Tải bản đầy đủ (.pdf) (93 trang)

Nghiên cứu dịch vụ chăm sóc khách hàng đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế ở quảngtrị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.34 KB, 93 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ

VŨ THÚY NGỌC

Nghiên cứu dịch vụ chăm sóc khách hàng
Đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị
trong quá trình phát triển kinh tế ở Quảng
Trị hiện nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI, 2006


BẢNG QUY ƯỚC NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
CNH, HĐH:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNXH:

Chủ nghĩa xã hội

CNTB:

Chủ nghĩa tư bản

HĐND:

Hội đồng nhân dân



TW:

Trung ương

TBCN:

Tư bản chủ nghĩa

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

UBND:

Uỷ ban nhân dân

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 4
Chương 1. VAI TRÒ CỦA ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ.................... 9
1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của hệ thống chính trị
trong quá trình phát triển kinh tế ....................................................................... 9
1.1.1. Quan điểm mác xít về vai trò chính trị đối với kinh tế ........................... 9
1.1.2. Quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và
đổi mới chính trị của Đảng ta ......................................................................... 13
1.2. Phát triển kinh tế và vai trò của hệ thống chính trị trong quá trình đó ở
nước ta hiện nay .............................................................................................. 21

Chương 2 THỰC TRẠNG VIỆC PHÁT HUY VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ Ở QUẢNG TRỊ HIỆN NAY ..................................................................... 33
2.1. Nét đặc thù về kinh tế, xã hội và chính trị ở Quảng Trị .......................... 33
2.2. Tác động đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị trong quá trình phát
triển kinh tế ở Quảng Trị hiện nay .................................................................. 39
2.2.1. Những thành tựu đã đạt được ............................................................... 39
2.2.2. Những hạn chế ...................................................................................... 54
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ ĐỔI MỚI HOẠT ĐỘNG
CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TRONG QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH
TẾ Ở QUẢNG TRỊ HIỆN NAY…………………………………………….62
3.1. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh
nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn mới ....................... 62
3.1.1. Đổi mới nội dung lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ...................................... 62
3.1.2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh ................................ 66
3.2. Nâng cao hiệu lực của chính quyền tỉnh đối với việc phát triển kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa .............................. 69
3.2.1. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền tỉnh nhằm tăng cường
hiệu lực quản lý và điều tiết nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần .................... 69

2


3.2.2. Nâng cao hiệu lực của các công cụ, chính sách quản lý sản xuất kinh doanh .. 72
3.2.3. Tiếp tục thực hiện đổi mới cơ chế quản lý và củng cố sức mạnh của kinh tế
nhà nước .......................................................................................................... 75
3.3. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của các tổ chức quần chúng, tổ
chức xã hội, một cach phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế trong giai đoạn
công nghiệp hoá, hiện đại hoá ......................................................................... 80
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 84

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 86

3


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trên cơ sở quán triệt chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
giải quyết đúng đắn quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, sau 20
năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, nền kinh
tế nước ta đã có những bước phát triển mới và thu được những thành tựu đáng
tự hào, đưa đất nước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
Đường lối chiến lược phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận động theo
cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng XHCN là
đường lối đổi mới đúng đắn được Đảng ta đề ra và nhân dân đã lựa chọn. Tuy
nhiên, đối với chúng ta, đây là vấn đề chưa có tiền lệ, vì vậy trên con đường
đổi mới đã bộc lộ những khuyết tật cần lý giải, giải quyết.
Trước tình hình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải tổng kết thực tiễn, tìm ra
những hình thức và bước đi thích hợp. Quá trình đó đòi hỏi phải có sự lãnh
đạo của chính trị trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển với vai trò là “người
cầm lái”. Nắm vững nguyên tắc về đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là việc
làm thiết thực để từ đây, đưa ra những giải pháp nâng cao vai trò của chính trị
trong lãnh đạo, quản lý, điều tiết nhằm thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế
theo định hướng XHCN.
Là hình ảnh thu nhỏ, tỉnh Quảng Trị mang gương mặt của cả nước,
đồng thời lại có những nét đặc sắc với những tiềm năng, lợi thế và khó khăn
riêng.
Trong những năm qua, cùng với sự đổi mới của đất nước, tình hình
kinh tế - xã hội của tỉnh Quảng Trị đã có những chuyển biến tích cực, đạt mức
tăng trưởng bình quân chung của cả nước. Đời sống của nhân dân tron toàn

tỉnh từng bước được cải thiện. Tuy vậy, sự phát triển vẫn còn chưa tương
xứng với tiềm năng lợi thế của tỉnh, nguy cơ tụt hậu so với tỉnh bạn vẫn rất
lớn. Trên tinh thần tập trung mọi nguồn lực để phát triển kinh tế - xã hội thì
một trong những nhiệm vụ hàng đầu là đổi mới hoạt động của hệ thống chính

4


trị. Đổi mới cách nghĩ, cách làm, xoá bỏ các rào cản làm chậm quá trình phát
triển nhằm phát huy nội lực và tranh thủ tối đa ngoại lực bằng các cơ chế,
chính sách phù hợp với tình hình của tỉnh, xây dựng một Quảng Trị giàu về
kinh tế, mạnh về quốc phòng, ổn định xã hội [55, tr.1]. Theo đó, có thể nói,
việc luận giải những nội dung cơ bản của đổi mới hệ thống chính trị, quan hệ
giữa đổi mới chính trị và đổi mới kinh tế; phân tích thực trạng đổi mới hoạt
động của hệ thống chính trị ở Quảng Trị hiện nay và đề xuất những giải pháp
mang tính định hướng cho công cuộc đổi mới này luôn là việc làm vừa có ý
nghĩa thực tiễn cấp bách. Đó là lý do chúng tôi chọn vấn đề: “Đổi mới hoạt
động của hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế ở Quảng Trị
hiện nay” làm đề tài nghiên cứu nhằm góp phần nâng cao năng lực và hiệu
quả lãnh đạo của hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế của tỉnh
nhà.
2. Tình hình nghiên cứu
Những năm qua, giới nghiên cứu lý luận nước ta đã dành sự quan tâm
lớn cho việc nghiên cứu vấn đề đổi mới hệ thống chính trị và vai trò của nó
đối với kinh tế của nhiều nước trên thế giới cũng như của Việt Nam.
Xác định chính trị với vai trò là người “cầm lái” đối với nền kinh tế,
giới nghiên cứu lý luận nước ta đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu
về chính trị, về hệ thống chính trị, về vai trò của nhân tố chủ quan với sự
nghiệp phát triển kinh tế…
Về vai trò của hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế, có

thể kể đến các công trình, như Phạm Ngọc Quang: “Đảng, Nhà nước và quá
trình phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản số 6 -1991; Vũ Văn Hoạ: “Vai trò
của chính trị trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay”;
Luận văn thạc sỹ triết học 2002: “Nhân tố chủ quan với việc đảm bảo định
hướng XHCN sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở nước ta
hiện nay”; Luận văn thạc sỹ triết học của Nguyễn Văn Ninh, 2002.
Về đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới
chính trị ở Việt Nam có thể kể đến các công trình, như: Phạm Văn Dần:

5


“Nắm vững phép biện chứng giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị trong
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH”, Tạp chí Nghiên cứu lý luận số 5, 1997; “Cơ
sở khoa học của công cuộc đổi mới kinh tế ở Việt Nam”; Hoàng Chí Bảo: “Về
mối quan hệ giữa đổi mới theo định hướng XHCN với định hình CNXH ở Việt
Nam”; Tạp chí Cộng sản số 24, 1998…
Các công trình kể trên đã đề cập khá toàn diện về vai trò của hệ thống
chính trị trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường the định hướng
XHCN ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên, vấn đề đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình phát triển kinh tế của Quảng Trị hiện nay thì chưa có
công trình nào tập trung giải quyết. Chính vì vậy, trong đề tài nghiên cứu này,
chúng tôi cố gắng cung cấp những vấn đề lý luận và thực tiễn cho công tác
đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị ở một địa phương - tỉnh Quảng Trị.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở những vấn đề lý luận về mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới hệ thống chính trị, làm rõ và khái quát hoá thực trạng đổi mới của
hệ thống chính trị của tỉnh Quảng Trị, luận văn và đề xuất một số giải pháp
mang tính định hướng nhằm đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị trong

quá trình phát triển kinh tế hiện nay ở tỉnh Quảng Trị.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cơ bản
sau:
- Trình bày quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ
giữa đổi mới kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị trên cơ sở đó trình bày vai
trò của hệ thống chính trị trong quá trình phát triển kinh tế ở nước ta và những
vấn đề đặt ra hiện nay.
- Phân tích thực trạng đổi mới hoạt động của hệ thống chính trị tỉnh
Quảng Trị trong quá trình phát triển hiện nay của tỉnh.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu mang tính định hướng để đổi mới
hoạt động của hệ thống chính trị với quá trình phát triển kinh tế ở Quảng Trị.

6


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn này giới hạn trong nghiên cứu vấn đề đổi mới hoạt động của
hệ thống chính trị tỉnh Quảng Trị trong quá trình phát triển kinh tế ở tỉnh hiện
nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
các Nghị quyết, Văn kiện Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam, những quan điểm
của các nhà nghiên cứu để khái quát những vấn đề mà mục đích và nhiệm vụ
của luận văn đề ra.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận biện chứng duy
vật, chủ yếu là các phương pháp kết hợp phân tích và tổng hợp, lôgíc và lịch
sử, phương pháp từ trừu tượng đến cụ thể.

Mọi nhận định, đánh giá trong luận văn đều được xây dựng trên cơ sở
phân tích, khái quát những dữ kiện thực tế và những công trình khoa học đã
công bố liên quan đến đề tài.
6. Đóng góp của luận văn
Bằng kết quả đạt được, luận văn góp phần nâng cao nhận thức về vai
trò của hệ thống chính trị trong việc lãnh đạo, quản lý nền kinh tế của đất
nước. Luận văn còn góp phần tổng kết thực tiễn đổi mới ở Quảng Trị và có
thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy triết học, chính
trị học, quản lý nhà nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn
gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1. Vai trò của đổi mới hệ thống chính trị đối với sự phát triển
kinh tế ở Việt Nam.
Chương 2. Thực trạng việc phát huy vai trò hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình phát triển kinh tế ở Quảng Trị hiện nay.

7


Chương 3. Một số giải pháp chủ yếu đổi mới hoạt động của hệ thống
chính trị trong quá trình phát triển kinh tế ở Quảng Trị hiện nay.

8


Chương 1
VAI TRÒ CỦA ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ Ở VIỆT NAM
1.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò của hệ thống

chính trị trong quá trình phát triển kinh tế
1.1.1. Quan điểm mác xít về vai trò chính trị đối với kinh tế
Chính trị là hoạt động liên quan đến mối quan hệ giữa các nhóm xã hội
lớn, trước hết là giữa các giai cấp, xét rộng hơn nữa là quan hệ giữa các dân
tộc, giữa các quốc gia trên thế giới. Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các
tập đoàn xã hội trong việc giành, giữ và sử dụng quyền lực Nhà nước. Theo
V.I.Lênin, trong chính trị, vấn đề cốt lõi nhất là “thiết chế quyền lực nhà
nước”. Do chính trị là quan hệ giữa các giai cấp xã hội tức là sản phẩm của xã
hội có giai cấp, gắn liền với sự ra đời, phát triển của Nhà nước, nên nó là một
hiện tượng lịch sử. Điều đó có nghĩa rằng, nó có quá trình hình thành, phát
triển và tiêu vong như mọi quá trình, hiện tượng lịch sử xã hội khác. Chính trị
chỉ xuất hiện và tồn tại trong những giai đoạn phát triển nhất định của lịch sử,
đồng thời nó sẽ mất đi khi cơ sở tồn tại của nó không còn nữa.
Trên phương diện triết học, Chính trị là phạm trù dùng để chỉ chế độ
chính trị, hệ thống tổ chức chính trị, sinh hoạt chính trị, trật tự, tình hình chính
trị của một quốc gia nào đó hoặc của xã hội loài người nói chung trong những
thời điểm lịch sử nhất định. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, thì
chính trị là bộ phận cấu thành quan trọng nhất trong kiến trúc thượng tầng của
hình thái kinh tế - xã hội. Nó là yếu tố kiến trúc thượng tầng liên quan trực
tiếp đến lĩnh vực kinh tế.
Ở đây, khi bàn về vai trò của chính trị, chúng tôi muốn nói đến vai trò
của đường lối, chính sách của các chủ thể chính trị cơ bản cấu thành nên hệ
thống chính trị của những quốc gia, như đảng, cầm quyền, Nhà nước và các
cơ quan chính quyền các cấp.

9


Kinh tế là một khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Ngày
nay, khái niệm kinh tế được hiểu theo hai nghĩa cơ bản:

- Tổng thể các quan hệ sản xuất nhất định trong lịch sử phù hợp với
trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất.
- Toàn bộ các ngành kinh tế quốc dân hay một bộ phận của nền kinh tế
quốc dân. Nó bao gồm các hình thức sản xuất theo ngành kinh tế, thành phần
kinh tế và vùng kinh tế (tức cơ cấu kinh tế) và cơ chế quản lý kinh tế.
Như vậy, nói đến kinh tế là nói đến điều kiện vật chất của đời sống xã
hội, hay nói cách khác, đó là phương tiện để con người tồn tại.
Khái niệm “kinh tế” cũng có thể dùng để chỉ tổng thể các quan hệ sản
xuất của một xã hội nhất định, tạo nên cơ sở kinh tế của xã hội đó. C.Mác đã
viết: “Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã
hội, tức là cái cơ sở hiện thực trên đó dựng lên một kiến trúc thượng tầng
pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với
cơ sở hiện thực đó” [7, tr.15].
Như vậy, khi nghiên cứu vai trò của chính trị đối với kinh tế, chúng ta
có thể tiếp cận từ những phương diện sau:
Thứ nhất, từ quan hệ của các lĩnh vực cơ bản của chính trị, quyền lực
chính trị (đường lối, chính sách, tổ chức, thiết chế chính trị, người lãnh đạo
chính trị) với toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Thứ hai, từ quan hệ chính trị, quyền lực chính trị nói chung với các lĩnh
vực kinh tế cơ bản (nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ...) hoặc với các quan hệ
kinh tế cơ bản, như quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý, quan hệ phân phối hoặc
với các hoạt động kinh tế, như hoạt động kinh tế trong nước, hoạt động kinh tế
đối ngoại.
Thứ ba, từ cấp độ quan hệ hẹp, cụ thể hơn, như chính sách về nông
nghiệp, chính sách về sở hữu...

10


Có thể khẳng định rằng, quan hệ chính trị với kinh tế, theo những góc

độ nghiên cứu khác nhau, có thể bao trùm những nội dung và hình thức các
vấn đề khác nhau, nhưng đặc trưng bản chất của quan hệ này được biểu hiện ở
quan hệ của việc nắm và thực thi quyền lực chính trị với tính hiệu quả của nền
kinh tế.
Vấn đề quan hệ giữa kinh tế và chính trị đã được đặt ra từ rất sớm trong
lịch sử triết học. Tất cả các nhà triết học trước Mác đều đi tìm nguyên nhân
của các sự biến lịch sử không phải trong kinh tế, mà ở trong chính trị, tôn giáo
hoặc trong các nhân tố tinh thần khác.
Khác với các nhà triết học trước đó, C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi tìm
nguyên nhân của các động cơ tư tưởng trong lĩnh vực tồn tại xã hội, tìm
nguyên nhân của chính trị trong lĩnh vực kinh tế.
Theo C. Mác và Ph.Ăngghen kinh tế có vai trò hết sức to lớn đối với
chính trị. Vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị được thể hiện ở chỗ:
Kinh tế tạo ra những cơ sở cho sự xuất hiện giai cấp và đối kháng giai cấp;
kinh tế tạo ra điều kiện để hình thành các đảng của các giai cấp thông qua
những cuộc đấu tranh giai cấp, đồng thời kinh tế còn là cơ sở cho sự ra đời
của nhà nước... Khi nói về vai trò quyết định của kinh tế đối với những quan
hệ chính trị, Ph.Ăngghen đã viết: “Tôi nhận thấy rất rõ ràng rằng những sự
kiện kinh tế mà từ trước đến nay, những tác phẩm sử học cho là không đóng
một vai trò nào, hoặc có chăng nữa thì chỉ đóng một vai trò thảm hại, thì ít
nhất trong thế giới hiện đại, cũng đã là một lực lượng lịch sử quyết định” [8,
tr.321].
Trong khi khẳng định kinh tế đóng vai trò cơ sở, nền tảng, và là cốt lõi
vật chất khách quan của chính trị, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
cũng đã đánh giá rất cao vai trò của chính trị đối với sự phát triển kinh tế.
Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin, chính trị có thể tác động
đến kinh tế theo hai hướng: Thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế.

11



Như vậy, để nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa chính trị và kinh
tế thì bên cạnh việc phải ý thức được vị trị và lợi ích của giai cấp cầm quyền,
thì yêu cầu cơ bản, nền tảng mà chúng ta cần phải tính tới là:
Quan hệ và sự tác động của chính trị với kinh tế phải vì mục tiêu phát
triển sức sản xuất, phát triển sản xuất. Điều này có nghĩa, xét từ phương diện
vai trò của chính trị đối với kinh tế thì một giai cấp xã hội, một thiết chế chính
trị - xã hội, một đường lối chính sách nào đó chỉ được công nhận là tiến bộ, là
phù hợp với xu thế phát triển, khi sự tồn tại và hoạt động của nó tạo điều kiện
thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, tạo đà cho sản xuất phát triển.
Vai trò của chính trị đối với kinh tế đã được V.I.Lênin thể hiện đặc biệt
rõ nét ở hai luận điểm kinh điển của Người:
+ Thứ nhất “chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế” [38, tr.349] .
+ Thứ hai “chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh
tế” [38, tr.349].
Như vậy, theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, chính trị, một mặt, được quyết định bởi kinh tế, nhưng mặt khác nó lại
có vị trí tương đối độc lập. Chính trị không đơn giản chỉ là “sản phẩm thụ
động” hay “chiếc bóng của kinh tế” [54, tr.66]. Chính trị cũng có khả năng
tác động trở lại một cách mạnh mẽ đối với kinh tế, cụ thể là đối với cơ cấu
kinh tế của xã hội mà ở đó, nó dựa vào. Chính vì vậy, V.I.Lênin đã cho rằng
“chính trị là sự biểu hiện tập trung của kinh tế”. Đồng thời, để nhấn mạnh
tầm quan trọng của chính trị đối với kinh tế, V.I.Lênin còn khẳng định:
“Chính trị không thể không chiếm địa vị hàng đầu so với kinh tế”.
Hiểu đúng hai luận điểm nêu trên của V.I.Lênin, sẽ giúp chúng ta, cả trong
lý luận lẫn thực tiễn, tránh được cả khuynh hướng tuyệt đối hoá chính trị lẫn
khuynh hướng tuyệt đối hoá kinh tế những sai lầm mà chúng ta rất dễ mắc phải
trong đổi mới chủ nghĩa xã hội hiện nay.

12



Khái quát lại, có thể nói tác động của chính trị đối với kinh tế được biểu
hiện ở hai xu hướng chủ đạo: chính trị sẽ có tác động tích cực, nếu nó tác động
cùng chiều với các quy luật phát triển kinh tế, thúc đẩy kinh tế phát triển. Trái lại,
sự tác động ngược chiều của chính trị đối với các quy luật kinh tế sẽ dẫn đến xung
đột giữa kinh tế và chính trị, lúc đấy chính trị sẽ cản trở, kìm hãm sự phát triển của
kinh tế.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã phân tích mối quan hệ này
như sau: “Tác động ngược của quyền lực Nhà nước với sự phát triển kinh tế có
thể có ba loại. Nó có thể tác động cùng hướng - khi ấy sự phát triển diễn ra
nhanh hơn; nó có thể tác động ngược lại sự phát triển kinh tế - khi ấy thì hiện
nay ở mỗi dân tộc lớn, nó sẽ tan vỡ, sau một khoảng thời gian nhất định, hoặc là
nó có thể cản trở sự phát triển kinh tế ở những hướng nào đó và thúc đẩy sự phát
triển ở những hướng khác. Trường hợp này rốt cuộc dẫn đến một trong hai
trường hợp trên. Tuy nhiên, rõ ràng là trong trường hợp thứ hai và thứ ba, quyền
lực chính trị có thể gây tác hại rất lớn cho sự phát triển kinh tế và có thể gây ra
sự lãng phí to lớn về sức lực và vật chất” [8, tr.678].
Xã hội càng phát triển thì vai trò của chủ thể xã hội càng tăng. Trong
điều kiện đổi mới kinh tế hiện nay thì chính trị càng trở nên đặc biệt quan
trọng, nếu không nói là quyết định.
1.1.2. Quá trình nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế
và đổi mới chính trị của Đảng ta
Tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan
hệ biện chứng giữa kinh tế và chính trị đã trở thành lý luận khoa học và cách
mạng cho việc nhận thức và cải tạo xã hội, đặc biệt là đối với các nước phát
triển theo định hướng XHCN như nước ta.
Từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất
nước. So với công cuộc cải cách và chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch, tập trung
sang kinh tế thị trường ở các quốc gia khác, đổi mới ở Việt Nam có những nét
đặc thù riêng.


13


Khác với các nước Đông Âu và Liên Xô trước đây, ở Việt Nam, nhu
cầu đổi mới các chính sách kinh tế đã xuất phát từ chính lĩnh vực kinh tế, chứ
không phải là hệ quả của những biến động chính trị. Việc Đảng ta nhận thức
được điều này đã làm “tan băng” những quan niệm lệch lạc, cực đoan, chủ
quan, duy ý chí, cường điệu vai trò của chính trị, cho “chính trị là thống
soái”.
Đổi mới ở Việt Nam không phải là chuyển từ mô hình cũ sang một mô
hình đã có sẵn, lấy từ một nước nào đó, mà là quá trình xoá bỏ các yếu tố của
mô hình cũ và thay thế bằng những yếu tố mới, thích hợp hơn với điều kiện
cụ thể của Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế có nhiều biến đổi lớn lao đã gợi ý cho Việt Nam trong
việc tìm tòi con đường đổi mới. Những quan điểm đổi mới của Việt Nam
được hình thành không chỉ từ việc đúc kết kinh nghiệm của nước mình, mà
còn từ những kinh nghiệm thành công và không thành công của các nước xã
hội chủ nghĩa khác. Đổi mới ở Việt Nam là quá trình thử nghiệm và trong quá
trình đó, cái mới và cái cũ đan xen lẫn nhau, cái cũ không mất đi ngay mà lùi
dần, có lúc, có nơi còn chiếm ưu thế hơn so với cái mới, nhưng xu hướng
chung là cái mới dần dần được khẳng định và đưa tới thành công [67, tr.90].
Vịêc lựa chọn con đường đổi mới ở Việt Nam được Đảng ta phân tích sâu sắc
từ tình hình thế giới và khu vực, rút ra từ thực tiễn của những nước XHCN lúc
đó và xu thế vận động, phát triển của thời đại một cách thận trọng để trên cơ
sở đó, lựa chọn con đường đi phù hợp với tình hình phát triển của đất nước
mình.
Cuối những năm 70, đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nền kinh tế
Việt Nam bị lâm vào tình trạng suy thoái. Nhu cầu tối thiếu trong đời sống
nhân dân không được đáp ứng, lương thực thực phẩm thiếu trầm trọng (năm

1980 nhập 1.576.000 tấn lương thực), mất cân đối nghiêm trọng trong xuất
khẩu và nhập khẩu (năm 1979 nhập 1.526 triệu rúp - đô la, xuất 320 triệu rúp

14


- đôla). Giá cả sinh hoạt tăng cao so với thu nhập của nhân dân: năm 1976 128%; năm 1977 - 117%; năm 1978 - 120,9%; năm 1979 - 119,4). Nhìn tổng
quát, nền kinh tế nước ta lâm vào tình trạng trì trệ nghiêm trọng. Trong 5 năm
1976 - 1980, sản xuất công nghiệp tăng bình quân hàng năm là 0,6%, nông
nghiệp là 1,9%, thu nhập quốc dân 0,4%, trong khi đó, dân số tăng 4,5 triệu
người. Trước tình hình này, đổi mới trở thành đòi hỏi bức thiết của đất nước.
Cùng với đó, tác động của những biến đổi trong tình hình thế giới đối
với nước ta ngày càng trở nên mạnh mẽ và nhanh chóng hơn. Trước hết, công
cuộc “cải cách, mở cửa” của Liên Xô - một cường quốc XHCN đứng đầu hệ
thống XHCN thế giới với những diễn biến phức tạp, đầy sóng gió. Không
những thế, xu thế toàn cầu hoá đã trở nên phổ biến và được tăng cường mạnh
mẽ, đòi hỏi Việt Nam phải vượt lên thử thách, tranh thủ thời cơ.
Yêu cầu lúc này mà Đảng phải đặt ra là “phải nghiêm khắc nhận rõ
những khuyết điểm và sai lầm chủ quan” biểu hiện trong việc xác định mục
tiêu, nhiệm vụ, cũng như “sai lầm lớn về tổ chức thực hiện”. Đảng đã tiến
hành những cuộc thử nghiệm và những cuộc thử nghiệm này đã đem đến cả
những thành công lẫn thất bại. Mặc dù vậy, những cuộc thử nghiệm của Đảng
đã thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy không những đối với Đảng, mà còn cho
cả xã hội và trở thành động lực để Đảng ta mạnh dạn đi tới công cuộc đổi mới
toàn diện và sâu sắc, được mở đầu bằng đại hội VI của Đảng năm 1986 - Đại
hội của đổi mới.
Chủ nghĩa Mác-Lênin luôn là nền tảng tư tưởng của Đảng ta, chỉ đạo
toàn bộ sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta. Đổi mới tư duy là nhằm khắc
phục những quan niện không đúng, làm phong phú những quan niệm đúng về
thời đại, về CNXH, vận dụng sáng tạo và phát triển chứ không phải xa rời

những nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đổi mới tổ chức và phương thức
hoạt động của hệ thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò lãnh đạo của
Đảng, tăng cường sự quản lý của Nhà nước, phát huy quyền làm chủ của nhân

15


dân [54, tr.103]. Những nguyên tắc này được tiếp tục khẳng định lại và bổ
sung thêm ở các Hội nghị Ban chấp hành TW lần thứ 7 (8/1989) và 8
(3/1990) khoá VI.
Trong công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng XHCN, mối quan
hệ giữa kinh tế và chính trị đã tiếp tục được cụ thể hoá và hoàn thiện dần qua
các kỳ đại hội lần thứ VII, thứ VIII, thứ IX và thứ X của Đảng.
Nhận thức rõ hơn về quan hệ giữa kinh tế và chính trị để từ đó giải
quyết vấn đề mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (năm 1991) đã nêu rõ: “… phải tập
trung sức làm tốt đổi mới kinh tế - đáp ứng những đòi hỏi cấp bách của nhân
dân về đời sống, việc làm và các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật chất
kỹ thuật của CNXH, cơi đó là điều kiện quan trọng để tiến hành thuận lợi đổi
mới trong lĩnh vực chính trị. Đồng thời với đổi mới kinh tế, phải từng bước
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, phát huy
ngày càng tốt quyền làm chủ và năng lực sáng tạo của nhân dân trên các lĩnh
vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội” [16, tr.54]. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ VIII của Đảng (1996) tiếp tục khẳng định: “kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời từng bước đổi mới chính trị” [17, tr.14]. Một lần nữa, tư tưởng trên
lại được quán triệt và là chủ đề của Đại hội X: “Nâng cao năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn
diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển”
[19, tr.12].

Như vậy, có thể nói, ngay từ đầu, Đảng ta đã xác định đổi mới toàn
diện, trong đó đổi mới kinh tế là trọng tâm; xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then
chốt.
Coi đổi mới kinh tế là trọng tâm, Đảng ta thay đổi cơ chế kế hoạch hoá
tập trung quan liêu, bao cấp thành cơ chế phát triển nền kinh tế hàng hoá

16


nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong sự thống nhất
biện chứng với tính đa dạng của các hình thức sở hữu, đa dạng các hình thức
phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu,
nhằm thúc đẩy phát triển sản xuất. Đây là đổi mới căn bản mà ý nghĩa sâu xa
của nó là tôn trọng quy luật khách quan về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất
với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nhờ đó, mở đường, giải phóng
cho mọi tiềm năng xã hội, giải phóng sức sản xuất. Nhân tố quan trọng bậc
nhất của lực lượng sản xuất là con người. Người lao động làm chủ, được thúc
đẩy bởi nhu cầu lợi ích, trong đó lợi ích cá nhân của người lao động là động
lực trực tiếp và là cơ sở để thực hiện và phát triển lợi ích của tập thể và của
toàn xã hội.
Việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, quan liêu, bao cấp
sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một bước
phát triển lớn không chỉ về nhận thức tư tưởng, tư duy lý luận mà còn là sự
khẳng định trong thực tiễn đời sống xã hội, đưa đất nước ta nhanh chóng thoát
khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội để tiếp tục đi lên CNXH. Từ vấn đề
cốt lõi này đã dẫn tới sự đổi mới toàn diện, sâu sắc và triệt để định hướng phát
triển nền kinh tế nhưng không bị chệch hướng mà trái lại, vẫn giữ vững mục
tiêu hướng tới chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn 20 năm đổi mới đã chứng tỏ việc

xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị
trường định hướng XHCN là một sự sáng tạo của Đảng, hoàn toàn phù hợp
với thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta. Quan hệ sản xuất XHCN tiếp tục
được xác lập và củng cố trên cả ba phương diện: sở hữu, quản lý, tổ chức và
phân phối sản phẩm.
Về sở hữu, một mặt, chúng ta tiếp tục duy trì chế độ sở hữu công cộng
với những tư liệu sản xuất chủ yếu, trong đó Nhà nước là đại diện chủ sở hữu.

17


Mặt khác, chúng ta đã thực hiện đa dạng hoá các hình thức sở hữu cho phù
hợp với trình độ phát triển thực tế của lực lượng sản xuất, từ đó thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
Về quản lý, qua việc đổi mới chế độ quản lý đối với nền kinh tế nhiều
thành phần, trước hết là cơ chế quản lý đối với thành phần kinh tế nhà nước,
chúng ta dần dần thiết lập được cơ chế để người lao động thực hiện quyền dân
chủ, kiểm tra, kiểm soát quá trình sản xuất, kinh doanh, tham gia vào những
công việc quản lý kinh tế của nhà nước. Cùng với đổi mới các doanh nghiệp
nhà nước, chúng ta đã tiến hành đổi mới kinh tế hợp tác xã và đã thu được
những thành công nhất định, đưa kinh tế hợp tác xã lên một bước mới trong
nền kinh tế. Do đổi mới cơ chế quản lý, chúng ta đã khắc phục được tình
trạng “Cha chung không ai khóc” trước đây, khắc phục tình trạng phân tán tư
liệu sản xuất của nhà nước, làm giảm sự tha hoá về chế độ sở hữu.
Về phân phối, quan hệ phân phối không ngừng được củng cố và đổi
mới. Chúng ta thực hiện nhiều hình thức phân phối, trong đó lấy hình thức
phân phối dựa trên hiệu quả kinh tế và kết quả lao động là chủ yếu. Điều này
đã làm cho chế độ phân phối ngày càng hợp lý, đảm bảo tính công bằng và
tạo đồng lực to lớn cho sự phát triển kinh tế- xã hội nói chung.
Có thể khẳng định rằng, với những chính sách đúng đắn về đổi mới

kinh tế của Đảng ta mà những yêu cầu cấp thiết về sản xuất và đời sống đã
được giải quyết, đem lại sự tin tưởng của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới
và tự nó đã trở thành động lực thúc đẩy công cuộc đổi mới giành được nhiều
thắng lợi.
Song song với đổi mới về kinh tế là từng bước đổi mới và hoàn thiện hệ
thống chính trị. Đổi mới hệ thống chính trị từ chế độ tập trung, quan liêu, với
phương thức quản lý hành chính, mệnh lệnh sang dân chủ hoá các lĩnh vực
của đời sống xã hội, thực hiện dân chủ gắn liền với tôn trọng luật pháp, kỷ
cương xã hội, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Đổi mới trong lĩnh vực

18


này đã góp phần quan trọng vào việc tháo gỡ những lực cản đối với tăng
trưởng kinh tế, phát triển văn hoá- xã hội, sản sinh ra những nhân tố mới,
động lực mới thúc đẩy công cuộc đổi mới ở Việt Nam giành được nhiều thành
quả.
Hệ thống chính trị ở Việt Nam bao gồm 3 bộ phận cấu thành: Đảng,
Nhà nước, Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Nói đổi mới chính trị, về thực
chất là đổi mới tổ chức, cán bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức
chính trị đó.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là người lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng
thời là một bộ phận của hệ thống chính trị ấy. Đảng liên hệ mật thiết với nhân
dân, chịu sự giám sát của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật. Để đảm đương được vai trò lãnh đạo, Đảng phải vững mạnh về
chính trị, tư tưởng và tổ chức, phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn,
không ngừng nâng cao trình độ lý luận. Không chỉ thế, Đảng còn phải ra sức
xây dựng Nhà nước, củng cố hệ thống chính trị, đổi mới và hoàn thiện cơ chế
Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Đảng phải thường
xuyên tự phê bình và phê bình, chống chủ nghĩa cá nhân, chủ nghĩa cơ hội và

mọi hành động chia rẽ, bè phái. Đảng chủ trương nhìn thẳng vào sự thật, thấy
rõ thực chất những sai lầm chủ quan, duy ý chí, không tôn trọng hiện thực
khách quan, không hành động theo quy luật khách quan. Toàn Đảng, toàn dân
tập trung trí tuệ, đổi mới tư duy, tìm kiếm những nhận thức và hành động mới
cho chiến lược phát triển đất nước, đáp ứng những đòi hỏi của cuộc sống, phù
hợp với xu thế của thời đại.
- Nhà nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Nhà nước thể hiện và thực hiện ý
chí, quyền lực của nhân dân, định ra pháp luật, tổ chức quản lý mọi mặt đời
sống xã hội bằng pháp luật, kế hoạch và các chính sách cụ thể. Nhà nước có
mối quan hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến của

19


nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Nhờ vậy, chúng ta đã xây dựng
được cơ chế và đề ra những biện pháp kiểm soát, ngăn ngừa và chống lại tệ
quan liêu, tham nhũng, lộng quyền vô trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ
của nhân dân.
- Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là hình thức liên minh chính trị, liên hiệp
tự nguyện của các tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu
biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người
Việt Nam định cư ở nước ngoài. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đoàn kết toàn dân tộc nhằm xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN. Các đoàn thể nhân dân, tuỳ theo tính chất,
tôn chỉ mà mục đích đã xác định, vừa vận động các hội viên giúp nhau chăm lo,
bảo vệ các lợi ích thiết thực, vừa giáo dục, nâng cao trình độ mọi mặt cho các hội
viên, đồng thời tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội.
Sau 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới, có thể khẳng định, những
thành tựu mà chúng ta đã đạt được trong việc thực hiện đổi mới hệ thống

chính trị là đáng kể. Đổi mới hệ thống chính trị đã tạo ra bầu không khí dân
chủ và cởi mở trong xã hội, đã thiết lập được các cơ chế và chính sách để thực
hiện quyền dân chủ của nhân dân. Chúng ta đã xây dựng được một hệ thống
chính trị vững chắc, đảm bảo vai trò lãnh đạo xã hội, và tạo được niềm tin cho
quần chúng. Đó là điều kiện khách quan, cơ bản và quan trọng, tạo ra khả năng
phát triển theo định hướng XHCN ở nước ta. Trong quá trình phát triển nền
kinh tế nhiều thành phần, hệ thống chính trị nước ta tiếp tục đổi mới cho phù
hợp với cơ chế kinh tế mới và đáp ứng những yêu cầu của nền kinh tế đó.
Chúng ta đã giữ vững được ổn định về chính trị - xã hội, tạo điều kiện cần thiết
cho quá trình phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Qua sự phân tích trên đây chúng ta có thể khẳng định rằng, định hướng
xã hội chủ nghĩa sự phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta là khả
năng khách quan. Song, vấn đề là ở chỗ, khả năng khách quan đó liệu có trở

20


thành hiện thực hay không? Điều đó còn phụ thuộc vào vai trò của chính trị
trong việc thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo, điều hành nền kinh tế đất nước. Đây
là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn đối với giai đoạn cách mạng hiện nay ở
nước ta. Sau đây, chúng tôi xin nói rõ hơn về vấn đề này.
1.2. Phát triển kinh tế và vai trò của hệ thống chính trị trong quá trình
đó ở nước ta hiện nay
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định rằng, lựa chọn và phát triển kinh
tế đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy luật khách
quan của lịch sử. Song, cũng phải thấy rằng, đó là quá trình đầy khó khăn và
phức tạp.
Sau 20 năm thực hiện sự nghiệp đổi mới, Việt Nam chúng ta đã đạt
được thành tựu to lớn và rất quan trọng trên nhiều lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Việt Nam đã thoát ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo

dài nhiều năm, đã khắc phục được nạn lạm phát có lúc lên trên 700% (năm
1986) xuống mức lạm phát 12% (năm 1995) và sau đó. Cho đến nay lạm phát
chỉ còn 1 chữ số. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tốc độ tăng trưởng
GDP năm 2001 đạt khoảng 6,8%, cao hơn mức 6,7% năm 2000 và đứng thứ
hai thế giới (sau Trung Quốc). Cái đáng lưu ý là xu hướng tăng trưởng kinh tế
quý sau cao hơn quý trước. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực: Tỷ
trọng công nghiệp đạt 38,0%, dịch vụ đạt 39,0%; nông - lâm - thuỷ sản còn 23%
(năm 2000 là36,6%; 39,1%; 24,3%). Năm 2002, tốc độ tăng trưởng GDP của ta
ước đạt 7,5%, giá trị sản xuất nông - lâm - thuỷ sản tăng 4,8%, công nghiệp tăng
13%, kim ngạch xuất khẩu tăng 14-16%, vốn đầu tư phát triển toàn xã hội tăng
17% và bằng 32% GDP.
Năm 2003, tuy chúng ta gặp một số khó khăn, nhưng nền kinh tế nước
ta vẫn tiếp tục phát triển. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 7,24% (cao
hơn so với năm 2001 là 6,9%, năm 2002 là 7,04%, trong đó khu vực công
nghiệp tăng 10,28%), nông nghiệp tăng 3,19%, dịch vụ tăng 6,63%).

21


Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá,
tỷ trọng công nghiệp trong GDP tăng nhanh, từ 36,7% (năm 2000) lên 38,13%
(năm 2001), 38,55% (năm 2002) và lên 40% (năm 2003); những giá trị tuyệt đối
của khu vực này đều tăng so với những năm trước. Tỷ trọng khu vực dịch vụ ổn
định ở mức 38,74%; 38,63%; 38,46%; 38,01% trong các năm tương ứng.
Tỷ trọng khu vực kinh tế nhà nước có giảm dần do quá trình cổ phần hoá
và phát triển mạnh khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, nhưng vẫn ở mức 38%
và điều quan trọng hơn la kinh tế nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo. Tỷ trọng
kinh tế ngoài quốc doanh chiếm trên 48% GDP và ngày một tăng nhanh do
tác động của luật doanh nghiệp và kinh tế có vốn FDI đạt khoảng 14% GDP
(năm 2001 là 13,75% và năm 2002 là13,91%) [67, tr.85].

Quá trình thực hiện đường lối phát triển kinh tế mà Đảng ta đã đề ra
qua 20 năm qua là đáng ghi nhận: Chúng ta không chỉ nâng cao dần năng suất
lao động, mà còn thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, đảm bảo về lương thực cho cả
nước. Chúng ta đã mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế với bên ngoài, thu hút
được các nguồn vốn và kỹ thuật, công nghệ hiện đại của nước ngoài , tận
dụng được kinh nghiệm của các nước đi trước cho quá trình phát triển kinh tế.
Chúng ta cũng đã phá bỏ thế bị bao vây, cô lập về kinh tế, tạo ra thế và lực
mới trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở
nước ta đã bộc lộ những mặt hạn chế, mâu thuẫn với bản chất của CNXH. Đó
là khuynh hướng tự phát TBCN, sự phân hoá giàu nghèo có chiều hướng gia
tăng, xuất hiện tâm lý sùng bái đồng tiền, lối sống thực dụng, hạ thấp giá trị
đạo đức, tinh thần, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, các tệ nạn xã hội nảy
sinh, môi trường sinh thái đang bị đe doạ...
Phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần thì vai trò của Nhà nước là
phải tạo ra một “sân chơi bình đẳng” cho các thành phần kinh tế và hướng các
thành phần kinh tế theo hướng tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ và

22


công bằng xã hội. Tạo ra một môi trường tự do bình đẳng trong cạnh tranh là
sự cần thiết nhưng rõ ràng đã đặt thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa trước
những thử thách mang tính sống còn bởi vì, trong lúc thành phần kinh tế tư
bản ở nước ta đang ở thời kỳ “sung sức” mà thành phần kinh tế XHCN thì lại
mới ra đời và thực tế vẫn còn rất non yếu. Mặt khác, sau mấy thập kỷ xây
dựng và phát triển kinh tế, nền kinh tế nước ta đã có những chuyển biến nhất
định, nhưng sản xuất nhỏ vẫn là phổ biến. Sản xuất nhỏ như V.I.Lênin đã
từng cảnh báo, là hàng ngày, hàng giờ tự phát TBCN. Như vậy nền kinh tế
nước ta đang tiềm ẩn khả năng tự phát TBCN và trên thực tế chúng ta đang

phải đối mặt với nguy cơ chệch hướng XHCN. Đồng thời, với sự chống phá
của các thù lực bên ngoài với những chiêu bài và hình thức tinh vi cũng đặt ra
cho chúng ta không ít những thách thức.
Ngoài ra xu thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay đã
tạo nên nhiều thách thức đối với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, làm xói
mòn quyền lực của Nhà nước nhất là trong lĩnh vực kinh tế. Quá trình hội
nhập kinh tế đặt ra cho chúng ta nhiều vấn đề phải xử lý, liên quan đến độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, đến hệ thống chính trị và các thiết chế xã hội.
Tính độc lập của nhiều quốc gia sẽ bị thách thức bởi sự gia tăng mối quan hệ
phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, sự hạn chế thẩm quyền và khả năng
hành xử theo ý chí riêng của nhiều quốc gia. Sự ổn định của hệ thống chính trị
và các thiết chế xã hội sẽ luôn phải chịu áp lực của đòi hỏi đổi mới để phù
hợp với quá trình mở cửa và hội nhập. Điều này được thể hiện đặc biệt rõ nét
trong lĩnh vực kinh tế. Tham gia vào các tổ chức kinh tế, thương mại khu vực
và trên phạm vi toàn cầu để thu hút đầu tư của các đối tác bên ngoài, các
chính phủ phải nhượng một phần quyền quyết định, quản lý sản xuất kinh
doanh, kiểm soát quá trình lưu thông của các dòng tài chính, đầu tư cho các
thể chế quốc tế và các đối tác. Hội nhập kinh tế mang lại nhiều vận hội và
cũng đặt ra nhiều thách thức đối với các nước chậm phát triển như nước ta.

23


Thời cơ đan xen lẫn nguy cơ. Chúng ta càn phải tham gia vào toàn cầu hoá,
chủ động và tích cực hội nhập khu vực và quốc tế để tận dụng được sức mạnh
của thời đại và đưa đất nước tiến lên. Nhưng, với tính phức tạp của quá trình
toàn cầu hoá, với những thách thức đặt ra liệu chúng ta có thể giữ vững được
bản sắc của mình, vẫn còn là mình không khi “các luật chơi” trong toàn cầu
hoá hiện nay, về cơ bản là do các lực lượng tư bản chủ nghĩa thảo ra; khi các
thiết chế kinh tế tài chính quốc tế hiện thời là sản phẩm chính của CNTB và

mấy chục năm qua vẫn hoạt động dưới sự chi phối của CNTB? Liệu chúng ta
có đủ khôn ngoan hay không trước những thủ đoạn cạnh tranh của đối tác?
Chúng ta có thể phát triển được nền kinh tế mà vẫn bảo đảm được tính định
hướng xã hội chủ nghĩa? Từ đó, vấn đề độc lập trên lĩnh vực kinh tế, độc lập
trên lĩnh vực chính trị sẽ được giải quyết như thế nào?
Từ những phân tích ở trên cho thấy, quá trình phát triển nền kinh tế ở
nước ta diễn ra trong bối cảnh hết sức phức tạp, cả tác động bên ngoài và cả
yếu tố nội sinh có thể làm cho nền kinh tế ấy chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhận thức rõ điều này, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã
cảnh báo:
“Tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới, chệch hướng xã hội chủ nghĩa, nạn tham nhũng và tệ quan liêu, “diễn biến
hoà bình” do các thế lực thù địch gây ra - đến nay vẫn diễn biến phức tạp, đan
xen, tác động lẫn nhau, không thể xem nhẹ nguy cơ nào” [18, tr.15].
Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế của đất nước là nhận thức được xu
thế phát triển của thời đại, mà quan trọng hơn là xây dựng được chiến lược,
đưa ra được hệ thống giải pháp phù hợp với tình hình quốc tế, và điều quan
trọng nhất là phải phù hợp với trình độ phát triển của bản thân đất nước mình.
Để phát triển kinh tế thì không chỉ có quyết tâm, ý chí chính trị, mà còn phải
có thực lực, đường lối, chiến lược, sách lược hợp lý và đặc biệt là phải hiện
thực hoá được đường lối ấy. Để phát triển nền kinh tế nhiều thành phần theo

24


×