Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Định hướng nghề nghiệp của họcsinh lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay – Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.57 KB, 97 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.Lí do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã có sự khởi sắc về nhiều
mặt, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân. Để hòa
chung vào xu thế đó, đòi hỏi mỗi người phải luôn trau dồi kiến thức và lựa chọn
một hướng đi đúng đắn trong tương lai cho mình. Đặc biệt là đối với HS lớp 12
hiện nay, lựa chọn nghề nghiệp đã trở thành mối quan tâm thường xuyên, chi phối
suy nghĩ và hành động của các em. Việc lựa chọn nghề của HS không chỉ xác định
hướng đi cuộc đời của mỗi cá nhân mà còn có tác dụng tới toàn xã hội vì sau đó nó
thúc đẩy hoặc kìm hãm sự đóng góp của cá nhân đối với xã hội. Chọn nghề phù
hợp với năng lực, nguyện vọng, hứng thú sẽ tạo một động lực lớn thúc đẩy cá nhân
say sưa, miệt mài, tích cực khám phá và sáng tạo để họat động tốt trong nghề,
ngược lại họ sẽ băn khoăn day dứt trong suốt cuộc đời. Nhưng để có sự lựa chọn
đúng thì quả là vấn đề rất khó đối với lứa tuổi này vì những kinh nghiệm vốn có
của HS thường chưa đủ để họ quyết định con đường lao động tương lai. Sự lựa
chọn nghề không chỉ phụ thuộc vào các đặc điểm tâm, sinh lý của các em và những
tác động sư phạm của nhà giáo dục, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố xã hội.
Việc lựa chọn nghề của HS lớp 12 không những được chi phối theo nhu cầu,
nguyện vọng của các em, theo giá trị xã hội của nghề nghiệp mà còn được chi phối
bởi giá trị kinh tế của nghề, tính thiết thực của nghề đối với xã hội. Trước đây HS
chỉ được phép chọn và thi một trường, một nghề, nhiều khi bị “ép” nghề, thì gần
đây HS được thi vào nhiều trường đào tạo nghề mà các em có khả năng dự tuyển.
Việc thi vào nhiều trường có tác dụng góp phần mở rộng cánh cửa nghề cho các
em, nhưng để các em có hoạt động hiệu quả trong nghề sau này thì đó là vấn đề
khó khăn, cần sự giúp đỡ của các chuyên gia, các nhà chuyên môn về nghề nghiệp.
Chọn nghề là chọn hướng đi cho cả cuộc đời. Vì vậy, trước khi quyết định lựa
chọn một nghề trong xã hội thì HS cần có tri thức về nghề đó (hay phải nhận thức
về nghề) rồi mới có quyết định chọn nghề. Nhận thức nghề là một thành phần
không thể thiếu được trong lựa chọn nghề, nếu HS nhận thức đầy đủ, đúng đắn về
những yêu cầu của nghề, về những phẩm chất mà nghề yêu cầu đối với cá nhân thì


- Trang 1 -


họ có sự lựa chọn nghề phù hợp với nguyện vọng của mình và xã hội, từ đó sẽ tích
cực hoạt động để vươn tới chiếm lĩnh nghề.
Hàng năm ở nước ta có hàng vạn HS tốt nghiệp PTTH, những HS này đều
mong muốn tìm cho mình một nghề ổn định, nhưng chọn nghề nào trong cơ chế thị
trường hiện nay đã ảnh hưởng rất nhiều đến suy nghĩ của HS. Vốn hiểu biết biết
thực của HS về nghề có giúp các em lựa chọn đúng đắn một nghề phù hợp với
mình và nghề đó có tồn tại lâu dài hay không? Những định hướng và lựa chọn nghề
của các em chịu ảnh hưởng của những yếu tố nào và khả năng đáp ứng của họ ra
sao? Và sau khi lựa chọn nghề các em có thỏa mãn không, kết quả giáo dục có tốt
không?
Trả lời được câu hỏi trên là có ý nghĩa quan trọng, bước đầu cho phép rút ra
kết luận về định hướng nghề nghiệp tương lai của HS phổ thông. Trên cơ sở đó
giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện và thực chất về vấn đề nhu cầu việc làm và
khả năng đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp, việc làm của các em HS. Đồng thời nêu
khuyến nghị nhằm nâng cao công tác hướng nghiệp và nhận thức nghề cho HS lớp
12 nói riêng và cho tất cả những ai chuẩn bị bước vào ngưỡng cửa cuộc đời nói
chung. Đó là lí do của việc lựa chọn đề tài: “Định hướng nghề nghiệp của học
sinh lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay – Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng”.

- Trang 2 -


2.Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề nghề nghiệp và việc làm đang tạo nên mối quan tâm cấp bách và trực
tiếp nhất của lứa tuổi HS chuẩn bị rời ghế nhà trường. Việc xác định được nghề
nghiệp và việc làm vừa phản ánh nhận thức xã hội của các em vừa cho thấy yêu
cầu của xã hội đối với các hoạt động nghề nghiệp. Định hướng giá trị của HS trong

lĩnh vực nghề nghiệp và việc làm không chỉ phản ánh quá trình đào tạo họ được
tiếp nhận, mà còn cho thấy tính chất lao động xã hội được các em hướng tới. Vì
vậy, định hướng giá trị nghề nghiệp vừa là kết quả của một quá trình hoạt động
sống của HS, vừa là nguyên nhân để duy trì các chuẩn mực sống của họ.
Có không ít tác giả đã nghiên cứu vấn đề định hướng và chọn nghề nghiệp của
HS, sinh viên, thanh niên… Các chủ đề được các tác giả quan tâm nghiên cứu chủ
yếu như:
2.1 Về xu hướng chọn nghề và dự định nghề nghiệp
 Bàn về xu hướng nghề nghiệp của thanh niên HS trung học, nghiên cứu
của hai tác giả Phạm Nguyệt Lãng và Trần Anh: “Việc làm cho thanh niên, giải
pháp và chính sách” [2]– Tập hai (Chương trình chính sách thế hệ trẻ) Hà Nội
1990, đã nhận xét : Thanh niên HS suy nghĩ về nghề nghiệp rất muộn. Suy nghĩ đó
luôn thay đổi và thiếu ổn định. Các tác giả này đã đi sâu nghiên cứu khía cạnh về
những suy nghĩ của HS trong việc chọn nghề cho mình và tìm hiểu tính ổn định
của những suy nghĩ đó, tuy nhiên trong nghiên cứu này chưa có sự quan tâm đến
khía cạnh nhận thức và hứng thú nghề nghiệp của HS. Bên cạnh đó, cũng với vấn
đề này, bằng cách tiếp cận nghiên cứu xu hướng nghề nghiệp theo các chỉ số như:
mức độ nhận thức nghề, thái độ đối với nghề, tính ổn định của thái độ, trong công
trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quang Ẩn và những người khác: “Tâm lý học
xã hội với sự nghiệp đổi mới đất nước” – Hà Nội 1989 [3] đã chỉ ra các khía
cạnh mang tính chất đầy đủ hơn về đặc điểm chung xu hướng nghề nghiệp của HS
trung học, những nghề mà HS biết nhiều nhất cũng như thái độ đánh giá của HS về
các nghề. Tác giả công trình này đã đưa ra những kết luận : Nhận thức về nghề của
HS còn yếu, số nghề và các trường chuyên nghiệp được HS biết đến chưa nhiều.
Hứng thú nghề nghiệp cuả HS hình thành muộn chưa tập trung và chưa rõ nét.

- Trang 3 -


Giữa hai công trình nghiên cứu này, tuy cùng bàn về xu hướng nghề nghiệp

của thanh niên HS, nhưng mỗi công trình lại có hướng tiếp cận và phân tích khác
nhau. Với đề tài “Định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 tại Tiền Giang
hiện nay – Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng”, tác giả sẽ kết hợp việc phân
tích nhận thức, hứng thú, thái độ đối với nghề nhiệp của công trình [2] và việc phân
tích về suy nghĩ nghề nghiệp của công trình [3] trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc để
đưa ra những nhận định và đánh giá phù hợp với bài viết của mình.
 Đồng thời, khi bàn về dự định chọn nghề, trong công trình nghiên cứu
[2] đã đưa ra được những nghề mà thanh niên HS chọn đều hướng về phân phối
lưu thông và dịch vụ. Đáng chú ý là ba ngành chủ chốt trong ba chương trình kinh
tế của đất nước như công nghiệp, nông nghiệp và thủ công nghiệp thì thanh niên
chưa coi là nghề yêu thích. Vấn đề khoa học kỹ thuật đang là một yêu cầu phát
triển của đất nước cũng chưa được thanh niên quan tâm và coi là một nghề say mê,
yêu thích của mình. Trong khi đó, tác giả Phạm Tất Thắng với đề tài: “Xu hướng
lựa chọn công việc của sinh viên sau tốt nghiệp” – Tạp chí xã hội học số 2 (98),
2007 [13] lại quan tâm tới khía cạnh suy nghĩ và mong đợi của sinh viên về định
hướng tương lai của họ, nhất là mong đợi về vấn đề quan trọng nhất khi họ ra
trường: việc làm, nơi làm việc và thu nhập.
Sự khác biệt của hai công trình nghiên cứu này khi phân tích dự định nghề đó
là ở các khách thể nghiên cứu. Một công trình tìm hiểu đối tượng HS chuẩn bị TN,
một công trình tìm hiểu đối tượng là sinh viên sau TN. Điều đó dẫn đến hướng đi
khác nhau trong quá trình nghiên cứu và phân tích. Với các phương pháp nghiên
cứu xã hội học bao gồm cả định tính và định lượng, các công trình nghiên cứu trên
đã đề cập đến vấn đề xu hướng nghề và dự định chọn nghề của HS, từ đó giúp
chúng tôi có những số liệu để so sánh và phục vụ khi nghiên cứu. Nhưng vấn đề
này chưa được các tác giả nghiên cứu sâu và đầy đủ, chỉ dừng lại ở nhận thức và
dự định chứ chưa thể hiện ra thành hành động cụ thể, cũng như việc tìm hiểu các
yếu tố tác động đến suy nghĩ và sự lựa chọn nghề nghiệp của HS. Đề tài của tác giả
sẽ tiến hành tìm hiểu những vấn đề mà các tác giả chưa thực hiện nêu trên.

- Trang 4 -



2.2 Về nhận thức nghề và dự định chọn nghề
Nghiên cứu về vấn đề nhận thức nghề và dự định chọn nghề, có nhiều công
trình và bài viết đề cập đến nhưng chỉ là những trình bày sơ sài, và khi đi sâu giải
quyết vấn đề chỉ có tác giả Phan Thị Tố Oanh nghiên cứu một cách cụ thể hơn với
đề tài: “Nghiên cứu nhận thức nghề và dự định chọn nghề của học sinh phổ
thông trung học” (Luận án Phó Tiến Sĩ khoa học sư phạm – tâm lý – 1996) [4]
tiến hành nghiên cứu trên 497 học sinh 4 trường thuộc nội ngoại thành thành phố
Hà Nội và Huế đã cho rằng: HS ở các nhóm nghề đã có nhận thức về nghề nghiệp
nhưng ở mức độ chưa cao, chưa sâu sắc và đầy đủ. Trong ba mặt nhận thức về
nghề HS nhận thức nhu cầu của xã hội đối với nghề nghiệp mình định chọn cao
hơn so với nhận thức về thế giới nghề nghiệp – yêu cầu đặc trưng của nghề và
nhận thức về đặc điểm cá nhân ( tương ứng là 0,98; 0,55; 0,375 điểm ). Điều đó
chứng tỏ những yếu tố khách quan của nghề nghiệp đối với cá nhân được HS nhận
biết dễ hơn những yêu cầu của nghề nghiệp về các đặc điểm tâm lý cá nhân.
Và trong ba trình độ nghề thì đa số HS dự định chọn trình độ cao: có tới
80,4% dự định thi đại học; 36,9% dự định thi trung cấp; 7,3% thi vào sơ cấp và
5,5% không thi vào hệ nào.
Trên cở sở phân tích các yêu cầu của đề tài, tác giả đã đưa ra những nhận xét:
 Nhận thức nghề đang dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài chưa đi sâu
tìm hiểu đặc trưng riêng của nghề và đối chiếu yêu cầu đó với những đặc điểm thể
chất và tâm lý của mình.
 Đa số HS chọn đại học, vào những nghề xã hội đánh giá cao, có khả năng
tìm việc ổn định và cần thiết xã hội.
Nói đến nhận xét này, tác giả Nguyễn Thị Vân Hạnh cũng có bài viết trên tạp
chí Khoa học giáo dục số 16, tháng 1/2007 mang tên “Nhu cầu học nghề cuả học
sinh trung học phổ thông” [17]. Bài viết của tác giả đã khẳng định rằng phần
đông HS có nhận thức đúng đắn rằng vào đại học không phải là con đường duy
nhất để thành đạt (70% ý kiến được hỏi), nhưng lại có tới 70% lựa chọn con đường

này sau khi TN PTTH.
Và các nhóm nghề được HS lựa chọn nhiều nhất là công nghệ thông tin, điện,
dệt may. Sự lựa chọn này phản ánh tương đối chính xác xu hướng phát triển của thị
- Trang 5 -


trường lao động. Những nghề này, nhất là dệt may đang có nhu cầu lớn về lao động
kĩ thuật, HS những ngành này ra trường hầu hết tìm được việc ngay.


Đặc điểm giới tính có ảnh hưởng đến dự định chọn nghề của nam và nữ.



Nhận thức nghề và dự định chọn nghề của HS chưa có sự phù hợp cao,

chọn nghề theo ý muốn chủ quan.
Công trình [4] nghiên cứu khá đầy đủ các khía cạnh của hoạt động chọn nghề
của HS. Đặc biệt, dựa trên các nghiên cứu định lượng, định tính và các phương
pháp tiếp cận xã hội học đặc biệt là phương pháp thử nghiệm tác động đối với các
em HS, tác giả đã phân tích khá rõ vấn đề nhận thức nghề và dự định chọn nghề
của HS PTTH. Tuy nhiên, công trình nghiên cứu này chưa làm rõ được các nhân tố
tác động đến định hướng chọn nghề của HS và hiệu quả của hoạt động hướng
nghiệp của các trường phổ thông mà tác giả tiến hành nghiên cứu. Bên cạnh đó,
công trình [5] tuy không đề cập nhiều đến nhận thức nghề của HS, và chỉ bằng
nghiên cứu định lượng, tác giả bài viết đã đề cập đến các lí do cụ thể của việc chọn
nghề của HS, đồng thời cũng đưa ra được những ảnh hưởng đến định hướng nghề
nghiệp của HS PTTH. Trên cơ sở đó, đề tài này sẽ kết hợp những cái đạt được của
hai công trình trên và đi sâu nghiên cứu khía cạnh mà tác giả chưa đề cập tới để
chúng ta có cái nhìn về vấn đề toàn diện hơn.

2.3 Nghiên cứu về động cơ và nguyện vọng chọn nghề
Nghiên cứu vấn đề này, tác giả Nguyễn Ngọc Bích với đề tài: “Động cơ chọn
nghề của thanh thiếu niên” (Luận án Phó Tiến Sĩ – 1979) [5] đã đưa ra những
nhận xét sau: Ở thanh niên HS động cơ bên trong nổi bật hơn động cơ bên ngoài,
nam thanh niên xếp việc khả năng thực hiện khả năng của mình là động cơ đầu
tiên trong chọn nghề, thứ hai là tính chất quan trọng của nghề và thứ ba là hoạt
động hứng thú. Ở nữ thanh niên thì thứ nhất là yêu cầu của nhà nước, thứ hai là vị
trí xã hội của nghề, ba là thực hiện được khả năng của mình. Theo tác giả thì sự
lựa chọn ngành nghề của nam và nữ khác nhau cũng như của thanh niên Việt Nam
khác thanh niên Tiệp Khắc. Nghiên cứu cuả tác giả Nguyễn Ngọc Bích sử dụng
phương pháp chủ yếu là định lượng nên chỉ đưa ra một số động cơ tiêu biểu có liên
quan đến sự lựa chọn nghề của HS, sinh viên và đánh giá những động cơ nào quan

- Trang 6 -


trọng đối với họ mà không đề cập đến động cơ về học tập, về động cơ sống và việc
thực hiện các động cơ đó cũng như nguyện vọng chọn nghề của HS như thế nào.
 Trên cơ sở của những tồn tại đó, tác giả Kham Phan Kham – On với đề
tài: “Động cơ học tập và quan hệ của nó với nguyện vọng chọn nghề của học
sinh Lào” (Luận án Phó Tiến Sỹ khoa Tâm lý – sư phạm – 1994) [6] tiến hành
khảo sát 80 HS PTTH Lào và 235 lưu HS Lào học ở các trường đại học Việt Nam,
đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Anket, phỏng vấn, quan sát, nghiên cứu
sản phẩm hoạt động và toán học thống kê trong việc thực hiện đề tài của mình, tác
giả cho thấy nhóm động cơ: học nắm tri thức khoa học, học để phục vụ nhân dân
và học vì trách nhiệm nghĩa vụ tác động mạnh nhất đến HS, trong đó HS giỏi
chiếm 70%, khá là 88,37%, còn với các HS trung bình là do quan hệ người và xã
hội kích thích cao hơn. Và nguyện vọng chọn nghề của các em được phân chia ra
các lĩnh vực: khoa học kỹ thuật chiếm 34,60%, đối tượng là con người chiếm
27,93%, nghệ thuật 15,55%, tự nhiên 12,38%, có dấu hiệu là 9,52%.

Từ đó, tác giả đi đến kết luận:
 Động cơ thuộc nhóm A (học nắm tri thức khoa học, học để phục vụ nhân
dân và học vì trách nhiệm nghĩa vụ) do HS nhận thức rõ mức độ thúc đẩy mạnh mẽ
của chúng đối với cá nhân trong quá trình học tập chiếm ưu thế.
 Động cơ học tập chi phối trực tiếp đến kết quả học tập HS
 Nguyện vọng và thực tế chọn nghề có chênh lệch
 Động cơ học tập gắn bó chặt chẽ với nguyện vọng chọn nghề.
Tuy có bàn đến các động cơ của việc chọn nghề nhưng các tác giả chưa đưa ra
một cấu trúc thứ bậc động cơ lựa chọn nghề của HS cũng như quan tâm của tác giả
đến vấn đề nhận thức nghề nghiệp sẽ đóng vai trò gì đối với việc chọn nghề mà
theo đó chứng tỏ trong quá trình lựa chọn nghề không thể thiếu thành phần nhận
thức nghề. Và cũng dựa vào đó, bài viết này sẽ tiến hành làm rõ yếu tố nhận thức
nghề của HS PTTH.
2.4 Nghiên cứu về hứng thú nghề nghiệp
Nhiều công trình nghiên cứu trước đây của giáo sư Phạm Tất Dong như:
“Vấn đề hứng thú trong công tác hướng nghiệp – Nghiên cứu Khoa học giáo
dục, số 18/1974” [19]; “Hướng nghiệp trong điều kiện kinh tế thị trường” –
- Trang 7 -


Thế giới mới số 91/1974” [21]… đã xem xét sâu sắc và có hệ thống về hứng thú
nghề nghiệp cũng như những vấn đề cơ bản về nội dung phương pháp hướng
nghiệp cho học HS. Còn tác giả Phạm Ngọc Uyển trong “Tâm lý học xã hội với
sự nghiệp đổi mới đất nước” – Hà Nội 1989 [12], cho rằng: Nếu thừa nhận hoạt
động học tập lao động kĩ thuật và hướng nghiệp là một hình thức của họat động
chủ đạo đối với lứa tuổi HS sắp TN phổ thông thì hoạt động đó có khả năng hình
thành ở các em một cấu tạo tâm lý mới là sự sẵn sàng tâm lý đi vào lao động, là
một phức hợp thuộc tính cách trong quan hệ biện chứng.
Trên cơ sở đó, trong các công trình nghiên cứu của mình, tác giả Phạm Tất
Dong đã đưa ra kết luận: Hứng thú môn học, hứng thú nghề nghiệp có tác dụng

thúc đẩy việc lựa chọn nghề và thực hiện được khả năng của mình là động cơ mạnh
nhất, quan trọng nhất trong việc lựa chọn nghề của HS. Và tác giả Phạm Ngọc
Uyển lại kết luận: Sự sẵn sàng tâm lý đi vào lao động được hình thành qua các quá
trình giáo dục lỹ thuật tổng hợp, hướng nghiệp, lao động sản xuất và tay nghề. Nó
có tác dụng định hướng kích thích chủ thể đi vào một hình thức lao động xác định.
Một công trình hướng đến hứng thú của cá nhân trong việc học tập và chọn
nghề là chủ yếu. Một công trình nói đến tâm lý đi vào lao động được hình thành
qua lao động sản xuất và hướng nghiệp. Tuy hình thức là khác nhau, nhưng hứng
thú cá nhân đều được đề cập đến trong cả hai bài viết này. Trên cơ sở đó, khi áp
dụng vào đề tài này, chúng tôi sẽ vận dụng cả hai mục đích trên để xem xét và giải
quyết có hiệu quả các vấn đề mà đề tài đặt ra trong việc thực hiện hoạt động hướng
nghiệp của các cá nhân, tổ chức cho HS để tạo cho các em có những nhận thức,
hứng thú và lựa chọn ngành nghề phù hợp.
Các bài viết này đã đề cập khá kĩ đến hứng thú, thái độ của HS trong việc
chọn nghề và hành vi chuẩn bị nghề, từ đó đã cung cấp cho chúng tôi không ít số
liệu để phục vụ đề tài. Tuy nhiên, các tác giả chỉ chú trọng đến một yếu tố duy nhất
mà chưa có nghiên cứu và xem xét sự tác động qua lại giữa các yếu tố nhận thức,
động cơ, hứng thú, thái độ trong việc lựa chọn nghề của HS.

- Trang 8 -


2.5 Trong lĩnh vực lý luận và thực tiễn công tác hướng nghiệp cho học
sinh phổ thông
Gắn liền với các công trình nghiên cứu của các tác giả Nguyễn Văn Hộ:
“Thiết lập và phát triển hệ thống hướng nghiệp” – Luận án Tiến sỹ 1988 [7];
các bài viết của tác giả Phạm Tất Dong đã nêu ở trên; Lê Đức Phúc: “Nghiên cứu
nghề và sự phù hợp nghề của nhân cách làm cơ sở cho công tác hướng nghiệp
và tư vấn nghề nghiệp” [13]. Trong các công trình này, các tác giả đã giải quyết
những vấn đề then chốt của công tác hướng nghiệp như:

 Vấn đề lịch sử phát triển hệ thống công tác hướng nghiệp ở các nước trên
thế giới và Việt Nam.
 Bản chất khoa học của công tác hướng nghiệp.
 Mục đích, nhiệm vụ, vai trò của công tác hướng nghiệp.
 Nội dung cơ bản và các hình thức hướng nghiệp.
 Vấn đề tổ chức và điều chỉnh công tác hướng nghiệp.
Trong khi đó, tác giả Huỳnh Thị Tam Thanh với bài viết: “Vấn đề giáo dục
hướng nghiệp cho học viên bổ túc trung học phổ thông ở thành phố Đà Nẵng”
(Tạp chí Giáo dục số 165, kì 2-6/2007) [14] đã tiến hành tìm hiểu thực trạng giáo
dục hướng nghiệp cho học viên Bổ túc trung học phổ thông thuộc đối tượng chưa
tham gia lao động nghề nghiệp tại 8 trung tâm giáo dục thường xuyên trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng, kết quả khảo sát 355 học viên đã tiến hành giải quyết các vấn
đề mang tính cụ thể hơn của hoạt động hướng nghiệp:
 Việc cung cấp các kiến thức liên quan đến nghề qua bài giảng các môn
văn hóa.
 Mức độ tổ chức và tuyên truyền về các hoạt động ngoại khóa về giáo dục
hướng nghiệp.
 Hoạt động tổ chức và tư vấn nghề cho HS.
Qua các vấn đề cần giải quyết đó, và thông qua kết quả nghiên cứu, các bài
viết đã đi đến những kết luận trong việc thực hiện hoạt động hướng nghiệp cho HS.
Nhóm công trình nghiên cứu [13] cho rằng: Vấn đề hướng nghiệp cho HS phổ
thông chỉ mới dừng lại ở khâu định hướng nghề, còn các khâu tư vấn nghề và
tuyển chọn nghề chưa được chú trọng thích đáng. Gần đây, khâu tư vấn nghề đã
- Trang 9 -


được các TTHN dạy nghề quan tâm. Trung tâm lao động hướng nghiệp của Bộ
giáo dục và đào tạo đã xây dựng quy trình tư vấn nghề cho HS phổ thông với tư
tưởng chủ đạo coi trọng tính độc lập tự chọn nghề của HS. Trong khi đó, bài viết
[4] đưa đến kết luận: Nhìn chung, học viên bổ túc trung học phổ thông hầu như

chưa được tham gia các hoạt động giáo dục hướng nghiệp hoặc nếu có cũng chỉ là
mang tính tự phát, chưa có những định hướng, quy định cụ thể.
Với kết quả nghiên cứu như vậy, các tác giả đã làm rõ được thực trạng hoạt
động giáo dục hướng nghiệp trong các trường PTTH, đó là vẫn còn nhiều yếu kém,
hoạt động chưa hiệu quả. Điều đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động nhận
thức và lựa chọn nghành nghề của HS. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu này
đề cập khá nhiều về mặt lý thuyết mà chưa đưa ra được hệ thống các giải pháp cụ
thể từ các cá nhân, tổ chức, để các đơn vị này thực hiện tốt hơn hoạt động hướng
nghiệp giúp các xem HS lựa chọn cho mình một nghề phù hợp.
2.6 Về vấn đề và giải pháp trong hoạt động hướng nghiệp
Có rất nhiều các giải pháp nhằm giúp HS lựa chọn nghề đúng đắn như: giải
pháp từ phía bản thân HS, từ gia đình, nhà trường, các tổ chức hướng nghiệp…
Dưới đây là các bài viết bàn về các giải pháp về hoạt động hướng nghiệp cho HS:
Thạc sỹ Bùi Việt Phú với bài viết “Xã hội hóa hoạt động giáo dục hướng
nghiệp cho học sinh phổ thông - vấn đề và giải pháp” (Tạp chí giáo dục số 168,
kì 2 – 7/2007) [15] đã nêu lên thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở
trường trung học trên 10 tỉnh, thành phố là: số trường làm tốt hoạt động hướng
nghiệp trung học cơ sở chỉ chiếm 0,01 – 0,02%; ở PTTH có khá hơn (5,4 -6,3%).
Qua đó cho thấy nhà trường phổ thông hết sức coi nhẹ việc chuẩn bị cho HS đi vào
nghề nghiệp. Từ đó, tác giả đi đến kiến nghị một số giải pháp xã hội hóa giáo dục
cho HS phổ thông:
 Phát huy vai trò các phương tiện thông tin đại chúng.
 Đẩy mạnh công tác phân luồng HS phổ thông.
 Phát huy có hiệu quả hoạt động của các trung tâm học tập cộng đồng
nhằm cung cấp thông tin đến đối tượng phụ huynh HS.
 Huy động các tổ chức xã hội, các nhà khoa học nghiên cứu xây dựng nội
dung giáo dục hướng nghiệp cho HS PTTH.
- Trang 10 -



 Xây dựng các phòng hướng nghiệp, các trung tâm tư vấn hướng nghiệp
trong trường PTTH và trung tâm kĩ thuật tổng hợp hướng nghiệp.
 Đa dạng hóa nguồn giáo viên
 Phối hợp giữa nhà trường phổ thông – trung tâm kĩ thuật tổng hợp hướng
nghiệp; các cơ cở sản xuất dịch vụ và các tổ chức tổ chức xã hội cùng tham gia trực
tiếp hay gián tiếp tổ chức giáo dục hướng nghiệp cho học sinh PTTH.
 Cũng nằm trong hệ thống các giải pháp trong hoạt động hướng nghiệp,
thạc sỹ Nguyễn Thị Thanh Huyền cũng có bài viết nhằm đưa ra các hướng giải
quyết cho một hoạt động cụ thể là tư vấn nghề “Làm tốt công tác tư vấn nghề
góp phần nâng cao hiệu quả giáo dục hướng nghiệp trong trường phổ thông”
(Tạp chí Giáo dục số 156, kì 2 – 2/2007) [16]. Bài viết đã nêu lên tầm quan trọng
của hoạt động giáo dục hướng nghiệp, và nhiệm vụ của tư vấn nghề trong trường
phổ thông và qua đó tác giả đã nêu lên các bước để thực hiện những nhiêm vụ này,
cụ thể: Giới thiệu các thông tin về nghề nghiệp; tìm hiểu toàn diện nhân cách HS;
lập hồ sơ hướng nghiệp HS; theo dõi quan sát HS trong quá trình học tập, văn hóa,
lao động, kĩ thuật, học nghề…; tư vấn…
Bài viết [15] đã đưa ra các giải pháp mang tính chung nhất cho nhiều yếu tố
tác động đến việc chọn nghề của HS. Tuy nhiên, bài viết [16] là một bài viết cụ thể
hóa lại một trong các yếu tố của bài viết [15], đó là công tác tư vấn nghề. Đây là
một hoạt động mang tính chất chủ đạo trong việc hướng nghiệp cho HS, giúp các
em nâng cao thêm kiến thức nghề và lựa chọn nghề.
Và cả hai bài viết này đã nêu rõ về tầm quan trọng của hoạt động giáo dục
hướng nghiệp trong trường phổ thông và các giải pháp cụ thể để thực hiện tốt hơn
hoạt động này cho các em HS và giúp các em có được những hiểu biết và lựa chọn
nghề phù hợp với bản thân mình. Tuy nhiên, cả hai bài viết đã bỏ quên yếu tố là gia
đình-môi trường xã hội hóa đầu tiên giúp hình thành và phát triển nhân cách con
người trước khi hòa nhập và tiếp thu các kiến thức từ môi trường xã hội. Do vậy,
một giải pháp quan trọng không thể thiếu cho HS trong hướng nghiệp, chọn nghề
là từ phía gia đình nơi các em sinh sống.


- Trang 11 -


Như vậy về phần nội dung các bài viết, luận án, các đánh gía đã cho chúng ta
một cái nhìn khái quát về thực trạng nhận thức, động cơ, hứng thú nghề nghiệp và
định hướng chọn nghề… của HS PTTH, cũng như các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả hướng nghiệp và chọn nghề cho HS PTTH. Đồng thời cũng đưa ra được
những kết quả khả quan về các vấn đề trên. Tuy nhiên, mỗi bài viết chỉ tìm hiểu
một khía cạnh nhất định mà ít hoặc không có sự tìm hiểu đến các vấn đề xung
quanh của đề tài, tìm hiểu các đối tượng là HS PTTH chung chứ không đi sâu vào
một đối tượng là các em HS lớp 12.
Về phương pháp các tác giả của các bài viết, luận án, các đánh giá đã sử
dụng phương pháp điều tra, khảo sát đánh giá thực trạng vấn đề chọn nghề của HS
phổ thông. Phương pháp tiếp cận như phân tích hệ thống, so sánh, tổng hợp…
những vấn đề lý luận và thực tiễn trong hoạt động chọn nghề và định hướng nghề
nghiệp cho các em HS. Sử dụng phương pháp kế thừa, tham khảo các tài liệu khoa
học từ trước tới nay đã được nghiên cứu về lĩnh vực này; đồng thời kế thừa các số
liệu đã được điều tra, tổng hợp từ nhiều cuộc điều tra chuyên ngành. Phương pháp
so sánh, đánh giá và có cả những nhận định chủ quan của các tác giả.
Tóm lại: Những tài liệu có tính chất lý luận về công tác hướng nghiệp và tư
vấn nghề trên đây đã được chúng tôi lấy đó làm cơ sở để tiến hành nghiên cứu đề
tài của mình. Dựa vào đó tác giả có những chương trình thực nghiệm phù hợp để
tránh sự khập khiễng giữa lý luận và thực tiễn nghiên cứu. Có thể nói rằng, ở Việt
Nam các lĩnh vực nghề, xu hướng nghề nghiệp, hứng thú nghề nghiệp, động cơ
chọn nghề… đã được quan tâm nhiều hơn. Những kết quả đó đã làm tiền đề cho
chúng tôi tiếp tục nghiên cứu vấn đề này vào thời điểm hiện nay. Bản thân thế giới
nghề nghiệp luôn luôn biến động và phát triển không ngừng, vì vậy việc nghiên
cứu về nó bao giờ cũng mang tính chất thời sự và mới mẻ. Riêng vấn đề định
hướng chọn nghề, nhận thức nghề của HS lớp 12 và các nhân tố tác động chưa
được các tác giả quan tâm một cách thỏa đáng, mà chỉ dừng lại trên cơ sở hình thái

bên ngoài của nghề chưa đi sâu tìm hiểu bản chất nghề. Đó cũng là lý do thôi thúc
tác giả đi sâu tìm hiểu về tình hình định hướng nghề nghiệp và các yếu tố ảnh
hưởng đến dự định chọn nghề của HS lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay.

- Trang 12 -


Với đề tài: “Định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 tại Tiền Giang
hiện nay – Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng”, tác giả sẽ tiến hành nghiên cứu
sâu hơn thông qua các công cụ thu thập thông tin như phân tích tài liệu sẵn có,
phỏng vấn bằng bảng hỏi, quan sát, phỏng vấn sâu. Số liệu thu thập được sẽ xử lý
bằng phần mền SPSS 11.5 để mô tả thực trạng, phân tích các biến số trong mối
tương quan và hồi quy tuyến tính. Bên cạnh đó tác giả cũng sẽ sử dụng một số lý
thuyết để giải thích và phân tích thực trạng nhận thức nghề, dự định chọn nghề và
các yếu tố ảnh hưởng đến lựa chọn nghề của HS lớp 12..Trên cơ sở đó sẽ đề ra một
số giải pháp tổng quát và cụ thể với mong muốn giúp các em HS nâng cao nhận
thức nghề và có những sự lựa chọn ngành nghề hiệu quả hơn.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
-

Tìm hiểu thực trạng nhận thức nghề và định hướng chọn nghề

của HS lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay.
-

Tìm hiểu thực trạng và hiệu quả của công tác hướng nghiệp,

đồng thời có thể hiểu được tâm tư nguyện vọng của HS 12.
-


Tìm hiểu những yếu tố tác động tới nhận thức và định hướng

chọn nghề của HS lớp 12.
-

Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức để các em

lựa chọn nghề phù hợp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
-

Xác định nội hàm các khái niệm liên quan và phân tích hướng

tiếp cận lý thuyết cho việc nghiên cứu vấn đề định hướng nghề nghiệp của HS lớp
12 tại Tiền Giang.
-

Tìm hiểu thực trạng nhận thức nghề và định hướng chọn nghề

của HS lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay.
-

Khảo sát làm rõ tình hình và những yếu tố ảnh hưởng đến

nhận thức, hành vi định hướng đó.
-

Nghiên cứu tìm ra giải pháp, kiến nghị thiết thực đối với vấn


đề nhận thức nghề và định hướng nghề nghiệp cho HS lớp 12 tại Tiền Giang nói
riêng và HS phổ thông cả nước nói chung.
- Trang 13 -


4.Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Thực trạng định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay và
các yếu tố ảnh hưởng.
4.2 Khách thể nghiên cứu
HS lớp 12 tại 3 trường: THPT Vĩnh Bình, THPT Bán công Vĩnh Bình,
TCKTKT Tiền Giang.
4.3 Phạm vi nghiên cứu
-

Không gian nghiên cứu: Với địa bàn nghiên cứu tại Tiền

Giang, tác giả tiến hành nghiên cứu tại 3 trường:

-



Trường Trung học phổ thông Vĩnh Bình



Trường Trung học phổ thông bán công Vĩnh Bình




Trung cấp kinh tế kĩ thuật Tiền Giang.
Thời gian nghiên cứu:

Tác giả thực hiện đề tài từ tháng 5 đến tháng 7 năm 2008 chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1: từ 5/2008 đến 6/2008, giai đoạn này tác giả tiến hành thu thập
thông tin sẵn có, khảo sát thực địa, xây dựng kế hoạch đề cương nghiên cứu, tiến
hành nghiên cứu thực địa, phỏng vấn bằng bảng hỏi.
+ Giai đoạn 2: từ 6/2008 đến 7/2008, trên sơ sở những thông tin, số liệu và
những phân tích định lượng, tác giả tiếp tục tiến hành quan sát và phỏng vấn sâu để
phân tích và tìm hiểu sâu vấn đề nghiên cứu. Sau đó hoàn thành báo cáo.
5.Giới hạn nghiên cứu
Với đề tài “Định hướng nghề nghiệp của học sinh lớp 12 tại Tiền Giang
hiện nay – Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng”, do những điều kiện chủ quan
và khách quan có khó một khăn như giới hạn về khả năng, thời gian, nhân lực, kinh
phí và các đặc điểm của khu vực nghiên cứu nên tác giả chỉ tập trung nghiên cứu
với lượng mẫu và các tiêu chí chọn mẫu nhỏ, chưa thật toàn diện, chưa khai thác
hết được mọi thông tin liên quan phục vụ cho đề tài này.
Nhưng bên cạnh đó tác giả đã nhận được sự giúp đỡ tận tình từ giảng viên
hướng dẫn, các đơn vị cung cấp thông tin, các em HS lớp 12 tại Tiền Giang cũng
như bạn bè người thân xung quanh trong việc thực hiện đề tài này.
- Trang 14 -


Nếu có điều kiện tác giả mong muốn phát triển đề tài theo một hướng toàn
diện hơn, đó là:
-

Không chỉ là HS lớp 12 mà cò có thể là HS PTTH.


-

Không chỉ là HS tại Tiền Giang mà có thể nhiều khu vực hơn

để có sự so sánh khách quan hơn.
-

Không chỉ dừng lại ở các em đang theo học PTTH mà có thể

đi sâu tìm hiểu nghiên cứu thêm các đối tượng đã thi đậu tốt nghiệp, trung học
chuyên nghiệp, cao đẳng – đại học để thấy được kết quả của sự lựa chọn nghề
nghiệp tác động như thế nào đến kết quả học tập, sự thỏa mãn và hành động nhằm
đạt được mục tiêu đề ra… của các em.
6.Điểm mới của đề tài
Trên cơ sở phân tích những thành tựu lý luận tâm lý học của các tác giả về
lĩnh vực nghề nghiệp, tác giả đã góp phần nhỏ bé của mình vào những vấn đề sau:
-

Vạch ra thực trạng nhận thức nghề và định hướng chọn nghề

tương lai của HS lớp 12.
-

Làm rõ một số yếu tố ảnh hưởng đến nhận thức nghề và định

hướng chọn nghề tương lai, cũng như kết quả giáo dục của HS lớp 12 hiện nay.
-

Trên cơ sở đó đưa ra một số biện pháp trong tư vấn thông tin


nghề nghiệp nhằm nâng cao nhận thức nghề của HS giúp HS lựa chọn nghề phù
hợp hơn.
7.Mẫu nghiên cứu
Đây là một nghiên cứu mang tính chất thăm dò. Dựa trên khả năng và điều
kiện thực tế cũng như đối tượng nghiên cứu của đề tài, tác giả đã tiến hành chọn
mẫu phân tầng ngẫu nhiên tại một trường Công lập, một trường Bán công và một
trường dạy nghề tại địa bàn tỉnh Tiền Giang.
Tổng số phiếu phát ra là 120 chia đều cho ba khối trường.
Số phiếu hợp lệ thu được là 113 phiếu

- Trang 15 -


Mẫu chọn
120 người

THPT
Vĩnh Bình
20 người

Nam

Nam

60 người

60 người

THPT BC
Vĩnh Bình

20 người

TCKTKT
Tiền Giang
20 người

THPT
Vĩnh Bình
20 người

THPT BC
Vĩnh Bình
20 người

TCKTKT
Tiền Giang
20 người

8.Phương pháp nghiên cứu
8.1 Phương pháp luận
Đề tài sẽ vận dụng phương pháp luận biện chứng duy vật lịch sử để nghiên
cứu vấn đề. Đồng thời, công trình sẽ được nghiên cứu dưới lối tiếp cận xã hội học.
Các lý thuyết chính đã được vận dụng để phân tích, giải thích việc nhận thức, hành
vi chuẩn bị và các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp HS lớp 12 là: lý
thuyết xã hội hóa, lý thuyết chức năng của Talcott Parsons, lý thuyết lựa chọn hành
vi hợp lý của James S.Coleman.
8.2 Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Phương pháp thu thập và phân tích tài liệu
Thông qua thu thập, phân tích một số tài liệu, sách báo tạp chí đã giúp tác giả
rút ra được tổng quan và có thêm những hiểu biết về vấn đề liên quan đến đề tài.

Phương pháp trưng cầu ý kiến
Để thu thập thông tin định lượng, tác giả tiến hành điều tra bằng bảng hỏi
anket với những câu hỏi đã được soạn sẵn và trực tiếp phỏng vấn các khách thể
theo mẫu nghiên cứu. Số lượng bảng hỏi phát ra là 120 bảng. Với phương pháp này
nhằm bộc lộ các vấn đề:
-

Tìm hiểu nhận thức của HS về nghề nghiệp định chọn.

-

Tìm hiểu thực trạng dự định chọn nghề của HS.
- Trang 16 -


-

Tìm hiểu mối tương quan giữa nhận thức và dự định chọn

nghề của HS.
-

Tìm hiểu các hoạt động của HS để có nhận thức và dự định

chọn nghề.
-

Tìm hiểu lý do chọn nghề của HS.

-


Tìm hiểu vai trò của gia đình, nhà trường, xã hội trong việc

giúp đỡ các em nhận thức và lựa chọn nghề.
-

Tìm hiểu sự thỏa mãn của sự lựa chọn và ảnh hưởng của hoạt

động này đến kết quả giáo dục của HS lớp 12.
Phương pháp phỏng vấn sâu bán cơ cấu
Để có được cái nhìn khách quan và chính xác hơn, sâu hơn về vấn đề định
hướng nghề nghiệp của HS lớp 12, chúng tôi tiến hành:
-

Gặp gỡ ban giám hiệu nhà trường và giáo viên để tìm hiểu vấn

đề hướng nghiệp của nhà trường, công tác dạy và học, kết quả thi TN, đại học của
HS trong những năm gần đây.
-

Gặp gỡ trao đổi trực tiếp với HS, đặc biệt là phụ huynh HS để

tìm hiểu nguyện vọng của họ về nghề nghiệp của con em mình, đồng thời tìm hiểu
vai trò của gia đình trong việc giúp đỡ các em hiểu nghề và chọn nghề.
Những thông tin thu được trong các cuộc gặp gỡ, phỏng vấn này nhằm bổ
sung và tìm hiểu sâu hơn một số thông tin mà những câu hỏi trong bản trưng cầu
còn hạn chế cũng như cho quá trình phân tích bài làm của tác giả.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
Nghiên cứu kết quả học tập các môn học, hồ sơ thi tuyển, kết quả thi tay nghề
ở trường phổ thông nhằm đánh giá mức độ hiểu biết nghề của HS.

Phương pháp xử lý thông tin
Những thông tin thu được từ cuộc điều tra, phỏng vấn trong nghiên cứu tác
giả tiến hành tổng hợp, phân tổ và phân tích các tần số và tương quan thông qua
việc xử lý bằng phần mềm SPSS 11.05 for Windows.

- Trang 17 -


9.Khung phân tích
Điều kiện Kinh tế - Văn hóa – Xã hội

Môi trường xã
hội hóa:
- Gia đình
- Nhà trường
- Nhóm bạn
- Truyền thông đại
chúng

-

Đặc điểm cá nhân:
Nhận thức nghề
Sở thích và dự định
chọn nghề
Năng lực và thể chất
cá nhân
Động cơ chọn nghề

Điều kiện kinh tế

gia đình

Định hướng chọn nghề của học sinh lớp 12

Trong nghiên cứu này, định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 tại Tiền Giang
được xem là biến phụ thuộc. Các biến độc lập bao gồm: môi trường xã hội hóa, đặc
điểm cá nhân, và điều kiện kinh tế gia đình. Và biến kiểm soát là điều kiện kinh tế văn hóa - xã hội.
10. Gỉa thuyết nghiên cứu
-

Hiện nay HS chưa nhận thức đầy đủ về nghề định chọn.

-

Sự phát triển của kinh tế - xã hội làm xuất hiện nhiều ngành

nghề mới và khả năng phát triển của mỗi nghề là khác nhau, từ đó có ảnh hưởng đến
dự định chọn nghề của HS.
-

Bên cạnh sự tác động lớn của quá trình xã hội hóa như gia

đình, nhà trường, bạn bè, truyền thông, dự định chọn nghề của HS còn chịu sự tác
động của những yếu tố như: kinh tế gia đình, môi trường sống, đặc điểm tâm sinh
lý cá nhân và hiệu quả của các hoạt động hướng nghiệp…
-

Có sự khác biệt lớn trong dự định chọn nghề của HS nam và

HS nữ.


- Trang 18 -


-

Có sự khác biệt trong dự định chọn nghề của HS ở các khu các

trường công lập, bán công và dạy nghề.
-

Có sự tương quan lớn giữa nhận thức nghề và dự định chọn

nghề của HS.
11. Kết cấu luận văn
Luận văn này bao gồm ba phần: phần mở đầu, phần nội dung và phần kết
luận, khuyến nghị.
Phần nội dung: được thiết kế gồm ba chương:
Chương 1: Các khái niệm liên quan và hướng tiếp cận lý thuyết
Chương 2: Thực trạng vấn đề định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 tại Tiền
Giang hiện nay.
Chương 3: Các yếu tố ảnh hưởng đến định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12
tại Tiền Giang hiện nay
Phần kết luận: Tổng kết lại những kết quả nghiên cứu và đưa ra những khuyến
nghị, giải pháp đối với việc tổ chức các hoạt động hướng nghiệp, nâng cao nhận
thức và lựa chọn nghành nghề tương lai cho các em HS lớp 12 nói riêng và HS
trung học nói chung.

- Trang 19 -



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.1 Các khái niệm sử dụng trong đề tài nghiên cứu
1.1.1 Định hướng
Theo từ điển tiếng Việt: “Định hướng là việc đưa ra một hướng đi cho hoạt
động nào đó trên cơ sở phân tích kỹ khả năng, tài trí của từng đối tượng. Mục đích
cuối cùng của sự định hướng là những quyết định và hành động đúng đắn, phù hợp
với mọi hoàn cảnh, điều kiện khách quan và chủ quan của chủ thể”.
Như vậy, trước khi và trong khi xảy ra hành động, ý chí của con người luôn ý
thức được mục đích của hành động đó.
Áp dụng khóa luận này, chúng tôi sử dụng khái niệm “ định hướng” theo quan
niệm của tâm lý học, nhằm tìm hiểu định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12 với tư
cách là hành động có ý thức. Ở đây, định hướng việc làm, nghề nghiệp của HS đã
được suy nghĩ cân nhắc và lựa chọn dưới sự tác động của tư duy lý tính. Đây là
một hành động có mục đích bởi vì nhóm HS này cùng với quá trình cân nhắc và
lựa chọn thì họ đã lường được một kết quả. Cụ thể là họ đã trả lời những câu hỏi
như: Sau khi ra học hết phổ thông sẽ làm gì? Chọn ngành, nghề, trường nào nào? Ở
đâu? Và họ cần phải chuẩn bị những gì, khả năng đáp ứng của họ ra sao?... tức là
họ sẽ biết được, xác định được những đặc điểm của nghề, đòi hỏi yêu cầu của nghề
đó đối với họ. Như vậy, sự định hướng, lựa chọn nghề nghiệp việc làm của những
HS này được xem như một hành động có ý chí chủ quan là một định hướng nhằm
đạt được mục tiêu nhất định.
1.1.2 Định hướng giá trị
Định hướng giá trị được xem là thái độ, là sự lựa chọn, sắp xếp các giá trị vật
chất và tinh thần theo một trật tự nhất định, là một hệ thống tâm thế, niềm tin, sở
thích của con người đối với một giá trị nào đó. Định hướng giá trị là một trong
những yếu tố quan trọng nhất của cấu trúc nhân cách, được hình thành và củng cố
bởi năng lực nhận thức, kinh nghiệm cá nhân qua sự trải nghiệm lâu dài giúp cá
nhân tách cái có ý nghĩa, cái thân thiết đối với họ với cái vô nghĩa, không bản chất.

Định hướng giá trị bao gồm tập hợp những giá trị ổn định và không mâu thuẫn
tạo nên những nét đặc trưng của ý thức, đảm bảo tính mục đích, tính tích cực và
- Trang 20 -


kiên định của cá nhân để hoạt động theo các phương hướng nhất định. Định hướng
giá trị cũng biểu thị nhu cầu và hứng thú cá nhân như là những nhân tố quan trọng
nhất quyết định và điều chỉnh hệ động cơ và nhân cách.
Định hướng giá trị xác định phương pháp hành động, xu thế phát triển trí tuệ,
tình cảm và sự nỗ lực của ý chí. Vì vậy, nó liên quan chặt chẽ đến lối sống của các
cá nhân và các nhóm xã hội.
Với khái niệm này, vấn đề chọn nghề nghiệp tương lai của HS lớp 12 được
coi như một giá trị. Giá trị này được coi như là một kết quả nhận thức, tính toán và
lựa chọn dưới tác động của rất nhiều yếu tố xã hội khác nhau. Sự tác động là khác
nhau của các yếu tố xã hội đối với những em HS là khác nhau. Đó là quá trình
nhận thức, tiếp thu các giá trị xã hội. Từ đó họ hình thành cho mình một nhận thức
riêng, một định hướng lựa chọn nghề nghiệp được coi là phù hợp với họ trong
tương lai.
Việc định hướng và lựa chọn nghề của mỗi cá nhân đánh dấu sự phát triển của
nền sản xuất, mỗi quốc gia, khu vực địa phương. Chọn nghề không chỉ quyết định
sự thành đạt của hoạt động cá nhân, cuộc đời của họ trong tương lai mà còn ảnh
hưởng tới cả xã hội. Xã hội ngày càng phát triển thì việc làm và nghề nghiệp càng
phân hóa và trở nên phong phú. Vì vậy mà con người bước vào tuổi trưởng thành
đứng trước sự lựa chọn ngày càng phong phú hơn nhưng cũng khó khăn hơn.
1.1.3 Nghề nghiệp
Nghề nghiệp là một khái niệm gồm hai phần: nghề và nghiệp
Theo từ điển tiếng Việt:
- Nghề là một công việc chuyên làm hoặc công việc được một người thực hiện
trong thời gian dài theo sự phân công lao động.
- Nghiệp là nghề là ăn sinh sống, nghề chủ yếu của một người sinh sống, theo

nghĩa rộng là cả sản phẩm vật chất lẫn tinh thần.
Nghề nghiệp được thể hiện ra trong quá trình lao động. Nó là phương thức lao
động của con người nhằm thỏa mãn những nhu cầu vật chất, tinh thần của mình.
Xã hội càng phát triển thì nghề càng phong phú, cùng với sự thay đổi công cụ
sản xuất và sự phân công lao động, nhiều nghề nghiệp được phát triển và không ít
nghề cũng có sự thay đổi. Trong thời đại ngày nay, thời đại bão táp của tiến bộ
- Trang 21 -


khoa học kĩ thuật, nghề này mất đi, nghề khác xuất hiện, nhiều nghề đã thay đổi
nội dung lẫn hình thức công việc. Tiến bộ khoa học kỹ thuật làm thay đổi tính chất
lao động, hoàn thiện công cụ sản xuất, thay đổi bản thân đối tượng lao động. Do
đó, việc đào tạo con người lao động trong các nghề nghiệp khác nhau cũng được
thay đổi, con người cần phải thực hiện được một cách rộng rãi nhiều chức năng
hơn và cần thiết lao động phối hợp các nghề khác. Do đó, việc chọn nghề mới hay
phân hóa và chuyên môn hóa nghề nghiệp cao, mỗi nghề mới này đòi hỏi ở người
lao động những phẩm chất tâm lý nhân cách, những khả năng khác nhau. Tùy
thuộc vào cách sử dụng mà có cách phân loại nghề khác nhau.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng khái niệm nghề nghiệp và phân chia
các nghề thuộc các nhóm nghề:
 Người – người

 Người – tự nhiên

 Người – kĩ thuật

 Người – nghệ thuật

 Người – kí hiệu
Từ đó tìm hiểu, xem xét nhận thức và hành vi lựa chọn ngành nghề và chuẩn

bị cho định hướng nghề nghiệp của HS lớp 12.
1.1.4 Định hướng nghề nghiệp
Theo từ điển Tiếng Việt, định hướng nghề nghiệp là việc hình thành trong con
người một hứng thú đối với hoạt động nhất định, việc lựa chọn cho con người một
nghề nghiệp thích hợp nhất có chú ý tới đặc điểm tâm lý, lợi ích, khả năng của
người đó và cả nhu cầu của nền kinh tế về sức lao động thuộc những ngành nghề
tương ứng. Việc định hướng nghề nghiệp được thực hiện bằng cách giới thiệu cho
mọi người về các lĩnh vực và các hoạt động, các nghề nghiệp cũng như các điều
kiện và dạng công việc trong phạm vi đó.
Khái niệm “Định hướng nghề nghiệp” trong đề tài này được thể hiện khi các
nhân tố gia đình, nhà trường, tổ chức hướng nghiệp định hướng cho HS lớp 12 về
mặt nhận thức và các ngành nghề để các em lựa chọn một nghề nghiệp thích hợp.
Và trên cơ sở đó, các em HS sẽ lựa chọn những ngành nghề mà các em có hứng
thú, phù hợp với năng lực bản thân và nhu cầu xã hội. Đồng thời, các em sẽ thực
hiện các hoạt động trang bị kiến thức và chuẩn bị cho nghề nghiệp tương lai.

- Trang 22 -


1.1.5 Tư vấn nghề nghiệp
Tư vấn nghề nghiệp là hệ thống những biện pháp tâm lý giáo dục nhằm đánh
giá toàn bộ năng lực thể chất và trí tuệ của thanh thiếu niên, đối chiếu các năng lực
đó với những yêu cầu do nghề đặt ra đối với người lao động, có cân nhắc đến nhu
cầu nhân lực của địa phương và xã hội. Rồi trên cơ sở đó cho họ những lời khuyên
về chọn nghề, có căn cứ khoa học, loại bỏ những trường hợp may rủi, thiếu chín
chắn trong khi chọn nghề.
Tư vấn nghề biểu thị như là quá trình hai mặt: tác động y học và tâm lý giáo
dục đến mỗi HS nhằm giúp cho nó xác định được những đặc điểm sinh và tâm lý
trong nhân cách của nó và đồng thời tình trạng sức khỏe trong khi tiến hành lựa
chọn nghề. Điều đó tạo ra cho HS nhu cầu tự tìm hiểu, ý thức để nhận thức những

điều kiện xã hội và nghề nghiệp. Mặt tư tưởng cho phép HS dựa trên cơ sở đã biết,
tự điều chỉnh các động cơ chọn nghề một cách hợp lý.
Áp dụng khái niệm này vào đề tài “Định hướng nghề nghiệp của học sinh
lớp 12 tại Tiền Giang hiện nay – Thực trạng và các yếu tố ảnh hưởng” thì vấn
đề nhận thức và lựa chọn nghề của HS chịu sự tác động một phần bởi hoạt động tư
vấn nghề nghiệp, hay nói đúng hơn là công tác hướng nghiệp của gia đình, nhà
trường, các tổ chức tư vấn nghề nghiệp… Qua đó, chúng tôi tìm hiểu các cá nhân,
tổ chức này đã thực hiện được nhiệm vụ của mình trong việc truyền đạt và định
hướng nghề nghiệp cho các em HS lựa chọn hay chưa, những mặt nào đạt được và
chưa đạt được. Và các em HS đã lĩnh hội được những gì từ những hoạt động đó,
các em đã có nhận thức như thế nào về bản thân, nhu cầu xã hội và nghề nghiệp mà
các em lựa chọn.
1.1.6 Nhận thức nghề nghiệp
Theo Lenin “Nhận thức là sự phản ánh thế giới khách quan bởi con người.
Nhưng đó không phải là một phản ánh đơn giản, trực tiếp, hoàn chỉnh mà là một
quá trình cả một chuỗi sự trừu tượng, cấu thành, hình thành ra các khái niệm, các
quy luật và chính các quy luật, khái niệm này bao quát một cách có điều kiện, gần
đúng tính quy luật phổ biến của giới tự nhiên vĩnh viễn vận động phát triển”.

- Trang 23 -


Trong tâm lý học K K Platonor định nghĩa: “Nhận thức là quá trình thu nhận
những tri thức chân thực trong thế giới khách quan, trong quá trình hoạt động thực
tiễn xã hội”.
Nhận thức nghề là quá trình phản ánh các đặc trưng cơ bản của nghề, những
yêu cầu xã hội đối với nghề nghiệp và những yêu cầu đòi hỏi về mặt sinh lý, tâm lý
đối với người làm nghề đó và cũng là sự phản ánh qúa trình lao động trong lĩnh
vực nghề nghiệp nhất định.
Áp dụng khái niệm vào đề tài này, chúng tôi đi sâu tìm hiểu nhận thức của HS

lớp 12 về các mặt:
- Nhận thức về những nhu cầu xã hội đối với nghề nghiệp: Xã hội hiện nay
khác với các xã hội xưa, cùng với sự phát triển nhiều ngành nghề mới, thị trường
lao động rất năng động, do vậy HS cần có những hiểu biết về hệ thống nghề đó, có
những dự báo về sự phát triển và biến động của hệ thống đó để kịp thời điều chỉnh
xu hướng nghề nghiệp của mình nhằm dễ dàng thích ứng với nghề nghiệp mới, dễ
di chuyển nghề.
- Nhận thức về thế giới nghề nghiệp và những yêu cầu đặc trưng của nghề đối
với người chọn nghề, tức là phải hiểu biết các nghề, có những nhận thức về tính
thiết thực và giá trị kinh tế xã hội của nghề.
- Nhận thức về các đặc điểm cá nhân chính là hiểu biết bản thân mình, những
đặc điểm tâm sinh lý cá nhân để giúp HS lựa chọn một nghề nào đó phù hợp.
1.1.7 Lựa chọn nghề nghiệp
Lựa chọn được coi là kết quả của sự định hướng. Trên cơ sở mà ta định hướng
trước ta có thể lựa chọn con đường cho chính mình. Ta lựa chọn cho mình một
mục tiêu riêng mà ta cho là phù hợp với khả năng và năng lực của bản thân.
Lựa chọn nghề nghiệp của HS được thực hiện trên cơ sở các mối quan hệ xã
hội-nghề nghiệp-cá nhân. Đặc trưng về mặt chất lựợng của mỗi nghề phụ thuộc vào
sự phát triển tương ứng của xã hội, của điều kiện tại chỗ, ảnh hưởng văn hóa của
các nước khác. Vì vậy cần giới thiệu cho HS những điều kiện tương ứng này, trong
trường hợp ngược lại sẽ xảy ra ngăn cách mối quan hệ giữa xã hội và nghề nghiệp.
Hiện nay trong xã hội xuất hiện nhiều nghề mới để đáp ứng các nhu cầu của
sự tiến bộ mọi mặt: kinh tế, kĩ thuật, văn hóa, khoa học.... Tuy nhiên, để lựa chọn
- Trang 24 -


một hướng đi thích hợp trong tương lai thì không phải là dễ, bởi hoạt động này
chịu sự tác động của nhiều yếu tố. Đặc biệt với đề tài này, các em HS lớp 12 khi
chuẩn bị rời ghế nhà trường phổ thông, việc lựa chọn một nghề để các em theo
đuổi chịu sự ảnh hưởng về nhiều mặt từ năng lực, nhận thức cá nhân đến các yếu tố

thuộc về gia đình và xã hội, cũng như các đặc điểm và giá trị của nghề mà các em
lựa chọn...
1.1.8 Học sinh THPT
Ở độ tuổi 15 -18 là tuổi thanh thiếu niên. Đây là lứa tuổi thường xảy ra một
loạt thay đổi về thể chất, về tâm lý và các quan hệ xã hội trong quá trình phát triển
của con người. Về mặt giải phẫu sinh lý, các em đã có những bước phát triển cơ
bản ở tất cả các bộ phận: não của các em phát triển gần đến hòan chỉnh, đã làm cho
các em phát triển như người lớn. Về mặt tâm lý, từ những kiến thức tích lũy được
trong cuộc sống, giao tiếp hàng ngày, làm ý thức của các em trong lứa tuổi này
phát triển mạnh mẽ. Từ sự phát triển đó đã làm cho ý thức bản ngã của các em luôn
có nguyện vọng làm người lớn, tuy nhiên, về quan hệ các em còn phụ thuộc vào
gia đình khá nhiều mặt. Các em vẫn còn nhiều biểu hiện mang tính bồng bột trong
vóc dáng, hành vi, do vậy, người lớn vẫn xem thiếu niên là những đứa trẻ. Từ đó
trong giao tiếp và ứng xử thường xảy ra mâu thuẫn khá phổ biến giữa người lớn và
HS trong độ tuổi này. Trong con mắt người lớn, ở độ tuổi này thanh thiếu niên là
lứa tuổi khó bảo, tuổi chống đối hoặc là tuổi có sự hoảng loạn. Thực tế cho thấy ở
lứa tuổi thanh thiếu niên nói chung và lứa tuổi HS THPT nói riêng thường xảy sinh
nhiều khó khăn nhất so với các lứa tuổi khác về học tập, quan hệ với người lớn, với
bạn bè hay những xác định giá trị cuộc sống…
1.1.9 Tình hình
Theo từ điển tiếng Việt: “Tổng thể nói chung những sự kiện, hiện tượng có
quan hệ với nhau, diễn ra trong một thời gian, không gian nào đó, cho thấy một
tình trạng hoặc xu thế phát triển của sự vật”.
Theo đó trong luận văn này, “tình hình” được hiểu là tình trạng – thực trạng
và xu hướng của việc định hướng nghề nghiệp, việc làm của HS lớp 12 tại Tiền
Giang.

- Trang 25 -



×