Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

Kinh tế nhà nước trong nến kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (177.12 KB, 19 trang )

MỎDUNG
ĐẦU
NỘI

I. Một
số đang
vấn đề
lý luận
Việt
nam
trong
thờivềkỳKỉnh
quá tế
độnhà
lênnước(KTNN)
chủ nghĩa xã hội (CNXH) và theo
ĩ. Một
khái quát
chung
lý luận
củasốLenin
về nền
kinhvềtếKTNN:
trong thòi kỳ quá độ vận dụng vào kinh tế, có
phải nó ý nghĩa là chế độ hiện nay có những mảnh của cả chủ nghĩa tư bản
(CNTB)
CNXH
không?
cứ aiphân
cũng
thừa nhận là có, song cũng không


1.1 lẫn Khái
niệm
chung Bất
vê thành
KTNN:
phải bất cứ ai cũng thừa nhận điểm ấy đều suy nghĩ xem các thành phần của
kết cấu kinh tế - xã hội hiện có ở Nga là như thế nào mà tất cả then chốt cả
vấn Đe
đề lại
Áp dụng
nền trước
kinh tếhếtViệt
Nam,tìm
Đảng
Nhà
hiểuchính
đầy làđủởvềđó.thành
phần vào
KTNN,
ta phải
hiểuvàthành
nước
ta
đã
chủ
trương
xây
dựng
một
nền

kinh
tế
hàng
hóa
nhiều
thành
phần
phần kinh tế nhà nước là gì và thành phần KTNN xuất hiện ở nước ta khi nào.
có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Đó là một chủ trương
đúng đắn và phù họp với quy luật phát triển khách quan, bởi thông qua chủ
trương
tế mớitiến
được
mởxây
ra,các
kinh chúng
tế mớitahình
Là này
một một
nướcnền
đi kinh
sau trong
trình
dựngthành
CNXH,
đượcthành
học
được
ra từ
chính

nguồn
trước
tán phong
trong là
cácNga
tầng(Liên
lớp
hỏi rấtlập
nhiều
kinh
nghiệm
từ vốn
những
nướcđây
đi nằm
trước phân
mà tiên
dân
cư,doTừđóluận
mà điển
huy Lenin
động được
đa của
cải vật
đế xây
Xô cũ).
về nềntốikinh
tế trong
thờichất
kỳ trong

quá độxã- hội
đó phải

dựng
đất
nước.
Từ
khi

chính
sách
đối
mới
(1986)
đến
nay,
các
thành
phần
nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và nhà nước ta đã áp dụng vào thực tiến ở
kinh
đóngragóp
địnhxâycủadựng
mình
dựng
vàophần
nềnmang
kinh tính
tế quốc
nước tế

ta đã
và đưa
chủnhất
trương
mộtvào
nềnxây
kinh
tế đa
đặc
dân,
đẩykỳ
sựgiao
phátthời
triển
đấttế nước,qua
so sánh giữa hai thời kỳ kinh tế
trung thúc
của thời
giữacủa
kinh
TBCN và XHCN.
(Kinh tế cũ kế hoạch hoá tập trung và kinh tế hàng hóa) ta thấy một bước phát
triển vượt bậc của nền kinh tế nước ta .
Trước hết ta hiếu thế nào là một thành phần kinh tế? Thành phần kinh tế
hay đơn vị kinh tế hay đơn vị kinh tế cơ sở của nền kinh tế quốc dân là một
và kinh
nhà nước
đã xác
kỳ nhất
quá độ

đòiquản
hỏi
kiếu Đảng
tố chức
tế dựatatrên
một định
hình rằng
thức thời
sở hữu
địnhlêncóCNXH
quan hệ
một
thời
gian
rất
lâu
dài

sẽ
gặp
nhiều
khó
khăn
thách
thức
đặc
biệt
Việt
lý và quan hệ phân phổi riêng của nó. Trong nền kinh tế nước ta có ba hình
Nam

lạihữu
đi cơ
lên bản
tù' là:
chếSởđộhữu
phong
kiến bở
qua tập
chếthể
độ vàTBCN.
thức sở
nhà nước,
sở hữu
sở hữuTa
tư biết
nhân.rằng
Từ
“chính
trị là
tập nên
trung
kinh
tế”,
dotếđókhác
kinh
tế là con đường đế hình thành
đó mà hình
thành
cáccủa
thành

phần
kinh
nhau.
một thế chế chính trị. Ta định hướng xây dựng CNXH thì phải phát triển
thành phần kinh tế nhà nước thật vững chắc ,làm sao đế nó thế hiện vai trò
khái niệm
KTNN
gì? Đóquan
là thành
phần tếkinh
chủ Từ
đạo đó
củata KTNN,
nắmđược
đượcthành
quy phần
luật vận
độnglà khách
của kinh
đế
tế dựa
trêncách
sở hữu
toàn dân
(hay sởthếhữu
nhàđược
nước).
tố chức
doanh
tù’

đó có
tác động
đế KTNN
hiện
vai Việc
trò trọng
yếu kinh
của nó,
đế
tiến
hành
theo
nguyên
tắc
hoạch
toán
kinh
tế

thực
hiện
phân
phối
theo
lao
đất nước ta đi đúng theo định hướng đã chọn.
động.
Chính V ì vậy em quyết định chọn đề tài : "Kinh tế nhà nước trong nến
vậy,trường
đặc điểm

bản của
phần
KTNN
với các
thành phần
kinh
kinh Như
tế thị
định cơhướng
xã thành
hội chủ
nghĩa
ở Việt
Nam”.Em
xin chân
tế kháccảm
đó ơn
là hình
và HẠNH
nguồn vốn
hình thành.
Có thực
thế toàn
thành
thấy thức
giáo sở
TÔhữu
ĐỨC
đã hướng
dẫn em

hiệnbộđềvốn
tài
đều Trong
thuộc sở
hoặc
có khỏi
thế phần
đóng
nhàbỏnước
này
quáhữu
trìnhnhà
làmnước
không
tránh
nhữngvốn
thiếu
sót góp
mongcủa
thầy
qua
chiếm
lệ khống
(>50%
.Em
xintỷchân
thànhchế
cảm
ơn! vốn).
1.2 Phân loại KTNN:

KTNN bao gồm ba thành phần cơ bản đó là: các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN), các tổ chức nhà nước, những tài sản thuộc sở hữu toàn dân.


đề cập đến vai trò chủ đạo của KTNN thì người ta thường đề cập đến DNNN
là chủ yếu. Ngay trong nghị quyết hội nghị lần thứ ba ban chấp hành trung
ương Đảng khóa IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả DNNN. Hội nghị đã khắng định rõ quan điếm “KTNN có vai trò quan
trọng trong việc giữ vững định hướng XHCN. DNNN giữ vị trí then chốt trong
nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng đê nhà nước định hướng và điều
tiết vĩ mô, làm lực lượng nòng cốt, góp phần quan trọng đê KTNN thực hiện
vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị tnường định hướng XHCN”.
DNNN cũng được chia ra làm hai
doanh và hoạt động công ích. Cả hai loại
điếm của các thành phần của KTNN và
hai loại nhỏ: các doanh nghiệp do nhà
nghiệp do nhà nước giữ cố phần chi phối.

loại: Doanh nghiệp hoạt động kinh
doanh nghiệp này đều mang các đặc
thông thường chúng được chia làm
nước giữ 100% và một loại doanh

Đối với các DNNN hoạt động kinh doanh: Mục tiêu là nhằm thu lợi
nhuận.Nhà nước sẽ giữ 100% vốn đối với doanh nghiệp hoạt động kinh doanh
trong các lĩnh vực quan trọng đặc biệt và sẽ cổ phần chi phổi hoặc 100% vốn
đối với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực kinh doanh mà nhà
nước cần nắm nhằm bảo đảm ổn định nền kinh tế. Các doanh nghiệp hoạt
động kinh doanh thông thường là những doanh nghiệp có quy mô lớn có
đóng góp lớn cho ngân sách nhà nước, phải luôn luôn đi đầu trong ứng dụng

kỹ thuật - công nghệ hiện đại, đảm bảo nhu cầu của đời sống nhân dân.
Còn các doanh nghiệp hoạt động công ích là những doanh nghiệp hoạt
động không vì mục đích lợi nhuận, có thể không có thu mà nhà nước cấp kinh
phí - đó là những doanh nghiệp cung cấp các hàng hoá công cộng, dịch vụ
công như : An ninh, quốc phòng, giao thông, giáo dục, ytế.............
*về các tổ chức KTNN:
Các tổ chức KTNN là các tố chức hoạt động gắn với chức năng quản lý
(kiểm tra, kiểm soát) như tài chính ngân hàng, bảo hiểm, kho bạc nhà nước,
các quỹ dự trữ quốc gia...các tố chức này có thế do nhà nước cung cấp 100%
vốn hoặc giữ một phần vốn cố định đế đảm bảo sự hoạt động ổn định cho các
tố chức này. Thành phần này cũng có nột vị trí quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân.
*về các tài sản thuộc sở hữu nhà nước:


II. Sự hình thành kỉnh tế nhà nước
1. Các giai đoạn phát trỉến cùa kỉnh tế Nhà nước

-Giai đoạn 1960 đến 1985:
Đây là giai đoạn khá dài mà lịch sử đất nước đã trải qua những bước
thăng trầm về chính trị, xã hội và kinh tế.
-Từ 1960 đến 1975: vẫn là cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, ở giai
đoạn này Đảng ta chủ trương công nghiệp hoá hiện đại hoá xã hội chủ nghĩa
miền Bắc và đấu tranh giảu phóng miền Nam. Đe tiến hành công nghiệp
hoá xã hội chủ nghĩa, Đảng ta chủ trương “ỉn/ tiên phát triển công nghiệp
nặng một cách hợp lỹ\ và do đó các xí nghiệp quốc doanh càng được đầu tư
nhiều hơn và phát triến hơn cả về số lượng và quy mô, đặc biệt là trong ngành
công nghiệp nặng. Một loạt các khu công nghiệp mới được hình thành như:
Việt Trì, Thái Nguyên, Vinh, Đông Anh(Hà Nội)... đây là cơ sở đế kinh tế
quốc doanh được mở rộng và phân bố được khắp các vùng kinh tế lớn, nó sẽ

làm hạt nhân, là đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các vùng. Kinh Te
quốc doanh trong giai đoạng này có vai trò vừa là công cụ quan trọng đế nhà
nước tiến hành công nghiệp hoá XHCN ở miền Bắc nhưng lại vừa là tấm
gương phản ánh sự hành công của quá trình xây dựng CNXH ở nước ta, nó
khẳng định con đường mà Đảng ta đã lựa chọn là đúng đắn.Trên phương diện
chính trị xã hội, thì KTQD luôn là lực lượng tiến bộ xã hội, là đội quân tiên
phong trong việc mở rộng QHSX XHCN.
-Từ năm 1975 đến 1980: Cơ chế kế hoạch hoá tập trung thuần tuý vẫn
được duy trị. Sau khi thống nhất đất nước, với định hướng đưa cả nước đi lên
XHCN, nhưng có sự chênh lệch giữa hai miền Nam-Bắc, vì vậy Đảng ta chủ
trương tiếp tục mở rộng QHSX XHCN và công nghiệp hoá XHCN ở miền
Bắc, đồng thời tiến hành công cuộc cải tạo XHCN ở miền Nam. Thi hành chủ
trương đó số lượng các XNQD trên tất cả các lĩnh vực kinh tế (Công nghiệp,
nông nghiệp, thương nghiệp) tăng lên một cách nhanh chóng trên khắp cả
nước. Mặc dù so với giai đoạn trước đó sức đóng góp của KTQD trong giai
đọan này đã giảm sút, song KTQD vẫn đóng vai trò chủ đạo, tuyệt đối quan
trọng công cuộc xây dựng và phát triển QHSX mới CNXH.

-Từ 1980-1985: Giai đoạn này nền kinh tế gặp rất nhiều khó khăn, năng
lực sản xuất của KTQD không được sử dụng tối đa do thiếu vật tư một cách
nghiêm trọng. Với quan điếm định hướng xây dựng CNXH nên KTQD vẫn
được nhà nước rất chú trọng tìm giải pháp tháo gỡ giai đoạn này cơ chế kế


tế, tuy vậy KTQD vẫn giữ vai trò quan trọng tuyệt đối, trong sự phát triển
kinh tế - xã hội của đất nuớc, thế hiện ở chỗ các XNQD vẫn nắm giữ các
ngành then chốt như điện, hoá chất, luyện kim, xi măng...
-Giai đoạn tù’ 1986 đến nay:
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã đưa ra chính sách kinh tế mới làm
nên một bước ngoặt trong lịch sử phát triển kinh tế ở nước ta, đó là chính sách

đối mới cơ chế kinh tế : xây dựng một nền kinh tế nhiều thành phần, theo cơ
chế thị trường định hướng XHCN. Trong quá trình hình thành cơ chế kinh tế
mới, công tác quản lý KTQD vẫn còn tiếp tục được cải tiến theo hướng phi
tập trung hoá, kế hoạch hoá và quản lý và quản lý đối với KTQD, đồng thời
các thành phần kinh tế khác được hình thành và chú trọng phát triển, đó là
kinh tế cá thế, kinh tế tư bản tư nhân và các thành phần khác. Từ đây KTQD
mất vị trí độc tôn trong nền kinh tế quốc dân. Song không có nghĩa là nó
không còn giữ vai trò chủ đạo nữa, mà ngược lại hơn bao giờ hết vai trò chủ
đạo của kinh tế quốc doanh - đã đối thành kinh tế nhà nước - được xem là
quan trọng và cần thiết nhất. Trên giác độ kinh tế thì KTNN luôn nắm giữ
những lĩnh vực then chốt, những ngành trọng yếu của nền kinh tế như: CN
năng lượng (dầu mỏ, than, điện), công nghiệp luyện kim, công nghiệp vật liệu
xây dựng...
Như vậy cùng với tiến trình lịch sử xây dựng và phát triến QHSX mới
XHCN của nước ta, KTNN đã khắng định được vai trò chủ đạo mà chỉ có nó
mới thực hiện được những nhiệm vụ mà lịch sử phát triển đưa ra KTNN đã
nắm được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò mở
đường hướng dẫn nền kinh tế phát triển đúng định hướng đã chọn suốt cả một
thời kỳ lịch sử phát triến kinh tế.
2. Kỉnh tế nhà nước và vai trò chù đạo cùa nó trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN
2. /. Tại sao kinh tế nhà nước lại giữ vai trò chủ đạo
Đế hiểu đúng vai trò của một thành phần kinh tế trong một cơ chế kinh tế
nhất định thì ta phải hiểu được cơ chế vận hành và đặc trưng cơ bản của cơ
chế kinh tế đó. Vì vậy ở đây ta nghiên cứu về kinh tế nhà nước trong cơ chế
kinh tế thị trường định hướng XHCN. Thì trước hết ta sẽ tìm hiếu qua về cơ
chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN.


quyết ba vấn đề cơ bản của tố chức kinh tế là cái gì, như thế nào và cho ai. Cơ

chế thị trường bao gồm các nhân tố cơ bản là cung, cầu và giá cả thị trường.
Vậy nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng
XHCN mà nước ta đang vận dụng là gì? Đó là nền kinh tế vận hành theo cơ
chế thị trường, tức là bất kể thành phần kinh tế nào (hay đơn vị kinh tế nào)
của nền kinh tế cũng phải chịu sự điều tiết của cơ chế thị trường, nhưng đồng
thời phải tuân thủ các nguyên tắc của chế độ XHCN dưới sự quản lý của nhà
nước XHCN. Từ khái niệm này ta có the hiếu nôm na rằng, xây dựng nền
kinh tế thị trường theo định hướng XHCN tức là xây đựng một nền kinh tế thị
trường hướng tới chế độ XHCN, hướng tới thực hiện mục tiêu của XHCN đó
là mục tiêu làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn
minh.
Đặc điểm cơ bản của cơ chế thị trường là cơ chế tự’ phát, các nhân tố kinh
tế của cơ chế đó tự tác động qua lại theo quy luật kinh tế khách quan mà dẫn
đến sự biến đối, phát triển của nền kinh tế. Đặc điểm đó vừa là ưu điểm, vừa
là hạn chế của cơ chế này. Nó có thế mang lại một nền kinh tế phát triển với
tốc độ nhanh, nhưng đồng thời mang lại những khuyết tật về xã hội đó là phân
biệt giàu nghèo, bất công, tệ nạn xã hội gia tăng...
Đảng và nhà nước ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường theo
hướng XHCN dưới sự quản lý của nhà nước tức là muốn dựa trên ưu điếm
của cơ chế thị trường đế khắc phục những khó khăn của nền kinh tế kém phát
triển của nước ta, đồng thời đảm bảo tiến được mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ ,văn minh.
Ớ các phần trên ta đã rút ra được rằng đế xây dựng một nền kinh tế theo
chế độ XHCN thì nhất định kinh tế nhà nước phải luôn nắm vai trò chủ đạo,
bởi nó là lực lượng kinh tế đại diện cho quan hệ sản xuất mới XHCN, nó là
công cụ đế nhà nước dẫn dắt toàn bộ nền kinh tế đi đúng hướng đã chọn, nó
đóng vai trò quan trọng trong việc mở đường và hướng đẫn cho nền kinh tế
phát triển. Còn trong cơ chế kinh tế thị trường thì sao?
Neu nền kinh tế thị trường được để phát triển một cách tự do, không sự
quản lý của nhà nước thì sẽ bộc lộ rõ ngay những hạn chế, yếu kém, những

khuyết tật vốn có của nó. Bởi vậy với định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản
lý của nhà nước thì nền kinh tế thị trường của chúng ta đạt được thành quả cả
về mặt xã hội và kinh tế. Muốn như vậy, mối quan hệ mới XHCN càng phải
được củng cố và phát triển hơn nữa - mà đại diện của nó là thành phần kinh tế
nhà nước phải được tô chức làm sao ngày càng hoàn thiện và nắm được vai


trò chủ đạo của nó trong nên kinh tê thị trường. Đó là đòi hỏi khách quan do
những đặc điếm của cơ chế kinh tế mới.
Thứ nhất, kinh tế thị trường là một nền kinh tế mở, theo xu hướng hội
nhập với khu vục và quốc tế, nhưng đế có thế hội nhập vào nền kinh tế thế
giới đòi hỏi các doanh nghiệp phải có cơ sở vật chất, kỹ thuật có quy mô,
công nghệ hiện đại ngang tầm với các nước khác trên thế giới. Bởi có như vậy
Việt Nam mới có thế phát huy được những lợi thế so sánh so với các nước
khác và đứng vũng đế cạnh tranh được với nền kinh tế vốn lớn mạnh của các
nước trong khu vục và thế giới.
Nhưng một đặc điểm rất nối bật của các thành phần kinh tế cá thế và tư
bản tư nhân là quy mô sản xuất của chúng rất nhỏ bé, lượng vốn đầu tư xây
dựng cơ sở sản xuất ban đầu rất nhỏ chúng chỉ đủ khả năng tham gia vào một
số ngành, lĩnh vực mà có khả năng tạo lợi nhuận nhiều nhất, đầu tư ít vốn
nhưng chu kì quay vòng vốn nhanh và chỉ có thể cạnh trong nước, hơn một lý
do rất đơn giản là quy mô quá nhỏ hep, vốn quá ít không đủ điều kiện để hội
nhập với các nước bạn.
Trong điều kiện đó thì kinh tế nhà nước với các doanh nghiệp nhà nước
có quy mô lớn và vừa mới có khả năng tham gia vào hoạt động kinh tế với
các nước trên thế giới. Bởi chỉ có Nhà nước mới có đủ nguồn vốn để xây
dựng được các doanh nghiệp nhà nước đủ lớn trong các ngành, lĩnh vục then
chốt, các ngành kinh doanh mà Việt Nam có lợi thế so sánh so với các nước
khác. Do đó mà kinh tế nhà nước trở thành lực lượng giữ vai trò dẫn dắt, làm
hạt nhân đế các danh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân dân có thể tham

gia vào nền kinh tế hội nhập.
Một lý do thứ hai khiến kinh tế nhà nước trở thành lực lượng đầu tàu
trong việc dẫn dắt nền kinh tế nước ta hiện nay là vì trong nền kinh tế luôn
luôn có những ngành, lĩnh vực rất khó có khả năng sinh lời hoặc còn rất nhiều
vùng kinh tế có cơ sở hạ tầng thấp kém khó đầu tư sản cuất, do đó mà các
thành phần kinh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kinh doanh thì
kinh tế nhà nước phải tham gia vào hoạt động trong các ngành kinh tế hay các
vùng kinh tế để tạo dựng được những cơ sở vật chất ban đầu, thu hút dần các
phần tủ' kinh tế khác cùng tham gia vào hoạt động. Có như thế thì mới hình
thành nên một cơ chế kinh tế hợp lý trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta đó là tạo nên một nề kinh tế có các ngành, lĩnh vục
được đầu tư, phát triển một cách cân bằng, có các vùng kinh tế phát triển song
song với nhau.


Thứ ba, đế xây dựng nền kinh tế phát triển đúng hướng XHCN thì đòi hỏi
phải có sự quản lý của nhà nước đối với các hoạt động kinh tế bằng pháp luật.
Những nhà hoạt động sản xuất kinh doanh luôn hướng tới mục tiêu quan
trọng nhất đó là làm sao tối đa hoá được lợi nhuận. Nhưng tình hình nước ta
hiện nay, các chủ thế kinh hoanh có thể có trình độ hiểu biết về ý thức, về
quản trị kinh doanh rất khác nhau, có người tham gia vào kinh doanh chỉ vì họ
có vốn nhưng lại thiếu hẳn các ý thức và kiến thức cần thiết, điều đó dễ dẫn
đến những sai phạm về pháp luật và thường chỉ vì lợi nhuận các nhân mà
quyên mất lợi ích của xã hội. Kinh tế nhà nước với lực lượng kinh tế luôn
được nhà nước chú trọn về khâu đào tạo cán bộ có ý thức pháp luật, do đó
trong giai đoạn hiện nay đưong nhiên kinh tế nhà nước phải là thành phần
gương mẫu đế các thành phần kinh tế khác học tập đế hoạt động có hiệu quả
hơn.
Từ ba lý do trên mà ta thấy kinh tế nhà nước đương nhiên phải là thành
phần kinh tế nắm vai trò chủ đạo trong nền kinh tế với tư cách là lực lượng đi

đầu trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới, là đội quân mở
đường cho các thành phần kinh tế khác cùng tham gia mở rộng hoạt động sản
xuất, kinh doanh tạo một cơ cấu kinh tế phát triển cân đổi hợp lý, là lực lượng
gương mẫu, đi đầu trong việc thực hiện pháp luật, hướng dẫn các thành phần
kinh tế khác cùng thực hiện theo luật pháp trong cơ chế kinh tế mới đảm bảo
phát triến một nền kinh tế thị trường lớn mạnh với một xã hội phát triến đúng
định hướng đã chọn của Đảng.
22.Nội dung vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN.
Đe đảm bảo thực hiện được vai trò là thành phần kinh tế chủ lực của nền
kinh tế trong giai đoạn hiện nay thì kinh tế nhà nước phải thực hiện được bốn
nội dung hay là bốn chức năng của nó trong kinh tế nhiều thành phần của
nước ta hiện nay.
* Thứ nhất, kinh tế nhà nước mà thành phần chính là các doanh nghiệp
nhà nước, phải đi đầu trong việc nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh.
Là lực lượng kinh tế được nhà nước chú trọng đầu tư, phát triến, do Nhà
nước nắm giữ nguồn vốn chi phối do đó quy mô hoạt động của các kinh tế
nhà nước và đặc biệt là thành phần doanh nghiệp nhà nước rất rộng lớn, và
đang ngày càng được tố chức sắp xếp lại theo hướng hiện đại nhằm hoạt động
có hiệu quả hơn. Bởi nguồn vốn đầu tư lón, chủ yếu trong các doanh nghiệp


nhà nước có 100% vốn của nhà nước hoặc nhà nước giữ cố phần chi phối)
nên các doanh nghiệp nhà nước có điều kiện đầu tư trang thiết bị kỹ thuật,
công nghệ hiện đại. Có khả năng tạo ra năng xuất, chất lượng các loại hàng
hoá, dịch vụ cao, sử dụng tối đa và tận dụng được các nguyên nhiên vật liệu
đầu vào, tiết kiệm được chi phí sản xuất nhưng mang lại hiệu quả sản xuất
cao, đóng góp ngân sách lớn. Chỉ có doanh nghiệp nhà nước mới có khả năng
đi đầu trong việc việc ứng dụng ác công nghệ mũi nhọn, công nghệ cao đế có

thế đưa kinh tế đất nước theo kịp với nền kinh tế thế giới.
Kinh tế nhà nước phải tạo được động lực thúc đấy, tạo đà và dẫn dắt các
thành phần kinh tế khác mà cơ bản nhất là thành phần kinh tế tư bản tư nhân
và thành phần kinh tế cá thế (mà chủ yếu là các doanh nghiệp dân doanh)
cũng đóng góp phần vào việc tăng trưởng kinh tế. Muốn thực hiện được chức
năng này thì kinh tế nhà nước phải cần được chú trọng tron các ngành lĩnh
vực then chốt của nền kinh tế - bởi chỉ khi các ngành kinh tế này được phát
triển thì mới đủ khả năng đưa nền kinh tế phát triển theo. Tuy nhiên, trong
mỗi thời kỳ phát triển các lĩnh vực, ngành then chốt sẽ có sự thanh đối, luân
chuyến tù’ ngành này sang ngành khác, do đó việc xác định ngành lĩnh vực
then chốt cho từng thời kỳ mà phải tính đến cả xu hướng hội nhập cũng như
tiềm năng kinh tế của đất nước là quan trọng. Khi nhà nước đầu tư phát triển
đúng hướng thì kinh tế nhà nước sẽ hoạt động có hiệu quả, thu hút dần các
thành phần kinh tế khác cùng tham gia vào - như thế là kinh tế nhà nước đã
tạo đà và dẫn dắt được các thành phần kinh tế phát triển, cùng góp phần vào
việc tăng trưởng kinh tế.
Đế tạo động lực, hỗ trợ các thành phần kinh tế khác phát triển thì kinh tế
nhà nước phải đi đầu trong việc chuyến giao công nghệ, áp dụng công hiện
đại và sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong các lĩnh vực mà trước đây ít được
đầu tư do ít có khả năng sinh lời, nhưng là lực lượng duy nhất có đủ điều kiện
về vốn, lao động nên doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu về cải tiến kỹ thuật
công nghệ sản xuất đế từđó mở đòng cho các doanh nghiệp dân doanh mạnh
dạn cùng tham gia đầu tư phát triển.
Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp ngày nay còn gắn liền
với việc bảo vệ môi trường hạn chế việc gây ô nhiễm môi trường, do đó đay
cũng là mọt tiêu thức của phát triến mà doanh nghiệp nhà nước phải đi đầu,
làm guong đế các thành phần kinh té khác đi theo. Việc giảm thiểu ô nhiễm
môi trườngcó liên quan đến vấn đề công nghệ và vấn đề lợi nhuận của các
doanh nghiệp. Các doanh nghiệp dân doanh thường với sổ vốn ít ỏi thì công



nghệ cũng lạc hậu, tuy nhiên vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận mà các doanh
nghiệp bở qua vấnđề môi trường. Doanh nghiệp nhà nước cũng phải thể hiện
vai trò chủ đạo trong việc giải quyết vấn đề này đó là khi nhạp và cung cấp
các thiết bị công nghệ cho các doanh nghiệp dân doanh thì doanh nghiệp nhà
nước phải chú trọng đến các thiết bị bảo đảm chống ô nhiễm môi trường và
doanh nghiệp nhà nước phải luôn đi đầu trong việc thực hiện luật bảo vệ môi
trường đế các doanh nghiệp khác đi theo.
* Thứ hai, bằng nhiều hình thức, kinh tế nhà nước hồ trợ các thành phần
kinh tế phát triến theo định hướng XHCN.
Muốn xây dựng nền kinh tế thị trường đinh hướng XHCN đương nhiên
phải xây dựng một lực lượng kinh tế đóng vai trò chủ đạo, làm tâm điếm ảnh
hưởng tới các lực lượng khác của nền kinh tế, hướng dẫn, hỗ trợ các lực
lượng kinh tế khác cùng phát triến theo cùng một định hướng đã chọn và đó
chính là KTNN. Trên cơ sở xác định, không một nền kinh tế nào phát triển mà
chỉ dựa trên một thành phần kinh tế mà đó phải là sự phát triển đồng bộ của
nhiều thành phần kinh tế có thể phát huy được mọi tiềm năng của đất nước.
Tuy nhiên như đã phân tích ở các phần trên chúng ta biết rằng quy mô của các
thành phần kinh tế tư nhân của nước ta còn rất nhỏ hẹp, mặt khác thời gian
phát triển còn ngắn nên các doanh nghiệp dân doanh chưa thể tích luỹ để mở
rộng quy mô lớn hơn đẻ làm nguồn cốt cho việc phát triến kinh tế nước ta.
Trong điều kiện đó, chỉ các doanh nghiệp nhà nước có đủ điều kiện đế trở
thành lực lượng nguồn cốt, tạo choõ dạ cững chắc cho đế dẫn dắt các doanh
nghiệp dân doanh cùng phát triển. Muốn làm được điế đó thì kinh tế nhà nước
phải xác định được cơ cấu thành phần kinh tế của mình một cách hợp lý.
Luôn giữ được vị trí, vai trò xứng đáng, phát huy được lợi thế, khai thác được
khả năng đóng gốp thiết thực vào sự phát triển của kinh tế đất nước, kinh tế
nhà nước phải tích luỹ được vốn để phát triển trong các lĩnh vực then chốt, chi
phối nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội, trở thành xương sống của nền
kinh tế quốc dân, đế từ đó các thành phân kinh tế khác có đuợc chỗ dựa vững

mà cùng phát triển, đi lên.
Mặt khác, trong cơ chế thị trường, lợi nhuận luôn là mục tiêu mà các
doanh nghiệp theo đuổi, do đó các thành phần khác thường tập trung kinh
doanh ở những ngành kinh tế hoặc những vùng có khả năng đưa đến lợi
nhuận cao một cách nhanh chóng mà ít rủi ro nhất, do đó sẽ tạo ra lồ hống là
những ngành và vùng kinh tế kém tiềm năng hoặc đòi hỏi đầu tư lớn: đó là
các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triến có cơ sở hạ tầng thấp kém. Đe


khắc phục tình trạng đó, đồng hởi mở đường kích thích các thành phần khác
cùng tham gia vào hoạt động sản xuất thì kinh tế nhà nước phải có mặt để xây
dựng cơ sở hạ tầng ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kém phát triển là điều kiện
tiên đề tạo thuận lợi trước mắt thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế. Đó
cũng là một chức năng thế hiện vai trò chủ đạo, mở đường, hỗ trợ các thành
phần kinh tế phát triển theo đúng đinh hướng XHCN, bởi nó cân bằng được
trình độ phát triển giữa các vùng kinh tế, giảm bớt hổ ngăn cách giữa thành
thị và nông thôn.
Phát triến theo đúng định hướng XHCN còn thế hiện ở việc tuân theo
pháp luật mà nhà nước XHCN đã đề ra. Thực tế hiện nay cho thấy không ít
chủ các doanh nghiệp dân doanh chỉ vì lợi nhuận cá nhân mà bất chấp cả pháp
luật, hoặc cáo những hoạt động thiếu ý thức pháp luật. Tất yếu đấy là vấn đề
mà nhà nước phải có biện pháp giải quyết, và DNNN là một trong những
công cụ mà nhà nước dùng để hạn chế vấn đề này. Vì vậy, DNNN phải là tấm
gương mẫu mực trong việc tuân theo phát luật đế các doanh nghiệp khác cùng
noi theo.
* Thứ ba : KTNN là lực lượng vật chất đế nhà nước điều tiết nền kinh tế
vĩ mô.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đó là : các đơn
vị kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường, nhà nước đóng vai trò điều tiết
nền kinh tế theo định hướng XHCN.

Các đơn vị kinh tế luôn phải giải quyết ba vấn đề kinh tế cơ bản đó là sản
xuất cái gì, cho ai và như thế nào theo mục tiêu là tối đa hoá lợi nhuận. Điều
đó dẫn đến kết quả là các dơn vị kinh tế luôn chạy theo những loại hàng hoá
và dịch vụ mang đến nhiều lợi nhuận và sẽ rút khỏi thị trường các loại hàng
hoá không có lãi hoặc lỗ. Tuy nhiên không phải mọi doanh nghiệp đều luôn
thu nhận được thông đầy đủ đế quyết ịnh tham gia vào sản xuất mặt hàng nào,
tất sẽ dẫn tới phát sinh những mâu thuẫn giữa cung cầu ở mọi lúc, mọi nơi đồi
với mọi mặt hàng. Để điều tiết được nền kinh tế đó thì nhà nước sử dụng
KTNN là một lực lượng vật chất hay một công cụ điều tiết hiệu quả, là vì :
Thứ nhất: KTNN từ khi được hình thành cho tới nay luôn được chú trọng
đầu tư ở hầu khắp các kĩnh vực, ngày kinh té, vả ngành không có khả năng
sinh lợi nhuận. (Các hàng hoá, dịch vụ công cộng) do đó nó làm cân đổi giữa
các ngành của nền kinh tế. Với tư cách là công cụ điều tiết, các DNNN được
nhà nước đầu tư phát triển theo phương châm: “Ở đâu, khi nào nền kinh tế
quốc dân đang cần mở rộng sản xuất kinh doanh một mặt hàng nào đó mà


các thành phần kỉnh tế khác không muốn hoặc không có khả năng kỉnh doanh
thì khi đó cần có sự có mặt của DNNN”, đến một lúc nào đó khi khả năng
sinh lời tăng lên thì doanh nghiệp dân doanh nhày vào hoạt động và đủ khả
năng cung cấp cho thị trường thì DNNN rút ra và tiếp tục hoạt động ở các lĩnh
vực khác.
Thứ hai : trong các vùng kinh té luôn có sự phát triển mất cân đối giữa các
ngành kinh tế đặc biệt là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế kém phát
triến. Nhà nước đã rất chú trọng đầu tư phát triến ở các vùng này tù’ rất lâu và
hiện nay nó đã phát huy chức năng điều tiết cho kinh tế của các vùng đó
tương tự’ như tạo ra sự cân bằng trong nền kinh tế vĩ mô của cả nước.
Thứ tư : kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thế tạo dẫn nền tảng kinh tế
cho chế độ xã hội mới, XHCN.
Theo luận điếm của Mác-Lenin thì chế độ XHCN phải được xây dựng dựa

trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, tức là mọi tư liệu sản xuất đều thuộc
sở hữu chung của tập thể, của toàn dân, không một cá nhân nào được biến
TLSX thành tài sản riêng của mình. Đó được coi là chế độ sở hữu tiến bộ nhất
trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Khi xem xét về nguồn gốc hình
thành KTNN ta đã biết rằng KTNN được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu
toàn dân, còn kinh tế tập thể được xây dựng dựa trên hình thức sở hữu tập thể,
trong thời kỳ quá độ lên CNXH của nước ta thì đây là hai hình thức sở hữu
được xem là tiến bộ nhất, nó đại diện cho QHSX mới XHCN. Vì vậy đế xây
dựng nền kinh tế XHCN thì KTNN cùng kinh tế tập thế có vai trò là nền tảng
cơ bản .
III. Thực trạng KTNN và việc thực hiện vai trò chủ đạo của KTNN trong
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở VN hiện nay.
1. Thành tựu đạt được
Từ giai đoạn đầu thực hiện đối mới cơ chế kinh tế, chuyến từ kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo
định hướng XHCN (Giai đoạn 1986 - 1990), một nền kinh tế đa phần được
hình thành, nhưng cũng ngay từ đây KTNN đã giữ vững và khẳng định được
vai trò chủ đạo của nó. Năm 1990 KTNN tạo ra 66% tổng sản phẩm xã hội
với số lượng DNNN là 1200 doanh nghiệp.
Sang thập niên 90 - là giai đoạn Đảng và Nhà nước ta thực thi nhiều


Với các chính sách, cơ chế đối mới đế DNNN tự chủ trong cơ chế thị
trường, về kế hoạch, các doanh nghiệp được chủ động xây dựng và tổ chức
thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ mà
Nhà nước giao cho đó là kế hoạch sản xuất, cung ứng vật tư kỹ thuật, đầu tư
xây dựng cơ bản, tài chính, lao động... trên cơ sở tính toán nhu cầu thị trương
về sản phẩm, dịch vụ của Doanh nghiệp mình, về tài chính Doanh nghiệp
được Nhà nước giao vốn, tự chủ sử dụng vốn và sử dụng quỹ khấu hao đế
đầu tư, đối mới tài sản... về tố chức bộ máy và nhân lực: Doanh Nghiệp có

quyền tụ’ chủ động tố chức bộ máy quản lý và tố chức kinh doanh cho phù
hợp với mục tiêu, nhiệm vụ Nhà nước giao, được đào tạo và sử dụng lao động
theo quy định của pháp luật trên cơ sở họp đồng ký kết với người lao động và
thoả ước lao động tập thể, thực hiện trợ cấp cho người lao động khi thôi việc,
mất việt... về quản lý Nhà nước đối với DNNN: từng bước xoá bỏ chế độ
chủ quan của cơ quan hành chính Nhà nước cấp trên trực tiếp can thiệp quá
sâu vào các hoạt dộng của DNNN, chỉ quản lý trên các mặt có tính tống quan,
chiến lược, tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động và kiểm
tra việc chấp hành pháp luật, về thực hiện chức năng chủ sở hữu, Nhà nước
đối với DNNN: có một bước đối mới lớn dựa trên cơ sở phân công, phân cấp
giữa chính phủ và các cấp quản lý với đại diện chủ sở hữu ở Doanh nghiệp.
Quá trình đối mới cơ chế, chính sách đã hình thành được khung pháp lý
tương đối rõ ràng và cơ bản đế DNNN sang kinh doanh theo cơ chế thị
trường, xác lập dân quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, các doanh nghiệp đã được sử dụng hiệu qủ hơn
tiền vốn và tài sản, nâng cao chất lượng sản phẩm, sức cạnh tranh và ốn định
việc làm cho người lao động.
Ket quả hoạt động của các DNNN sau các chính sách đối mới đó được thể
hiện qua những con số sau: thời kỳ 1991 - 1995, tốc độ tăng trưởng của các
DNNN bình quân theo GDP là 11,7% bằng 1,5 lần tốc độ tăng trưởng chung
của nền kinh tế và bằng 2 lần tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế ngoài quốc
doanh. Từ 1990 đến nay do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế khu vực và
thế giới cùng những thiên tai liên tiếp xảy ra thì tốc độ tăng trưởng của nền
kinh tế giảm dần, DNNN cũng nằm trong tình trạng đó, tỷ trọng tống sản
phẩm của DNNN trong GDP tăng 33,3% năm 1991 lên 40,07% năm 1996 và
41,23% năm 1998. Tỷ lệ nộp vốn ngân sách trên vốn nhà nước năm 1993 là
6,8% và năm 1999 là 12,31%. Năm 1999 các doanh nghiệp làm 40,2% GDP
trên 50% giá trị xuất nhập khấu, đóng góp 39,25% ngân sách Nhà nước. Từ



Năm 2002
Năm2003Năm 2004
Năm 2005
Doanh thu Năm 2001
-Sổ nay,
lao động
trong DNNN
các doanh
nhà26nước
đangnguồn
có xuthu
hướng
1995 đến
hằng năm
đóngnghiệp
góp tù’
- 28%
thuế giảm
nội
sản xuất
đáng
địa. kể.Tuy nhiên só lao đọng trong các doanh nghiệp nhà nước vẫn chiếm
kinh doanh
một tỷ lệ khá đông cho thấy sự lớn mạnh của kinh tế nhà nước.
(nghìn tỉ
Từ thập niên 90 trở lại đây, Nhà nước đã sắp xếp, tố chức, củng cố và phát
triến các DNNN, các tống công ty Nhà nước: Chính phủ đã liên tục chỉ đạo
và thực hiện sắp xếp lớn các DNNN đó là đợt 2 (1990 - 1993), đợt 2 (1994 1997), đợt 3 (1998 - 1999), qua mỗi đợt sắp xếp đó là các DNNN đã có sự
Nguồn
:Niên

thông
kê 2006
đối mới về quy mô, về cơ
cấu tổ
chứcgiám
quản
lý bằng
cách sát nhập, giải thể phá
sản các doanh nghiệp yếu kém, làm ăn thua lỗ kéo dài, chuyến doanh nghiệp
nhà nước thành các công ty cố phần hoặc giao, bán, khoán, cho thuê DNNN
sổ lao
động
doanh
nhàmới
nướcđócólàgiảm
nhưng

quy: -Tuy
mô nhỏ.
Ket
quảtrong
sau các
3 đợt
sắpnghiệp
xếp đối
hiệuđiquả
hoạt động
rất lớn
của các DNNN tăng lên, mặc dù sổ DN giảm xuống rất nhiều từ 12000 doanh
nghiệp (năm 1990) xuống còn 5280 doanh nghiệp (năm 2000).

Hiện nay có 17 tổng công ty 91 và 77 tống công ty 90 đang hoạt động,
các tổng công ty này được tập trung xây dựng hầu hết trong tất cả các lĩnh
vực kinh tế của đất nước. Các tống công ty nhà nước có 1605 DN thành viên,
chiếm 28,4% tổng số doanh nghiệp nhà nước, 65% vốn nhà nước và 61% lao
động. Năm 2000, các tổng công ty đã cung cấp cho nền kinh tế quốc dân 98%
sản lượng điện, 97% sản lượng than, 54% sản lượng xi măng, 52% sản lượng
thép, các ngân hàng thương
mại giữ
thị phần
vốn
Nguồn
:N 70%
iên giám
thông
kê vay.
2006
Một
DNNN
đã được
mà Nhà
nước nhờ
không
cần chính
nắm
-Như bộ
vậyphận
trong
suốt quá
trình cô
đổi phần

mới hoá
từ 1986
đến nay,
những
giữ
100%
vốn

DNNN
đầu

một
phần
vốn
đế
thành
lập
mới
công
ty
sách đổi mới, sắp xếp tổ chức lại các DNNN của chính phủ mà các DNNN cố
đã
phần.
Tínhchuyến
đến năm
cổ quyền
phần hoá
đượcđã529
và tích
102 cực

bộ

những
biến2001,
tích cả
cực:nước
việcđãtách
sở hũu
tácDN
động
phậnquyền
DN bằng
số doanh
nghiệp
hiệnđócóhoạt
so động
với tống
số vốn
đến
tự chủ11%
của tổng
các doanh
nghiệp
và do
có hiệu
quả Nhà
hơn
nước
khi
đánh

giá
lại
khi
cổ
phần
hoá
các
doanh
nghiệp

2714
tỷ
đồng
bằng
trước, trình độ công nghệ và quản lý có nhiều tiến bộ, vốn được bảo toàn

1,97%
tốngbước
số vốn
nước các
trong
các DNNN.
tăng
thêm,
đầu Nhà
đa dạng
nguồn
vốn để Sau
phát một
triển,thời

vốngian
tíchhoạt
luỹ động,
tự bố
phần tăng
vốn lên
nhà 27,8%
nước ởtống
các vốn
côngsản
ty cổ
tăng được
giá trịtranh
tuyệtcủa
đối,DNNN
theo
sung
xuấtphần
kinhđãdoanh,
sức cạnh
báo
cáo
của
202
DN
đã
cổ
phần
hoá
được

trên
1
năm,
phần
vốn
Nhà
nước
đang từng bước được nâng lên, giúp KTNN thực hiện được vai trò chủ đạo
không
được
bảodân,
toànchimàphối
còn được
tăng thêm
65.420lĩnh
tỷ vực
đồngthen
bằngchốt,
nguồn
của
nềnnhững
kinh tế
quốc
các ngành
là lợi
lực
nhuận
đế
lại;
doanh

thu
tăng
1,4
lần,
lợi
nhuận
tăng
gấp
2
lần,
nộp
ngân
lượng nòng cốt trong tăng trưởng kinh tế, trong xuất khẩu và đóng gópsách
cho
tăng 1,2
nhập bảo
của đảm
ngườicân
laođối
động
số lượng
ngân
sáchlần,
Nhàthunước,
vốntăng
và 22%,
góp phần
quan công
trọngnhân
trongviên

ổn
tăng
5,1%

không

doanh
nghiệp
cố
phần
nào
lâm
vào
tình
trạng
phá
định kinh tế vĩ mô, là lực lượng rất quan trọng trong việc bảo đảm các sản.
sản
Những
đạt kinh
đượctế.đó đã chứng tỏ rằng chính sách cố phần hoá các
phấm
chủkết
yếuquả
của nền
DNNN là một chính sách đúng đắn và đã phát huy được những tính tích cực
của DNNN, tạo cơ hội cho DNNN thực sự hoạt động trong cơ chế thị trường,
cạnh tranh
bình đang với mọi DN khác
* Nguyên nhân những thành quả đạt được:

Thứ nhất, xuất phát điểm đầu tiên cho sự đối mới nền kinh tế nước ta đó
là nhờ chủ trương đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Chủ trương
xây dựng một nền


Kinh tế mở của Đảng đã rất phù họp với thực tế tình hình đất nước ta do
đó đã mở ra một thời kỳ kinh tế mới năng động, sáng tạo, nhanh chóng đưa
đến hiệu quả phát triển của nền kinh tế, - xã hội đất nước, xuyên suốt thời kỳ
đối mới (1986 đến nay), giã các văn kiện đại hội lần thứ VI đến đại hội lần
thứ IX luôn đặt KTNN lên nắm vai trò chủ đạo: “Làm đòn bẩy thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và giải quyết vấn đề xã hội, hướng dan, ho trợ các thành phần
kinh tế khác phát triền, làm lực lượng vật chất đê nhà nước thực hiện chức
năng điều tiết và quản lý vĩ mô, tạo nền tảng cho chế độ XHCN” (Văn kiện
đại hội Đảng lần thứ VIII)
Thư hai, nhà nước XHCN VN đang từng bước hoàn thiện dần hệ thống
các công cụ quản lý vĩ mô, của mình đối với thành phần KTNN đặc biệt là đối
với các DNNN.Bằng các văn bản pháp quy các chính sách kinh tế mà nhà
nước đã thế chế hoá các quan điếm, chủ trương của Đảng về vai trò chủ đạo
của KTNN, DNNN; một loạt các văn bản được thực thi như quyết định về
hạch toán kinh doanh trong DNNN, quy chế quản lý tài chính đối với DNNN.
Luật DNNN, luật thương mại, chỉ thị về đẩy mạnh và sắp xếp, đối mới các
DNNN, nghị quyết về giao, bán, khoán, đó là những công cụ điều tiết, quản lý
kinh tế của nhà nước, thể hiện sự chỉ đạo hết sức kiên trì của chính phủ các
cấp, các ngành.
Thứ ba, sự cố gắng phấn đấu của các DNNN, của đội ngũ cán bộ, quản lý
và người lao động trong cơ chế mới mà Đảng đề ra đòi hởi các DNNN cũng
như các cán bộ quản lý người lao động, phải có một sự thay đoỏi nhất định,
đáp ứng được những đòi hỏi của cơ chế kinh tế mới. Càng ngày ta nhận thấy
tính năng động, sáng tạo, tinh thần trách nhiệm của nhiều cán bộ, công nhân
viên ở các DNNN được nâng cao. Các DNNN đã có những việt làm nhằm

đưa hoạt động của sản xuất của mình hiệu quả hơn như đổi mới công nghệ,
đào tạo đội ngũ cán bộ....
Thứ bốn: Họp tác đa phương, đa hình thức, hướng về xuất khẩu, của các
DNNN được phát triển cả về quy mô và hiệu quả, nhờ đó mà tranh thủ sự đầu
tư, giúp đỡ của quốc tế, của các DN nước ngoài, không chỉ cho thành phần
KTNN mà còn cho các thành phần kinh tế khác về thị trường, về đối mới
công nghệ, về phương pháp sản xuất, kinh doanh.... nhờ đó mà KTNN thực
hiện được vai trò mở đường, dãn dắt các thành phần kinh tế, phát triến theo
đúng định hướng XHCN của Đảng.


Bên cạnh những thành quả đã đạt được của KTNN (DNNN) mà ta đã ghi
nhận ở trên (trang 21) thì KTNN còn những hạn chế, yếu kém, mà đã được
hội nghị TW Đảng khoá IX đánh giá: “Những mặt hạn chế, yếu kém, có mặt
rất nghiêm trọng của DNNN và DNNN đang đứng trước thách thức gay gắt
của yêu cầu đoi mới, phát triên và chủ động hội nhập kỉnh tế quốc tế.
Năm 1998, theo đánh giá chung, số DN thực sự kinh doanh có hiệu quả,
chiếm khoảng 20%, số chưa có hiệu quả, khi lồ khi lãi là 40%, số DN không
có hiệu quả, lồ liên tục đóng góp 39,2% tống thu ngân sách nhà nước, nhưng
trong đó phần thuế thu nhập DN chỉ có 13,4%.
Năm 2000, đồng vốn nhà nước của DNNN là ra 0.095 đồng lợi nhuận
trước thuế, trong một đồng vốn chủ sở hữu của các công ty cố phần được
chuyển đổi từ DNNN là ra 0,019 đồng.
Khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và trong nước của sản phẩm
do các DN là ra còn thấp do mức giá quá cao so với các mặt hàng cùng loại
nhập khẩu như đường thô cao hơn đến 70-80%
Tốc độ phát triển sản xuất của DNNN chưa cao, còn thấp hơn các DN
thuộc các thành phần kinh tế khác,, bình quân 10 năm từ 1991-2000 của
DNNN là 11%, của DN ngoài quốc doanh là 14%
Không ít các DNNN xây dựng và thực hiện kế hoạch sản xuất kinh doanh

không gắn với định hướng phát triến chung của toàn ngành, không phù họp
với mục tiêu, nhiệm vụ được giao và chưa xuất phát tù’ nhu cầu thị trường,
nhiều DNNN đưa ra các dự án không có khả năng thực thi, hiệu quả đầu tư
thấp, lãng phí tiền vốn, phát sinh tiêu cực, tham nhũng, đế lại những hậu quả,
khó khắc phục, Việc bảo toàn và phát triển vốn nhiều DN thực hiện chưa tốt,
tình trạng ăn vào vốn, mòn vốn, mất vốn vẫn còn rất nhiều, Không ít doanh
nghiệp chưa thực hiện tốt quy chế dân chủ tại DNNN, nhất là công khai tài
chính, việc chi tiêu tuỳ tiện, lãng phí.
Đen tháng 5-2001, cả nước có 5.655 doanh nghiệp với tổng sổ vốn nhà
nước khoảng 126.030 tỷ đồng (không tính giá trị quyền sử dụng đất), bình
quân mỗi DN 22 tỷ đồng, số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng chiếm tới 59,8%,
trong đó số DN có số vốn từ 1 tỷ đồng trở xuống chiếm 18,2% (tại 14 tỉnh,
loại DN này chiếm hơn 90%, chủ yếu trong các lĩnh vực dịch vụ, thương mại,


cùng loại hoạt động trong tình trạng chồng chéo về ngành nghề kinh doanh,
cấp quản lý và trên cùng một địa bàn.
Nguyên nhân dẫn đến yếu kém, hạn chế của DNNN: Nghị quyết TW VI
khang định: “Những hạn chế, yếu kém của DN có nguyên nhân khách quan,
nhưng chủ yếu là do những nguyên nhân chủ quan.”
-Chua có sự thống nhất cao trong nhận thức về vị trí, vai trò của KTNN
và DNNN về những yêu cầu và giải pháp sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả
hoạt động của DNNN.
-Nhiều vấn đề chưa rõ và còn có những ý kiến khác nhau chưa được tổng
kết thực tiễn đế kết luận.
-Quản lý nhà nước đối với DNNN còn yếu kém vướng mắc.
-Cải cách hành chính chậm, cơ chế, chính sách còn nhiều bất cập, chưa
đồng bộ, còn nhiều điếm chưa phù hợp với KTTTĐHXHCN, chưa tạo được
động lực mạnh mẽ thúc đấy cán bộ và người lao động trong DN nâng cao
năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh.

* Nguyên nhân của những hạn chế yêu kém trên:
Nghị quyết TW III đã khẳng định: “Những hạn chế, yếu kém của doanh
nghiệp nhà nước có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu do những
nguyên nhân chủ quan.”
Chưa có sự thống nhất cao, trong nhận thức về vai trò, vị trí của kinh tế
nhà nước và DNNN, về yêu cầu và giải pháp sắp xếp đổi mới, đối mới, phát
triển và nâng cao hiệu quả DNNN.

KẾT LUẬN


Nen kinh tế thị trường ở nước ta mặc dù có những ưu điểm song không
tránh khỏi những sai lầm khuyết điếm và những vấn dề mà bản thân nó không
giải quyết được như nạn thất nghiệp ,lạm phát ...Những tình trạng đó ở mức
độ khác nhau trực tiếp hay gián tiếp đếu có tác động làm cản trở sự phát
triến của nền kinh tế .Vì vậy sự tác động của Nhà Nước vào nền kinh tế là
một lẽ đương nhiên của sự phát triển kinh tế xã hội .Thiếu sự can thiệp cảu
nhà nước vào nền kinh tế thị trường tự do hoạt động thì việc điều hành nền
kinh tế nước ta sẽ không có hiệu quả .Do đó nhà nước với vai trò quản lí vĩ
mô phải có chính sách biện pháp cụ thế dẻ tác động vào nền kinh tế đế nó
hoạt động đúng hướng .
Đe vai trò của nhà nước được thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn hiện
nay thì phải đối mới hệ thống nhà nước làm cho nó thích ứng với nền kinh tế
thị trường tức là đảm bảo trên thực tế nàh nước thực sự là công cụ điều hành
có hiệu quả nền kinh tế vĩ mô .Thực hiện tốt những việc đó thì vai trò quản lí


Tài liêu tham khảo

1. “Doanh nghiệp nhà nước trong thời kỳ CNH-HĐH” - T.s. Phan Đăng

Tuất (chủ biên).
2. Tạp chí cs từ 1997 đến nay.
3. Tạp chí nghiên cứu kinh tế.


Mục lục

MỞ ĐẦU.............................................................................................................. 1
NỘI DUNG........................................................................................................... 2

I............................................................................................................................
Một số vấn đề lý luận về Kinh tế nhà nước(KTNN)............................................. 2

1. Một số khái quát chung về KTNN:...............................................................2
1.1 Khái niệm chung về thành phần KTNN:...............................................2

1.2 Phân loại KTNN:....................................................................................2
II. Sự hình thành kinh tế nhà nước......................................................................4

1. Các giai đoạn phát triển của kinh tế Nhà nước.............................................4
2. Kinh tế nhà nước và vai trò chủ đạo của nó trong nền kinh tế thị trường

định hướng XHCN.............................................................................................5



×