Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

TĂNG CƯỜNG VAI TRÒ GIÁM sát của tổ CHỨC bảo HIỂM TIỀN gửi đối với các tổ CHỨC tín DỤNG tại VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (885.08 KB, 115 trang )

1

MỤC LỤC


2

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt

Giải thích

BHTG

Bảo hiểm tiền gửi

BHTGVN

Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam

FED

Cục dự trữ liên bang Mỹ

IADI

Hiệp hội bảo hiểm tiền gửi quốc tế

IDIC


Cơ quan bảo hiểm tiền gửi Indonesia

JDIC

Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Nhật Bản

KDIC

Tổng công ty bảo hiểm tiền gửi Hàn Quốc

NHNN

Ngân hàng Nhà nước

NHTW

Ngân hàng trung ương

QTD

Qũy tín dụng

QTDND

Qũy tín dụng nhân dân

TCTKVN

Tổng cục thống kê Việt Nam


TMCP

Thương mại cổ phần


3

DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
BẢNG
Bảng 1.1 Một số mốc thay đổi quan trọng trong chính sách phí BHTG của FDIC
Bảng 1.2 Hạn mức bảo hiểm của FDIC trong lịch sử
Bảng 1.3 Sự thay đổi linh hoạt trong quá trình hình thành và phát triển mô hình thu
phí của FDIC
Bảng 1.4 Tổng quan về “Hệ thống tính phí khác biệt” (DPS)
Bảng 1.5 Bảng tính phí trên mức độ rủi ro hệ thống DPS
Bảng 1.6 Hạn mức chi trả BHTG tại một số quốc gia Đông Nam Á
Bảng 2.1 Chỉ tiêu giám sát nhóm ngân hàng thương mại nhà nước năm 2007
Bảng 2.2 Tính phí một số ngân hàng thương mại nhà nước quý 4/2007
Bảng 2.3 Tỷ lệ chi trả BHTG/GDP qua các năm
Bảng 3.1 Mô hình giám sát, đánh giá rủi ro
SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1 Cơ cấu tổ chức của tổ chức BHTGVN
Sơ đồ 1.2 Mô hình giám sát rủi ro của KDIC
Sơ đồ 3.1 Cái nhìn toàn diện về mô hình BHTG
BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1 Theo dõi sự thay đổi các mức lãi suất
Biểu đồ 2.2 Quy mô quỹ BHTG và tỉ lệ phần trăm quỹ BHTG trên số dư tiền gửi
được bảo hiểm



4

Biểu đồ 2.3 Số tuyệt đối hạn mức bảo hiểm và tỉ lệ người gửi tiền được bảo hiểm
toàn bộ
LỜI GIỚI THIỆU
Tính cấp thiết của đề tài
Hệ thống tín dụng là hệ thống không thể thiếu trong nền kinh tế của mỗi quốc
gia. Hệ thống tín dụng thúc đẩy việc mở rộng quy mô phát triển của nền kinh tế.
Tuy nhiên nếu hệ thống này mất ổn định, đổ vỡ sẽ gây ra hậu quả không lường cho
toàn bộ nền kinh tế. Chắc hẳn chúng ta vẫn chưa thể quên ngân hàng Lehman
Brothers của Mỹ phá sản là một nguyên nhân châm ngòi cho cuộc khủng hoảng tài
chính toàn cầu 2008-2009, kéo theo đó là các cuộc khủng hoảng nợ công tại khu
vực đồng tiền chung Châu Âu và dần dần lan sang các quốc gia Châu Á, châu Phi
và châu Mỹ. Cuộc khủng hoảng này đã khiến nền kinh tế các nước trên thế giới rơi
vào khủng hoảng nghiêm trọng.
Tại Việt Nam cũng có nhiều trường hợp các ngân hàng rơi vào tình trạng khó
khăn vì các nguyên nhân khác nhau. Ngay gần đây, trong tháng 2 năm 2015 ngân
hàng nhà nước (NHNN) đã mua lại Ngân hàng Xây dựng với giá 0 đồng. Xuất phát
điểm của sự việc này là do Ngân hàng Xây dựng hoạt động yếu kém, nợ xấu cao
hơn cả vốn điều lệ khiến cho ngân hàng này đã bị âm vốn. Ngay sau khi sự việc đó
xảy ra thì NHNN đã phải có những biện pháp kịp thời giúp đỡ để tránh gây ảnh
hưởng lớn tới toàn hệ thống. Tuy nhiên cổ đông của Ngân hàng Xây dựng vẫn
trắng tay, người gửi tiền mất lòng tin vào hệ thống tài chính quốc gia. Hay vào năm
2002, ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) Á Châu (ACB) gặp phải trường hợp
khách hàng tới rút tiền ồ ạt do nghe tin đồn xấu về ngân hàng này. Ngân hàng ACB
phải thông báo rằng ngân hàng này có chuẩn bị đủ tiền mặt, sẵn sàng chi trả cho tất
cả những ai có nhu cầu rút tiền. Câu hỏi đặt ra là chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngân hàng
ACB không đủ tiền để chi trả cho người gửi tiền rút tiền hàng loạt? Chuyện gì xảy



5

ra nếu NHNN không kịp thời ra tay giúp đỡ Ngân hàng Xây dựng? Câu trả lời là đổ
vỡ ắt hẳn sẽ xảy ra.
Ngân hàng là một hệ thống có đặc thù riêng biệt, hoạt động của nó không độc
lập mà có mối liên hệ chặt chẽ với các tổ chức khác. Khi một ngân hàng đổ vỡ sẽ
kéo theo cả hệ thống ngân hàng lung lay và ảnh hưởng tới cả nền kinh tế. Vì vậy
giữ an toàn cho hệ thống tín dụng là mục tiêu quan trọng hàng đầu của một nền
kinh tế.
Tổ chức bảo hiểm tiền gửi (BHTG) của mỗi quốc gia đóng vai trò chủ đạo
trong việc đảm bảo an toàn này. Theo nghiên cứu của Hiệp hội BHTG quốc tế thì
để hệ thống tài chính hoạt động an toàn tổ chức BHTG phải hoạt động tích cực và
hiệu quả trong việc phát hiện sớm, can thiệp và xử lý các TCTD gặp vấn đề. Từ
thực tiễn trong và ngoài nước, nhóm nghiên cứu thấy nhiệm vụ giúp đỡ các ngân
hàng hạn chế rủi ro là vô cùng quan trọng. Luôn phải có ý thức phòng ngừa rủi ro
xảy ra chứ không phải để rủi ro xảy ra rồi mới đi xử lý vì khi có rủi ro, ắt hẳn sẽ có
nhiều bên bị thiệt, tốn kém chi phí, làm mất ổn định nền kinh tế trong một thời gian
và làm mất lòng tin nơi người gửi tiền. Do đó, một hệ thống giám sát, kiểm tra tốt
là vô cùng cần thiết, nó sẽ giúp dự báo, phát hiện sớm các TCTD đang gặp khó
khăn, từ đó có biện pháp giúp đỡ, ngăn chặn rủi ro và có thể ứng phó kịp thời nhất
là trong giai đoạn nền kinh tế đang bất ổn như hiện nay.
Vấn đề nghiên cứu
Nhóm nghiên cứu sẽ tập trung làm rõ ba vấn đề trong bài nghiên cứu này. Một
là tìm hiểu xem có bao nhiêu mô hình tổ chức BHTG và ở mô hình nào thì vai trò
giám sát được thể hiện rõ nét nhất. Thứ hai là nêu lên thực trạng giám sát của tổ
chức bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) đối với các tổ chức tham gia BHTG
hiện nay, điểm yếu và bất cập như thế nào. Từ đó đi đến nội dung thứ ba là đưa ra
các giải pháp tăng cường vai trò giám sát của tổ chức BHTGVN.



6

Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi nghiên cứu hoạt động giám sát, kiểm tra của tổ chức BHTGVN
thông qua các công cụ giám sát từ khi BHTGVN ra đời cho tới nay, đặc biệt tập
trung từ năm 2012 trở lại, khi Luật BHTG mới được ra đời thay thế cho văn bản
Luật trước đây.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là tổ chức BHTGVN.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu tài liệu
Nhóm nghiên cứu sử dụng phương pháp này để tổng hợp, phân tích những
nghiên cứu, quan điểm của các nhà nghiên cứu, học giả trong và ngoài nước nhằm
tận dụng những kết quả đã có, tiết kiệm thời gian nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu chuyên gia
Phương pháp chuyên gia được nhóm nghiên cứu sử dụng trong việc phỏng
vấn hoặc tham khảo ý kiến những người có am hiểu hoặc có liên quan đến những
thông tin về hoạt động BHTGVN hay thế giới giúp thu thập thông tin phục vụ cho
quá trình nghiên cứu.
Kết cấu đề tài
Bài nghiên cứu được chia làm 3 chương sau đây
Chương 1: Tổng quan về hoạt động giám sát của BHTG
Chương 2: Thực trạng hoạt động giám sát thông qua các công cụ và các yếu tố
ảnh hưởng tới hoạt động giám sát tại Việt Nam
Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát của BHTGVN


7

Tổng quan nghiên cứu

a. Các nghiên cứu trên thế giới về rủi ro đạo đức và tầm quan trọng của giám
sát
Vấn đề rủi ro đạo đức, kỉ luật thị trường
Nghiên cứu của Martin (2003) nhận xét rằng: sự đổ vỡ ngân hàng xảy ra khi
có quá nhiều người gửi tiền đến rút tiền cùng một lúc do có tin đồn không lành
mạnh cho ngân hàng. Ngân hàng không thể đáp ứng mọi nhu cầu đó ngay lập tức vì
nguồn tiền gửi đó ngân hàng đang cho vay nhưng chưa đến ngày đáo hạn, hoặc
ngân hàng đang đầu tư tại các kênh khác. Trên thực tế thì hiếm khi người gửi tiền
cần rút hết số tiền của họ cùng một lúc; nhưng nếu nhiều người lo lắng tiền gửi của
họ và nhiều người khác đang ồ ạt rút tiền, ngân hàng không thể có nguồn tiền kịp
thời để chi trả cho họ. Trường hợp trên xảy ra với giả thiết chưa có sự xuất hiện của
BHTG.
BHTG có vai trò hết sức quan trọng trong việc bảo vệ người gửi tiền và đảm
bảo sự phát triển ổn định của hệ thống tài chính-ngân hàng. Tuy nhiên, BHTG gây
ra vấn đề rủi ro đạo đức đối với ngân hàng và người gửi tiền. Rủi ro đạo đức, theo
Barthlomew (1990) là “những khích lệ bởi sự bảo hiểm, xúi giục tổ chức tham gia
BHTG thực hiện các hoạt động rủi ro hơn khi tổ chức chưa được tham gia BHTG,
và những hậu quả từ những rủi ro đó sẽ được giải quyết bởi tổ chức BHTG”. Theo
Hiệp hội BHTG quốc tế (IADI), khái niệm rủi ro đạo đức đề cập đến “xu hướng
chấp nhận rủi ro của một tổ chức với niềm tin họ sẽ không phải chịu hậu quả từ các
hành động đã gây ra”. Khi có sự xuất hiện của BHTG, người gửi tiền được chi trả
tiền trong trường hợp ngân hàng của họ mất khả năng thanh toán, nên họ sẽ không
còn giám sát các hoạt động của ngân hàng. Đối với ngân hàng, họ thực hiện các
việc đầu tư mạo hiểm hơn, vì nếu thất bại thì đã có một tổ chức đứng ra hỗ trợ; còn
nếu thành công thì họ sẽ thu được nhiều lợi nhuận.


8

Cùng nghiên cứu về sự giám sát và vấn đề rủi ro đạo đức trong bài viết:

“Partial deposit insurance and moral hazard in banking” (BHTG một phần và rủi ro
đạo đức trong ngân hàng), Gan and W.Y.Yang (2011) đã đưa ra các mô hình các
yếu tố ảnh hưởng tới sự giám sát của người gửi tiền và mô hình đánh giá hành vi
mạo hiểm của ngân hàng. Tác giả đã áp dụng mô hình đó vào các quốc gia khác
nhau để đưa ra kết luận: dối với các quốc gia đã thiết lập được hệ thống BHTG chặt
chẽ từ lâu đời thì mức bảo hiểm tối ưu sẽ giải quyết được vấn đề rủi ro đạo đức và
sự sụp đổ ngân hàng bằng cách tăng cường kỉ luật thị trường. Điều quan trọng hơn
là với các quốc gia chưa có hệ thống BHTG hoàn thiện, bài viết đưa ra một mô
hình để xây dựng hệ thống đúng đắn, bảo vệ người gửi tiền “nhỏ” và làm giảm sự
bất ổn trong nền kinh tế. Nghiên cứu đó cũng đã tập trung tìm ra hạn mức bảo hiểm
tối ưu và rủi ro tối ưu để nỗ lực giảm rủi ro đạo đức. Mô hình cũng kết hợp các quy
định của ngân hàng về vốn điều lệ và kỉ luật thị trường từ sự giám sát của người gửi
tiền. Họ đã tìm ra một mức bảo hiểm tối ưu mà vừa tăng cường được sự giám sát
của người gửi tiền, vừa cải thiện được phúc lợi xã hội.
Bài viết này cũng cung cấp sự giải thích về sự khác nhau giữa các quốc gia về
độ bảo vệ của BHTG. Đầu tiên, một số ví dụ đã chỉ ra rằng các nền kinh tế với thu
nhập cao cung cấp phí bảo hiểm ở mức tương đối. Trái lại các quốc gia với thu
nhập thấp thì lại cung cấp mức bảo hộ cao hơn thông qua BHTG. Thứ hai, bài viết
đề cấp tới vấn đề thu nhập không đồng đều. Một nền kinh tế với mức thu nhập
không đồng đều thì có hạn mức bảo hiểm tương đối lớn để bảo vệ người gửi tiền
“nhỏ” và để chống việc khủng hoảng và sụp đổ. Thứ ba, bài viết đưa ra rằng khi
nền kinh tế ổn định trong thời gian dài và nguy cơ sụp đổ là rất nhỏ thì người gửi
tiền ít quan tâm tới vấn đề giám sát khoản tiền gửi của mình ở ngân hàng hơn. Vì
vậy cách tốt nhất là phí bảo hiểm cao hơn để chống vấn đề không ổn định trong hệ
thống ngân hàng. Cuối cùng, sử dụng hạn mức bảo hiểm trên đầu người như một


9

chỉ số đã chỉ ra rằng các quốc gia có thể không thể nội hóa được các yếu tố bên

ngoài một cách hợp lí bởi các quy định về bảo hiểm.
Rủi ro đạo đức thường tồn tại ở các tổ chức gần mất hoặc mất khả năng chi
trả, chủ sở hữu sẽ có động cơ để thực hiện rủi ro vì họ có nhận thức mang hướng
tiêu cực rằng “được ăn cả - ngã có tổ chức BHTG chi trả”. Nghiên cứu của Martin
(2003) và Hooks and Robinson (2002) nhấn mạnh tổ chức ngân hàng có càng ít vốn
chủ sở hữu thì càng có xu hướng chấp nhận rủi ro, nguyên nhân do họ “có quá ít để
mất” (have little to lose).
Trong khi đó, Chernykh and Cole (2011) đã đề cập tới tỉ lệ vốn chủ sở hữu
trên tổng tài sản giảm trong khi tỉ lệ cho vay trên tổng tài sản tăng lên sau khi thực
hiện chương trình BHTG và cũng kết luận rằng BHTG là nguy cơ dẫn đến rủi ro
đạo đức.
Tuy nhiên, Karels and McClatchey (1999) và Gueyie and Lai (2003) nghiên
cứu chỉ ra BHTG không làm tăng đầu tư rủi ro, cũng như không dẫn đến rủi ro đạo
đức.
Gropp and Vesala (2004) đưa ra quan điểm sự giám sát đã giảm rủi ro đạo đức
và sự chấp nhận rủi ro cửa các ngân hàng như thế nào bắt nguồn từ sự bảo vệ của
BHTG. Họ đã nghiên cứu hạn mức tối ưu cho BHTG thông qua sự giám sát của
người gửi tiền. Manz (2009) qua bài nghiên cứu của mình đã công bố quan điểm
mức bảo hiểm cao thì giảm thất bại thị trường nhưng lại tăng nguy cơ không hiệu
quả.
Một vấn đề cũng liên quan mật thiết tới rủi ro đạo đức và sự cần thiết của
giám sát là kỉ luật thị trường.
Các nghiên cứu về kỉ luật thị trường tập trung vào việc tìm hiểu xem BHTG
đã giảm sự giám sát của mình vào khoản tiền trong ngân hàng như nào. Kỉ luật thị


10

trường từ người gửi tiền diễn ra bởi vì nhu cầu lãi suất cao hoặc nhu cầu rút tiền
sớm. Mục tiêu của BHTG là bảo vệ người gửi tiền, làm dịch vụ thanh khoản của

ngân hàng diễn ra tốt và chống khủng hoảng ngân hàng. Tuy nhiên nếu mở rộng
quá BHTG (chuyển rủi ro của các ngân hàng có tiềm năng đổ vỡ sang người trả
thuế) sẽ làm yếu đi kỉ luật thị trường và làm gia tăng rủi ro đạo đức (Greenspan,
2002).
Sử dụng bảng thông tin từ 61 quốc gia chọn lọc trên thế giới, Demirguc-Kunt
and Detragiache (2002) đã thực hiện một nghiên cứu để rút ra kết luận rằng các
quốc gia với giới hạn chi trả bảo hiểm rộng rãi có nguy cơ khủng hoảng ngân hàng
cao hơn. Demirguc-Kunt and Kane (2002) thì đưa ra nhận xét lãi suất tăng một
cách đáng kể với rủi ro ngân hàng cho công cụ bảo hiểm từng phần. DemirgucKunt and Huizinga (2004) cung cấp bằng chứng từ các quốc gia khác nhau về việc
BHTG khiến người gửi tiền kém nhạy cảm với rủi ro ngân hàng như thế nào, đồng
thời đã nêu ra nhận định rằng BHTG bằng cách đánh thuế người gửi tiền không
những tạo điều kiện cho rủi ro đạo đức mà còn không thể chống lại khủng hoảng
ngân hàng. Tổng kết lại, các bài nghiên cứu chỉ ra rằng BHTG làm yếu đi kỉ luật thị
trường và gia tăng nguy cơ đổ vỡ ngân hàng. Người gửi tiền và ngân hàng sẽ không
ngần ngại tham gia vào các hoạt động ngân hàng mạo hiểm.
Sự thiếu đi kỉ luật thị trường có thể được bù đắp thông qua quy định và sự
giám sát của ngân hàng (Demirguc-Kunt and Kane, 2002). Nghiên cứu về sự thận
trọng trong quy định của ngân hàng đã nhấn mạnh vai trò của vốn điều lệ. Bài
nghiên cứu của Hellmann (2000) đã cho người đọc thấy rằng vốn điều lệ có thể
giảm rủi ro ngân hàng nhưng kết quả là sự bất hiệu quả Pareto. Cooper and Ross
(2002) kết luận rằng sự sụp đổ của ngân hàng có thể được triệt tiêu kể cả không có
sự giám sát của người gửi tiền nếu vốn điều lệ đủ lớn. Bài viết đã chỉ ra rằng vốn
điều lệ và sự giám sát của người gửi tiền quyết định tới sự thất bại của ngân hàng.


11

Sự bất đồng thông tin giữa người gửi tiền, chính phủ và ngân hàng khuyến khích sự
giám sát.
Phần lớn các nghiên cứu trên cho thấy BHTG dẫn đến rủi ro đạo đức, tuy

nhiên khi được áp dụng một hạn mức bảo hiểm hợp lí, hệ thống tính phí phân biệt
hoặc theo mức độ rủi ro… thì rủi ro đạo đức có thể giảm thiểu. Trên thực tế, việc
đưa ra hạn mức bảo hiểm đủ để người gửi tiền có niềm tin vào hệ thống ngân hàng,
hay việc thu phí trên mức độ rủi ro là rất khó để xác định. Vì vậy, việc nâng cao vai
trò giám sát đối với các tổ chức tham gia BHTG là hết sức quan trọng, không phải
chỉ đến khi tổ chức tham gia BHTG đổ vỡ thì tổ chức BHTG mới thực hiệm nhiệm
vụ chi trả mà còn phải kiểm tra, giám sát thường xuyên trong cả quá trình hoạt
động.
Sự cần thiết của việc giám sát của tổ chức BHTG
Nếu đọc qua nội dung chính của các bài nghiên cứu được liệt kê phía trên thì
chúng ta cũng hiểu được vai trò quan trọng của việc giám sát. BHTG là một bộ
phận vô cùng quan trọng trong hệ thống tài chính của các quốc gia. Nó góp phần
đảm bảo an toàn hệ thống và làm người gửi tiền an tâm. Tuy nhiên, nếu hoạt động
của BHTG tiền ẩn nhiều rủi ro, làm gia tăng nguy cơ đổ vỡ thì thật nguy hiểm, do
đó vai trò giám sát cần được nâng cao. Giám sát để triệt tiêu rủi ro không đáng có.
Eisenbeis and Wall (2002) cho biết: Luật cải tiến của Mỹ (1991) tìm ra để tổ
chức lại cơ chế khuyến khích, ví dụ, điều khoản 131 của luật này: các cơ quan
thanh tra sẽ điều tra những tổn thất trọng yếu và công bố công khai. Tuy nhiên sự
khuyến khích là không đủ rõ ràng. Vì thế, việc giám sát ngay từ đầu trở nên cần
thiết.
Để tránh tình trạng mà một tổ chức mất khả năng thanh toán vẫn được tiếp tục
hoạt động, Luật cải tiến nâng cao vai trò giám sát để can thiệp vào một ngân hàng
trước khi nó mất khả năng chi trả .


12

David and Obasi (2009) nhấn mạnh những tác động của hệ thống BHTG lên
rủi ro về tài sản của ngân hàng. Ngân hàng chiểm tỉ trọng cao của những người gửi
tiền lớn đều thực hiện khá ít rủi ro trước khi có BHTG, nhưng sau khi có BHTG họ

chấp nhận rủi ro cao hơn. Người gửi tiền lớn có động lực lớn hơn để giám sát ngân
hàng trong trường hợp không được bảo hiểm.
b. Các nghiên cứu ở Việt Nam
Ở Việt Nam, nếu so với thế giới thì các bài nghiên cứu về BHTG không phải
là nhiều vì hệ thống BHTGVN còn khá non trẻ so với thế giới. Tuy nhiên cũng có
khá nhiều bài báo nghiên cứu về vấn đề giám sát trong lĩnh vực BHTG, đặc biệt là
từ sau khi luật BHTG 2012 ra đời. Luật bảo BHTG (2012) ra đời yêu cầu tổ chức
BHTG chỉ giám sát các TCTD về việc chấp hành các quy định của pháp luật về
BHTG, không được trực tiếp cảnh báo TCTD về việc vi phạm an toàn trong hoạt
động ngân hàng (việc này kiến nghị cho NHNN để cảnh báo).
Về lí thuyết, nghiệp vụ giám sát của tổ chức BHTG bao gồm giám sát từ xa và
giám sát tại chỗ. Hoạt động giám sát từ xa có thể nói là hệ thống cảnh báo sớm để
phát hiện và đánh giá những rủi ro tiềm ẩn của tổ chức tham gia BHTG trên cơ sở
các tiêu chí và chuẩn mực quốc tế. Từ những kết quả mà hoạt động giám sát từ xa
mang lại, tổ chức BHTG xây dựng hồ sơ cảnh báo, tiến hành các thủ tục xử phạt
với các đơn vị vi phạm. Hơn nữa, công tác cảnh bảo sớm cho phép tổ chức tham
gia BHTG nhìn nhận được những sai phạm, từ đó đề ra các biện pháp khắc phục,
nâng cao chất lượng hệ thống ngân hàng. Cùng với giám sát từ xa, hoạt động giám
sát tại chỗ không thể thiếu trong nghiệp vụ của tổ chức BHTG. Theo tác giả Lưu
(2006) thì “nhiều nội dung, chỉ tiêu hoạt động của các tổ chức tham gia BHTG chỉ
có thông qua kiểm tra tại chỗ mới có đủ thông tin phục vụ cho việc phân tích, đánh
giá chính xác mà hoạt động giám sát từ xa không thể làm được”.


13

Công tác giám sát kiểm tra là yếu tố quyết định đến thành công của hệ thống
BHTG. Nếu công tác giám sát- kiểm tra có hiệu quả thì BHTG sẽ là một mắt xích
quan trọng trong mạng lưới đảm bảo an toàn tài chính quốc gia.
Tác giả Bùi Thị Hương nghiên cứu về vấn đề giám sát thông qua hạn mức chi

trả BHTG. Nhiệm vụ của BHTG là bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền vì vậy hạn
mức chi trả phải đảm bảo không quá thấp khiến người gửi tiền hoang mang. Nhưng
nếu hạn mức quá cao thì dẫn tới rủi ro đạo đức. Bài viết có so sánh hạn mức chi trả
các quốc gia, xem xét diễn biến và dẫn tới kết luận rằng hạn mức chi trả là một
công cụ giám sát rủi ro của tổ chức BHTG. Vì vậy cần tính toán kĩ lưỡng xem hạn
mức chi trả là bao nhiêu để đảm bảo an toàn lành mạnh của hệ thống (Hương,
2012).
Về hoạt động giám sát từ xa, tác giả Phạm Thị Bích Vân nêu lên những tồn tại
khó khăn của tổ chức BHTG. Nguyên nhân là luật chưa quy định chức năng và
nhiệm vụ tương xứng, hệ thống thông tin và sự phối hợp chưa tốt. Nổi bật là việc tổ
chức BHTG không được trực tiếp cảnh báo các TCTD vi phạm an toàn hoạt động.
Điều này gây hạn chế lớn tới hoạt động giám sát rủi ro của tổ chức BHTG (Vân,
2012).
Trái lại với ý kiến trên thì có ý kiến lại cho rằng nhiệm vụ giám sát như vậy là
hợp lí vì tổ chức BHTG không có nhiều công cụ giám sát để thực hiệm nhiệm vụ
giám sát an toàn hệ thống, việc này để NHNN thực hiện sẽ tốt hơn. Bên cạnh đó,
nếu cả tổ chức BHTG và NHNN cùng thực hiện giám sát một vấn đề sẽ dẫn tới
việc chồng chéo quyết định.
Kết luận: Có rất nhiều bài nghiên cứu, bài báo nói về nguyên nhân và sự cần
thiết của việc giám sát trong lĩnh vực BHTG. Chúng là nguồn tư liệu quý giá trong
việc nghiên cứu. Tuy nhiên các bài báo đều chưa đặt các công cụ giám sát liền nhau
để thấy được tác động qua lại của các công cụ đó. Hơn thế nữa các bài nghiên cứu


14

từ trước tới nay tập trung chủ yếu vào vai trò giám sát của người gửi tiền và các
TCTD tham gia BHTG chứ chưa có bài nghiên cứu nào tập trung vào vai trò giám
sát của tổ chức BHTG. Đặc biệt quan trọng là các bài nghiên cứu về BHTG ở Việt
Nam còn quá ít, chưa ai so sánh các mô hình giám sát trên thế giới và tìm ra một

mô hình tối ưu phù hợp với điều kiện kinh tế của Việt Nam. Ở Việt Nam vẫn còn
nhiều ý kiến trái chiều xung quanh “mức độ” giám sát như nào là hợp lí.
Vì vậy trong các phần sau đây của bài nghiên cứu, nhóm nghiên cứu chúng tôi
sẽ đưa ra những dẫn chứng cụ thể, những so sánh để thấy được vai trò giám sát của
tổ chức BHTG còn nhiều thiếu sót, các quy định của pháp luật còn chưa chặt chẽ và
chưa hợp lí. Từ đó, chúng tôi sẽ đưa ra những gợi ý, kiến nghị để củng cố vai trò
giám sát, đưa ra những mô hình giám sát dựa trên mô hình của các quốc gia tiên
tiến trên thế giới mà chúng tôi cho là phù hợp với điều kiện của Việt Nam.


15

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT
CỦA BẢO HIỂM TIỀN GỬI
1.1 Khái niệm, mục đích, vai trò của BHTG
1.1.1 Khái niệm
Theo Luật BHTG năm 2012, BHTG là sự bảo đảm hoàn trả tiền gửi của tổ
chức BHTG cho người được BHTG trong hạn mức trả tiền bảo hiểm khi tổ chức
tham gia BHTG lâm vào tình trạng mất khả năng chi trả tiền gửi cho người gửi tiền
hoặc phá sản.
Trong đó:
-Tổ chức BHTG là tổ chức tài chính nhà nước, tham gia không vì mục tiêu lợi
nhuận, thực hiện chính sách BHTG, góp phần duy trì sự ổn định của hệ thống các
TCTD, bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
-Tổ chức tham gia BHTG là TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thành
lập và hoạt động theo Luật các TCTD được nhận tiền gửi cá nhân. Trong đó, TCTD
là doanh nghiệp thực hiện một, một số hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng. TCTD
bao gồm ngân hàng, TCTD phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng
nhân dân. Theo Luật các TCTD, ở Việt Nam có các loại TCTD sau:
+Các TCTD nhà nước.

+Các ngân hàng TMCP
+Các chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam
+Các công ty tài chính
+Các công ty cho thuê tài chính
+Ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài.


16

-Người được BHTG là khách hàng có tiền gửi thuộc đối tượng được bảo hiểm
tại tổ chức tham gia BHTG.
1.1.2 Mục đích, vai trò của BHTG
Về mục đích:
-BHTG bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người gửi tiền.
-Bảo đảm sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng; ngăn
chặn đổ vỡ ngân hàng thông qua các hoạt động nghiệp vụ của tổ chức BHTG.
-Xây dựng thị trường tài chính lành mạnh, có tính cạnh tranh bình đẳng giữa
các tổ chức tài chính có quy mô khác nhau.
-Giảm thiểu gánh nặng cho Chính phủ trong trường hợp xử lý đổ vỡ của
TCTD.
Về vai trò:
-Bảo vệ người gửi tiền và nâng cao niềm tin của công chúng đối với hệ thống
ngân hàng. Niềm tin của người gửi tiền là rất quan trọng trong hệ thống tài chính,
vì khi gửi tiền vào một ngân hàng, khách hàng thường xem xét uy tín, sự an toàn
của ngân hàng, cũng như sự ổn định trong hoạt động và khả năng nhận lại tiền gửi
nếu ngân hàng đó bị phá sản. Nếu một ngân hàng mất khả năng thanh khoản,
nhưng có một tổ chức đứng ra đảm bảo thanh toán các khoản tiền gửi thì điều đó sẽ
củng cố niềm tin của người gửi tiền đối với hệ thống ngân hàng.
-Bảo đảm sự phát triển an toàn của hệ thống ngân hàng từ khi cấp phép đến
khi ngừng hoạt động. BHTG sẽ nắm bắt rõ ràng tình hình hoạt động của các ngân

hàng, và khi một ngân hàng có tín hiệu xấu trong hoạt động thì BHTG sẽ giúp đỡ
bằng cách cho vay vốn, sáp nhập với ngân hàng khác.... Nếu như không có dấu hiệu
phục hồi thì BHTG sẽ cho ngân hàng đó rút khỏi lĩnh vực kinh doanh ngân hàng
một cách trật tự và không ảnh hưởng đến các ngân hàng khác.


17

-Góp phần thúc đẩy quá trình huy động vốn phục vụ phát triển kinh tế và ổn
định xã hội. Một quốc gia có thể huy động vốn bằng nhiều cách như: vay trực tiếp
hoặc gián tiếp nước ngoài, vay từ chính phủ... nhưng những nguồn vay này thường
không ổn định. Trái lại, nguồn vay từ dân cư đóng một vai trò quan trọng bởi nó
mang tính ổn định trong thời gian dài. Vì vậy để thu hút nguồn tiền huy động từ
dân cư, ngân hàng phải đưa ra một mức lãi suất hấp dẫn; bên cạnh đó là sự hoạt
động hiệu quả, đảm bảo quá trình gửi tiền-rút tiền ổn định. Thông qua nghiệp vụ
BHTG, ngân hàng có thể huy động tiền từ dân cư một cách tối đa bởi vì kể cả khi
ngân hàng có bị đổ bể thì vẫn có một tổ chức đứng ra thanh toán tiền gửi cho họ.
-Công cụ đắc lực giúp các Chính phủ tạo lập niềm tin của dân chúng đối với
hệ thống ngân hàng trong thời kì khủng hoảng. Nguyên nhân sâu xa của khủng
hoảng ngân hàng là việc người dân đi rút tiền hàng loạt. Hoạt động tài chính-ngân
hàng là hoạt động nhạy cảm và mang tính lan truyền, bởi khi người dân biết được
một tin đồn nào đó không tốt về ngân hàng, lập tức họ sẽ muốn đến rút toàn bộ tiền
nhanh nhất. Chính động thái này đã tạo nên sự thiếu hụt về lượng cung tiền rút ra,
khi mà số tiền trước đây mà họ gửi vào ngân hàng đang cho vay hoặc đầu tư vào
các lĩnh vực khác nhưng chưa đến ngày đáo hạn. Lúc này, ngân hàng lại huy động
tiền với lãi suất rất cao để trả những người cần rút, trong khi lợi nhuận của ngân
hàng giảm dần. Với sự xuất hiện của BHTG, người dân không còn lo lắng về khoản
tiền gửi của họ bởi vì BHTG sẽ bảo vệ họ nếu ngân hàng mất khả năng thanh
khoản.
1.1.3 Các mô hình BHTG

Trên thế giới có ba mô hình BHTG chính đó là mô hình chi trả, mô hình chi
trả mở rộng và mô hình giảm thiểu rủi ro.
Mô hình chi trả được áp dụng lần đầu vào năm 1929-1933 trong cuộc khủng
hoảng tài chính ở Mỹ do hệ lụy của thị trường chứng khoán sụp đổ và rất nhiều


18

ngân hàng phá sản. Mô hình chi trả có ba chức năng chính: thu phí bảo hiểm, quản
lí quay và bồi thường cho người gửi tiền. Mô hình này phù hợp với các nước đang
phát triển có tổ chức BHTG mới thành lập với quy mô nhỏ, năng lực tài chính còn
kém.
Mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng: Cùng với những vai trò, nhiệm vụ
như mô hình chi trả, mô hình chi trả với quyền hạn mở rộng còn liên quan tới việc
xử lí nợ xấu, thanh lí ngân hàng, hỗ trợ tài chính, khuyến nghị sự cẩn trọng phòng
tránh rủi ro tới các tổ chức tham gia BHTG.
Mô hình giảm thiểu rủi ro: Ngoài chức năng của hai mô hình trên, với mô hình
này, BHTG tham gia với ngân hàng trung ương (NHTW) vào hoạt động giám sát
và đánh giá rủi ro của các ngân hàng và định chế tài chính khác; tính phí bảo hiểm
dựa trên cơ sở định mức rủi ro, kinh doanh đầu tư nhằm phát triển vốn ban đầu.
Đây là mô hình có nhiều chức năng nhất và được sử dụng tại nhiều quốc gia để ứng
phó với khủng hoảng tài chính có mức độ phức tạp.
1.2 Khái quát chung về sự hình thành và phát triển của BHTG
1.2.1 Trên thế giới
Khái niệm BHTG được rất nhiều quốc gia trên thế giới biết đến. Khi chưa có
sự xuất hiện của BHTG công khai, các quốc gia thực hiện “ bảo vệ ngầm”-nghĩa là
tuy không công bố rõ, nhưng họ đã ngầm hiểu rằng khi hệ thống ngân hàng bị phá
sản thì Chính phủ sẽ đứng ra chi trả tiền gửi cho người gửi tiền. Tuy nhiên việc bảo
vệ ngầm đó không mang lại lợi ích cho quốc gia cũng như không mang lại niềm tin
của công chúng đối với hệ thống tài chính-ngân hàng. Chính vì vậy, BHTG công

khai ra đời. Nguồn gốc ra đời của BHTG gắn liền với việc chuyển từ “bảo vệ
ngầm” sang “bảo vệ công khai tiền gửi”. Bảo vệ tiền gửi công khai đầu tiên được
thành lập ở Mỹ năm 1829 với tên gọi “Chương trình bảo hiểm trách nhiệm ngân


19

hàng”. Từ “trách nhiệm” muốn đề cập đến tiền gửi ngân hàng và chứng chỉ huy
động tiền gửi. Sau đó, từ năm 1831 đến 1858, 05 bang của Mỹ (Vermont, Indiana,
Michigan, Ohia và Iowa) đã thành lập tổ chức BHTG với sự tham gia là tự nguyện.
Mặc dù hệ thống BHTG của Mỹ trong giai đoạn này hoạt động rất thành công,
nhưng với sự ra đời của chính sách “ Ngân hàng tự do” ở Mỹ năm 1830 và sự thành
lập hệ thống Ngân hàng quốc gia năm 1886 đã làm cho một lượng lớn ngân hàng
rút khỏi BHTG.
Trong thời kì từ năm 1908 đến 1930 có 08 vùng thành lập hệ thống BHTG
(Oklahoma, Kansas, Texas, South Dakota, North Dakota, Washington và Nebraska).
Trong 08 tổ chức này thì có 04 tổ chức quy định BHTG bắt buộc, 02 tổ chức quy
định BHTG tự nguyện, 02 tổ chức còn lại quy định tính bắt buộc tùy thuộc vào từng
đối tượng và từng thời điểm. Đến cuối năm 1930 do ảnh hưởng kinh tế bất lợi, các
ngân hàng ở 8 vùng đóng cửa làm cho tổ chức BHTG đóng cửa theo.
Cuộc Đại khủng hoảng kinh tế năm 1929-1933 tại Mỹ đã làm cho khoảng
4000 ngân hàng cùng 1700 TCTD bị đóng cửa. Để đối phó với tình huống nhằm ổn
định nền kinh tế thì Chính phủ cần bảo vệ tiền gửi của người dân. Những kinh
nghiệm trên thế giới chỉ ra rằng, khi có tín hiệu cho thấy hệ thống ngân hàng bất ổn
thì phản ứng của người dân là sẽ đồng loạt rút tiền. Chính sự rút tiền hàng loạt này
là nguyên nhân dẫn đến sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Chính phủ nước Mỹ đã
thành lập BHTG liên bang (Federal Deposit Insurance Corporation- FDIC) vào
năm 1933. Ngày 1-1-1934, FDIC bắt đầu hoạt động và nó trở thành “mô hình bảo
hiểm công khai đầu tiên trên thế giới”. Nguồn vốn ban đầu do Kho bạc Nhà nước
Mỹ đóng góp 150 triệu USD và 12 NHNN liên bang đóng góp 130 triệu USD.

Hệ thống BHTG công khai ngày càng phát triển mạnh mẽ, đặc biệt có khoảng
90 quốc gia trên thế giới đã sử dụng BHTG công khai để bảo vệ người gửi tiền. Tại
châu Á, nhiều quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philipin,…đã sớm học


20

hỏi và xây dựng thành công mô hình BHTG để áp dụng vào thực tế. Nhật Bản –
quốc gia đầu tiên thành lập BHTG ở châu Á (1971) đã có những chính sách để
ngăn ngừa sự đổ vỡ của hệ thống ngân hàng. Thái Lan, Malaysia, Singapor đã
thành lập tổ chức BHTG. Như vậy, xu hướng hình thành hệ thống BHTG ở châu Á
diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Trước sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của tổ chức BHTG trên thế giới, ngày
6/5/2002, Hiệp hội BHTG quốc tế (International Association of Deposit Insurers –
IADI) đã được thành lập tại Thụy Sĩ với sự tham gia của nhiều tổ chức BHTG trên
thế giới. Điều này đã nói lên vai trò quan trọng của tổ chức BHTG với sự phát triển
an toàn-ổn định của hệ thống tài chính-ngân hàng, cũng như việc bảo vệ người tiền
khi có khủng hoảng xảy ra.
1.2.2 Ở Việt Nam
Cuối những năm 80 của thế kỉ XX, sự đổ vỡ của hàng loạt hợp tác xã tín dụng
đã gây ra những bất ổn về kinh tế, thể hiện qua việc người dân đến rút tiền ồ ạt tại
các ngân hàng, và có thể nói đó mới chính là nguyên nhân gây nên đổ bể cho ngân
hàng. Trước tình hình đó, nhiệm vụ trước tiên là phải lấy lại niềm tin của nhân dân.
Ban đầu là biện pháp “bảo vệ ngầm” thông qua hệ thống các Ngân hàng thương
mại quốc doanh. Tuy biện pháp này đã đạt một số kết quả ban đầu nhưng cũng nảy
sinh mâu thuẫn về pháp lý. Vì vậy Nhà nước đã ban hành cơ chế mới về BHTG.
Theo quyết định 101/TCQĐ-BH ngày 1/2/1994 của Bộ tài chính đã giao cho Tổng
công ty Bảo hiểm Việt Nam (Bảo Việt) triển khai nghiệp vụ BHTG. Tuy nhiên,
Bảo Việt đã không đảm bảo điều kiện cho sự thành công của tổ chức BHTG do:
thứ nhất, phí đóng góp BHTG cho Bảo Việt chỉ có tác dụng chi trả cho người gửi

tiền khi tổ chức tham gia BHTG bị phá sản, nhưng khi quỹ tín dụng nhân dân
(QTDND) mất khả năng chi trả thì Bảo Việt khó trợ giúp do không có tổ chức giám
sát, quản lí. Thứ hai, việc tham gia BHTG là tự nguyện, làm cho người gửi tiền của


21

những ngân hàng không tham gia BHTG gặp rủi ro cao (mất cả tiền gốc lẫn lãi) khi
ngân hàng này bị phá sản. Trước tình hình hệ thống tài chính-ngân hàng nước ta
đang phát triển mạnh mẽ nhưng cũng chứa đựng nhiều rủi ro, việc yêu cầu kiểm
soát các hoạt động ngân hàng và bảo vệ người gửi tiền là rất quan trọng.
Khủng hoảng châu Á năm 1997 không tác động trực tiếp đến Việt Nam nhưng
có ảnh hưởng đến hệ thống ngân hàng. Trong quá trình xử lí những đổ vỡ thì
BHTG là công cụ tài chính mà một số chính phủ châu Á sử dụng. Đồng thời nhiều
quốc gia nhìn nhận rằng nếu sử dụng BHTG thì có thể tránh cho quốc gia đó những
cuộc khủng hoảng tài chính. Chính vì vậy, để bảo vệ người gửi tiền và đảm bảo sự
phát triển ổn định của hệ thống ngân hàng, Nghị định số 89/1999/NĐ-CP (1999)
ngày 1/9/1999 về BHTG đã được Chính phủ ký ban hành và Quyết định số
218/1999/QĐ-Tg ngày 9/11/1999 của Thủ tướng Chính phủ, tổ chức BHTGVN đã
ra đời và đi vào hoạt động từ ngày 7/7/2000. BHTGVN cùng với NHNN, Bộ Tài
chính và Ủy ban giám sát tài chính quốc gia cấu thành mạng an toàn tài chính để
phối hợp xử lý các sự cố mất khả năng thanh khoản có thể xảy ra và duy trì lòng tin
của người gửi tiền.
1.3 Kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong việc xây dựng hệ thống
BHTG
1.3.1 Thực tiễn xây dựng BHTG ở một số nước trên thế giới
1.3.1.1 Tại Mỹ
Hoạt động BHTG tại Mỹ-Tổng công ty BHTG liên bang Mỹ (FDIC) chính
thức đi vào hoạt động sau Đạo luật Ngân hàng năm 1935. Là một tổ chức độc lập
với Chính phủ do Quốc hội thành lập, mục đích chính của FDIC thời kỳ đầu là

khắc phục tình trạng đổ vỡ hàng loạt ngân hàng trong những năm 20 và đầu những
năm 30 của thập kỷ trước.


22

Sau cuộc khủng hoảng tài chính 2008, Mỹ buộc phải xem xét lại tất cả chính
sách phát triển của mình trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là cải tổ hệ thống tài chính.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng, nguyên nhân chính dẫn đến cuộc khủng hoảng
này là việc Mỹ áp dụng chính sách lãi suất thấp trong một thời gian khá dài, cùng
với đó là việc giảm bớt các qui định trong các chuẩn mực tín dụng và an toàn hoạt
động ngân hàng, được gia tăng thêm nữa bởi việc chứng khoán hóa các tài sản thế
chấp, đã đặt hệ thống tài chính Mỹ vào một trạng thái rủi ro trầm trọng gây ra bởi
cho vay dưới chuẩn lan tràn. Bởi vậy, hệ thống ngân hàng chính là nơi chịu ảnh
hưởng nặng nề nhất đồng thời cũng là điểm bắt đầu để khắc phục những hậu quả
của cuộc khủng hoảng này.
Theo bài viết về “75 năm triển khai chính sách BHTG tại Mỹ và bài học kinh
nghiệm đối với Việt Nam” (Anh, 2010), trong các biện pháp nhằm tái cấu trúc hệ
thống ngân hàng của Mỹ sau cuộc khủng hoảng 2008, Tổng công ty BHTG MỹFDIC, được sử dụng một cách khéo léo để giải quyết các ngân hàng đổ vỡ, bảo vệ
người gửi tiền, ngăn chặn sự lây lan của khủng hoảng. Đây là giai đoạn mà vai trò
và quyền lực của FDIC đã được tăng lên ở mức chưa từng có. Khi tổ chức tham gia
BHTG bị phá sản, FDIC được chỉ định là tổ chức tiếp nhận và chịu trách nhiệm xử
lý tài sản nhằm thu hồi một cách nhanh nhất với giá trị tối đa các tài sản còn lại của
tổ chức đó. Thẩm quyền của FDIC về xử lý đổ vỡ ngân hàng được nâng lên rõ rệt
sau khi Đạo luật Dodd-Frank được ban hành.
FDIC được trao quyền lực rộng rãi không chỉ trong đảm bảo tiền gửi ngân
hàng; bảo vệ người gửi tiền; kiểm tra và giám sát hoạt động của các tổ chức tài
chính; trực tiếp xử lý đổ vỡ ngân hàng và sắp xếp các đợt mua bán sáp nhập… mà
còn có cả chức năng quản lý và giải cứu khủng hoảng. Ngày 06/03/2009, Bộ Tài
chính Mỹ đã quyết định cho phép FDIC vay tối đa tới 500 tỷ USD để giải quyết



23

vấn đề về vốn do quỹ vốn của FDIC đã giảm xuống mức thấp nhất trong vòng 25
năm qua.
Điều này cũng giúp cho FDIC dễ dàng hơn trong việc xử lý các ngân hàng
quan trọng trong hệ thống mà không cần đến sự cho phép của Quốc hội. Kết quả là,
từ khi khủng hoảng xuất hiện đến 30/06/2011, 373 ngân hàng quy mô lớn nhỏ đổ
vỡ đã được FDIC xử lý thành công, đặc biệt sau khi được phép áp dụng quy tắc
“ngoại lệ về rủi ro hệ thống”-kể từ tháng 10 năm 2008 (nghiệp vụ cho phép FDIC
không nhất thiết phải thực hiện chi phí tối thiểu- ví dụ như đảm bảo cho tất cả các
chủ nợ được bảo vệ trước rủi ro mang tính hệ thống thay vì chỉ đảm bảo cho tiền
gửi được bảo hiểm).
Như vậy, trong giai đoạn khủng hoảng, FDIC đã chứng minh được vai trò
thực tiễn trong xử lý ngân hàng đổ vỡ một cách nhanh, êm thấm mà không gây ra
các hiện tượng hoảng loạn. Việc chính phủ Mỹ gia tăng thêm thẩm quyền cho
FDIC sau giai đoạn khủng hoảng đã khẳng định vai trò chủ động của FDIC trong
hệ thống an toàn tài chính và là thành phần không thể thiếu trong việc thực hiện các
biện pháp của Chính phủ Mỹ để quản lý và ngăn ngừa khủng hoảng trong hệ thống
tài chính.
Chính sách phí của FDIC không những đã lập quỹ BHTG phục vụ chi trả
BHTG, mà còn giúp nâng cao hoạt động kinh doanh của các tổ chức tham gia
BHTG nhất là sau khi thay đổi phí đồng hạng bằng phí theo mức độ rủi ro (1993).


24

Bảng 1.1 Một số mốc thay đổi quan trọng trong chính sách phí BHTG của FDIC
Tiến trình


Phí

Thành lập

Đồng hạng

8/1935

Đồng hạng

1950

Đồng hạng

Cách tính
1%/ số dư tiền gửi thuộc đối tượng bảo hiểm
1/12 của 1% tổng số tiền gửi, tương đương
với 8,3 cent/ 100USD tiền gửi huy động
3,7 cent/ 100 USD tiền gửi huy động
Trong khoảng 3,1 cent - 3,9 cent/ 100 USD

1950 đến 1980

Đồng hạng

tiền gửi huy động (riêng năm 1974 là 4,4
cent)
8,3 cent cho 100 USD tiền gửi huy động.


1980

Đồng hạng

Khi xuất hiện đổ vỡ ngân hàng làm FDIC
phải chi lớn
Dao động trong khoảng từ 0,00% đến 0,27%

1/1/1993

Theo mức độ rủi ro của tổng số dư tiền gửi thuộc đối tượng
được bảo hiểm tại mỗi ngân hàng
Đề xuất giải pháp các ngân hàng trả trước 3 năm phí BHTG khi

29/9/2009

tiền ước tính cần thiết để giải quyết các vụ sụp đổ ngân hàng tại
Mỹ từ 2009 tới năm 2013 đã lêntới 100 tỷ USD.
Nguồn: FDIC.

Năm

Bảng 1.2 Hạn mức bảo hiểm của FDIC trong lịch sử
1934
1935
1950
1966

Hạn mức bảo hiểm


$2500

$5000

$10.000

$15.000

Năm

1969

1974

1980

2008

Hạn mức bảo hiểm

$20.000

$40.000

$100.000

$250.000
Nguồn: FDIC.

Quốc hội phê chuẩn gia tăng tạm thời giới hạn BHTG từ $100,000 đến $

250,000, có hiệu lực từ ngày 03/10/2008, thông qua ngày 31/12/2010. Ngày


25

20/5/2009, sự gia tăng tạm thời đã được mở rộng, thông qua ngày 31/12/2013. Tuy
nhiên, Wall Street Reform và luật bảo vệ người tiêu dùng (P.L.111-203), được ký
thành luật vào ngày 21/07/2010, thực hiện các giới hạn bảo hiểm $250,000. Ngoài
ra,Đạo luật Cải cách BHTG Liên bang năm 2005 (P.L.109-171) cho phép cho các
ban của FDIC và National Credit Union Administration (Cục Quản lý các tổ hợp
tín dụng Hoa Kỳ-NCUA) xem xét lạm phát và các yếu tố khác mỗi 5 năm bắt đầu
từ năm 2010 và nếu cần sẽ điều chỉnh giới hạn dưới một công thức quy định.
1.3.1.2 Tại Hàn Quốc
Mặc dù mới được thành lập năm 1996, Tổng công ty BHTG Hàn Quốc
(KDIC) được đánh giá là tổ chức triển khai hiệu quả chính sách BHTG đặc biệt
trong việc xử lý khủng hoảng, bảo vệ người gửi tiền, bình ổn hệ thống ngân hàng,
nâng cao niềm tin công chúng. Việc thiết kế mô hình của tổ chức BHTG phụ thuộc
vào hệ thống chính trị, điều kiện kinh tế, xã hội, cấu trúc, đặc điểm thị trường tài
chính của mỗi quốc gia nhưng hệ thống BHTG Hàn Quốc được nhiều quốc gia
tham khảo vì đảm bảo nguyên tắc chi phí tối thiểu, không dùng tiền ngân sách (thuế
của dân) để xử lý đổ vỡ tín dụng, mang lại lợi ích cho người gửi tiền, doanh nghiệp
và nền kinh tế.
Sau ảnh hưởng từ cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á năm 1997, các nhà
hoạch định chính sách Hàn Quốc đều nhận định nguyên nhân chủ yếu bắt nguồn từ
việc đầu tư tràn lan và vay nợ quá mức của các tập đoàn kinh tế cũng như quy định
an toàn hoạt động ngân hàng lỏng lẻo, quản trị rủi ro yếu kém và thiếu sự minh
bạch trong công tác tài chính của hệ thống các TCTD. Do đó, Chính phủ Hàn Quốc
đã thực hiện một kế hoạch kinh tế tổng thể trong đó tập trung vào ổn định kinh tế vĩ
mô và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng, doanh nghiệp và thị trường lao động. Tái
cấu trúc hệ thống ngân hàng là một trong những mục tiêu ưu tiên hàng đầu của Hàn

Quốc trong giai đoạn này.


×