Tải bản đầy đủ (.doc) (56 trang)

TIỂU LUẬN TỐT NGHIỆP VỀ PHÁP LUẬT VỀ HÀNG VÀ DIỆN TRONG THỪA KẾ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (312.36 KB, 56 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................2
Chương 1..........................................................................................................6
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ..............6
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG.................................................................6
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế.....................................................................6
1.1.2. Di sản thừa kế........................................................................................7
1.1.3. Người để lại di sản thừa kế.................................................................10
1.1.4. Người thừa kế.......................................................................................10
1.2. DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ......................................................................15
1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế..........................................15
1.2.2. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật...........18
Chương 2........................................................................................................20
DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM....................................................................................20
2.1. QUY ĐỊNH VỀDIỆN THỪA KẾ..............................................................20
2.1.1. Diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống.......................................20
2.1.2. Diện thừa kế xét theo quan hệ hôn nhân............................................23
2.1.3 Diện thừa kế xét theo quan hệ nuôi dưỡng..........................................26
2.2. QUY ĐỊNH VỀHÀNG THỪA KẾ............................................................33
2.2.1 Hàng thừa kế thứ nhất..........................................................................33
2.2.2 Hàng thừa kế thứ hai............................................................................35
2.2.3. Hàng thừa kế thứ ba.............................................................................37
Chương 3........................................................................................................39
THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VÀ PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN
THIỆN NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ DIỆN
VÀ HÀNG THỪA KẾ...................................................................................39
3.1. THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀDIỆN VÀ HÀNG THỪA
KẾTẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGÂN SƠN........................................39
3.2. NGUYÊN NHÂN VÀ DỰBÁO VỀTRANH CHẤP THỪA KẾ................42
3.3. NHỮNG ĐỀ XUẤT VỀHƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH VỀ


DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾTHEO PHÁP LUẬT............................................45
KẾT LUẬN....................................................................................................49
TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................................51

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Về mặt tâm lý cá nhân không chỉ muốn mình có quyền năng đối với
khối tài sản của mình khi còn sống, mà còn muốn chi phối nó ngay cả khi đã
chết. Vì vậy, Nhà nước đã công nhận quyền thừa kế của cá nhân đối với tài
sản, coi thừa kế là một trong những căn cứ xác lập quyền sở hữu. Trong hệ
thống pháp luật Việt Nam, sau Hiến pháp 1992, Bộ luật dân sự (BLDS) chiếm
vị trí đặc biệt quan trọng, tạo lập hành lang pháp lý cho các cá nhân khi thực
hiện quyền thừa kế. Được quy định tại phần thứ tư, bao gồm 4 chương, 56
điều, từ Điều 631 đến Điều 687 của BLDS năm 2005 chế định thừa kế đã tạo
chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi tham gia quan hệ
thừa kế, góp phần làm lành mạnh hóa các quan hệ xã hội.
Tuy nhiên, hiện nay các tranh chấp về thừa kế có xu hướng ngày càng
gia tăng và trở nên phức tạp hơn. Sự nhận thức không đầy đủ về pháp luật của
cá nhân, sự áp dụng pháp luật không thống nhất giữa các cấp Tòa án là những
yếu tố làm cho các vụ kiện gặp nhiều khó khăn, thời gian giải quyết kéo dài,
ảnh hưởng không tốt đến truyền thống đạo đức tốt đẹp vốn có từ lâu đời của
dân tộc Việt Nam. Đặc biệt, một trong những khó khăn vướng mắc lớn khi áp
dụng các quy định của pháp luật để giải quyết tranh chấp thừa kế chính là vấn
đề xác định sao cho đúng về diện và hàng thừa kế.
Trước tình hình đó, việc nghiên cứu, phân tích, kiến nghị để làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận về diện và hàng thừa kế trong chế định thừa kế theo
pháp luật là một đòi hỏi tất yếu, khách quan cả về mặt lý luận cũng như thực

tiễn giải quyết các tranh chấp thừa kế.
2. Tình hình nghiên cứu
Do tầm quan trọng của vấn đề thừa kế nên nội dung này đã được rất
nhiều nhà khoa học pháp lý quan tâm, nghiên cứu. Có thể kể đến như Tiến sĩ
2


Phùng Trung Tập đã giới thiệu với bạn đọc tác phẩm "Thừa kế theo pháp luật
của công dân Việt Nam từ năm 1945 từ trước đến nay"; Tiến sĩ Nguyễn Ngọc
Điện là tác giả của cuốn "Bình luận khoa học về thừa kế trong Bộ luật dân sự
Việt Nam"; Phó giáo sư, Tiến sĩ Đinh Văn Thanh - Trần Hữu Biền có tác
phẩm "Hỏi đáp về pháp luật thừa kế". Ngoài ra, còn có nhiều bài viết về đề
tài này được đăng tải trên các sách báo, tạp chí. Đặc biệt hơn, còn có rất nhiều
các cử nhân, học viên chọn nội dung này làm đề tài cho các tiểu luận tốt
nghiệp của mình.
Tất cả các công trình nghiên cứu trên có phạm vi rộng, mang tính toàn
diện, bao quát cả chế định pháp luật về thừa kế, và đưa ra những kiến nghị để
ngày càng hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật về thừa kế. Riêng với đề tài
"Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam", tác giả tập trung đi
sâu nghiên cứu, làm sáng tỏ nội dung, bản chất của diện và hàng thừa kế được
quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số
kiến nghị mang tính giải pháp để ngày càng hoàn thiện hơn những quy định
về nội dung này trong luật.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận, nội dung, bản chất quy
định của pháp luật về quyền thừa kế nhằm làm sáng tỏ diện và hàng thừa kế.
Khi nghiên cứu đề tài, tác giả đã tham khảo toàn bộ các quy định của nước ta
về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất
nước, đồng thời nghiên cứu pháp luật của một số nước trên thế giới cũng như
các sách chuyên khảo và những tài liệu liên quan đến vấn đề này.

4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Bên cạnh đó còn có sự phối hợp với

3


một số phương pháp khác như: phương pháp thống kê, phương pháp phân
tích, phương pháp so sánh và phương pháp tổng hợp.
5. Mục đích, nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu đề tài nhằm làm sáng tỏ nội dung và bản chất của diện
và hàng thừa kế theo quy định của pháp luật Việt Nam qua từng giai đoạn
lịch sử phát triển của đất nước. Trên cơ sở đó, xác định đúng, chính xác
những người thuộc diện thừa kế và thứ tự hưởng ưu tiên theo quy định của
BLDS năm 2005.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả rút ra những vướng mắc còn tồn tại
khi áp dụng quy định của pháp luật về diện và hàng thừa kế. Từ đó đưa ra
những đề xuất, kiến nghị mang tính giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế,
tồn tại, góp phần hoàn thiện hơn các quy định về thừa kế.
6. Những kết quả nghiên cứu mới của tiểu luận
Từ trước đến nay đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
lĩnh vực thừa kế. Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể
về diện và hàng thừa kế gắn với từng giai đoạn lịch sử phát triển của đất
nước. Trên cơ sở đó, tác giả nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp
luật hiện hành và tìm ra những vướng mắc còn tồn tại trên thực tế và đề xuất
một số kiến nghị góp phần hoàn thiện pháp luật về diện và hàng thừa kế trong
BLDS.
7. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của tiểu luận gồm 3 chương:

Chương 1: Khái quát chung về thừa kế.
Chương 2: Diện và hàng thừa kế theo pháp luật dân sự Việt Nam.

4


Chương 3: Thực tiễn áp dụng pháp luật và phương hướng hoàn thiện
những quy định của pháp luật Việt Nam về diện và hàng thừa kế.

5


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THỪA KẾ TRONG LUẬT DÂN SỰ

1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CHUNG
1.1.1. Thừa kế và quyền thừa kế
Để hiểu và nhận thức sâu sắc về khái niệm quyền thừa kế trước hết phải
làm sáng tỏ nội dung khái niệm thừa kế. Theo Từ điển tiếng Việt: "Thừa kế là
hưởng của người khác để lại cho". Theo các tác giả của Giáo trình Luật dân
sự - Trường Đại học Luật Hà Nội, thừa kế được hiểu là: "Việc dịch chuyển tài
sản của người đã chết cho những người còn sống". Khái niệm này đã phản
ánh chính xác bản chất cũng như nội dung thừa kế.
Quyền thừa kế được xem xét rất nhiều góc độ. Với tính chất là một chế
định pháp luật dân sự, quyền thừa kế bao gồm tổng thể các quy phạm pháp
luật do nhà nước đặt ra nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong
quá trình dịch chuyển tài sản từ người chết sang cho người khác còn sống
theo di chúc hoặc theo một trình tự nhất định do pháp luật quy định. Đồng
thời, quy định quyền và nghĩa vụ cũng như các phương thức bảo vệ các quyền
và nghĩa vụ đó của những chủ thể trong quan hệ thừa kế.

Với tính chất là một quyền năng dân sự, quyền thừa kế là những quyền
năng cụ thể của chủ thể trong việc để lại di sản thừa kế và nhận di sản thừa
kế. Đó là những khả năng mà các chủ thể được phép xử sự theo quy định của
pháp luật: Được để lại di sản thừa kế như thế nào, việc lập di chúc phải tuân thủ
những yêu cầu gì, ai là người được nhận di sản thừa kế, khi nào thì bị tước
quyền hưởng di sản thừa kế... Trong các quan hệ về thừa kế, các chủ thể chủ
động hiện thực hóa những quyền năng đó để biến nó thành những quyền dân
sự cụ thể qua đó đáp ứng được nhu cầu và thực hiện được lợi ích cho bản thân
mình.
6


Pháp luật thừa kế ở nước ta trước hết nhằm đảm bảo quyền lợi cho
người lao động, tôn trọng thành quả lao động do họ làm ra cũng như chuyển
thành kết quả đó cho những người thừa kế sau khi họ chết. Mặt khác, quyền
thừa kế ở nước ta là một trong những phương tiện để củng cố và phát triển
các quan hệ hôn nhân gia đình, bảo vệ quyền lợi chính đáng của các chủ thể
trong quan hệ thừa kế, đặc biệt bảo vệ lợi ích của người chưa thành niên hoặc
đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Qua đó góp phần bảo đảm
quyền sở hữu cho mọi cá nhân trong xã hội.
Tóm lại, thừa kế là sự dịch chuyển tài sản của một người đã chết sang
cho người còn sống theo những trình tự luật định. Quyền thừa kế của một cá
nhân gắn bó chặt chẽ với quyền sở hữu của cá nhân đó. Quyền sở hữu là tiền
đề, là cơ sở của quyền thừa kế và ngược lại, quyền thừa kế là căn cứ thiết lập
quyền sở hữu mới. Vì vậy, hệ thống pháp luật dân sự của tất cả các nước trên
thế giới bao giờ cũng qui định về vấn đề thừa kế như là một phương thức bảo
đảm quyền sở hữu của chủ sở hữu.
1.1.2. Di sản thừa kế
Theo Từ điển tiếng Việt: "Di sản là của cải, tài sản của người chết để
lại" [51]. Điều 634 BLDS năm 2005 quy định: "Di sản bao gồm tài sản riêng

của người chết, phần tài sản của người chết trong tài sản chung với người
khác" [9].
Có thể thấy di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn
nhưng khá đầy đủ và có tầm khái quát cao, không dùng phương pháp liệt kê
bao gồm những tài sản gì như những quy định trước đây. Như vậy, di sản là
toàn bộ những tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người đã chết cũng
như các quyền về tài sản của người đó bao gồm:
- Tư liệu sinh hoạt.

7


- Tiền, vàng, bạc, kim khí quý, đá quý được dùng làm đồ trang sức
hoặc dùng làm của cải để dành, tiền tiết kiệm ngân hàng, tiền lương, tiền
thưởng chưa lĩnh.
- Nhà ở thuộc sở hữu của người chết.
- Vốn, cổ phần, vật tư, tư liệu sản xuất của người chết.
- Tài liệu, dụng cụ máy móc của người làm công tác nghiên cứu.
- Cây cối mà người được giao sử dụng đất trồng và hưởng lợi trên đất đó.
- Các quyền về tài sản đó là quyền đòi nợ đồ vật đã cho mượn, cho
thuê, chuộc lại tài sản đã cầm cố, quyền đối với tài sản đã thế chấp, đã bồi
thường thiệt hại về tài sản, hưởng những quyền lợi của tác giả hoặc chủ sở
hữu văn bằng, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp, quyền tác giả đối với tác
phẩm. Tuy nhiên, quyền tài sản gắn với nhân thân của người chết như tiền cấp
dưỡng, tiền lương hưu không được coi là di sản thừa kế.
- Theo quy định của pháp luật, để khắc phục những rủi ro xảy ra cá
nhân có thể mua bảo hiểm cho bản thân mình. Trên cơ sở đóng phí bảo hiểm
và khi có sự kiện bảo hiểm thì cơ quan bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm
dựa trên mức đóng phí bảo hiểm. ở loại hình bảo hiểm nhân thọ là loại hình
bảo hiểm tuổi thọ của con người và khi người đó chết sẽ được hưởng số tiền

bảo hiểm đó. Và lúc này số tiền bảo hiểm trở thành một phần trong tổng tài
sản của người chết để lại cũng là di sản thừa kế.
- Phần tài sản của người chết trong khối tài sản với người khác: Ngoài
tài sản riêng có được do thu nhập hợp pháp, của để dành hoặc do được thừa
kế thì một loại tài sản nữa của người chết là một phần tài sản của người này
trong khối tài sản chung với người khác, có thể do vợ chồng cùng tạo lập hoặc
nhiều người cùng góp vốn để sản xuất kinh doanh. Thứ nhất, khối tài sản
được cả vợ và chồng cùng nhau tạo lập, phát triển bằng công sức của mỗi
người nên khó có thể phân định được phần của mỗi người là bao nhiêu. Do
8


đó, cả hai vợ chồng đều có quyền và nghĩa vụ ngang nhau trong việc chiếm
hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung. Khi một bên chết trước nếu cần chia tài
sản chung của vợ chồng thì chia làm đôi, một nửa khối tài sản chung đó là tài
sản của người chết được chuyển thành di sản thừa kế và được chia cho người
thừa kế theo quy định của pháp luật về thừa kế. Thứ hai, hình thức sở hữu
chung theo phần được hình thành khi có nhiều người cùng góp vốn để cùng
sản xuất kinh doanh. Khi đó tài sản có được thuộc quyền sở hữu chung của
nhiều người, nếu một trong số những người đó chết thì di sản của người chết còn
bao gồm cả phần tài sản thuộc sở hữu của người đó đã đóng góp trong khối tài
sản chung.
Ngoài ra, thừa kế quyền sử dụng đất là một vấn đề mới được đưa vào
chương VI phần 4 BLDS 1995 và tiếp tục được ghi nhận và mở rộng tại
chương XXXIII phần 5 BLDS năm 2005. Qui định thừa kế quyền sử dụng tại
chương XXXIII phần 5 BLDS năm 2005 đáp ứng các qui định quyền của
người sử dụng đất được qui định tại Luật Đất đai năm 2013, đã tạo điều kiện
thuận lợi cho những người có nhu cầu trực tiếp sử dụng đất và có quyền thừa
kế quyền sử dụng đất.
Tóm lại, di sản được Điều 634 BLDS quy định một cách ngắn gọn

nhưng đầy đủ và có tính khái quát cao. Điều này thể hiện trình độ và kỹ thuật
lập pháp của nước ta đã đạt được một kết quả nhất định. Tuy nhiên, đây là một
vấn đề phức tạp và có liên quan đến nhiều vấn đề khác trong quan hệ thừa kế mà
chỉ được quy định trong một điều luật nên khi nghiên cứu cũng như khi xét xử
phải đặt nó trong mối liên hệ biện chứng với các quy phạm pháp luật khác liên
quan trực tiếp đến việc xác định và phân chia di sản. Bởi vậy, việc xác định
quyền sở hữu của một người để từ đó xác định di sản khi người đó chết còn
gặp nhiều vướng mắc về mặt lý luận cũng như thực tiễn.

9


1.1.3. Người để lại di sản thừa kế
Quyền để lại thừa kế là một quyền cơ bản của cá nhân được pháp luật
Việt Nam ghi nhận và bảo hộ. BLDS năm 2005 quy định rõ: "Cá nhân có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình; để lại tài sản của mình cho
người thừa kế theo pháp luật" (Điều 631) và "Mọi cá nhân đều bình đẳng về
quyền để lại tài sản của mình cho người khác" (Điều 632) [9].
Pháp luật bảo hộ quyền sở hữu của mọi công dân đối với những thu nhập
hợp pháp của mình. Theo đó bất kỳ ai cũng có quyền quyết định đối với số phận
của các loại tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình. Vì thế cá nhân có quyền
lập di chúc cho người khác hưởng tài sản thuộc quyền sở hữu riêng của mình
sau khi mình chết, nếu không có di chúc tài sản này thì chia theo pháp luật.
Cần lưu ý rằng, người để lại di sản chỉ có thể là cá nhân, không thể là
các pháp nhân hay tổ chức. Các pháp nhân hay tổ chức được thành lập với
những mục đích và nhiệm vụ khác nhau và tài sản của các pháp nhân, tổ chức
đó nhằm để phục vụ cho các hoạt động của chính mình. Khi các pháp nhân, tổ
chức đó đình chỉ hoạt động của mình (phá sản, giải thể...) tài sản của các pháp
nhân, tổ chức được giải quyết theo các quy định của pháp luật. Các pháp
nhân, tổ chức chỉ tham gia quan hệ thừa kế với tư cách là người được hưởng

di sản theo di chúc.
1.1.4. Người thừa kế
Người thừa kế là người hưởng di sản thừa kế theo di chúc hoặc theo
quy định của pháp luật. Người thừa kế theo di chúc có thể là cá nhân, tổ chức
nhưng người thừa kế theo pháp luật chỉ có thể là cá nhân và phải có quan hệ
hôn nhân, gia đình hoặc nuôi dưỡng đối với người để lại di sản. Giữa người
để lại di sản và người thừa kế có các quyền và nghĩa vụ pháp lý với nhau.
Người thừa kế có quyền sở hữu đối với phần di sản thừa kế, đồng thời họ phải
gánh vác những nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản.

10


Điều 635 BLDS năm 2005 quy định:
Người thừa kế phải là cá nhân còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc
sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi
người để lại di sản chết
Trong trường hợp người thừa kế là cơ quan tổ chức thì phải là cơ quan
tổ chức tồn tại vào thời điểm mở thừa kế [9].
Như vậy, pháp luật quy định chỉ những người còn sống mới có năng
lực hưởng thừa kế. Tuy nhiên, đối với những người sắp sinh ra pháp luật cũng
quy định họ cũng có thể là người thừa kế nếu vào thời điểm mở thừa kế (lúc
người để lại di sản chết) họ đã thành thai. Pháp luật quy định: "Người thừa kế
đang là thai nhi nếu sinh ra sau khi mở thừa kế và phải còn sống". Nếu một
người chưa thành thai vào thời điểm mở thừa kế hoặc thành thai trước thời
điểm mở thừa kế nhưng sinh ra không sống thì không được hưởng di sản thừa
kế.
Người hưởng thừa kế theo di chúc còn có thể là các cơ quan, tổ chức có
tư cách pháp nhân vào thời điểm mở thừa kế.
Bên cạnh việc quy định cụ thể về người thừa kế, pháp luật còn ghi nhận

một số trường hợp người không được quyền nhận di sản, người thừa kế từ
chối nhận di sản, người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản và trường hợp
người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
* Trường hợp người không được quyền nhận di sản
Là những trường hợp người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật bị
tước quyền hưởng di sản vì họ không xứng đáng được hưởng quyền đó. Khoản 1
Điều 643 BLDS năm 2005 quy định những trường hợp sau đây không được
quyền hưởng di sản [9]:

11


- "Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc
về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm
nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó".
Những hành vi nói trên phải do Tòa án xét xử, kết án và có bản án có hiệu
lực pháp luật, không phụ thuộc vào loại hình phạt và dù rằng đã được xóa án.
- "Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi người để lại di sản".
Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, cha mẹ có nghĩa vụ nuôi
dưỡng con chưa thành niên và con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực
hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi
mình (Điều 36 khoản 1); Anh, chị em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong
trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có điều kiện nuôi dưỡng
con (Điều 48); Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu chưa
thành niên hoặc cháu đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự,
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình và không có
ai nuôi dưỡng (Điều 47); người vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng là người có khả
năng mà không nuôi dưỡng, làm cho người thân thích và hàng xóm xung
quanh bất bình. Trong trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng chứng minh
được họ không có thu nhập để thực hiện nghĩa vụ thì không bị coi là vi phạm

nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng.
- "Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế
khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó
có quyền hưởng".
Trường hợp này cũng cần phải có bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án. Nếu giết người thừa kế khác không nhằm mục đích hưởng di
sản thì không rơi vào trường hợp này.

12


- "Người đã có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di
sản trong việc lập di chúc, giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc nhằm
hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái vớí ý chí của người để lại di sản".
Mặc dù những trường hợp nói trên là những trường hợp không được
quyền hưởng di sản nhưng khoản 2 Điều 643 BLDS quy định những người đó
vẫn được hưởng di sản"nếu người để lại di sản biết những hành vi của những
người đó nhưng vẫn cho họ hưởng thừa kế theo di chúc".
Việc không cho hưởng quyền nhận di sản được thực hiện sau khi mở
thừa kế. Trong thực tế xảy ra trường hợp làm giả mạo giấy tờ về người thừa
kế khác từ chối nhận di sản thừa kế để cho người đó được hưởng nhiều hơn.
Giấy tờ này không có giá trị pháp lý nhưng pháp luật không quy định trường
hợp này là trường hợp không được hưởng quyền nhận di sản. Đây là một vấn
đề mà các nhà lập pháp cần tiếp tục nghiên cứu và hoàn thiện pháp luật hơn
nữa.
* Trường hợp người thừa kế từ chối nhận di sản
Điều 642 BLDS năm 2005 quy định về việc người thừa kế có quyền từ
chối nhận di sản từ thời điểm mở thừa kế. Nếu người thừa kế theo pháp luật
được thừa kế theo di chúc mà từ chối nhận di sản theo di chúc thì họ vẫn có
quyền thừa kế theo pháp luật. Pháp luật quy định người thừa kế không bắt

buộc phải nhận thừa kế. Vì vậy khoản 1 Điều 642 BLDS quy định: "Người
thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn
tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác" [9].
Tuy nhiên, người thừa kế phải thể hiện rõ ý chí của mình bằng văn bản,
báo cho những người thừa kế khác biết, người phân chia di sản, cơ quan công
chứng nhà nước hoặc ủy ban nhân dân (UBND) xã, phường, thị trấn nơi mở
thừa kế. Pháp luật cũng không quy định người thừa kế nào có quyên từ chối
nhận di sản. Vậy trường hợp người dưới mười tám tuổi có quyền từ chối nhận
di sản hay không? Nếu dưới mười tám tuổi mà từ chối nhận di sản phải được
13


cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý mới hợp lý vì thực tế những người dưới
mười tám tuổi chưa đủ năng lực hành vi để quyết định mọi việc.
Thời hạn từ chối nhận di sản là sáu tháng kể từ thời điểm mở thừa kế.
Việc quy định này cũng là điều bất hợp lý vì có trường hợp người được thừa
kế không biết thời điểm mở thừa kế ảnh hưởng đến quyền lợi của họ, kể từ
thời điểm mở thừa kế người hưởng thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ đối với
người chết. Do vậy, pháp luật quy định thời hạn sáu tháng là chưa hợp lý.
Người thừa kế không được từ chối nhận di sản nếu việc từ chối nhằm
trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ của mình đối với người khác
Việc nhận hay không nhận di sản thừa kế là quyền của người thừa kế.
Tuy nhiên, khi thực hiện quyền này người thừa kế phải tuân theo những quy
định của pháp luật.
* Trường hợp người thừa kế bị truất quyền hưởng di sản
Người bị truất quyền hưởng di sản khác với người không được quyền
hưởng di sản ở chỗ: Các trường hợp không có quyền hưởng di sản là do pháp
luật quy định và dự liệu trước, còn người bị truất quyền hưởng di sản là do ý
chí của người để lại di sản không muốn cho hưởng.
Tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người để lại di sản thừa kế

thì họ có quyền định đoạt đối với tài sản đó nghĩa là họ có quyền quyết định
cho ai? Cho cái gì? Và họ cũng có quyền truất quyền thừa kế của những
người thừa kế mà không cần phải có lý do.
Theo quy định tại Điều 648 BLDS năm 2005, người để lại di sản có
quyền lập di chúc truất quyền hưởng di sản của những người mà theo quy
định của pháp luật họ sẽ được hưởng thừa kế khi người để lại di sản chết.
Pháp luật tôn trọng quyền tự định đoạt của người để lại di sản thừa kế. Họ có
quyền để lại di chúc để cho một người hưởng một phần hay toàn bộ di sản,
hoặc cho hưởng ít hơn phần lẽ ra người thừa kế được hưởng. Đặc biệt hơn họ
14


còn có thể truất bỏ quyền thừa kế của người thừa kế. Có quan điểm cho rằng,
những người không được chỉ định trong di chúc cũng gián tiếp bị truất quyền.
Quan điểm này là không chính xác vì truất quyền hưởng di sản là sự trừng
phạt của người có di sản để lại đối với người thừa kế khi người này có những
hành vi bất kính với người để lại di sản hoặc giữa người để lại di sản và người
thừa kế đã tồn tại những mâu thuẫn. Việc không chỉ định trong di chúc cũng
có thể do người không được chỉ định trong di chúc đã có cuộc sống ổn định
không cần đến di sản nữa. Hai trường hợp này về bản chất là khác biệt nhau
hoàn toàn và nếu hiểu như vậy sẽ làm ảnh hưởng đến quyền lợi của những
người không được chỉ định trong di chúc. Thực tế người không được chỉ định
trong di chúc vẫn có quyền thừa kế tài sản của người chết theo pháp luật đối
với những phần tài sản chưa được định đoạt trong di chúc hoặc người thừa kế
theo di chúc không nhận phần di sản theo di chúc thì phần tài sản này được
cho những người thừa kế khác không có tên trong di chúc.
* Trường hợp người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc
Nhằm đảm bảo lợi ích của một số các thành viên trong gia đình pháp luật
còn quy định một số trường hợp thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc.
Điều 669 BLDS năm 2005, quy định rõ con chưa thành niên, cha, mẹ, vợ, chồng

hoặc con đã thành niên mà không có khả năng lao động vẫn được hưởng di sản
bằng hai phần ba suất của một người thừa kế theo luật nếu họ không thuộc
trường hợp từ chối nhận di sản hoặc không có quyền hưởng di sản. Quy định này
phù hợp với phong tục tập quán, truyền thống đạo đức của người Việt Nam.
1.2. DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ
1.2.1. Khái quát chung về diện và hàng thừa kế
* Diện thừa kế
Theo các tác giả của giáo trình Luật dân sự - Đại học Luật Hà Nội khái
niệm diện thừa kế được hiểu là "phạm vi những người có quyền hưởng di sản

15


của người chết theo quy định của pháp luật" [54, tr. 266]. Nhìn chung, khái
niệm nêu trên đã phản ánh đầy đủ nội dung cũng như bản chất của diện thừa
kế.
Diện thừa kế chỉ được đặt ra trong trình tự thừa kế theo pháp luật. Mà
pháp luật phụ thuộc rất nhiều vào quan hệ sản xuất của từng giai đoạn phát triển
xã hội. Vì thế ở mỗi một chế độ xã hội nhất định mà phạm vi những người thuộc
diện thừa kế theo pháp luật lại được quy định ở diện rộng hẹp khác nhau.
Theo BLDS hiện hành thì những người thuộc diện thừa kế gồm: Vợ,
chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, mẹ nuôi, cha nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh, chị, em ruột của người chết; cháu
ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại; cụ
nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột chắt
ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Tóm lại, diện thừa kế bao gồm các cá nhân còn sống có quan hệ hôn
nhân, quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng với người để lại di sản được
tính đến thời điểm mở thừa kế của người đó và những cá nhân sinh ra và còn
sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di

sản chết. Phạm vi những cá nhân thuộc diện thừa kế được xác định theo số
người được pháp luật chỉ định trong các hàng thừa kế theo pháp luật của
người để lại di sản.
* Hàng thừa kế
Khác với thừa kế theo di chúc, thừa kế theo pháp luật phải xác định được
người thuộc diện thừa kế là ai? Nhưng không phải tất cả những người thuộc
diện thừa kế đều được hưởng di sản thừa kế như nhau, mà theo mức độ quan
hệ với người để lại di sản thừa kế, pháp luật phân những người thuộc diện
thừa kế thành các hàng thừa kế.

16


Hàng thừa kế là những nhóm, người thừa kế được pháp luật xếp trong
cùng một hàng. Việc chia hàng thừa kế có ý nghĩa thiết thực, đảm bảo để những
người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau. Những người ở
hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế nếu không còn ai ở hàng thừa kế
trước đó đã chết, hoặc do không có quyền hưởng di sản; hoặc bị truất quyền
hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Điều 676 BLDS năm 2005 quy định những người thừa kế theo pháp
luật được sắp xếp theo ba hàng thừa kế sau đây:
Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ
nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết
Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh
ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết
là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại.
Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết, bác ruột,
chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột, chắt ruột của người chết mà người chết là
cụ nội, cụ ngoại [9].
Như vậy, theo quy định của pháp luật hiện hành, hàng thừa kế cũng được

sắp xếp dựa trên cơ sở mức độ thân thích với người để lại di sản. Những người
thừa kế ở hàng thứ nhất và hàng thứ hai đều có mối quan hệ huyết thống, hôn
nhân, nuôi dưỡng với người để lại di sản, giữa họ đều có nghĩa vụ nuôi
dưỡng, giám hộ và đại diện đương nhiên của nhau khi thỏa mãn các điều kiện
phải giám hộ cho nhau nhất định. Những người thừa kế ở hàng thứ ba được
cơ cấu gồm nhiều thế hệ và nhiều bậc trên dưới khác nhau theo quan hệ huyết
thống nhưng giữa họ không có sự ràng buộc về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng nhau.

17


1.2.2. Cơ sở của việc xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật
BLDS Việt Nam hiện hành cũng quy định diện và hàng thừa kế dựa
trên ba cơ sở: quan hệ huyết thống, quan hệ hôn nhân và quan hệ nuôi dưỡng.
* Quan hệ huyết thống
Quan hệ huyết thống là quan hệ do sự kiện sinh ra cùng chung một gốc,
Ví dụ: như quan hệ giữa cụ và ông bà, giữa ông bà và bố mẹ, giữa bố mẹ đẻ
và con, giữa anh, chị, em cùng bố cùng mẹ, cùng bố khác mẹ, cùng mẹ khác
bố. Những người có quan hệ huyết thống luôn có trách nhiệm thương yêu,
đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Theo mức độ quan hệ với người để lại di sản,
BLDS năm 2005 phân những người thuộc diện thừa kế theo huyết thống vào các
hàng thừa kế khác nhau.
* Quan hệ hôn nhân
Kết hôn là việc nam nữ lấy nhau thành vợ chồng theo những quy định
của pháp luật, đặc biệt là Luật HN&GĐ. Theo Luật HN&GĐ năm 2014, nam
nữ kết hôn phải tuân theo các quy định về điều kiện kết hôn, không vi phạm
những điều cấm, và tiến hành đúng trình tự, thủ tục luật định.Khi kết hôn,
quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng phát sinh và được pháp luật bảo vệ. Việc
kết hôn không chỉ gắn bó giữa hai người với nhau về tình cảm mà còn làm

phát sinh quyền và nghĩa vụ giữa hai người, ngoài ra hai bên còn có quan hệ
tài sản, vợ chồng là hàng thừa kế thứ nhất của nhau theo qui định tại khoản 1
Điều 676 BLDS năm 2005.
* Quan hệ nuôi dưỡng
Quan hệ nuôi dưỡng là quan hệ được xác lập dựa trên cơ sở nuôi con
nuôi được pháp luật thừa nhận. Mối quan hệ này nhằm đảm bảo cho trẻ em
quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng; tránh những điều bất hạnh thiệt thòi cho
những đứa trẻ vốn đã không được hưởng điều kiện và sự quan tâm từ chính
cha mẹ mình. Trong quan hệ nuôi dưỡng điều kiện để cha, mẹ nuôi và con
18


nuôi được thừa kế tài sản của nhau là việc con nuôi được pháp luật thừa nhận.
Pháp luật chỉ thừa nhận và xác định quan hệ nuôi dưỡng giữa cha, mẹ nuôi và
con nuôi trong trường hợp nhận con nuôi không trái với luân thường đạo lý,
mục đích xã hội như bóc lột sức lao động dùng con nuôi vào mục đích xấu xa
phạm pháp... Điều kiện quan trọng để việc nhận con nuôi là hợp pháp là phải
tuân theo các nguyên tắc của Luật HN&GĐ và phải được UBND công nhận
và ghi vào sổ hộ tịch.
Ngoài ra, giữa con riêng với cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm
sóc nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì cũng được thừa kế di sản của
nhau. Mối quan hệ giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi và mối quan hệ giữa con
riêng với cha dượng, mẹ kế nếu được pháp luật thừa nhận thì họ sẽ là hàng
thừa kế thứ nhất của nhau.
Các quan hệ huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng là những quan hệ tình
cảm có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau. Pháp luật nước ta dựa vào ba
quan hệ này để xác định diện và hàng thừa kế theo pháp luật.

19



Chương 2
DIỆN VÀ HÀNG THỪA KẾ THEO QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
DÂN SỰ VIỆT NAM
2.1. QUY ĐỊNH VỀ DIỆN THỪA KẾ
2.1.1. Diện thừa kế xét theo quan hệ huyết thống
Trên cơ sở quan hệ huyết thống, diện thừa kế cho đến nay đã được mở
rộng ra rất nhiều so với trước đây. Từ chỗ diện thừa kế chỉ được xác định dựa
trên cơ sở huyết thống xuôi con thuộc diện thừa kế của bố mẹ sau đó mở rộng
đến bố mẹ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của con, ông bà nội ngoại thuộc
diện thừa kế của các cháu và ngược lại, cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế
của các chắt và ngược lại, anh chị em ruột thuộc diện thừa kế của nhau, cô, dì,
chú bác, cậu ruột thuộc diện thừa kế của cháu ruột và ngược lại. Việc quy
định mở rộng diện thừa kế theo quan hệ huyết thống phản ánh tính chất của
quan hệ thừa kế là loại quan hệ tài sản đặc biệt có mối liên hệ chặt chẽ với
nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc nuôi dưỡng nhau giữa những người thân
thuộc trong gia đình Việt Nam. Mặt khác, nó phù hợp với nguyện vọng của
người dân muốn tài sản của mình để lại sau khi chết sẽ dành cho những người
thương yêu, gần gũi với mình nhất được hưởng.
a/ Quan hệ cha, mẹ - con
Theo quy định của Luật HN&GĐ con trai, con gái đều có quyền thừa
kế như nhau trong việc nhận di sản của bố mẹ để lại. Con đẻ gồm có con
chung và con riêng. Con riêng lại gồm có con trong giá thú và con ngoài giá thú.
"Con chung" trước đây pháp luật nước ta gọi bằng thuật ngữ "con chính
thức" là người con được sinh ra từ hôn nhân hợp pháp. Về mặt nguyên tắc,
các trường hợp sau đây được coi là con chung của vợ chồng: (1) Con sinh ra
sau khi đã tổ chức đăng ký kết hôn cho đến khi chấm dứt quan hệ hôn nhân
do Tòa án công nhận và quyết định theo yêu cầu của vợ chồng hoặc cả hai
20



bên vợ chồng; (2) Con sinh ra sau khi chấm dứt quan hệ hôn nhân do tòa án
công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai bên
vợ chồng nhưng người vợ đã có thai trong thời kỳ hôn nhân; (3) Con sinh ra
trước ngày đăng ký kết hôn nhưng được cả vợ và chồng thừa nhận. Về
nguyên tắc con chung đương nhiên là người thừa kế theo pháp luật của bố mẹ
khi bố mẹ qua đời.
"Con ngoài giá thú" là thuật ngữ để chỉ những người con được sinh ra
không phải từ hôn nhân hợp pháp và là đứa trẻ không được người cha thừa nhận.
Nói cách khác, con ngoài giá thú là con mà cha mẹ không phải là vợ chồng
hoặc cha mẹ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng việc đăng ký kết hôn
chưa được UBND xã, phường, thị trấn công nhận và ghi vào sổ đăng ký kết hôn.
Luật HN&GĐ 2014 quy định cho con ngoài giá thú được cha mẹ nhận hoặc
được Tòa án nhân dân (TAND) cho nhận cha, mẹ có quyền và nghĩa vụ như
con trong giá thú. Vì vậy, con trong giá thú và con ngoài giá thú đều được
thừa kế của cha mẹ đẻ, và cha mẹ đẻ đều được thừa kế của con. Quy định này
phù hợp với quan niệm hiện đại về quyền con người và quyền trẻ em và cũng
mang lại sự bình đẳng, không có sự phân biệt đối xử với các con. Nhưng thực
tế hiện nay còn tồn tại vấn đề con được thụ tinh trong ống nghiệm. Đây là vấn
đề mới phát sinh và tồn tại trong một vài năm gần đây nên đến BLDS năm
2005 vấn đề này cũng chưa được đề cập tới. Đây là một vấn đề mà các nhà
làm luật cần quan tâm nghiên cứu và bổ sung kịp thời, đáp ứng được yêu cầu
thực tế đặt ra.
b/ Quan hệ cụ - chắt
Trường hợp các cụ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chắt và ngược
lại. BLDS năm 2005 quy định cụ nội, cụ ngoại thuộc diện thừa kế của chắt và
ngược lại. Cụ nội là người đã sinh ra ông nội hoặc bà nội. Cụ ngoại là người
sinh ra ông ngoại hoặc bà ngoại. Như vậy, các cụ của một người gồm có cha
đẻ, mẹ đẻ của ông bà nội, ông bà ngoại; người đó là chắt của các cụ. Việc quy
21



định các cụ thuộc diện thừa kế theo pháp luật của chắt và ngược lại nhằm
củng cố truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, gắn kết các thế hệ với
nhau bằng tình yêu thương nhân ái và nghĩa vụ, trách nhiệm của con cháu.
c/ Quan hệ ông, bà - cháu
Theo quy định của Điều 676 BLDS 2005 ông bà nội ngoại thuộc diện
thừa kế theo pháp luật của cháu và ngược lại. Ông nội, bà nội, ông ngoại, bà
ngoại là những người có mối quan hệ huyết thống thuộc bề trên. Việc quy
định ông bà nội ngoại thuộc diện thừa kế theo pháp luật của cháu và ngược lại
là phù hợp với đạo lý của người Việt Nam, phát huy truyền thống văn hóa gia
đình. Trước đây, thời kỳ phong kiến còn có sự phân biệt giữa ông bà nội với
ông bà ngoại. Ông bà nội thuộc nội tộc nên đứng trong thứ tự ưu tiên, còn ông
bà ngoại chỉ thuộc diện thừa kế của các cháu trong trường hợp bên nội tộc
không còn ai. Pháp luật hiện nay không còn có sự phân biệt hạn hẹp này nữa
mà đã quy định cụ thể, rõ ràng ông bà nội hay ông bà ngoại đều thuộc diện
theo pháp luật của cháu và ngược lại.
Ngoài ra, tại Điều 677 BLDS 2005 còn quy định trường hợp thừa kế thế
vị của cháu, chắt đối với di sản của ông bà hoặc các cụ với nội dung:
Trong trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng
một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà
cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước
hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di
sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống [9].
d/ Quan hệ giữa anh, chị, em ruột
Theo quy định tại Điều 676 BLDS năm 2005 anh chị em ruột thuộc
diện thừa kế theo pháp luật của nhau còn anh chị em nuôi không thuộc diện
thừa kế theo pháp luật của nhau. Các nhà làm luật căn cứ vào quan hệ huyết
thống để quy định trường hợp anh chị em ruột được thừa kế di sản của nhau.


22


Giữa anh chị em nuôi không có quan hệ huyết thống gì nên không thuộc trường
hợp điều chỉnh của quy định này.
e/ Quan hệ chú, bác - cháu
Ngoài ra, bác ruột, cô ruột, chú ruột, dì ruột, cậu ruột hoặc cháu ruột
của người chết mà người chết là bác ruột, cô ruột, chú ruột, dì ruột, cậu ruột
cũng được pháp luật quy định là những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật
dựa trên quan hệ huyết thống. Nhưng họ chỉ được nhận di sản trong trường
hợp người để lại di sản không có con, cháu trực hệ, cha mẹ, ông bà. Pháp luật
quy định như vậy cũng phù hợp với đạo đức truyền thống của dân tộc ta và là
cơ sở pháp lý để giúp anh chị em trong gia đình luôn yêu thương, đùm bọc lẫn
nhau, giúp đỡ nhau để cuộc sống ngày càng tốt đẹp hơn.
Tóm lại, nhằm củng cố hơn nữa sự ổn định và bền vững trong quan hệ
của các thành viên trong gia đình, dòng tộc và để bảo vệ hiệu quả hơn quyền
thừa kế của công dân nên quan hệ huyết thống luôn luôn là căn cứ quan trọng
để xác định diện thừa kế theo quy định của pháp luật. Để tạo điều kiện thắt
chặt mối quan hệ của những người ruột thịt, tạo sợi dây tình cảm giữa những
người thân trong gia đình đồng thời khuyến khích mọi người thực hiện tốt các
quy định của pháp luật nên các nhà làm luật đã xây dựng diện thừa kế dựa
trên cơ sở huyết thống. Mặt khác, pháp luật nước ta coi gia đình là tế bào của xã
hội, việc tạo cho gia đình đầm ấm hạnh phúc sẽ góp phần làm xã hội ổn định và
việc bảo vệ các mối quan hệ trong gia đình cũng là củng cố nền móng của xã
hội.
2.1.2. Diện thừa kế xét theo quan hệ hôn nhân
Quan hệ hôn nhân là quan hệ xuất phát từ việc kết hôn giữa một nam và
một nữ để thành vợ chồng. Khi kết hôn, quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng
phát sinh và được pháp luật bảo hộ. Vợ chồng có quyền thừa kế tài sản của
nhau theo qui định của pháp luật.


23


Thời kỳ trước năm 1945 diện thừa kế theo pháp luật được quy định chủ
yếu dựa vào quan hệ huyết thống nội tộc mà không quan tâm đến quan hệ hôn
nhân. Quan hệ hôn nhân chỉ mang lại lợi ích về quyền thừa kế cho người đàn
ông nhưng không phải là cơ sở xác lập quyền thừa kế cho người đàn bà. Tuy
nhiên, từ sau năm 1945 vợ chồng được xác định là thuộc diện thừa kế theo pháp
luật của nhau. Cho đến nay, quan điểm này tiếp tục được kế thừa và phát triển.
Hiện nay cơ sở pháp lý của quyền thừa kế tài sản giữa vợ và chồng được ghi
nhận tại Điều 676 BLDS năm 2005. Việc thừa nhận quyền thừa kế của vợ
chồng là hoàn toàn phù hợp với đạo đức, phong tục tập quán và truyền thống
dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, vợ chồng được hưởng thừa kế của nhau phải dựa
trên sự tồn tại của quan hệ hôn nhân hợp pháp cho đến thời điểm mở thừa kế.
Căn cứ vào quan hệ hôn nhân hợp pháp, quyền thừa kế của vợ, chồng trong
việc nhận di sản của nhau mới được pháp luật bảo vệ.
Luật HN&GĐ năm 1959, Luật HN&GĐ năm 1986, Luật HN&GĐ năm
2000, Luật HN&GĐ năm 2014 đều quy định về việc nam, nữ khi kết hôn phải
đảm bảo một số điều kiện. Tại Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định cụ thể
về điều kiện kết hôn như sau:
- Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
- Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
- Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
- Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo
quy định tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này [30].
Ngoài việc đáp ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên, để được pháp luật
công nhận là vợ chồng, nam nữ phải có đăng ký kết hôn. Việc đăng ký kết
hôn phải do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, thực hiện theo đúng
nghi thức tổ chức đăng ký kết hôn. Giấy chứng nhận kết hôn được coi là bằng

chứng của cuộc hôn nhân hợp pháp, là chứng cứ xác nhận sự tồn tại của quan

24


hệ vợ chồng. Từ thời điểm được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận
các bên có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Nhưng trường hợp giấy chứng
nhận đăng ký kết hôn được cấp không đúng thẩm quyền sẽ không làm phát
sinh giá trị pháp lý, đôi nam nữ đó vẫn không được coi là vợ chồng, và không
thuộc diện thừa kế của nhau.
Để giải quyết triệt để tình trạng hôn nhân thực tế ở Việt Nam, Điều 14
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định: " Nam, nữ có đủ điều kiện kết hôn theo
quy định của Luật này chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết
hôn thì không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. ".
Một vấn đề cần quan tâm, xem xét khi nghiên cứu diện thừa kế xét theo
quan hệ hôn nhân đó là trường hợp vợ chồng đã chia tài sản chung, đang xin
ly hôn, đã kết hôn với người khác.
Khoản 1 điều 680 BLDS 2005 quy định: "Trong trường hợp vợ, chồng đã
chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại mà sau đó một người chết thì người còn
sống vẫn được thừa kế di sản" [9]. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thực tế
đời sống và đạo đức xã hội. Việc chia tài sản chung giữa vợ chồng không làm ảnh
hưởng đến quan hệ hôn nhân hợp pháp đang tồn tại giữa họ, vì vậy quyền thừa
kế của vợ, chồng trong việc nhận di sản của nhau vẫn cần được bảo vệ bằng pháp
luật.
Trong trường hợp vợ, chồng xin ly hôn mà chưa được hoặc đã được Tòa
án cho ly hôn bằng bản án hoặc quyết định chưa có hiệu lực pháp luật, nếu một
người chết thì người thừa kế vẫn được thừa kế di sản. Nội dung này được quy
định tại khoản 2 Điều 683 BLDS năm 1995 và tiếp tục được ghi nhận tại khoản
2 Điều 680 BLDS năm 2005. Quan hệ vợ chồng chỉ chấm dứt khi đã có bản án
hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Vì vậy, khi vợ hoặc chồng

hoặc cả hai đang xin ly hôn mà một bên chết, mà Tòa án mới thụ lý, đang giải
quyết, hoặc mới xét xử sơ thẩm mà còn bị kháng cáo hoặc kháng nghị của Viện
kiểm sát, Tòa án cấp phúc thẩm chưa xét xử thì chưa thể có bản án hoặc quyết
25


×