TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA LỊCH SỬ
---------------------
NGUYỄN NGỌC TUYẾT
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI
NGOẠI VỚI ASEAN GIAI ĐOẠN
1995-2011
TÓM TẮT KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Người hướng dẫn khoa học
TH.S NINH THỊ HẠNH
HÀ NỘI - 2015
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học này ngoài sự nỗ lực của
bản thân, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ của BGH Trường ĐHSP Hà Nội
2, Trường ĐH Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn, ĐHSP Hà Nội đã tạo điều kiện,
giúp đỡ cho Tôi trong quá trình thu thập tài liệu.
Tôi xin chân thành cảm ơn BCN Khoa Lịch Sử, cùng các Thầy, Cô giáo
trong khoa đã tận tình giúp đỡ, góp ý, và đặc biệt làThs.NinhThị Hạnh, Giảng
viên trường ĐHSP Hà Nội , trong suốt thời gian qua đã giúp đỡ rất nhiều để tôi
hoàn thành đề tài khóa luận này một cách hoàn chỉnh, cảm ơn tất cả các bạn
trong tập thể lớp k37 – CN Lịch sử đã có những đóng góp quý báu giúp Tôi
hoàn thành công trình nghiên cứu khoa học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Ngọc Tuyết
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu khoa học này là do tôi tự nghiên
cứu, mọi thông tin, thông số đều được thẩm định qua tư liệu gốc và đã thông qua
Cô giáo hướng dẫn, Ths. Ninh Thị Hạnh
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Hà Nội, ngày tháng năm 2015
Sinh viên
Nguyễn Ngọc Tuyết
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ...................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................... 1
2.Lịch sử nghiên cứu vấn đề ......................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu ............................. 3
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ............................... 3
5. Đóng góp của khóa luận............................................................ 4
6. Bố cục của khóa luận ................................................................ 4
NỘI DUNG ................................................................................... 5
Chương 1:ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VỚI
ASEAN GIAI ĐOẠN 1995-2005 ....................................................... 5
1.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................. 5
1.1.1. Tình hình thế giới ....................................................................... 5
1.1.2. Tình hình Việt Nam ................................................................... 7
1.1.3. Quan hệ Việt Nam và ASEAN trước năm 1995……………
8
1.2. Chủ trương của Đảng về công tác đối ngoại với ASEAN ............ 10
1.2.1. Chủ trương của Đảng về công tác đối ngoại với ASEAN ......... 10
1.3.Qúa trình thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và những thành tựu
bước đầu ....................................................................................................... 15
Chương 2: ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VỚI
ASEAN TỪ NĂM 2006-2011. NHẬN XSET VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM
CHỦ YẾU .................................................................................................... 37
2.1. Bối cảnh lịch sử ............................................................................. 37
2.1.1. Tình hình thế giới ....................................................................... 37
2.1.2. Tình hình khu vực ...................................................................... 39
2.1.3. Tình hình Việt Nam ................................................................... 41
2.2. Chủ trương của Đảng về công tác đối ngoại với ASEAN ............ 43
2.3. Qúa trình thực hiện chính sách đối ngoại của Đảng và thành tựu đạt
được .............................................................................................................. 48
2.4. Nhận xét và một số kinh nghiệm chủ yếu ..................................... 64
2.4.1. Nhận xét ..................................................................................... 64
2.4.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu ...................................................... 65
KẾT LUẬN ......................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................. 77
PHỤ LỤC ............................................................................................ 80
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh thế giới có nhiều biến đổi quan trọng, các nước đều chạy
đua về kinh tế, do đó chính sách đối nội đối ngoại của các quốc gia được đẩy
mạnh. Đối ngoại giúp Đảng và Nhà nước ta tăng cường mở rộng quan hệ với các
nước láng giềng và khu vực, các nước đối tác quan trọng và bạn bè truyền
thống; mở rộng mối quan hệ với các nước trên thế giới. Góp phần duy trì hòa
bình, ổn định, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước và bảo vệ Tổ
quốc; không ngừng nâng cao vị thế của nước ta trong khu vực và quốc tế. Vấn
đề đối ngoại được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Chúng ta đều biết, với sự phát triển của thế giới ngày nay, không một quốc
gia nào dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển lại có thể sống tách biệt
với thế giới, mà ngược lại, mỗi quốc gia đều là một thành viên không thể tách
rời của cộng đồng quốc tế. Xu thế toàn cầu hóa được tăng cường mạnh mẽ, thu
hút nhiều nước tham gia, làm đẩy nhanh các hoạt động đối ngoại. Cụ thể, với
Việt Nam là ASEAN, tổ chức này có nguyện vọng chung là hòa bình, hợp tác và
phát triển. Vì thế Việt Nam muốn thiết lập quan hệ với ASEAN để phát triển về
mọi mặt, nhất là vấn đề đối ngoại cho kịp với xu thế toàn cầu hóa thế giới.
Trong những năm gần đây, sự lớn mạnh của các quốc gia như Trung Quốc,
Nhật Bản, Mỹ,…vươn lên mạnh mẽ về kinh tế, chính trị, muốn làm cho các
nước tụt hậu về kinh tế trở thành bàn đạp, thị trường tiêu thụ để vươn lên.
Những nước trong khối ASEAN lại có chủ trương tăng cường quan hệ với Việt
Nam và Đông Dương, đẩy mạnh hợp tác giữa hai nhóm nước, tạo điều kiện để
Việt Nam ngày càng gắn bó hơn với ASEAN, tách dần ra khỏi ảnh hưởng của
những nước lớn. Hơn nữa Việt Nam cũng muốn tạo dựng cho mình một môi
trường quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
Từ những lý do trên tôi quyết định chọn đề tài “Đảng lãnh đạo công tác
đối ngoại vớiASEAN giai đoạn 1995-2011” làm nội dung khóa luận tốt nghiệp
chuyên ngành Lịch sử Đảng của mình.
1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Công tác đối ngoại, đặc biệt là đối ngoại với ASEAN là vấn đề quan trọng
thu hút nhiều nhà nghiên cứu:
Thứ nhất các sách chuyên khảo
Cuốn ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam, Đào Huy Ngọc (chủ biên),
xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội -1997, tác giả đã đề cập đến quan hệ của
Việt Nam từ khi ASEAN thành qua 2 thời kỳ, thời kỳ 1: 1967-1978, thời kỳ
1979 đến nay và chỉ ra một số vấn đề triển vọng khi Việt Nam gia nhập tổ chức
ASEAN.
Trong cuốnViệt Nam – ASEAN: Cơ hội và thách thức, Phạm Đức Thành
(chủ biên), Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội -1998 đã khái quát quan hệ
của Việt Nam với ASEAN và các lĩnh vực hợp tác cụ thể.
Tác giả Đinh Xuân Lý, trong cuốn Tiến trình hội nhập Việt Nam – ASEAN,
Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội -2000 đã trình bày quan điểm chủ trương
của Đảng và Nhà nước ta về quan hệ Việt Nam –ASEAN (1967-1986), đường
lối mở rộng quan hệ và quá trình thực hiện từ 1986 đến nay.
Thứ hai bài báo, tạp chí
Trong bài viết Việt Nam – ASEAN chặng đường đã qua và tương lai
phíatrước. Vũ Dương Ninh -2010, Tạp chí cộng sản số 814 tr: 92-96; Triển vọng
hình thành cộng đồng ASEAN và vai trò của Việt Nam. Phạm Thị Thanh Bình 2010// Tạp chí cộng sản số 817 tr: 87-91. Cuốn tạp chí này nói đến khả năng có
được khi tổ chức ASEAN ra đời và vai trò to lớn của Việt Nam với tổ chức
ASEAN.
Thứ ba luận văn, luận án
Tác giả Nguyễn Thị Quỳnh trong luận vănChính sách đối ngoại của Đảng
với ASEAN từnăm 1995 đến 2010 đã giới thiệu và phân tích chủ trương, đường
lối đối ngoại của Đảng ta với ASEAN trong các giai đoạn 1995-2000, 2001-
2
2005, 2006-2010. Đồng thời nêu những thành tựu và hạn chế của Viêt Nam
trong quan hệ với ASEAN.
Trong luận văn Việt Nam gianhập ASEAN từ 1995 -2010, tác giả Hoàng
Thị Phương Thảo: Đề cập đến quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN đã nêu
những thành tựu đạt được và những thách thức trong quá trình gia nhập.
Các công trình nghiên cứu kể trên là nguồn tư liệu tham khảo quý giá giúp
tôi hoàn thành khóa luận tốt nghiệp của mình.
3.Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Làm rõ quá trình Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại với ASEAN giai đoạn
1995 -2011
Rút ra một số nhận xét và bài học kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh
đạo công tác đối ngoại với ASEAN.
3.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu bối cảnh lịch sử chi phối đến công tác đối ngoại với ASEAN.
- Hệ thống hóa quan điểm, chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và
làm rõ sự đúng đắn, sáng tạo của đường lối đó; các phương pháp, cách thức thực
hiện đường lối và những kết quả chủ yếu về đối ngoại với ASEAN.
- Phân tích ý nghĩa lịch sử và rút ra những kinh nghiệm chủ yếu về Đảng
lãnh đạo công tác đối ngoại với ASEAN giai đoạn 1995- 2011.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Tập trung nghiên cứu công tác đối ngoại với ASEAN giai
đoạn 1995 -2011 trong điều kiện đất nước đang trong quá trình hội nhập công
nghiệp hóa – hiện đại hóa, bối cảnh quốc tế nhiều biến động, tác động nhiều mặt
đến nền kinh tế - chính trị nước ta.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình thực hiện, khóa luận đã sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu
sau:
3
Các văn kiện của Ban chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Ban Bí
thư về đường lối đối ngoại.
Những cuốn sách về đối ngoại với ASEAN 1995-2011.
Các công trình khoa học của các nhà nghiên cứu về vấn đề đối ngoại với
ASEAN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau:
Phương pháp nghiên cứu lịch sử: Đi sâu vào tìm hiểu công tác đối ngoại
của Đảng với ASEAN giai đoạn 1995-2011.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: đi sâu nghiên cứu các chủ trương,
chính sách, nghị quyết của Đảng về công tác đối ngoại.
5. Đóng góp của khóa luận
Khóa luận khái quát bối cảnh lịch sử và trình bày quá trình Đảng lãnh đạo
công tác đối ngoại với ASEAN từ năm 1995-2011. Rút ra những thành tựu, ưu
điểm, hạn chế trong quá trình lãnh đạo và thực hiện.
Khóa luận rút ra một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng lãnh đạo công
tác đối ngoại.
Khóa luận còn là nguồn tài liệu phục vụ trong việc học tâp, nghiên cứu
của học sinh, sinh viên…
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
khóa luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại với các nước ASEAN từ
1995-2005
Chương 2: Đảng lãnh đạo công tác đối ngoại với các nước ASEAN từ
2006-2011. Nhận xét và một sốkinh nghiệm chủ yếu.
4
NỘI DUNG
Chương 1
ĐẢNG LÃNH ĐẠO CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VỚI ASEAN GIAI
ĐOẠN 1995-2005
1.1. BỐI CẢNH LỊCH SỬ
1.1.1. Tình hình thế giới
Trong những năm 1995 -2005, tình hình quốc tế có nhiều biến chuyển
nhanh chóng và phức tạp, Mỹ tiếp tục đóng vai trò siêu cường duy nhất chiếm
ưu thế vượt trội. Mỹ đẩy nhanh chính sách “can dự linh hoạt” đồng thời “kiềm
chế” đối với Nga và Trung Quốc. Đối với các nước xã hội chủ nghĩa, Mỹ đẩy
mạnh thực hiện chính sách “dính líu tích cực”, thông qua quan hệ kinh tế, chính
trị, văn hóa, các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, tác động gây phân hóa
nội bộ thực hiện chuyển hóa từ bên trong.
Ngày 11/9/2001, cuộc khủng bố diễn ra ở Mỹ. Ngay sau sự kiện này, Mỹ
phát động cuộc chiến tranh Afghanistan dưới danh nghĩa chống khủng bố, Mỹ ra
sức tập hợp lực lượng trên thế giới để thực hiện “nghĩa vụ chống khủng bố”, tự
cho mình quyền can thiệp, tấn công bất cứ quốc gia nào mà Mỹ coi là không
thân thiện hoặc liên quan đến khủng bố. Ngày 20/9/2002 Tổng thống Mỹ
G.Bush ra chiến lược, chính sách và các hành động đơn phương ngạo mạn, hiếu
chiến của mình, Mỹ gây sức ép, căng thẳng trên thế giới, đe dọa nghiêm trọng
hòa bình thế giới, độc lập chủ quyền và an ninh của các quốc gia dân tộc. Cuối
năm 2003, Tổng thống Mỹ Bush thăm 4 nước ASEAN là Thái Lan, Philippines,
Singapore, Indonesia. Mỹ tuyên bố Philippines và Thái Lan là đồng minh quan
trọng ngoài NATO của Mỹ ở Đông Nam Á và đã liên tục tăng viện trợ quân sự
5
cho 2 nước này. Trong cuộc tập trận “Balikat, Mỹ viện trợ 400 triệu USD để
trang bị và tăng cường khả năng chiến đấu của hải quân Philippines.
Xu hướng chạy đua vũ trang gia tăng. Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Triều
Tiên… liên tiếp tiến hành các vụ thử tên lửa; Hoạt động quốc tế ngày càng lan
rộng về phạm vi, gia tăng về mức độ bạo lực, khủng bố đang trở thành mối đe
dọa đối với an ninh của các nước trên thế giới. Các vụ khủng bố đẫm máu diễn
ra ở nhiều nơi làm hàng trăm người thiệt mạng như: Vụ bắt cóc con tin ở
Matxcơva (Nga) ngày 23/10/2002; Vụ tấn công một bệnh viện lớn Mombasa
(Keenia) ngày 28/11/2002; Vụ khủng bố trường học Betxlan( Nga)…
Ở Đông Nam Á, 1997 diễn ra khủng hoảng tài chính tiền tệ bắt đầu ở Thái
Lan. Cuộc khủng hoảng tiền tệ đã để lại cho một số nước ASEAN những hậu
quả nghiêm trọng như nợ nước ngoài. Kinh tế nhiều nước lâm vào khủng hoảng
nghiêm trọng.
Về chính trị, khu vực Đông Nam Á vẫn tiềm ẩn những nhân tố mất ổn định.
Trước khi xảy ra vụ khủng bố 11/9/2001, một số nước Đông Nam Á đã xảy ra
hoạt động bạo lực vũ trang có liên quan đến tôn giáo. Ngày 5/8/2003 một vụ
đánh bom khách sạn Marriot làm 12 người thiệt mạng và hơn 90 người bị
thương. Những tháng đầu năm 2004, tình hình miền Nam Thái Lan trở nên căng
thẳng. Ngày 28/4/2004, một vụ đụng độ đẫm máu đã xảy ra khi các chiến binh
Hồi giáo đồng loạt nổ súng vào các chốt canh gác của cảnh sát. Trong ngày
3/5/2005 đã xảy ra 3 vụ đánh bom ở khu vực này. Mặc dù các hoạt động khủng
bố ở Đông Nam Á còn han chế, song nếu các nước Đông Nam Á không chế ngự
được xu hướng hồi giáo cực đoan và vấn đề khủng bố thì Đông Nam Á có nguy
cơ mất ổn định tiềm tàng trong khu vực.
Do bị khủng hoảng, ASEAN bị suy yếu, các nước không hỗ trợ được cho
nhau khắc phục khủng hoảng, nội bộ xuất hiện mâu thuẫn mới. ASEAN đã hoàn
thành ý tưởng ASEAN 10, cũng phấn đấu cho hòa bình, ổn định ở khu vực.
Song các nước có chế độ chính trị khác nhau, trình độ phát triển kinh tế không
đồng đều, các nước có cùng nhu cầu hợp tác, liên kết kinh tế, song cạnh tranh
6
cũng rất quyết liệt đang đặt ASEAN trước những thách thức mới. Môi trường an
ninh khu vực Đông Nam Á đang diễn biến hết sức phức tạp vẫn chứa đựng
những nhân tố tiềm ẩn gây bùng nổ xung đột bất kỳ lúc nào. Nội bộ ASEAN
cũng bộc lộ nhiều vấn đề phức tạp: Một số nước tìm cách trì hoãn AFTA, hoặc
thiết lập khu vực mậu dịch tự do riêng rẽ với các nước ngoài khu vực; Một số
nước muốn thúc đẩy hình thành các diễn đàn mới. ASEAN và Trung Quốc ra
được tuyên bố về cách ứng xử của các bên liên quan ở Biển Đông, đã thúc đẩy
xu thế giải quyết các tranh chấp bằng thương lượng hòa bình.
Tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động đã ảnh hưởng không nhỏ
đến quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam và ASEAN.
1.1.2. Tình hình Việt Nam
Công cuộc đổi mới bước đầu đã thu hút được nhiều thành tựu to lớn. GDP bình
quân hàng năm 7%, mỗi năm hơn 1,2triệu lao động có việc làm mới. Giảm được
trên 40 vạn hộ đói nghèo, khoa học công nghệ văn hóa, thông tin, y tế, giáo dục,
thể thao có bước phát triển đáng kể. Kinh tế bắt đầu có tích lũy, đời sông nhân
dân được cải thiện đáng kể, quan hệ đối ngoại không ngừng được mở
rộng…Những thành tựu sau 10 năm tiến hành công cuộc đổi mới đã tăng cường
sức mạnh tổng hợp, làm thay đổi bộ mặt của đất nước và cuộc sống của nhân
dân, củng cố vững chắc đoàn kết dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, cuộc
khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế nước
ta, nhất là thương mại và đầu tư nước ngoài. Nhịp độ tăng trưởng GDP liên tục
giảm từ 8,8% năm 1996 còn lại 4,7% năm 2000 do lĩnh vực xuất khẩu và đầu
tưnước ngoài đều không đạt chỉ tiêu, điều đó buộc chúng ta phải chú ý nhiều
hơn đến việc kích cầu nội địa để bù đắp sự sụt giảm kinh tế đối ngoại[3, tr.15].
Sau khi thực hiện nghị quyết Đại hội IX, kinh tế, xã hội đạt thành tựu to
lớn, uy tín của Việt Nam ngày càng nâng cao trên trường quốc tế, tạo điều kiện
cho chúng ta hội nhập khu vực và quốc tế tốt hơn. Trong báo cáo chính trị của
Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX của Đảng do tổng bí thư Nông Đức
Mạnh trình bày đã nêu: “nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm , đạt tốc độ
7
tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước, bình quân trong 5 năm 2001 2005 là 7,8%[16, tr.55-57].
Ngoài ra Việt Nam còn phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức bao
trùm lên tất cả là nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu
vực vẫn là thách thức to lớn và gay go do điểm xuất phát của ta là quá thấp, ta
lại phải đi lên trong môi trường cạnh tranh quyết liệt. Ngoài ra, Việt Nam còn
phải đối phó với những khó khăn thách thức khác như: Âm mưu diễn biến hòa
bình của các thế lực thù địch; Tình hình khu vực Châu Á- Thái Bình Dương và
biển Đông còn diễn biến phức tạp.
Bên cạnh những khó khăn đó nước ta cũng còn nhiều thành tựu đạt được về
kinh tế, những thành tựu đó tạo ra thế và lực mới để nước ta tăng cường, mở
rộng quan hệ đối ngoại với các nước trên thế giới nói chung và các nước trong
khu vực Đông Nam Á nói riêng.
Trước tình hình đó, Đảng và nhà nước ta đã đề ra nhiệm vụ cụ thể về công
tác đối ngoại , trước hết là để củng cố môi trường hòa bình và tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình , độc
lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.
1.1.3. QUAN HỆ VIỆT NAM VÀ ASEAN TRƯỚC 1995
Quan hệ Việt Nam – ASEAN trước 1995 chưa có nhiều biến đổi sâu sắc,
tuy nhiên cũng có một số sự kiện là tiền đề cho sự hợp tác sau này. Có thể chia
làm 2 thời kỳ:
Thời kỳ 1967 -1978:
Trong giai đoạn đầu mới thành lập, hoạt động phối hợp chung giữa các
nước trong tổ chức ASEAN hầu như chưa có gì nổi bật. Sau tuyên bố
ZOPFAN(1971), một số nước ASEAN đã bắt đầu thăm dò khả năng quan hệ với
Việt Nam trên một số lĩnh vực. Các nước ASEAN cũng có nhiều cử chỉ thân
thiện hơn, tạo cơ sở cho việc đặt quan hệ với Việt Nam.
8
Về phía Việt Nam, tháng 3/1973, Việt Nam lập quan hệ ngoại giao với
Malaixia; tháng 8/1973 lập quan hệ ngoại giao với Singapo. Trong năm 19741975 Việt Nam đã đón một số đoàn Tổ chức Á-Phi của Malaixia. Cũng trong
thời gian này, Việt Nam xúc tiến đàm phán lập quan hệ ngoại giao với Philippin
và Singapo. Năm 1976, ngoại giao Việt Nam – Malaixia đã được thiết lập và
phía Malaixia đã hứa giúp Việt Nam khôi phục kinh tế theo khả năng của họ.
Tháng 8/1976, Việt Nam và Thái Lan cũng thỏa thuận lập quan hệ ngoại giao
giữa hai nước.Trong năm 1977-1978, quan hệ song phương của Việt Nam với
từng nước ASEAN đã phát triển mạnh mẽ.Tuy nhiên, trong thời gian này Việt
Nam vẫn chưa có quan hệ hợp tác với tổ chức ASEAN.
Thời kỳ 1979 đến trước 1995
Tháng 1/1980 Việt Nam đã đề nghị ký hiệp định không xâm lược giữa các
nước Đông Nam Á và nêu sẵn sàng thảo luận việc lập một “khu vực Đông Nam
Á hòa bình, độc lập, tự do, trung lập, ổn định và phồn vinh” với các nước
ASEAN. Tháng 7/1987 diễn ra cuộc gặp đối thoại đầu tiên giữa Việt Nam và
Inđônêsia tại Thành phố Hồ Chí Minh. Quan hệ Việt Nam – ASEAN đã được
đẩy mạnh trong năm 1989 và các năm tiếp theo. Sự kiện nổi bật nhất trong quan
hệ hai bên đó là Tổng thống Indonesia Xuhacto- nguyên thủ một nước ASEAN
đầu tiên thăm Việt Nam [14,tr.77-97].
Năm 1993, đẩy mạnh đường lối đối ngoại chú trọng quan hệ với các nước
láng giềng và khu vưc, công bố “ chính sách bốn điểm mới của Việt Nam đối
với khu vực”. Trong đó thể hiện nhất quán quan điểm “tăng cường quan hệ hợp
tác nhiều mặt với từng nước láng giềng cũng như với Hiệp hội các nước Đông
Nam Á với tư cách là một tổ chức khu vực.
Với tư cách là quan sát viên của ASEAN, từ năm 1992, Việt Nam đã được
mời tham dự các cuộc họp hàng năm Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN.
Từ năm 1993 ASEAN đã lập cơ chế họp hiệp thương giữa ASEAN và Việt Nam
nhân dịp Hội nghị bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 26 ở Xingapo (1993).
Từ tháng 2-1933, Việt Nam đã tuyên bố “sẵn sàng tham gia ASEAN vào thời
9
điểm thích hợp”. Điều này đã được các nước ASEAN, dư luận khu vực và quốc
tế đánh giá cao. Đáp lại các nước ASEAN tuyên bố “muốn thấy Việt Nam sớm
ra nhập ASEAN”. Với những phát triển ngày càng tích cực và thuận lợi trong
quan hệ Việt Nam – ASEAN, cả về song phương và đa phương, tháng 4/1994
trong chuyến thăm chính thức Indonesia, chủ tịch nước Lê Đức Anh đã tuyên
bố: “cùng với sự hỗ trợ tích cực của ASEAN, Việt Nam đang xúc tiến các công
việc chuẩn bị thiết thực để sớm trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN”.
Như vậy trong thời gian này, Việt Nam đã chuẩn bị mọi điều kiện cần và
đủ để gia nhập vào ASEAN. Đưa đất nước hội nhập và mở rộng quan hệ với
quốc tế.
1.2. CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VỀ CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VỚI
ASEAN
Trước tình hình thế giới diễn biến phức tạp, Đại hội VIII của Đảng đã đề
ra: Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hòa bình và tạo
điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế -xã hội, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ Quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hòa bình, độc lập dân tộc dân chủ và tiến bộ xã hội.
Về đường lối đối ngoại, Đại hội VIII tiếp tục khẳng định: “Tiếp tục thực
hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa
quan hệ đối ngoại với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn của tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Hợp tác
nhiều mặt song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu
vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, giải
quyết các vấn đề tồn tại và tranh chấp bằng thương lượng.Trêncơ sở đó, Đại hội
cũng đề ra hướng đối ngoại cụ thể trong quan hệ ASEAN “ra sức tăng cường
quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN” [16, tr. 31].
10
Để đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, Bộ Chính trị đề ra nghị quyết
01/NQ-TƯ ngày 18/11/1996 về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại
5 năm 1996-2000. Nghị quyết đã nêu rõ: “Kinh tế đối ngoại phát triển trên nhiều
mặt; kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu tăng nhanh đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu
cầu phát triển kinh tế xã hội” [16,tr.30].
Nghị quyết 01/NQ-TƯ cũng đã chỉ ra những giải pháp, cơ chế, chính sách
chủ yếu, trong đó có vấn đề thị trường và đối tác cần chú trọng là hiệp hội
ASEAN và các nước láng giềng.
Để thúc đẩy quan hệ hợp tác với ASEAN, Chính phủ ra các nghị định số
NĐ 91/CP ngày 18/12/1995; NĐ 82/CP ngày 13/12/1996; NĐ 15/CP ngày
12/3/1998; NĐ 14/CP ngày 23/3/1999; NĐ 09/CP ngày 21/3/2000 ban hành
danh mục hàng hóa của Việt Nam để thực hiện Hiệp định về chương trình ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) của các nước ASEAN.
Với các chủ trương của Đảng về quan hệ đối ngoại nói chung, quan hệ
Việt Nam –ASEAN nói riêng thể hiện qua các văn kiện, nghị quyết của Đảng
trong những năm 1995-2000 đã thúc đẩy quan hệ hợp tác Việt Nam-ASEAN,
định hướng cho Việt Nam từng bước tham gia vào các lĩnh vực hợp tác của
ASEAN.
Đại hội IX đã đề ra phương hướng đối ngoại với các đối tác cụ thể: “Coi
trọng và phát triển quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước Xã Hội Chủ Nghĩa,
các nước láng giềng; nâng cao hiệu quả và chất lượng hợp tác với các nước
ASEAN…” [14, tr.31].
Là một thành viên của ASEAN, Việt Nam đã nhận thức đúng đắn về vai
trò của khu vực trong quan hệ quốc tế, dành ưu tiên và sự quan tâm cho việc
phát triển quan hệ với các nước trong khu vực. Trong lễ diễn văn khai mạc Hội
nghị Bộ trưởng ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 34 (AMM 34) diễn ra tại
thủ đô Hà Nội, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định:
“Chính sách ASEAN là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chính
sách đối ngoại và hợp tác quốc tế của nhà nước Việt Nam mà định hướng đã
11
được khẳng định là hội nhập kinh tế quốc tế phấn đấu vì hòa bình, độc lập và
phát triển. Để đẩy mạnh hơn nữa quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực
ngày 27/11/2001, Bộ Chính trị ra Nghị quyết về Hội nhập kinh tế quốc tế lần thứ
IX của Đảng là: “Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, đảm bảo độc lập tự chủ và
định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ môi trường” [16,tr.59].
Nghị quyết cũng chỉ rõ mục tiêu của hội nhập kinh tế quốc tế phải: “Chủ
động hội nhập kinh tế quốc tế nhằm mở rộng thị trường, tranh thủ thêm vốn,
công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo
định hướng XHCN, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ
văn minh”.[4,tr.60].
Nghị quyết cũng chỉ rõ để thực hiện tốt các mục tiêu của hội nhập kinh tế
quốc tế cần xác định:
Một là: Hội nhập kinh tế quốc tế là sự nghiệp của toàn dân, trong quá
trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh
tế xã hội, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Hai là: Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo khôn
khéo và linh hoạt trong xử lý tính hai mặt của hội nhập tùy theo đối tượng, vấn
đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; vừa phải đề phòng tư tưởng trì trệ thụ động,
vừa phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng.
Ba là: Nhận thức đầy đủ đặc điểm nền kinh tế nước ta, từ đó đề ra kế
hoạch và lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ phát triển của đất nước, vừa
đáp ứng các quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế mà nước ta tham gia; tranh
thủ những ưu đãi dành cho các nước đang phát triển và các nước có nền kinh tế
chuyển từ kinh tế tập trung bao cấp sang kinh tế thị trường.
Bốn là: Kết hợp chặt chẽ quá trình hội nhập kinh tế quốc tế với yêu cầu
giữ vững an ninh quốc phòng, thông qua hội nhập để tăng sức mạnh tổng hợp
của quốc gia nhằm củng cố chủ quyền và an ninh đất nước, cảnh giác với những
12
mưu toan thông qua hội nhập để thực hiện ý đồ diễn biến hòa bình đối với nước
ta [16, tr.60].
Nghị quyết của Bộ Chính trị về hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ là
phương hướng trong hoạt động kinh tế của ta trong thời gian tới mà còn phản
ảnh tầm nhận thức quyết tâm của Đảng ta nhằm đưa lại lợi ích cao nhất cho đất
nước, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tại Hội nghị ngoại giao lần thứ 23 (tháng 12/2001) được tổ chức tại Hà
Nội, Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh đã có bài phát biểu trong đó nêu rõ ngoại
giao có nhiệm vụ quan trọng là giữ được ổn định chính trị, đảm bảo được an
ninh quốc phòng và thúc đẩy được công tác đối ngoại, nâng cao được vị thế của
Việt Nam trên trường quốc tế, tranh thủ nâng cao hợp tác quốc tế phục vụ cho
phát triển kinh tế xã hội của đất nước [5, tr.50]. Tổng bí thư cũng tiếp tục nhấn
mạnh: “Mở rộng quan hệ song phương và đa phương… để đảm bảo việc tôn
trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi” [16, tr.61].
Cùng trong hội nghị này, chủ tịch nước Trần Đức Lương đã chỉ rõ, chủ
trương đối ngoại của Đảng là: “Nêu cao tinh thần độc lập tự chủ, tự cường, đồng
thời tăng cường đoàn kết quốc tế và mở rộng hợp tác quốc tế, kết hợp sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phải luôn đặt lợi ích của dân tộc lên trên hết. Độc
lập dân tộc phải gắn liền với CNXH, nêu cao lợi ích dân tộc chính đáng” [16,
tr.61].
Nhân dịp năm mới 2003, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Nguyễn Dy Niên
trong bài trả lời phỏng vấn báo nhân dân đã khẳng định: “Chủ động hội nhập
khu vực và quốc tế trước hết là về kinh tế là chính sách lớn của Đảng và nhà
nước ta” .Để hội nhập tốt trong “ thời gian tới chúng ta sẽ tăng cường chủ động
hội nhập khu vực và quốc tế theo lộ trình phù hợp với khả năng và đáp ứng yêu
cầu của chúng ta cho từng thời kỳ phát triển của đất nước”. Bộ trưởng cũng nhấn
mạnh “Năm tới 2004 chúng ta sẽ đẩy mạnh chuẩn bị nhân sự, pháp lý và tổ chức
trong nước để tham gia AFTA.
13
Để bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại đổi mới trong tình hình mới,
Hội nghị lần thứ 8 ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX (tháng 7/2003) đã
ra Nghị quyết về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong đó,
Đảng ta đã bổ sung phát triển một số điểm mới về chính sách đối ngoại dựa trên
những nhận định về tình hình thế giới với những điểm mới: “Thế lực hiếu chiến
đã và đang điều chỉnh chiến lược và ráo riết thực hiện ý đồ thiết lập “thế giới
một cực”; bất chấp Liên Hợp Quốc, luật pháp quốc tế và phản ứng dư luận thế
giới; ngang nhiên can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của các nước, kích
động chủ nghĩa ly khai, xung đột tôn giáo, dân tộc và tiến hành chiến tranh ở
nhiều nơi.
Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ 8 khóa IX đã chỉ
rõ nguyên tắc xác định đối tác và đối tượng: “Những ai chủ trương tôn trọng độc
lập chủ quyền, thiết lập và mở rộng mối quan hệ hữu nghị hợp tác bình đẳng
cùng có lợi với Việt Nam đều là đối tác của chúng ta; Bất kể thế lực nào có âm
mưu và hành động chống phá mục tiêu của nước ta trong sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc đều là đối tượng cần đấu tranh” [18, tr.16].
Nghị quyết đã góp phần định hướng cho công tác đối ngoại của nước ta
trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Tiếp sau Hội nghị Trung ương 8 khóa IX, Hội nghị Trung ương 9 khóa IX
đã kiểm điểm hoạt động đối ngoại trong nửa nhiệm kỳ của Đại hội IX. Để phát
huy những mặt đã đạt được, Nghị quyết Hội nghị đã nhấn mạnh: “Quán triệt sâu
sắc và tổ chức thực hiện tốt Nghị quyết ,hội nghị Trung ương 8 về chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trên cơ sở những kết quả mà ta đã đạt
được, Nghị quyết Hội nghị đã chỉ rõ đóng góp của ta trong quan hệ với ASEAN
trong thời gian qua là: “Tích cực góp phần củng cố sự đoàn kết, giữ vững những
nguyên tắc cơ bản của ASEAN, thúc đẩy quan hệ hợp tác nội khối và với bên
ngoài” [11, tr.64].
14
1.3.QÚA TRÌNH THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA
ĐẢNG VÀ NHỮNG THÀNH QUẢ BƯỚC ĐẦU
Hợp tác trên lĩnh vực chính trị -an ninh
Đối với mỗi quốc gia, sự ổn định về chính trị- an ninh luôn có vị trí quyết
định để xây dựng và phát triển đất nước. Trong bối cảnh tình hình thế giới có
nhiều diễn biến nhanh chóng và phức tạp, ASEAN càng đẩy mạnh hợp tác chính
trị -an ninh, đây luôn là lĩnh vực hợp tác quan trọng và nhảy cảm của ASEAN.
Một trong những đóng góp đầu tiên được ghi nhận của Việt Nam đối với
khu vực và là nỗ lực thúc đẩy kết nạp vào các nước Lào, Myanma và Campuchia
vào Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á, hình thành một ASEAN 10, quy tụ
mười quốc gia ở Đông Nam Á.
Ngay từ năm 1992, khi Việt Nam và Lào được chấp nhận là quan sát viên
của tổ chức ASEAN và Lào được chấp nhận là quan sát viên của tổ chức
ASEAN, Việt Nam đã luôn bày tỏ ủng hộ Lào. Sau khi trở thành thành viên
chính thức, Việt Nam có điều kiện thuận lợi hơn trong việc giúp đỡ Lào. Việt
Nam đã cùng các nước ASEAN khác nhiệt tình thúc đẩy tiến trình gia nhập của
Lào như; “cung cấp các văn kiện, tài liệu về ASEAN cho Lào, phổ biến cho Lào
những kinh nghiệm tham gia hợp tác trong tổ chức hay tích cực vận động sự ủng
hộ và giúp đỡ quốc tế đối với việc gia nhập Hiệp hội của Lào…” [16, tr.32].
Cùng với những nỗ lực của bản thân nước Lào, sự giúp đỡ tích cực và sự hỗ trợ
có hiệu quả của Việt Nam với Myanma ngày 23/7/1997 Lào và Myanma đã
chính thức được kết nạp vào tổ chức ASEAN nâng tổng số thành viên lên 9
nước.
Khác với quá trình gia nhập của Lào, Myanma, việc gia nhập ASEAN của
Campuchia là một vấn đề hết sức phức tạp và gây nhiều tranh cãi trong nội bộ
khối ASEAN vì chưa được sự nhất trí hoàn toàn của các nước thành viên. Việt
Nam, Lào, Myanma, Indonesia và Brunei cho rằng cần sớm kết nạp Campuchia
; Thái Lan và Singapo và Philippin cho rằng Campuchia có đủ điều kiện để tham
gia do tình hình nội bộ của nước này thiếu ổn định có thể gây ảnh hưởng tới nền
15
hòa bình chung của cả Hiệp hội. Cũng chính vì lý do đó mà Lào và Myanma đã
được kết nạp trước Campuchia. Tuy nhiên đối với việc kết nạp Campuchia vào
ASEAN, Việt Nam đã có những đóng góp không nhỏ. Ngay từ năm 1997 Đảng
đã nhận thức rõ ràng rằng: “Cần kết nạp sớm Campuchia vào ASEAN vì lợi ích
của Campuchia, của ASEAN và khu vực” [21, tr.1]. Chính vì vậy, Việt Nam đã
rất cố gắng trong việc thuyết phục các nước thành viên khác của ASEAN và có
những tác động chính trị để làm giảm bớt tình hình căng thẳng, mâu thuẫn giữa
các lực lượng ở Campuchia. Tại hội nghị cấp cao ASEAN 6 tổ chức tại Hà Nội
(tháng 12 năm 1998), Việt Nam đã chuẩn bị trước tài liệu “Lễ kết nạp
Campuchia vào ASEAN” và phân phát cho các thành viên tham dự hội nghị
nhằm tranh thủ sự ủng hộ của tất cả các nước đối với việc kết nạp Campuchia
vào ASEAN. Bên cạnh đó tạo điều kiện thuận lợi cho Campuchia, Việt Nam đã
mời Thủ tướng Hun Sen tới thăm chính thức Việt Nam vào ngày 13/12/1998,
hai ngày trước khi Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN khai mạc, nhằm giúp
Campuchia vận động và thuyết phục các nước “thận trọng” còn chưa có quyết
định rõ ràng. Mặc dù chưa đạt được nhất trí về việc kết nạp Campuchia ngay tại
Hà Nội nhưng các thành viên đã đạt được một giải pháp quan trọng là khẳng
định trong tuyên bố Hà Nội kết nạp Campuchia trở thành thành viên thứ 10 của
ASEAN vào thời gian gần nhất. Chưa đến nửa năm sau, ngày 30/4/1999, tại thủ
đô Hà Nội, Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao các nước ASEAN lần thứ 30 (AMM30) đã tổ chức kết nạp Campuchia vào ASEAN. Đây là một bước ngoặt có ý
nghĩa chính trị quan trọng . Tính từ thời điểm đó, ASEAN đã trở thành một tổ
chức thống nhất bao gồm cả 10 quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đánh dấu
quá trình liên kết và hợp tác mới của khu vực.
Ba năm sau khi ra nhập ASEAN Việt Nam đã tổ chức Hội nghị cấp cao
ASEAN 6 (12/1998). Nỗ lực của chúng ta trong việc tổ chức Hội nghị này được
đánh giá rất cao. Chương trình hành động Hà Nội (Hanoi Plan of Action-HPA)
đã đề ra những biện pháp kinh tế và xã hội nhằm khắc phục hậu quả của cuộc
khủng hoảng, đưa hình thức ASEAN + 3 và ASEAN + 1 vào hoạt động thực tiễn
16
có hiệu quả. Kế hoạch hành động Hà Nội đã mang lại sự hiện thực hóa sớm của
AFTA và giúp các nước trong khu vực hồi phục kinh tế mạnh sau cuộc khủng
hoảng tài chính tiền tệ năm 1997.
Để đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định cho sự phát triển trong bối cảnh
mới khu vực và thế giới, tháng 7/1994 các nước ASEAN quyết định thành lập
diễn đàn khu vực ASEAN (ARF) với sự tham gia của 18 nước trong và ngoài
khu vực (gồm 6 nước ASEAN, Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Nga, Canada, Liên minh
Châu Âu, Australia, NewZealand, Việt Nam, Lào, Hàn Quốc, Papua Niughine).
ARF là diễn đàn để đối thoai hợp tác giữa các thành viên về các vấn đề chính trị
-an ninh khu vực. ARF tiến triển qua 3 giai đoạn theo trình tự từ xây dựng lòng
tin đến ngoại giao phòng ngừa, cuối cùng là giải quyết xung đột. Hoạt động của
ARF theo nguyên tắc tiệm tiến, mọi quyết định phải trên cơ sở tham khảo ý
kiến và đồng thuận của tất cả các thành viên; thực hiện trên cơ sở tự nguyện, các
hoạt động của ARF về cơ bản dựa trên các tập quán, phương pháp làm việc của
ASEAN. Việc thành lập ARF là thành công lớn của ASEAN, do tổ chức này
không giống các tổ chức an ninh quân sự khác. ARF được thành lập không
nhằm đối phó với bất kì mối đe dọa hay khủng hoảng nào mà mục đích chủ yếu
của nó là phòng ngừa và ngăn chặn xung đột vũ trang.
Là một thành viên sáng lập ARF, Việt Nam đã có nhiều đóng góp tích cực
vào những hoạt động gìn giữ hòa bình, an ninh trong khu vực. Với trọng trách là
chủ tịch ARF nhiệm kì 2000-2001, Việt Nam đã tổ chức Hội nghị ARF lần thứ
8, phối hợp chặt chẽ các nước khác trong ASEAN duy trì những nguyên tắc của
ASEAN. Việt Nam đã dùng các nước ASEAN khác đấu tranh để đảm bảo
nguyên tắc “không can thiệp vào công việc nội bộ” trong giải quyết xung đột,
cùng các nước ASEAN soạn văn kiện Hiệp ước biến Đông Nam Á thành khu
vực phi vũ khí hạt nhân (SEANWFZ). Khi đảm nhiệm vai trò chủ tịch ARF,
Việt Nam đã nêu sáng kiến và tổ chức cuộc họp tham khảo ý kiến giữa các nước
ASEAN với năm nước có vũ khí hạt nhân để tranh thủ năm cường quốc tham
gia Nghị định thư của SEANWFZ.
17
Việt Nam cũng tham gia tích cực vào các hoạt động chính trị ngoại giao
của ASEAN cũng như giữa ASEAN với các tổ chức khu vực và quốc tế khác
như tham gia Hội nghị an ninh ARF lần thứ nhất diễn ra tại Bắc Kinh (Trung
Quốc) từ 04- 06/11/2004, Hội nghị An ninh lần thứ II tổ chức tại thủ đô Viêng
Chăn (Lào) từ 19- 20/5/2005, đoàn Việt Nam do Thứ trưởng Bộ quốc phòng,
Trung tướng Phan Trung Kiên dẫn đầu. Việt Nam đã cử nhiều đoàn tham gia
trao đổi về an ninh quốc phòng như tham dự Hội nghị Tư lệnh ASEAN bắt đầu
từ 2003; năm 2005 Việt Nam đã đăng cai tổ chức Hội nghị các nhà đứng đầu các
Học viện Quốc phòng lần thứ 10, họp giám đốc các cơ quan tình báo quân đội
(tham gia từ năm 2003); thường xuyên trao đổi các học sinh quân sự. Việt Nam
đã tham gia đầy đủ các Hội Nghị cấp cao và các cơ chế chính trị khác của
ASEAN.
Cùng với Hiệp ước SEANWFZ, Việt Nam cũng góp phần vào việc sửa đổi
Hiệp ước TAC nhằm tạo điều kiện cho các nước ngoài khu vực, nhất là các nước
lớn tham gia. Theo đó, Quy chế hoạt động của Hội đồng tối cao của Hiệp ước
TAC được soạn thảo. Hiệp ước TAC chứa đựng những nguyên tắc cơ bản, làm
cơ sở để ASEAN đẩy mạnh sự hợp tác, thân thiện và hữu nghị trong ASEAN.
TAC đã trở thành bộ quy tắc ứng xử chung cho quan hệ giữa ASEAN với bên
ngoài mà đến nay đã có Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Nga, Pakistan,
Mông Cổ, NewZeland và Australia tham gia…
Việc Việt Nam gia nhập ASEAN cũng thúc đẩy giải quyết nhanh các vấn
đề do lịch sử để lại trong quan hệ của nước ta với các nước ASEAN. Chẳng hạn
vấn đề phân định ranh giới trên biển giữa Việt Nam với các nước thành viên có
vùng biển chống lấn như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippines… Trong
khi nỗ lực khắc phục những cản trở trong mối quan hệ song phương với từng
nước thành viên ASEAN, Việt Nam còn tích cực hợp tác với các nước Đông
Nam Á có liên quan tới cuộc tranh chấp chủ quyền ở biển Đông nhằm tìm ra
giải pháp cho vấn đề này.
18
Đối với vấn đề tranh chấp biển Đông, một vấn đề an ninh phức tạp và
nhạy cảm, liên quan đến lợi ích nhiều bên, Việt Nam luôn chủ động kiềm chế,
bày tỏ lập trường nhất quán cùng các bên hữu quan giải quyết thông qua đàm
phán, thương lượng hòa bình. Tháng 7 năm 1999 Việt Nam cùng Philippines
được Hiệp hội ủy nhiệm soạn thảo Bộ quy tắc ứng xử ở biển Đông. Việc hoàn
tất dự thảo của ASEAN về Bộ quy tắc ứng xử biển Đông cho thấy rõ thái độ,
trách nhiệm của Việt Nam đối với những cố gắng của ASEAN nhằm đưa ra
những nguyên tắc ứng xử hợp lý giữa các bên hữu quan, hướng tới duy trì và
củng cố môi trường hòa bình, an ninh khu vực về mục tiêu phát triển. Đó chính
là cơ sở để Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ VIII, ở Phnôm Pênh năm 2002,
Trung Quốc và ASEAN đã ra bản Tuyên bố về ứng xử ở biển Đông, đạt được sự
thỏa thuận những nguyên tắc cơ bản.
Tháng 11/2002, tại PnômPênh (Campuchia), Việt Nam cùng các nước
ASEAN và Trung Quốc, thông qua Tuyên bố bộ quy tắc ứng xử Biển Đông,
Việt Nam đã đăng cai và tổ chức thành công hội nghị Liên minh Nghị viện quốc
hội AIPO 23(9/2002), Diễn đàn Nghị viện Châu Á- Thái Bình Dương lần thứ 13
(APPF – 13) tháng 1/2005. Việt Nam đã tích cực và chủ động trong việc đóng
góp nội dung cho tuyên bố Bali II (10/2003) và dự thảo Cộng đồng an ninh
ASEAN (ASC). Khi dịch SARS bùng nổ, đích thân Thủ tướng Phan Văn Khải
đã tham dự Hội nghị cấp cao về SARS năm 2003.
Tại Hội nghị cấp cao ASEAN 10 được tổ chức tại Viêng Chăn tháng
11/2004, Việt Nam đã có những đóng góp thiết thực như tích cực phối hợp với
Lào và các nước ASEAN xây dựng chương trình hành động Viêng Chăn (VAP),
bảo đảm VAP kế thừa chương trình hành động Hà Nội, vừa có những nội dung
mới về những lĩnh vực hợp tác mới của ASEAN. Việt Nam cũng xây dựng các
văn kiện khác như Kế hoạch hành động Cộng đồng An ninh ASEAN. Tại Hội
nghị cấp cao ASEAN lần thứ 10, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nêu luận điểm:
ASEAN phải biến cấp cao Viêng Chăn thành cấp cao hành động, tập trung bàn
19
các biện pháp cụ thể để thực hiện chương trình hành động Viêng Chăn và các
thỏa thuận được ký kết.
Về hợp tác an ninh chính trị, Thủ tướng Phan Văn Khải cho rằng ASEAN
cần tập trung vào 3 hướng chính là tranh thủ các nước bên ngoài tham gia Hiệp
ước Thân thiện và hợp tác Hiệp ước Đông Nam Á không có vũ khí hạt nhân;
tăng cường các biện pháp chống khủng bố theo các thảo luận đã ký. Thực hiện
tốt Tuyên bố về cách ứng xử ở biển Đông, tiến tới xây dựng bộ quy tắc ứng xử ở
biển Đông.
Tháng 12/2004, động đất và sóng thần đã gây hậu quả nghiêm trọng tới
Indonesia, Thái Lan. Tháng 1/2005, Hội nghị cấp Bộ trưởng về hợp tác khu vực
nhằm tái thiết lập hệ thống cảnh báo sớm về sóng thần được tổ chức tại Puket
(Thái Lan).
Tháng 12/2005, tại Hội nghị Cấp cao ASEAN 11 được tổ chức ở Kuala
Lawmpo (Malaysia), những người đứng đầu Nhà nước và chính phủ các nước
ASEAN đã tuyên bố xây dựng hiến chương ASEAN, cam kết xây dựng Hiến
chương ASEAN để làm khuôn khổ pháp lý và thể chế của ASEAN nhằm hỗ trợ
thực hiện các mục tiêu của Hiệp hội. Vấn đề này, Thủ tướng Phan Văn Khải cho
rằng, việc ký Tuyên bố Kuala Lămpơ về xây dụng Hiến chương ASEAN là sự
khẳng định rõ mục tiêu, những nguyên tắc và chuẩn mực giá trị chung, đồng
thời thể hiện và tầm nhìn và hướng phát triển lâu dài của ASEAN.
Ngoài ra, với tư cách là thành viên của ASEAN, Việt Nam đã tham gia
vào Diễn đàn chính thức liên quan như ARF, ASEM, APEC và nhiều Diễn đàn
không chính thức khác. Năm 2004, Việt Nam cũng đã tổ chức thành công
ASEM V tại Hà Nội. Tháng 12/2005, Việt Nam cũng tham dự Hội nghị cấp cao
Đông Nam Á lần đầu tiên được tổ chức tại Kuala Lămpơ (Malaysia). Thông qua
đó, Việt Nam đã có đóng góp quan trọng trong việc củng cố và tăng cường đoàn
kết, hợp tác ASEAN, đưa hợp tác ASEAN sang giai đoạn phát triển mới, chặt
chẽ và hiệu quả hơn.
20