Từ các kết quả nghiên cứu, luận án góp phần khẳng định sự đóng góp
quan trọng và vai trò không thể phủ nhận của ĐNND trong nền ngoại giao
hiện đại, phục vụ sự nghiệp đổi mới.
- Nhận thức về một số vấn đề tồn tại, những thuận lợi và khó khăn,
bước đầu đưa ra sự đánh giá, nhận xét hiệu quả thực hiện chủ trương ĐNND
của ĐCSVN và rút ra những bài học kinh nghiệm.
- Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy và
học tập cho những môn học có liên quan như Lịch sử Đảng, quan hệ quốc tế
và đường lối cách mạng của Đảng. Đồng thời, luận án có thể là tài liệu tham
khảo hữu ích cho đội ngũ những người làm công tác đối ngoại, công tác giáo
dục tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng trên lĩnh vực đối ngoại.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình khoa học của tác
giả, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận án kết cấu thành 4 chương, 10 tiết:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, trình bày khái quát tình
hình nghiên cứu về ĐNND trong và ngoài nước, khái quát những nội dung về
ĐNND đã được các công trình nghiên cứu và thể hiện, đồng thời chỉ ra những
vấn đề luận án sẽ tập trung giải quyết.
Chương 2. Sự lãnh đạo của ĐCSVN đối với hoạt động đối ngoại nhân
dân giai đoạn 1991-2001, giới thiệu khái quát về hoạt động ĐNND của Việt
Nam trước năm 1991, nêu bật bối cảnh dẫn tới sự hình thành chủ trương mở
rộng ĐNND của Đảng trong thập niên cuối thế kỷ XX, phân tích chủ trương
của Đảng về ĐNND cũng như sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động ĐNND
từ năm 1991 đến năm 2001.
7
Chương 3. ĐCSVN lãnh đạo hoạt động đối ngoại nhân dân giai đoạn
2001-2010, cùng với việc làm rõ bối cảnh lịch sử những năm đầu thế kỷ XXI,
chương 3 nêu bật chủ trương và sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động
ĐNND trong thời kỳ mới, từ năm 2001 đến năm 2010.
Chương 4. Nhận xét và kinh nghiệm
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đạt được qua các chương 1, 2 và 3,
chương 4 đưa ra một số nhận xét, đánh giá về sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động ĐNND trong giai đoạn 1991-2010 và rút ra một số kinh nghiệm cho việc
tiếp tục phát triển, nâng cao hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo công tác ĐNND trong
thời gian tới.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
Cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, trước những biến động phức tạp của
tình hình thế giới, các quốc gia đặc biệt chú ý đến sức mạnh mềm và cách
thức tạo ảnh hưởng bằng sức mạnh mềm trong quan hệ quốc tế. Trong hệ
thống sức mạnh mềm của mỗi quốc gia, ĐNND được nhiều nước lựa chọn.
Với những mục đích khác nhau, bằng những cách thức khác nhau, các chính
phủ đầu tư nhiều hơn cho ĐNND. Từ những hiệu quả thực tế mà ĐNND
mang lại, giới học giả cũng quan tâm nhiều hơn đến ĐNND từ góc độ lý
thuyết đến các hoạt động thực tiễn. Tuy nhiên, các nghiên cứu tập trung vào
ĐNND của một số cường quốc, điển hình là Mỹ, Đức, Nhật Bản và cường
quốc mới nổi Trung Quốc.
Đối với Việt Nam, lịch sử cách mạng hiện đại cũng đã ghi nhận những
thành tựu của hoạt động ĐNND trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân
tộc. Trong thời kỳ xây dựng đất nước, cùng với đường lối đối ngoại đổi mới,
nhận thức rõ tầm quan trọng của ĐNND, ĐCSVN kịp thời có những chỉ đạo
nhằm phát huy hiệu quả hoạt động ĐNND. Cùng với đó nhiều học giả, nhà
nghiên cứu, nhà lãnh đạo đã công bố nhiều bài viết, công trình nghiên cứu...
về ĐNND. Số các bài viết, các công trình nghiên cứu về ĐNND được công bố
không nhiều, tập trung trong giai đoạn 2001-2010. Về ĐNND của Việt Nam
chưa có nghiên cứu của học giả nước ngoài. Khảo cứu các công trình viết về
hoạt động ĐNND Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng có thể chia thành
những nhóm sau:
1.1. NHÓM CÔNG TRÌNH ĐỀ CẬP ĐẾN ĐỐI NGOẠI NHÂN
DÂN VIỆT NAM
Các công trình viết về đối ngoại nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh
9
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho nền ngoại giao hiện
đại Việt Nam. Nội dung ĐNND trong tư tưởng Hồ Chí Minh được các nhà
nghiên cứu quan tâm, tìm hiểu. Các công trình nghiên cứu chủ yếu được công
bố là các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học chuyên ngành.
Bài viết Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân dân của tác
giả Vũ Xuân Hồng, được đăng trên Tạp chí Cộng sản số 697 năm 2003 [88]
nêu bật phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về ĐNND là thêm bạn, bớt
thù, đoàn kết nhân dân trong nước gắn liền với đoàn kết nhân dân thế giới vì lợi
ích chân chính của nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới; kết hợp công tác
đối ngoại của Đảng với ngoại giao của nhà nước và ĐNND, tạo thành sức
mạnh tổng hợp của mặt trận ngoại giao; nhân dân làm đối ngoại nhưng cần
được tổ chức để phát huy tối đa vai trò và lợi thế; ĐNND phải có nội dung hoạt
động phong phú, hình thức đa dạng và linh hoạt, hướng tới hiệu quả thiết thực.
Từ những phân tích trên tác giả đi đến kết luận ĐNND trong tư tưởng Hồ Chí
Minh là một hệ thống những quan điểm mang bản chất cách mạng và khoa học
sâu sắc, là nền tảng tư tưởng về ĐNND để toàn Đảng, toàn dân tiếp tục nghiên
cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện trong hoạt động đối ngoại, đặc biệt là các
hoạt động ĐNND trong quan hệ quốc tế luôn biến động không ngừng.
Tác giả Phạm Hoàng Điệp có bài viết Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người mở
đường cho Ngoại giao nhân dân Việt Nam được đăng trên Tạp chí Đối ngoại số
5 năm 2011 [42] đã nhấn mạnh vai trò “Người mở đường” của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong thực hiện các hoạt động ĐNND của Việt Nam. Qua việc giới
thiệu đến người đọc những hoạt động ĐNND đầu tiên của nước Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh như cuộc
diễu hành qua Phủ Toàn quyền Đông Dương ngày 3/10/1945; gửi thư tới chính
phủ Pháp, nhân dân Pháp tranh thủ vận động dư luận quốc tế, tạo lòng tin và sự
ủng hộ của nhân dân thế giới cho cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam; cử
đoàn cán bộ ra nước ngoài để tuyên truyền về cuộc kháng chiến chính nghĩa
10
của nhân dân Việt Nam (2/1948)… Tác giả khẳng định dưới sự lãnh đạo của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, các hoạt động ĐNND Việt Nam đã có đóng góp đáng
kể vào thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, giành lại độc lập, thống nhất và hòa bình cho dân tộc.
Ngoài hai bài viết nêu trên, về đề tài ĐNND trong tư tưởng Hồ Chí Minh
còn có một số bài viết khác như:
Bài viết Ngoại giao nhân dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh của tác giả
Nguyễn Thị Thanh Huyền đăng trên Tạp chí Tuyên giáo (10) năm 2011 [106].
Tác giả Nguyễn Thị Thanh Huyền trên cơ sở phân tích các hoạt động ĐNND
thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ khẳng định ĐNND theo tư
tưởng Hồ Chí Minh là phải biết dựa vào dân, lấy dân làm gốc. Tư tưởng của
Người về đối ngoại nói chung và ĐNND nói riêng đã trở thành tài sản tinh thần
quý báu của Đảng và của cả dân tộc, kim chỉ nam cho nền ngoại giao Việt Nam
hiện đại. Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong công tác ĐNND, để mỗi người dân là một đại sứ của đất nước,
góp phần quảng bá hình ảnh đất nước Việt Nam đổi mới.
Bài viết Vận dụng tư tưởng ngoại giao nhân dân Hồ Chí Minh trong
công tác thông tin đối ngoại hiện nay của tác giả Nguyễn Thế Hưởng đăng trên
Tạp chí Thông tin đối ngoại số 4 năm 2012. Tác giả khẳng định vị trí, vai trò
cũng như thành tựu của ĐNND dưới sự lãnh đạo của Đảng, dưới ánh sáng tư
tưởng Hồ Chí Minh đã đóng góp cho tiến trình cách mạng dân tộc. Bên cạnh
đó, tác giả cũng khẳng định những thành tựu của hoạt động thông tin đối ngoại
và chỉ rõ một số hạn chế còn tồn tại. Phần kết của bài viết, tác giả nêu ra những
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt dộng thông tin đối ngoại và việc
vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐNND vào hoạt động thông tin
đối ngoại sao cho hiệu quả cao nhất, đồng thời góp phần nâng cao hiệu quả cho
ĐNND trong tình hình mới.
Bài viết Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác đối ngoại nhân
dân trong điều kiện hiện nay của Nguyễn Năng Nam và Trần Hồng Khánh
11
đăng trên Tạp chí Tổ chức nhà nước số 3/2012. Các tác giả đã khái quát tư
tưởng Hồ Chí Minh về công tác ĐNND tập trung ở bốn nội dung: Một là, thực
hiện phương châm thêm bạn bớt thù, đoàn kết nhân dân trong nước gắn liền với
đoàn kết nhân dân thế giới vì lợi ích chân chính của nhân dân ta và nhân dân
thế giới; Hai là, kết hợp công tác đối ngoại của Đảng với ngoại giao của Nhà
nước và ĐNND, tạo thành sức mạnh tổng hợp của mặt trận ngoại giao; Ba là,
phát huy tối đa vai trò và lợi thế của ĐNND; Bốn là, ĐNND phải có nội dung
hoạt động phong phú, hình thức hoạt động đa dạng và linh hoạt, hướng tới hiệu
quả thiết thực. Tác giả khẳng định: …cả về lý luận và thực tiễn, ĐNND trong
tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống những quan điểm mang bản chất cách
mạng và khoa học sâu sắc, sáng ngời. Đó chính là nền tảng tư tưởng của
ĐNND mà Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam phải tiếp tục nghiên cứu,
quán triệt và tổ chức thực hiện sáng tạo trong hoạt động ngoại giao và ĐNND.
Với những bài viết này, các tác giả đã khẳng định ĐNND là một trong
những nội dung quan trọng trong tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Các tác giả
trình bày nội dung ĐNND trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tinh thần lấy dân
làm gốc, mỗi người dân là một đại sứ tham gia tích cực vào quảng bá hình ảnh
đất nước; mang hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, đất nước Việt Nam hòa
bình, phát triển đến với trái tim bạn bè thế giới, nhằm xây dựng một môi trường
quốc tế hòa bình, hữu nghị, cùng phát triển.
Với những góc độ tiếp cận khác nhau, các tác giả đã nghiên cứu, phân
tích và khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐNND là cơ sở, nền tảng tư
tưởng cho chủ trương ĐNND của Đảng trong các điều kiện lịch sử cụ thể.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, ĐNND đã khẳng định được vị trí, vai trò trong
nền ngoại giao dân tộc. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, Đảng, Nhà nước
và nhân dân Việt Nam tiếp tục vận dụng những quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về ĐNND để làm cho thế giới hiểu rõ hơn về đất nước, con người,
công cuộc đổi mới của Việt Nam, đường lối chính sách của Đảng và Nhà
12
nước Việt Nam, tranh thủ sự đồng tình ủng hộ và hợp tác ngày càng rộng rãi
của nhân dân tiến bộ thế giới.
Các công trình viết về đối ngoại nhân dân Việt Nam nói chung
Trước hết, cuốn Hoạt động đối ngoại nhân dân Việt Nam do NXB
Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2003 [117] giới thiệu khái quát về quá trình
hình thành và phát triển của hoạt động ĐNND của Việt Nam từ trước đến nay,
bao gồm các hoạt động hòa bình, đoàn kết, hữu nghị và vận động viện trợ phi
chính phủ. Bên cạnh đó, bạn đọc cũng có dịp tìm hiểu về phong trào hòa bình
thế giới, phong trào đoàn kết nhân dân Á - Phi - Mỹ Latinh, phong trào đoàn
kết hữu nghị với Việt Nam ở các nước trên thế giới và hoạt động của các
TCPCPNN thực hiện các dự án viện trợ nhân đạo và phát triển ở Việt Nam.
Cuốn sách là tài liệu đầu tiên trình bày khá tập trung về ĐNND của Việt Nam
từ khi nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thành lập. Tuy nhiên cuốn sách
chủ yếu tập trung vào hoạt động của Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam
và các tổ chức thành viên. Liên hiệp là đầu mối hoạt động ĐNND, tuy nhiên
hoạt động ĐNND còn được thực hiện bởi số lượng chủ thể đông đảo khác từ
tổ chức đến các cá nhân. Do vậy cuốn sách có tính chất giới thiệu sơ lược về
ĐNND nói chung và ĐNND của Liên hiệp nói riêng, đồng thời đưa ra một số
mốc cơ bản về xây dựng tổ chức, đội ngũ, không đi sâu vào sự lãnh đạo của
Đảng đối với hoạt động ĐNND.
Trong cuốn sách Ngoại giao và công tác ngoại giao do PGS.TS Vũ
Dương Huân biên soạn, NXB Chính trị quốc gia xuất bản năm 2009 [105], tác
giả sử dụng thuật ngữ ngoại giao nhân dân để chỉ hoạt động đối ngoại do các tổ
chức nhân dân như thanh niên, phụ nữ, công đoàn, Hội cựu chiến binh, Hội nông
dân, hoạt động đối ngoại của các tổ chức nghề nghiệp (Hội văn học, nghệ thuật,
Hội kiến trúc, Hội sử học…) thực hiện nhằm tăng cường sự hiểu biết, đoàn kết và
hợp tác giữa các dân tộc, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển quan hệ nhà
nước. Bên cạnh việc khẳng định vị trí, vai trò, nhiệm vụ của ĐNND, tác giả đồng
13
thời nói rõ “đặc điểm của ngoại giao nhân dân là rất rộng rãi, rất mềm mỏng,
không gò bó về quy định lễ tân, có thể đi đầu, đi trước tại những nơi mà ngoại
giao nhà nước chưa thể triển khai” [105: tr.27].
Cuốn Hỏi - đáp về tình hình thế giới và chính sách đối ngoại của Đảng
và Nhà nước ta do Bộ Ngoại giao biên soạn, NXB Chính trị quốc gia ấn hành
năm 2012 [23] gồm những câu hỏi và câu trả lời về tình hình thế giới hiện nay
như: vấn đề nổi cộm về chính trị, kinh tế, xã hội và chính sách đối ngoại.
Cuốn sách trình bày sự đổi mới của Đảng, Nhà nước Việt Nam trên lĩnh vực
đối ngoại cũng như quan hệ của Việt Nam với các nước và tổ chức quốc tế
nhằm giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội
đất nước. Dưới dạng hỏi - đáp, cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin được
chắt lọc và mang tính khái quát cao, giải đáp nhiều vấn đề đang được dư luận
quan tâm. Về ĐNND, cuốn sách giới thiệu khái quát một số hoạt động
ĐNND, nhấn mạnh kết quả vận động các TCPCPNN và cá nhân nước ngoài
hỗ trợ công cuộc xóa đói giảm nghèo ở Việt Nam khẳng định hợp tác với các
TCPCPNN là một trong những lĩnh vực quan trọng của ĐNND. Cuốn sách
không đi sâu vào trình bày cụ thể về hoạt động ĐNND nói chung cũng như sự
lãnh đạo của ĐCSVN đối với hoạt động ĐNND.
Các công trình trên đề cập đến ĐNND nói chung, trình bày khái quát
nhất những nội dung như khái niệm, chủ thể, đối tượng, hoặc giới thiệu
ĐNND trong mối quan hệ tổng thể với ngoại giao nhà nước nói chung. Bên
cạnh các công trình là sách, viết về ĐNND Việt Nam còn được thể hiện trong
các bài viết được đăng trên các tạp chí khoa học đề cập đến nội dung, vị trí, vai
trò và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ĐNND. Các bài
báo, bài tạp chí chiếm số lượng chủ yếu trong số các công trình viết về ĐNND.
Bài viết Ngoại giao nhân dân với việc nâng cao chất lượng và hiệu quả
công tác dân vận của Đảng trong thời kỳ mới của tác giả Nguyễn Văn Du đăng
trên Tạp chí Lịch sử Đảng số 1/2011 [27], trình bày khái quát về ĐNND của
14
Việt Nam trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, từ thời phong kiến
đến thời kỳ chiến tranh cách mạng, từ kháng chiến chống Mỹ đến thời kỳ đổi
mới và khẳng định vai trò quan trọng của ĐNND trong lịch sử dựng nước và
giữ nước của dân tộc. Tác giả cũng đã điểm qua những văn kiện của Đảng có
liên quan đến ĐNND từ sau Đại hội đổi mới đến nay. Tác giả nhấn mạnh: “Có
thể hiểu đối ngoại nhân dân cũng là công tác dân vận, là mặt trận nhằm vận
động các đối tượng là nhân dân Việt Nam và nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hòa
bình của các nước trên thế giới để thực hiện chủ trương, chính sách hòa bình,
hữu nghị và hợp tác của nước ta đối với nước ngoài…” [27: tr.73-74]. Bài viết
thể hiện một cách tiếp cận mới về ĐNND, khẳng định tầm quan trọng của
ĐNND trong thời kỳ hội nhập. Tuy nhiên, ĐNND không phải là công tác dân
vận, hai lĩnh vực khác nhau về đối tượng, chủ thể, mục đích và nội dung.
Bài viết Phát huy mối quan hệ quốc tế của các tôn giáo trong thực hiện
đường lối ngoại giao nhân dân của Đảng, Nhà nước Việt Nam của tác giả
Nguyễn Văn Long đăng trên tạp chí Công tác tôn giáo số 8 năm 2012 [123].
Tác giả khẳng định tính đặc thù, phức tạp, nhạy cảm của tôn giáo và hoạt
động đối ngoại tôn giáo, trên cơ sở đó đưa ra những trọng tâm của công tác
đối ngoại tôn giáo trong thời gian tới. Bài viết cho thấy một lĩnh vực quan
trọng của hoạt động ĐNND đó là đối ngoại tôn giáo, qua đó khẳng định tầm
quan trọng của ĐNND và góp phần xây dựng “mặt trận” ĐNND toàn diện,
đem lại những thành tựu đối ngoại quan trọng, nâng cao vị thế và tầm ảnh
hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.
Các công trình viết về hoạt động ĐNND của các tổ chức chính trị - xã hội
Đối ngoại, hợp tác quốc tế được xác định là một trong những nhiệm vụ
trọng tâm của các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là từ sau Đại hội lần thứ IX của
Đảng1. Với lợi thế riêng của mình, mỗi tổ chức chính trị - xã hội lại thực hiện hoạt
động ĐNND với những đặc trưng riêng.
1
Nhiệm vụ trọng tâm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
( cập nhật ngày 27/9/2004)
15
Trước hết, hoạt động ĐNND của các tổ chức chính trị - xã hội được
trình bày khái quát trong tổng thể các hoạt động của từng tổ chức, trong các
cuốn giới thiệu lịch sử hình thành và phát triển hoặc kỷ yếu, văn kiện các kỳ
Đại hội đại biểu toàn quốc của các tổ chức chính trị - xã hội. Công đoàn Việt
Nam từ Đại hội I đến Đại hội X [178], Văn kiện đại hội Đại biểu phụ nữ toàn
quốc lần thứ VII, VIII, IX và X; Một số vấn đề lý luận về thực tiễn công tác
mặt trận do ông Vũ Trọng Kim (chủ biên) [200].
Cuốn sách Một số vấn đề lý luận về thực tiễn công tác mặt trận do ông
Vũ Trọng Kim chủ biên, NXB Chính trị Quốc gia phát hành năm 2009, dành
một chuyên đề viết về hoạt động ĐNND của MTTQVN. Trên cơ sở nghiên
cứu tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về ĐNND, chuyên đề
trình bày những kết quả đạt được trong hoạt động ĐNND của MTTQVN thời
gian qua, chỉ rõ những hạn chế, đồng thời đưa ra những nhiệm vụ và giải pháp
nhằm tăng cường công tác ĐNND của Mặt trận trong thời kỳ đổi mới và hội
nhập quốc tế.
Thêm vào đó, hoạt động ĐNND của các tổ chức chính trị - xã hội còn
được trình bày trong các bài viết được đăng trên các tạp chí như bài Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam đẩy mạnh hoạt động đối ngoại nhân dân tham gia hội nhập
quốc tế của tác giả Hà Văn Núi (2009) [141]; bài viết Hai mươi năm Hội Cựu
chiến binh Việt Nam và sự phát triển hoạt động đối ngoại nhân dân của Hội
của tác giả Trần Hanh (2009) [58]...
1. Tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước;
2. Vận động các tầng lớp phụ nữ chủ động, tích cực thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ quốc;
vận động, hỗ trợ phụ nữ nâng cao năng lực, trình độ, xây dựng gia đình hạnh phúc; chăm lo cải thiện đời
sống vật chất, tinh thần của phụ nữ;
3. Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ
nữ, gia đình và trẻ em;
4. Xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh;
5. Đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân tiến bộ trong khu vực và thế giới vì bình
đẳng, phát triển và hòa bình.
16
Bên cạnh đó, nghiên cứu về hoạt động ĐNND của các tổ chức chính trị xã hội còn là đề tài cho nhiều khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ như: Đảng
với hoạt động đối ngoại của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam từ năm 1996 đến
năm 2010 của học viên cao học Hồ Thị Liên Hương (khóa 2010-X) [107],
Hoạt động đối ngoại của Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh từ năm
1996-2012 của sinh viên Lại Thị Thu Thủy (khóa 2009-X) [160], Hoạt động
đối ngoại của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam từ năm 1996 đến năm 2012 của sinh
viên Phí Thị Loan (khóa 2009-X) [121], ngành Lịch sử Đảng, Khoa Lịch sử
Trường ĐHKHXH và NV, ĐHQG Hà Nội.
Các công trình nghiên cứu về hoạt động ĐNND của các đoàn thể, tổ
chức chính trị - xã hội đã nhấn mạnh một trong những chủ thể thực hiện hoạt
động ĐNND là các tổ chức chính trị - xã hội. Tuy nhiên, không phải tổ chức
chính trị - xã hội nào cũng phát huy được thế mạnh để hoạt động ĐNND thực
sự đạt hiệu quả cao. Qua những nghiên cứu tổng quan cho thấy trong hệ thống
các tổ chức chính trị - xã hội Việt Nam hiện nay, một số tổ chức có thế mạnh
về hoạt động ĐNND tiêu biểu là Hội LHPNVN, Tổng LĐLĐ Việt Nam, Hội
Nông dân Việt Nam. Các tổ chức này là lực lượng chủ đạo thực hiện hoạt
động ĐNND dưới sự chỉ đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước.
Các công trình nghiên cứu về ĐNND Việt Nam trong mối quan hệ hữu
nghị giữa Việt Nam với các nước
Bài viết của tác giả Lê Văn Phong với nhan đề Ngoại giao nhân dân
nhân tố quan trọng trong mối quan hệ Việt - Mỹ đăng trên Tạp chí Đối ngoại
(8) năm 2011 [143] đã khẳng định ĐNND là nhân tố quan trọng hàng đầu
trong tiến trình phát triển quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ. Trong bài viết của
mình, tác giả tái hiện lịch sử quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ qua các hoạt động
ĐNND từ những ngày đầu của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (1945) cho
tới khi nhân dân Mỹ sát cánh, ủng hộ cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam. Không chỉ dừng lại ở đó, mối quan hệ hữu nghị giữa nhân dân
17
hai nước tiếp tục được vun đắp trong thời kỳ Việt Nam chuyển mình đổi mới
và hội nhập quốc tế với những thành tựu quan trọng. Có thể nói, ĐNND là
kênh hoạt động có ý nghĩa lịch sử đặc biệt trong quan hệ hữu nghị Việt - Mỹ.
Luận văn thạc sĩ của Somxayphone Thipphavong với đề tài Vai trò của
đối ngoại nhân dân với quan hệ Lào - Việt Nam [159]. Tác giả đã trình bày có
tính hệ thống về ĐNND của Cộng hòa dân chủ nhân dân Lào. Xuất phát từ
mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống, trong bối cảnh quốc tế mới,
luận văn đã đề cập tới những quan niệm chung về ĐNND, đặc điểm của
ĐNND Lào, từ đó đặt ra những nhiệm vụ của ĐNND trong thời kỳ đổi mới.
Bên cạnh đó, luận văn đi sâu nghiên cứu quan hệ Lào - Việt qua các hoạt
động ĐNND, đánh giá những thành tựu và hạn chế của công tác ĐNND của
Lào trong thúc đẩy quan hệ hợp tác giữa nhân dân hai nước. Đồng thời, tác
giả cũng đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác ĐNND trong quan hệ Lào - Việt.
Như vậy, nhận thấy rõ tầm quan trọng của kênh ĐNND trong các hoạt
động đối ngoại nói chung, các nhà nghiên cứu cũng đã bước đầu khai thác,
tìm hiểu ĐNND trong những mối quan hệ song phương nhất định. Lĩnh vực
này cần tiếp tục được nghiên cứu, nhằm cung cấp nhiều đóng góp khoa học,
cơ sở để Đảng hoàn thiện chủ trương về ĐNND trong thời gian tới.
1.2. NHÓM CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU VỀ SỰ LÃNH ĐẠO CỦA
ĐẢNG ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐỐI NGOẠI NHÂN DÂN
Hoạt động ĐNND của Việt Nam được thực hiện từ rất sớm. Dưới sự
lãnh đạo của Đảng, ĐNND phát huy lợi thế và đạt được nhiều thành tựu, đóng
góp vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam nói chung và mặt trận đối ngoại nói
riêng. Do đó, một số tác giả đã quan tâm nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng
đối với hoạt động ĐNND qua từng thời kỳ cách mạng. Đề tài này được thể hiện
trong một số bài viết đăng trên các tạp chí và một luận án tiến sĩ chuyên ngành
Lịch sử ĐCSVN được bảo vệ tại Hội đồng khoa học Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh.
18