Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Hoàn thiện kiểm toán hoạt động đối với quản lý nợ công ở việt nam luận văn ths

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------

LÊ MẠNH CƢỜNG

HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG
ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH

Hà Nội - Năm 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
-----------------------

LÊ MẠNH CƢỜNG

HOÀN THIỆN KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG
ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý kinh tế
Mã số: 60340410

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KINH TẾ
CHƢƠNG TRÌNH ĐỊNH HƢỚNG THỰC HÀNH

XÁC NHẬN CỦA CHỦ TỊCH HĐ


XÁC NHẬN CỦA NGƢỜI

CHẤM LUẬN VĂN

HƢỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. Nguyễn Trúc Lê

TS. Hoàng Văn Lƣơng

Hà Nội - Năm 2015


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Chương trình đào tạo thạc sĩ
chuyên ngành Quản lý Kinh tế - Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc Gia Hà
Nội, các Quý Thầy Cô đã giúp tôi trang bị tri thức, tạo môi trường điều kiện
thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới Tiến sĩ Hoàng
Văn Lương đã khuyến khích, chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực
hiện nghiên cứu này.
Xin chân thành cảm ơn các đơn vị, cá nhân đã hợp tác chia sẻ thông tin, cung
cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu, tài liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên cứu.
Đặc biệt xin được gửi lời cảm ơn đến Vụ Tổng hợp, Văn phòng Kiểm toán Nhà
nước, và các cá nhân Ô. Nguyễn Minh Giang, Ô. Phan Trường Giang, Ô. Vũ
Thanh Hải, Ô. Cao Tấn Dương, Bà Phạm Thị Thùy Linh, Ô. Nguyễn Anh Tuấn
đã hỗ trợ tôi rất nhiều trong quá trình thực hiện nghiên cứu.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến Gia Đình, những người Bạn và Đồng
Nghiệp đã động viên, hỗ trợ tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, làm việc

và hoàn thành luận văn.


LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các đoạn trích
dẫn và số liệu sử dụng, kết quả nêu trong luận văn đều được dẫn nguồn và có độ
chính xác cao nhất trong phạm vi hiểu biết của tôi. Luận văn này không nhất
thiết phản ánh quản điểm của Kiểm toán nhà nước hay Trường Đại học Kinh tế,
Đại học Quốc Gia Hà Nội.

Hà Nội, ngày 22 tháng 8 năm 2015
Tác giả,

LÊ MẠNH CƯỜNG

ii


TÓM TẮT NGHIÊN CỨU
Giống như các quốc gia khác trên thế giới, nợ công là một yếu tố hết sức quan
trọng của nền kinh tế Việt Nam, đóng vai trò như một trong những động lực hàng đầu
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia trong suốt hơn một thập kỷ vừa qua.
KTNN Việt Nam là cơ quan đóng vai trò không nhỏ trong việc giúp Quốc hội,
Chính phủ trong công tác quản lý nợ công ở Việt Nam thông qua hoạt động kiểm toán.
Mặc dù vậy, nghiên cứu đã chỉ ra rằng qua hơn 21 năm hoạt động, chất lượng kiểm toán
nợ công của KTNN Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế, có khoảng cách lớn so với yêu cầu
đặt ra. Điều này xuất phát từ việc KTNN chưa thực hiện kiểm toán nợ công với tư cách là
một cuộc kiểm toán độc lập, toàn diện, và mới chỉ tiếp cận vấn đề nợ công thông qua loại
hình kiểm toán tài chính kết hợp với kiểm toán tuân thủ.

Nghiên cứu đã cho thấy KTHĐ là một trong những loại hình kiểm toán hữu hiệu
nhất để áp dụng vào kiểm toán nợ công tại các quốc gia tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới. Tuy nhiên, vấn đề KTHĐ, nợ công và kiểm toán nợ công hiện nay là những vấn đề
mới được tiếp cận, do vậy việc áp dụng loại hình KTHĐ vào kiểm toán nợ công tại
KTNN không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế, và thách thức.
Ý nghĩa của nghiên cứu là việc đề xuất những nhóm giải pháp mà KTNN cần thực
hiện nhằm hoàn thiện loại hình KTHĐ đối với kiểm toán nợ công tại KTNN. Các đề xuất
này bao gồm: Hoàn thiện cơ sở pháp lý và căn cứ kiểm toán công tác quản lý nợ công;
Nâng cao năng lực KTHĐ đối với công tác quản lý nợ công; Nghiên cứu việc ứng
dụng Công cụ đánh giá hiệu quả quản lý nợ công theo các tiêu chí của công cụ
DeMPA; Chủ động công khai rộng rãi kết quả kiểm toán nợ công; Hoàn thiện bộ máy
và nguồn nhân lực; Tăng cường mối quan hệ với các cơ quan quản lý nợ công; Tăng
cường điều kiện cơ sở vật chất.

iii


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cảm ơn
Cam kết
Tóm tắt nghiên cứu
Mục lục

CHƢƠNG 1.

1.1

Danh mục các ký hiệu viết tắt


i

Danh mục bảng biểu

ii

Danh mục sơ đồ

iii

PHẦN MỞ ĐẦU

1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG
ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NỢ CÔNG

5

Tổng quan tài liệu

5

1.1.1

Các công trình nghiên cứu về KTHĐ

5


1.1.2.

Các công trình nghiên cứu về nợ công, quản lý nợ công và kiểm toán nợ công

6

Cơ sở lý luận về KTHĐ đối với quản lý nợ công

9

Những vấn đề cơ bản về KTHĐ

9

1.2.1.1.

Khái niệm kiểm toán

9

1.2.1.2.

Khái niệm KTHĐ

9

1.2.1.3.

Các yếu tố của tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả (3Es)


11

Những vấn đề cơ bản về Nợ công

12

1.3.1.

Khái niệm nợ công

12

1.3.2.

Những đặc điểm cơ bản của nợ công

14

1.3.3.

Vai trò và tầm quan trọng của nợ công

15

Những vấn đề cơ bản về quản lý nợ công

17

1.2.
1.2.1.


1.3.

1.4.

iv


1.4.1.

Khái niệm quản lý nợ công

17

1.4.2.

Mục tiêu và tầm quan trọng của quản lý nợ công

17

1.4.2.1.

Mục tiêu của quản lý nợ công

17

1.4.2.2.

Tầm quan trọng của quản lý nợ công


18

Các nguyên tắc quản lý nợ công

19

Những vấn đề cơ bản về KTHĐ đối với quản lý nợ công

20

1.5.1.

Khái niệm KTHĐ đối với quản lý nợ công

20

1.5.2.

Vai trò của KTHĐ đối với quản lý nợ công

20

1.5.3.

Mục tiêu của KTHĐ đối với quản lý nợ công

23

1.5.4.


Nội dung KTHĐ đối với quản lý nợ công

25

1.5.5.

Phân biệt KTHĐ và Kiểm toán tài chính đối với quản lý nợ công

26

1.5.6.

Những nhân tố ảnh hưởng tới KTHĐ đối với quản lý nợ công

28

Kinh nghiệm quốc tế về tổ chức kiểm toán nợ công

29

1.6.1.

Kinh nghiệm của WB

29

1.6.2.

Kinh nghiệm của KTNN Cộng hòa Liên bang Đức


31

1.6.3.

Kinh nghiệm của KTNN Hoa Kỳ (GAO)

32

1.6.4.

Kinh nghiệm của KTNN In-đô-nê-xia

33

Bài học kinh nghiệm cho KTNN Việt Nam trong tổ chức kiểm toán nợ công

34

PHƢƠNG PHÁP VÀ THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU

36

2.1.

Thiết kế nghiên cứu

36

2.2.


Địa điểm và thời gian nghiên cứu

37

2.3.

Các phƣơng pháp nghiên cứu

37

THỰC TRẠNG KTHĐ ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NỢ CÔNG Ở VIỆT NAM

40

Thực trạng tổ chức thực hiện KTHĐ của Kiểm toán Nhà nƣớc

40

3.1.1.

Cơ sở pháp lý cho kiểm toán hoạt động của Kiểm toán Nhà nước

40

3.1.2.

Thực trạng tổ chức thực hiện KTHĐ của Kiểm toán Nhà nước

41


1.4.3.
1.5.

1.6.

1.7.
CHƢƠNG 2.

CHƢƠNG 3.
3.1.

v


Thực trạng tình hình tổ chức kiểm toán nợ công ở Việt Nam

49

Nợ công và quản lý nợ công ở Việt Nam

49

3.2.1.1.

Thực trạng về nợ công ở Việt Nam

49

3.2.1.2.


Thực trạng về công tác quản lý nợ công ở Việt Nam

53

Thực trạng tình hình tổ chức hoạt động kiểm toán và KTHĐ đối với quản lý nợ công

57

Kiểm toán nợ công thông qua cuộc kiểm toán quyết toán NSNN

58

3.2.
3.2.1.

3.2.2.
3.2.2.1.

3.2.2.2.

Kiểm toán nợ công thông qua cuộc kiểm toán chuyên đề phát hành, quản lý và sử dụng
vốn TPCP năm 2013, 2014

63

Vai trò của KTHĐ đối với quản lý nợ công của Việt Nam

65

Đánh giá hoạt động kiểm toán và KTHĐ đối với nợ công của Việt Nam


66

3.3.1.

Những mặt đã làm được

66

3.3.2.

Những tồn tại và hạn chế

67

3.3.3.

Nguyên nhân của tồn tại và hạn chế

68

3.2.3.
3.3.

CHƢƠNG 4.

GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ HOÀN THIỆN KTHĐ ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NỢ
CÔNG TẠI KTNN VIỆT NAM

73


4.1.

Định hƣớng nâng cao chất lƣợng hoạt động kiểm toán của KTNN

73

4.2.

Giải pháp hoàn thiện KTHĐ đối với công tác quản lý nợ công

77

4.2.1.

Hoàn thiện cơ sở pháp lý và căn cứ kiểm toán hoạt động đối với quản lý nợ công

77

4.2.2.

Nâng cao năng lực KTHĐ đối với công tác quản lý nợ công

78

4.2.3.

Xây dựng bộ tiêu chí KTHĐ đối với quản lý nợ công thông qua việc ứng dụng Công cụ
đánh giá hiệu quả quản lý nợ công DeMPA


79

4.2.4.

Công khai rộng rãi kết quả kiểm toán nợ công

80

4.2.5.

Hoàn thiện bộ máy và nguồn nhân lực KTHĐ đối với quản lý nợ công

81

4.2.6.

Tăng cường điều kiện cơ sở vật chất

82

Điều kiện thực hiện giải pháp

82

KẾT LUẬN

85

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


87

4.3.

vi


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VIẾT TẮT
3E

Tính Kinh tế, Hiệu lực, Hiệu quả

Bộ KH-ĐT Bộ Kế hoạch- Đầu tư
BTC

Bộ Tài chính

CP

Chính phủ

CQLN

Cục quản lý nợ-Tài chính đối ngoại

DeMPA

Công cụ đánh giá hiệu quả quản lý nợ công

DMO


Văn phòng quản lý nợ

DMU

Các đơn vị Quản lý nợ

EU

Khối liên minh Châu Âu

GAO

Cơ quan Kiểm toán Chính phủ Hoa Kỳ

GDP

Tổng thu nhập quốc dân

HPIC

Nhóm các nước nghèo và mắc nợ trầm trọng

IMF

Quỹ Tiền tệ Quốc tế

INTOSAI

Tổ chức các Cơ quan Kiểm toán Tối cao Quốc tế


ISSAI

Các chuẩn mực kiểm toán Quốc tế dành cho các Cơ quan Kiểm toán Tối cao

KTNN

Kiểm toán nhà nước

KTV

Kiểm toán viên

KTHĐ

Kiểm toán hoạt động

LQLNC

Luật quản lý nợ công

NSNN

Ngân sách nhà nước

NHNN

Ngân hàng nhà nước

ODA


Viện trợ phát triển chính thức

QH

Quốc hội

SAI

Cơ quan kiểm toán tối cao

UBTVQH

Ủy ban thường vụ Quốc hội

WB

Ngân hàng Thế giới

vii


DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT

Số hiệu

Tên bảng biểu


1

Bảng 1.1

Sự khác nhau trong khái niệm về nợ công giữa Việt Nam và IMF

14

2

Bảng 1.2

Tác động hai chiều của nợ công

16

3

Bảng 1.3

Chủ đề kiểm toán đối với quản lý nợ công

26

4

Bảng 1.4

Sự khác nhau cơ bản giữa KTTC và KTHĐ trong kiểm toán nợ công


26

5

Bảng 1.5

15 tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác quản lý nợ

30

6

Bảng 3.1

Tổng hợp tình hình nợ công giai đoạn 2010-2013

51

viii

Trang


DANH MỤC SƠ ĐỒ

STT

Số hiệu

Tên Sơ đồ


Trang

1

Sơ đồ 1.1 Mô hình đầu ra – đầu vào

12

2

Sơ đồ 3.1 Nợ công của Việt Nam nằm trong nhóm rủi ro cao

49

3

Sơ đồ 3.2 Cơ cấu nợ công của Việt Nam năm 2014

50

4

Sơ đồ 3.2 Khuôn khổ pháp lý về quản lý nợ công

53

ix



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết và lý do lựa chọn đề tài
Đối với bất kỳ quốc gia nào trên thế giới, nợ công là một yếu tố hết sức
quan trọng của nền kinh tế, đóng vai trò như một trong những động lực hàng đầu
thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế quốc gia. Tại Việt Nam, trong suốt hơn
một thập kỷ qua, các khoản vay từ nợ công đã giúp Chính phủ cùng các doanh
nghiệp trong nước có thể bố trí nguồn vốn phục vụ cho các hoạt động chi tiêu
công, trong đó đặc biệt là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ khoa
học, công nghệ-thông tin, chất lượng giáo dục, y tế, quân sự, an ninh quốc
phòng,…Không thể phủ nhận vai trò tích cực và ngày càng to lớn của các khoản
vay từ nợ công chi cho các mục đích nói trên vào tốc độ tăng trưởng vượt bậc
của nền kinh tế Việt Nam trong hơn một thập kỷ trở lại đây. Theo số liệu Chính
phủ báo cáo tại kỳ họp thứ 8, Quốc hội khóa 13, tính đến cuối năm 2014, dư nợ
công của Việt Nam tương đương 60,3% GDP. Với các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô và
dự toán NSNN năm 2015 vừa được Quốc hội thông qua, dự kiến nợ công đến
cuối năm 2015 sẽ ở mức 2.869 nghìn tỷ đồng, bằng 64% GDP. Có thể thấy rằng,
với vai trò và quy mô hiện tại của nợ công trong tổng quan nền kinh tế Việt
Nam, việc quản lý nợ công một cách minh bạch, có hiệu quả, hiệu lực và bền
vững trở thành một yêu cầu vô cùng bức thiết trên phương diện quản lý nhà
nước cũng như định hướng phát triển lâu dài.
KTNN Việt Nam được thành lập vào năm 1994 trên cơ sở Nghị định số
70/CP ngày 11/7/1994 của Chính phủ, nhằm thực hiện kiểm tra, kiểm soát các
hoạt động tài chính công trong điều kiện nền kinh tế chuyển đổi. Qua hơn 21
năm hoạt động, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã phát hiện, kiến nghị
xử lý tài chính với tổng số tiền hàng chục ngàn tỷ đồng, kiến nghị huỷ bỏ, sửa
đổi hàng trăm văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách sai quy định hoặc
không phù hợp thực tế; chất lượng kiểm toán ngày càng được nâng cao. Kết quả
kiểm toán được Chính phủ, Quốc hội, các Bộ, ngành, địa phương sử dụng ngày
càng nhiều trong việc xem xét, phê chuẩn dự toán, quyết toán ngân sách; trong
1



quản lý và xây dựng chế độ chính sách kinh tế-xã hội. Hiện nay, vai trò và chức
năng của KTNN đã được hiến định tại Điều 118 Hiến pháp nước CHXHCN Việt
Nam sửa đổi năm 2013 “là cơ quan do Quốc hội thành lập, hoạt động độc lập
và chỉ tuân theo pháp luật, thực hiện kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính,
tài sản công…”.
Kinh nghiệm trên thế giới cho thấy các cơ quan kiểm toán tối cao (hay còn
gọi là KTNN) có một vai trò rất quan trọng trong việc kiểm tra, giám sát nợ
công và thực tế đã được khẳng định rõ nét. Bởi vậy KTNN Việt Nam là cơ quan
đóng vai trò không nhỏ trong việc giúp Quốc hội, Chính phủ trong công tác
quản lý nợ công ở Việt Nam thông qua hoạt động kiểm toán. Mặc dù vậy, qua
hơn 21 năm hoạt động, chất lượng kiểm toán nợ công của KTNN Việt Nam vẫn
còn nhiều hạn chế, có khoảng cách lớn so với yêu cầu đặt ra. Điều này xuất phát
từ việc KTNN chưa thực hiện kiểm toán nợ công với tư cách là một cuộc kiểm
toán độc lập, toàn diện; mà chủ yếu thực hiện kiểm toán nợ công dưới hình thức
lồng ghép vào cuộc kiểm toán quyết toán ngân sách hàng năm, và mới chỉ tiếp
cận vấn đề nợ công thông qua loại hình kiểm toán tài chính kết hợp với kiểm
toán tuân thủ.
Theo quy định tại Luật KTNN 2015, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán
nhà nước được quy định là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực
của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan
đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và
hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Cơ quan
KTNN thực hiện kiểm toán thông qua 03 loại hình kiểm toán gồm: Kiểm toán
tài chính; Kiểm toán tuân thủ; và KTHĐ. Kinh nghiệm và thông lệ kiểm toán
quốc tế cho thấy KTHĐ là một trong những loại hình kiểm toán hữu hiệu nhất
để áp dụng vào kiểm toán nợ công tại các quốc gia tiên tiến trong khu vực và
trên thế giới.
Lĩnh hội các kinh nghiệm và thông lệ kiểm toán quốc tế này, năm 2013

KTNN đã chính thức xây dựng khung đề cương kiểm toán nợ công trong đó chú
trọng áp dụng loại hình KTHĐ vào công tác kiểm toán nợ công nhằm đánh giá
2


tính kinh tế, hiệu lực và hiệu quả của công tác quản lý nợ công ở Việt Nam. Tuy
nhiên, vấn đề KTHĐ, nợ công và kiểm toán nợ công hiện nay là những vấn đề
mới được tiếp cận, do vậy việc áp dụng loại hình KTHĐ vào kiểm toán nợ công
tại KTNN không tránh khỏi những khó khăn, hạn chế, và thách thức.
Trước thực trạng trên, việc nghiên cứu và đề ra một số giải pháp hữu hiệu
giúp hoàn thiện loại hình KTHĐ đối với kiểm toán nợ công tại KTNN trở thành
một nhu cầu tất yếu và mang tính thực tiễn cao.Với những ý nghĩa trên, việc lựa
chọn chủ đề “Hoàn thiện KTHĐ đối với quản lý nợ công ở Việt Nam” làm đề
tài luận văn thạc sĩ vừa đáp ứng cả về mặt lý luận và thực tiễn phục vụ cho hoạt
động kiểm toán của KTNN Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
2.1. Mục đích nghiên cứu: của luận văn là đề xuất các giải pháp để triển
khai KTHĐ đối với hoạt động quản lý nợ công của Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: để đạt được mục đích trên, luận văn có các
nhiệm vụ cụ thể sau:
- Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về KTHĐ, nợ công và KTHĐ đối với
quản lý nợ công từ góc độ KTNN.
- Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về KTHĐ đối với nợ công để đúc rút các
bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng cơ sở pháp lý và triển khai KTHĐ đối
với quản lý nợ công ở Việt Nam.
- Phân tích và đánh giá thực trạng triển khai KTHĐ và KTHĐ đối với quản
lý nợ công ở Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp triển khai KTHĐ đối với quản lý nợ công của Việt
Nam trong thời gian tới;
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tƣợng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là loại hình KTHĐ, cuộc kiểm toán nợ
công và hoạt động quản lý nợ công.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
3


- Phạm vi về không gian: KTHĐ và việc tổ chức thực hiện kiểm toán nợ
công của KTNN Việt Nam.
- Phạm vi về thời gian: Đánh giá thực trạng và kết quả kiểm toán nợ công
của KTNN qua 05 năm (2010-2015) cho các niên độ 2009-2014 kể từ khi
KTNN chính thức thực hiện kiểm toán nợ công (lồng ghép khi kiểm toán quyết
toán NSNN hàng năm) và việc thực hiện KTHĐ trong 2 năm trở lại đây.
- Nội dung nghiên cứu: KTHĐ và nội dung kiểm toán nợ công liên quan
đến nghiệp vụ huy động và quản lý nợ công của Việt Nam (ngoại trừ nợ chính
quyền địa phương, do KTNN hiện không kiểm toán)
4. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của
luận văn được kết cấu thành 4 chương như sau:
Chương 1: Tổng quan tài liệu và cơ sở lý luận về KTHĐ đối với quản lý nợ công
Chương 2: Phương pháp và thiết kế nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng KTHĐ đối với quản lý nợ công ở Việt Nam
Chương 4: Giải pháp và khuyến nghị hoàn thiện KTHĐ đối với quản lý nợ công
tại KTNN Việt Nam

4


CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

VỀ KIỂM TOÁN HOẠT ĐỘNG ĐỐI VỚI QUẢN LÝ NỢ CÔNG
1.1. Tổng quan tài liệu
Tính đến nay, vấn đề về KTHĐ, nợ công và kiểm toán nợ công nhìn chung
đã thu hút được một số học giả tham gia nghiên cứu chuyên sâu qua các đề tài
nghiên cứu khoa học ở nhiều cấp khác nhau. Cụ thể có thể kể đến một số công
trình nghiên cứu khoa học tiêu biểu như sau:
1.1.1. Các công trình nghiên cứu về KTHĐ
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ “Các giải pháp tăng cƣờng KTHĐ của
KTNN” (2014) do GS.TS Đoàn Xuân Tiên – Phó Tổng KTNN và TS. Nguyễn
Hữu Phúc đồng chủ nhiệm đã hệ thống hóa được những vấn đề cơ bản về
KTHĐ, vai trò và ý nghĩa của KTHĐ đối với KTNN. Đồng thời đề tài cũng đã
đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện KTHĐ của KTNN; chỉ ra được những hạn
chế, bất cập và đưa ra nguyên nhân của hạn chế, bất cập; đúc rút những kinh
nghiệm quốc tế về KTHĐ. Bên cạnh đó, đề tài đã nêu bật được định hướng và
giải pháp cho việc xây dựng các quy định, hướng dẫn về KTHĐ, tuyển dụng và
đào tạo KTV và nâng cao chất lượng KTHĐ. Mặc dù đây không phải là một chủ
đề mới, song được tiếp cận tổng quan hơn và trên sự nhận thức về KTHĐ của
KTNN đã ngày càng có những cải thiện.
Đề tài “Tăng cường vai trò của KTHĐ ở Việt Nam do KTNN thực hiện”
(2010) của Tiến sĩ Vũ Văn Hoạ tập trung phân tích thực trạng về KTHĐ và vai
trò của nó ở Việt Nam thời gian qua, từ đó đề xuất giải pháp nhằm tăng cường
hoạt động này do KTNN thực hiện trong thời gian tới. Đề tài đã bổ sung và làm
rõ khái niệm KTHĐ với tư cách là một loại hình kiểm toán để đánh giá tính kinh
tế, tính hiệu quả và tính hiệu lực của các hoạt động; hệ thống hóa, phân tích và
làm rõ hơn so với các nghiên cứu trước đó về một số đặc điểm của KTHĐ, như
đối tượng của KTHĐ là toàn bộ quá trình quản lý, sử dụng các nguồn lực và kết
5


quả hoạt động của một tổ chức; mục tiêu của các cuộc kiểm toán đều hướng tới

việc đánh giá hoạt động của một tổ chức có tiến triển đúng mục đích không, có
thực sự tiết kiệm không, có hiệu quả, hiệu lực không, có mang lại kết quả thỏa
đáng và có tuân thủ pháp luật, quy chế, quy định không; KTV cần phải có kiến
thức bách khoa rộng lớn, có năng lực phân tích vấn đề, kiên trì, kiềm chế và có
năng lực phối hợp với KTV khác...Bên cạnh đó, đề tài cũng đã cung cấp những
phát hiện, đề xuất mới rút ra được từ kết quả nghiên cứu, khảo sát, nhằm tăng
cường vai trò của KTHĐ ở KTNN Việt Nam.
“Tài liệu khóa học căn bản về KTHĐ”của KTNN ban hành năm 2015 đã
hệ thống hóa được các kiến thức căn bản về KTHĐ, từ cấp độ các khái niệm cơ
bản về loại hình KTHĐ đến các đặc điểm của KTHĐ, các phương pháp tiếp cận,
quy trình kiểm toán, xét đoán chuyên môn, việc sử dụng chuyên gia, tài liệu, hồ
sơ kiểm toán, công tác kiểm soát và đảm bảo chất lượng kiểm toán,…Tài liệu
cũng đi sâu hướng dẫn KTV cách lập kế hoạch cho một cuộc KTHĐ, phương
pháp thu thập và phân tích bằng chứng kiểm toán, lập và phát hành báo cáo
KTHĐ, đến kiểm tra thực hiện kiến nghị kiểm toán. Đây có thể coi là bộ tài liệu
về KTHĐ chính thống, đầy đủ, và bài bản nhất từ trước đến nay về KTHĐ mà
KTNN Việt Nam từng ban hành.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu về nợ công, quản lý nợ công và kiểm
toán nợ công
Luận án “Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nợ công tại Việt Nam" (2013) của
Tiến sĩ Vũ Thanh Hải đã hệ thống hoá các khái niệm, các vấn đề lý luận cơ bản
về nợ công và kiểm toán nợ công, đồng thời phân tích làm sáng tỏ vai trò của
KTNN đối với nợ công. Trên cơ sở thực trạng chung về nợ công của các nước
trên thế giới, thực trạng nợ công và quản lý nợ công của Việt Nam trong những
năm gần đây, Luận án đã đánh giá thực trạng cơ sở pháp lý và căn cứ của kiểm
toán nợ công, thực trạng mục tiêu, nội dung, quy trình và phương thức tổ chức
kiểm toán nợ công. Xuất phát từ định hướng phát triển đất nước với vấn đề nợ
công, định hướng phát triển KTNN Việt Nam về kiểm toán nợ công và kinh
nghiệm kiểm toán nợ công của một số nước cùng bài học rút ra cho Việt Nam,
6



Luận án đã đề xuất một số nhóm giải pháp để hoàn thiện tổ chức kiểm toán nợ
công, cũng như những điều kiện nâng cao hiệu quả các nhóm giải pháp.
Ngoài ra, cũng có thể kể đến một số đề tài nghiên cứu khác có liên quan
đến chủ đề tổ chức kiểm toán nợ công hay nợ chính phủ như: Đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ về “Cơ sở lý luận và thực tiễn xây dựng quy trình kiểm toán nợ
công” (2014) của KTNN do Thạc sĩ Nguyễn Minh Giang làm chủ nhiệm. Trong
đó đề tài đã làm sáng tỏ những vấn đề cơ bản lý luận và thực tiễn của công tác
quản lý, giám sát nợ công ở Việt Nam và công tác kiểm toán quản lý nợ công
của KTNN. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng về quản lý nợ công và
kiểm toán nợ công ở Việt Nam, đề tài đã đề xuất các giải pháp và phương pháp
cụ thể để xây dựng quy trình, phương pháp, thủ tục kiểm toán quản lý nợ công
của KTNN, đồng thời đề xuất các cách thức tiếp cận, tổ chức, điều kiện triển
khai các loại hình kiểm toán quản lý nợ công. Sản phẩm cụ thể của đề tài là Quy
trình kiểm toán quản lý nợ công của KTNN để áp dụng cho cuộc kiểm toán nợ
công độc lập, và có thể sử dụng khi kiểm toán lồng ghép trong cuộc kiểm toán
Báo cáo quyết toán NSNN.
Trong khi đó, đề tài “Giám sát và kiểm toán nợ công ở Việt Nam. Thực
trạng và giải pháp”(2011) do PGS.TS Nguyễn Đình Hòa chủ trì đã cung cấp
những lý luận cơ bản về nợ công, công tác giám sát và kiểm toán nợ công. Đề tài
cũng làm rõ thực trạng công tác giám sát nợ công của Quốc hội và kiểm toán nợ
công của KTNN ở Việt Nam trong giai đoạn từ năm 2001-2011. Trên cơ sở
phân tích thực trạng, những mặt làm được và chưa làm được của công tác giám
sát và kiểm toán nợ công ở Việt Nam, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nâng
cao hiệu quả giám sát và kiểm toán nợ công ở Việt Nam. Nổi bật trong các giải
pháp là tác giả đã đề xuất được phương pháp, cách thức để hoàn thiện công tác
kiểm toán nợ công thông qua việc xác định rõ mục tiêu, nội dung kiểm toán nợ
công, đồng thời đề xuất phương pháp và kỹ thuật cơ bản kiểm toán nợ công.
Hoặc như đề tài nghiên cứ khoa học cấp Bộ “Tổ chức kiểm toán nợ Chính

phủ” (2007), của KTNN do Tiến sĩ Lê Đình Thăng làm chủ nhiệm, trong đó, đề
tài đã đề cập khá cơ bản về nợ Chính phủ và quản lý nợ Chính phủ; những vấn
7


đề về kiểm toán nợ Chính phủ; đồng thời đề xuất một số giải pháp tổ chức kiểm
toán nợ Chính phủ. Bên cạnh đó, có thể kể tới khá nhiều công trình nghiên cứu
về nợ công và quản lý nợ công như “Hướng dẫn quản lý nợ công” của IMF &
WB (2001); “Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá khứ, hiện tại và tương
lai” (2013) của Ủy ban Kinh tế của Quốc hội và UNDP tại Việt Nam.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu cho đến nay đã đi sâu vào các khía
cạnh khác nhau của chủ đề loại hình KTHĐ, nợ công, quản lý nợ công, kiểm
toán nợ công, kiểm toán nợ chính phủ. Tuy nhiên, chưa có một công trình khoa
học nào nghiên cứu cụ thể việc áp dụng loại hình KTHĐ cho kiểm toán quản lý
nợ công, cũng như đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng kiểm toán nợ công
thông qua việc áp dụng loại hình kiểm toán này tại KTNN Việt Nam. Do đó, tác
giả rất hy vọng đề tài này sẽ mở ra một hướng nghiên cứu mới, làm tiền đề cho
những nhiệm vụ nghiên cứu khác đi sâu hơn và phát triển phạm vi kiến thức
này.
1.2. Cơ sở lý luận về KTHĐ đối với quản lý nợ công
1.2.1. Những vấn đề cơ bản về KTHĐ
1.2.1.1. Khái niệm kiểm toán:
Theo quy định tại Luật KTNN 2015, hoạt động kiểm toán của Kiểm toán
nhà nước được quy định là việc đánh giá và xác nhận tính đúng đắn, trung thực
của các thông tin tài chính công, tài sản công hoặc báo cáo tài chính liên quan
đến quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công; việc chấp hành pháp luật và
hiệu quả trong việc quản lý, sử dụng tài chính công, tài sản công. Cơ quan
KTNN thực hiện kiểm toán thông qua 03 loại hình kiểm toán gồm: Kiểm toán
tài chính; Kiểm toán tuân thủ; và KTHĐ.
1.2.1.2. Khái niệm KTHĐ

Kể từ khi ra đời cho đến nay đã có rất nhiều thuật ngữ về kiểm toán hoạt
động được biết đến như: kiểm toán giá trị đồng tiền, kiểm toán toàn diện, kiểm
toán 3E, kiểm toán chương trình…Tuy nhiên thuật ngữ được sử dụng chủ yếu là
kiểm toán hoạt động.
8


Các tổ chức quốc tế cũng như các cơ quan kiểm toán tối cao (SAI) trên thế
giới đến nay vẫn chưa có khái niệm thống nhất về KTHĐ, nhưng xét về bản chất
các khái niệm đó đều có nhiều điểm chung, ví dụ:
Theo Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISSAI 300 – Các nguyên tắc cơ bản
của KTHĐ do INTOSAI ban hành: KTHĐ do các SAI tiến hành là việc đánh giá
một cách độc lập, khách quan và đáng tin cậy xem các hoạt động, hệ thống,
chương trình, hành động và tổ chức của chính phủ có tuân thủ với các nguyên
tắc về tính kinh tế, hiệu quả, hiệu lực và liệu có cơ hội cho sự cải thiện hay
không.
Theo Cơ quan Kiểm toán Chính phủ Hoa Kỳ (GAO): KTHĐ là kiểm toán
tính kinh tế, tính hiệu quả và kiểm toán chương trình, trong đó:
- Kiểm toán tính kinh tế và tính hiệu quả bao gồm việc xác định: đơn vị
đang quản lý và sử dụng các nguồn lực của mình (ví dụ nhân sự, tài sản, và
không gian) có đảm bảo tính kinh tế và hiệu quả không; nguyên nhân dẫn đến
thiếu hiệu quả hoặc không kinh tế; và đơn vị đã tuân thủ pháp luật và các quy
định liên quan đến tính kinh tế và hiệu quả chưa;
- Kiểm toán chương trình bao gồm việc xác định: các kết quả hoặc lợi ích
mong muốn được đặt ra bởi cơ quan lập pháp hoặc cơ quan thẩm quyền khác
đang đạt được ở mức độ nào; tính hiệu quả của các tổ chức, chương trình, hoạt
động hoặc chức năng; và đơn vị đã tuân thủ pháp luật và các quy định của
chương trình chưa.
Kiểm toán hoạt động, hoặc “kiểm toán giá trị đồng tiền bỏ ra”, có các cách
tiếp cận và phương pháp tương tự như đánh giá chương trình. Ngoài việc kiểm

tra tác động của kết quả đầu ra, việc đánh giá có thể bao gồm các câu hỏi như:
liệu kế hoạch của đơn vị có phản ánh các mục tiêu của chương trình không, liệu
mục tiêu có nhất quán với chính sách và các lựa chọn cho việc thay đổi chính
sách để đạt hiệu quả hơn không.
Chuẩn mực KTNN số 300 - Các nguyên tắc cơ bản của KTHĐ của KTNN
đưa ra khái niệm và một số đặc điểm của KTHĐ như sau: “KTHĐ là loại hình
9


kiểm toán để kiểm tra, đánh giá tính kinh tế, hiệu quả và hiệu lực trong quản lý
và sử dụng tài chính, tài sản công.”
Đoàn Xuân Tiên (2014) có đúc kết khái về kiểm toán hoạt động của các
KTNN “là loại hình kiểm toán nhằm đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả, tính
hiệu lực của các hoạt động sử dụng nguồn lực cũng như đánh giá hiệu năng của
bộ máy quản lý ở đơn vị được kiểm toán từ đó đưa ra ý kiến để cải tiến các hoạt
động đó.” [24, tr8]
Có thể thấy, nhắc đến KTHĐ thì không thể không nhắc đến các yếu tố 3Es,
đó là tính Kinh tế (Economics), tính Hiệu quả (Efficiency) và tính Hiệu lực
(Effectiveness). Do vậy, việc hiểu rõ về 3 yếu tố (3Es) này sẽ giúp cho chúng ta
có được cái nhìn tổng thể và xuyên suốt hơn về các nội dung trong phạm trù
KTHĐ.
1.2.1.3. Các yếu tố của tính kinh tế, tính hiệu lực và tính hiệu quả (3Es)
 Tính kinh tế
Nguyên tắc về tính kinh tế có nghĩa là tối thiểu hóa chi phí của nguồn lực
được sử dụng cho một hoạt động, nhưng vẫn đảm bảo chất lượng đầu ra phù
hợp. Nguồn lực được sử dụng đúng thời điểm, phù hợp về số lượng, chất lượng
và có giá mua tốt nhất.
Để kiểm tra việc sử dụng nguồn lực có đúng thời điểm, phù hợp về số
lượng, chất lượng và có giá mua tốt không, KTV phải xác định tiêu chí của mình
trên cơ sở tham chiếu các mục tiêu chính của đơn vị được kiểm toán để đánh giá

các khía cạnh: “số lượng và chất lượng phù hợp”, “đúng thời điểm”, “giá
mua/chi phí tốt nhất”.
 Tính hiệu quả
Nguyên tắc về tính hiệu quả có nghĩa là tối đa hóa đầu ra trên cơ sở các
nguồn lực được sử dụng. Tính hiệu quả quan tâm đến mối quan hệ giữa nguồn
lực sử dụng và đầu ra về mặt số lượng, chất lượng và thời gian.
Kiểm toán tính hiệu quả bao gồm các khía cạnh sau: Các nguồn nhân lực,
tài chính và các nguồn lực khác có được sử dụng hiệu quả không; các chương
trình, các đơn vị và các hoạt động trong lĩnh vực công có được quản lý, quy
10


định, tổ chức và điều hành hiệu quả không; dịch vụ có được cung cấp kịp thời
không; các mục tiêu của các chương trình trong lĩnh vực công có đạt được với
chi phí hợp lý không.
 Tính hiệu lực
Nguyên tắc về tính hiệu lực có nghĩa là việc đạt được các mục tiêu đã định
và kết quả dự kiến.
Kiểm toán tính hiệu lực chỉ thực hiện được khi các mục tiêu hay kết quả
của hoạt động, chương trình, đơn vị có thể đo lường được. Các mục tiêu hay kết
quả này chính là tiêu chí kiểm toán của KTV. Đây là vấn đề quan trọng nhất đối
với KTV tham gia KTHĐ. KTV sẽ nhận biết được: Các mục tiêu do đơn vị được
kiểm toán xác định có chính xác như thực tế không; các mục tiêu đó có dựa trên
các yếu tố và dự báo đáng tin cậy không; các mục tiêu đã đạt được ở mức độ
nào; các công cụ để thực hiện mục tiêu có được lựa chọn dựa trên các phân tích
cụ thể đối với các công cụ thay thế; quá trình thực hiện có được hỗ trợ bởi các
hoạt động và các chính sách của đơn vị được kiểm toán; đơn vị được kiểm toán
đã có thỏa thuận thỏa đáng đối với việc theo dõi tính hiệu lực của các công cụ
chính sách chưa.
Sơ đồ dưới đây thể hiện mối quan hệ giữa các nguyên tắc về tính kinh tế,

hiệu quả và hiệu lực:
Đầu vào

Chi phí
đầu vào

Quá trình
thực hiện

Đầu ra

TÍNH
TÍNH
HIỆU
QUẢ
HIỆUQUẢ

TÍNH
KINH
TÍNH
TẾ

KINH TẾ

Mục tiêu,
Kết quả dự
kiến

TÍNH
HIỆU LỰC


Sơ đồ 1.1: Mô hình đầu ra – đầu vào
(Nguồn: Tài liệu khóa học căn bản về KTHĐ – KTNN 2015)

1.3. Những vấn đề cơ bản về nợ công
1.3.1. Khái niệm Nợ công
Có thể nói, đến nay vẫn còn rất nhiều tranh luận và ý kiến khác nhau trên
thế giới về khái niệm nợ công, vấn đề chủ yếu không phải là các nghiệp vụ vay
11


trả như thế nào, mà lại tập trung vào các tranh luận xoay quanh việc xác định
các khu vực của chủ thể vay nợ, và được tính như thế nào đối với từng loại vay
nợ; các khoản vay nợ tác động như thế nào đến vị thế tài khoá của quốc gia. Mặt
khác, do đặc thù về thể chế chính trị, mục tiêu vĩ mô của riêng từng quốc gia mà
khái niệm về nợ công có thể được hiểu, hoặc được định nghĩa theo những cách
khác nhau. Để hiểu rõ hơn về nợ công, chúng ta có thể xem xét một số khái
niệm chính sau:
Theo khái niệm của WB và IMF, nợ công là nghĩa vụ nợ của khu vực
công, bao gồm các nghĩa vụ nợ của: (i) Chính phủ trung ương và các Bộ; (ii)
Các cấp chính quyền địa phương; (iii) Ngân hàng Trung ương; (iv) Các thể chế
độc lập, nhưng nguồn vốn hoạt động của nó do NSNN quyết định (trên 50% vốn
thuộc sở hữu nhà nước) và trong trường hợp vỡ nợ nhà nước phải trả nợ thay
cho thể chế đó.
Theo khái niệm trong Hƣớng dẫn chung về nợ công được công bố bởi
INTOSAI năm 2000, nợ công bao gồm:
(i) Các khoản phải trả hay các cam kết khác được gánh chịu trực tiếp bởi
các cơ quan công quyền như Chính phủ trung ương, hay một Chính phủ liên
bang, tuỳ thuộc vào thể chế chính trị của từng nước;
(ii) Các Chính phủ bang, tỉnh, đô thị, khu vực và địa phương khác; các doanh

nghiệp, đơn vị kinh doanh do Nhà nước sở hữu hay quản lý; các đơn vị Nhà nước
khác;
(iii) Các khoản phải trả hay các cam kết khác mà các cơ quan Nhà nước phải
gánh vác với vai trò đại diện cho các doanh nghiệp tư nhân hay các đơn vị khác;
(iv) Các khoản phải trả của ngân hàng trung ương tuỳ thuộc vào địa vị rõ ràng
của các ngân hàng và mức độ độc lập của chúng từ Chính phủ trung ương.”
Theo khái niệm trong LQLNC năm 2009 của Việt Nam, nợ công bao gồm:
Nợ Chính phủ, Nợ được Chính phủ bảo lãnh và Nợ của chính quyền địa phương,
trong đó:
(i) Nợ Chính phủ là khoản nợ phát sinh từ các khoản vay trong nước, nước
ngoài, được ký kết, phát hành nhân danh Nhà nước, nhân danh Chính phủ hoặc các
12


khoản vay khác do Bộ Tài chính ký kết, phát hành, uỷ quyền phát hành theo quy
định của pháp luật. Nợ chính phủ không bao gồm khoản nợ do Ngân hàng Nhà
nước phát hành nhằm thực hiện chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ;
(ii) Nợ được Chính phủ bảo lãnh là khoản nợ của doanh nghiệp, tổ chức tài
chính, tín dụng vay trong nước, nước ngoài được Chính phủ bảo lãnh;
(iii) Nợ chính quyền địa phương là khoản nợ do Ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương ký kết, phát hành hoặc uỷ quyền phát hành.
Như vậy, khái niệm nợ công trong LQLNC năm 2009 của Việt Nam có phạm
vi hẹp hơn so với khái niệm của các tổ chức, định chế tài chính quốc tế như: Không
bao gồm các nghĩa vụ nợ của Ngân hàng trung ương, các đơn vị trực thuộc chính
phủ (bao gồm cả DNNN) ở tất cả các cấp chính quyền.
Bảng 1.1: Sự khác nhau trong khái niệm về nợ công giữa Việt Nam và IMF

(Nguồn: Bộ Tài chính - 2013)

1.3.2. Những đặc điểm cơ bản của nợ công

Có thể khái quát những đặc điểm chính của nợ công như sau:
- Nợ công được hình thành từ nhiều nguồn với nhiều hình thức biểu hiện
khác nhau, song có thể xác định hai nguồn chính là: từ phát hành trái phiếu
Chính phủ và từ các khoản nợ vay của Chính phủ.
- Nợ công không phải là tài sản nhà nước (thuộc quyền sở hữu hay sử dụng
lâu dài) mà ngược lại là khoản nợ (thuộc nghĩa vụ).
13


- Nợ công thường là kết quả của những hoạt động phát hành trái phiếu hoặc
vay vốn nước ngoài. Sự tồn tại và hiệu quả của những hoạt động này được quyết
định trước hết lại không phải từ giá trị về tài chính mà là uy tín của chủ thể hoạt
động - một chính phủ cụ thể. Mặt khác, nợ công lại là kết quả từ các hoạt động
vay nợ, huy động vốn những năm trước nên giới hạn đánh giá ảnh hưởng của nợ
công về mặt thời gian không đồng nhất với thời gian đánh giá thường sử dụng là
kỳ NSNN;
- Nợ công có tính đa dạng cả về kết cấu, hình thái vật chất cũng như về quá
trình lưu chuyển hay hoạt động;
- Nợ công đòi hỏi quá trình quản lý và kiểm soát rất chặt chẽ và minh bạch
(từ những quyết sách của cơ quan lập pháp qua quyết định triển khai của Chính
phủ đến tổ chức thực thi của Kho bạc Nhà nước).
1.3.3. Vai trò và tầm quan trọng của nợ công
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011 – 2020 của Đảng xác định trong
bối cảnh nhu cầu vốn phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng lớn, khả
năng huy động nguồn nội lực chưa đáp ứng đầy đủ, việc huy động từ các nguồn
vốn vay nợ trong và ngoài nước là cần thiết và có vai trò hết sức quan trọng
nhằm đáp ứng nhu cầu cân đối NSNN và đầu tư phát triển triển kinh tế - xã hội
trong từng thời kỳ. Tuy nhiên, việc vay quá nhiều cộng với việc quản lý nợ công
không hiệu quả có thể dẫn đến rủi ro, hệ lụy không nhỏ đối với bất kỳ nền kinh
tế nào nếu không được quản lý một cách hợp lý. Nợ công không bền vững có thể

làm giảm khả năng của Chính phủ trong nỗ lực giảm mức thất nghiệp và nghèo
đói của một quốc gia. Do vậy, tác động hai mặt của nợ công đến kinh tế vĩ mô
đòi hỏi Chính phủ phải hết sức quan tâm và có những tính toán phù hợp nhằm
đảm bảo giới hạn an toàn về nợ công, nợ chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia
và đảm bảo an ninh tài chính quốc gia.
Vai trò và tác động cụ thể của nợ công lên nền kinh tế có thể được khái
quát qua hai chiều tác động như sau:
Bảng 1.2: Tác động hai chiều của nợ công
14


×