Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và con gái (nghiên cứu trường hợp tại khu 2 – thôn quan ngoại – xã tam quan – huyện tam đảo – tỉnh vĩnh phúc)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.81 KB, 32 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC



TIỂU LUẬN GIỮA KỲ
Môn học: Xã hội học giáo dục
Đề tài: Sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái (Nghiên cứu trường hợp tại Khu 2 – Thôn Quan Ngoại – Xã Tam Quan
– Huyện Tam Đảo – Tỉnh Vĩnh Phúc).
Giảng viên

: PGS.TS. Nguyễn Thị Thu Hà.

Nhóm 8

: 1. Lăng Hoàng Việt.
2. Nguyễn Hùng Cường.
3. Trần Đức Việt.
4. Nguyễn Đức Lợi.
5. Nguyễn Xuân Nam.
6. Vũ Tùng Dương.

Lớp

: K57 – Xã hội học.

Hà Nội, tháng 5/ 2015


1


MỤC LỤC

2


MỞ ĐẦU.
1. Lý do chọn đề tài.
Từ thời phong kiến ở Việt Nam, quan niệm “trọng nam, khinh nữ” theo tư tưởng
của Nho giáo đã tồn tại và ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người dân Việt Nam, tư tưởng
ấy cho đến ngày nay vẫn còn, thậm chí ở một số địa phương điều này vẫn đang diễn ra
rất gay gắt. Trải qua thời kỳ phong kiến, đến năm 1945, sau cuộc Cách mạng tháng
Tám thành công, đất nước ta đã bắt đầu bước sang một trang mới với những tư tưởng
tiến bộ hơn, trong Tuyên ngôn độc lập đọc tại Quảng trường Ba Đình lịch sử ngày 2-91945, Chủ tich Hồ Chí Minh trịnh trọng tuyên bố với thế giới và quốc dân đồng
bào: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền
không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự
do và quyền mưu cầu hạnh phúc”, Hiến pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
năm 1946, có ghi: “phụ nữ Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được
hưởng chung mọi quyền tự do của một công dân”. Ngay từ thời điểm đó, Đảng, Nhà
nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho thấy sự quan tâm tới sự nghiệp giải phóng phụ nữ
để mang lại cho họ sự tự do, bình đẳng với nam giới trên đất nước Việt Nam. Từ đây,
sau nhiều năm đất nước ta ngày đã và đang phát triển kinh tế - văn hóa – chính trị –
giáo dục mạnh mẽ, và tư tưởng “trọng nam, khinh nữ” trong xã hội Việt Nam cũng đã
được Đảng và Nhà nước cố gắng đẩy ra khỏi tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam.
Cho đến ngày nay, tư tưởng “ trọng nam, khinh nữ” trong xã hội đã được xóa bỏ một
cách đáng kể, mọi người dân đã không còn quá coi nặng vấn đề nam – nữ nữa, tuy
nhiên ở một khía cạnh nào đó thì tư tưởng ấy vẫn còn tồn tại và không thể xóa bỏ hoàn
toàn trong xã hội Việt Nam. Đặc biệt là trong việc sinh con và việc học tập của con cái

ở mỗi gia đình.
Trong vấn đề giáo dục, ở nước ta là một vấn đề rất được coi trọng, hầu hết mọi
gia đình đều tạo mọi điều kiện cho con cái mình đi học. Tuy nhiên, vấn đề nam – nữ
trong việc giáo dục cũng là một vấn đề khá nhức nhối từ xưa đến nay, khi mà trong tư
tưởng Nho giáo từ thời phong kiến là chỉ con trai mới được đi học, thì điều này vẫn
ảnh hưởng tới tư tưởng và suy nghĩ của các bậc làm cha, làm mẹ ngày nay. Theo số
3


liệu thống kê từ năm 2005 đến năm 2013, thì số học sinh phổ thông giữa nam và nữ
luôn có sự chênh lệch, tỉ lệ nam đến được đến trường luôn cao hơn nữ ở một tỉ lệ nhất
định, năm 2005-2006 tỉ lệ nữ đến trường là 48,5%, tỉ lệ nam đến trường là 51,5%, đến
năm 2013 tỉ lệ này đã được giảm xuống còn nữ là 49%, nam là 51% (nguồn: Tổng cục
thống kê). Ở mức độ nào đó thì vẫn có sự phân biệt giữa nam và nữ trong việc đầu tư
cho việc học tập của cha mẹ dành cho con trai và con gái ở mỗi gia đình. Vậy nguyên
nhân vì sao lại có sự chênh lệch như vậy giữa tỉ lệ đến trường của nam và nữ hiện nay?
Ở đề tài nghiên cứu này chúng tôi muốn tìm hiểu xem liệu rằng với sự bất bình đẳng
giới vẫn còn tồn tại ở nước ta hiện nay liệu có ảnh hưởng đến giáo dục, ảnh hưởng đến
việc đầu tư cho học tập của cha mẹ dành cho con cái hay không? Vì gia đình luôn là bệ
phóng của những tài năng, là nơi chắp cánh cho những ước mơ của mọi trẻ em trên đất
nước Việt Nam nói riêng và trên thế giới nói chung.
Chính vì những lý do trên chúng tôi đã chọn nghiên cứu một khía cạnh nhỏ với
vấn đề “Sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và con gái”
trong một mảng lớn về giới tính và giáo dục. Đây thực sự là một vấn đề quan trọng mà
chúng ta cần tìm hiểu, vì nó sẽ tạo điều kiện để các bậc phụ huynh có một nhận thức
mới về việc đầu tư học tập cho con trai và con gái.
2. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu.
Trong thời đại ngày nay việc học tập luôn được đề cao và là vấn đề được đặt lên
hàng đầu ở mỗi gia đình, mỗi địa phương và mỗi quốc gia. Hiện nay các bậc cha mẹ rất
quan tâm tới việc học tập của con cái họ. Mặc dù vậy, vẫn còn nhiều vấn đề phát sinh

trong việc đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con cái. Mỗi gia đình lại có cách đầu
tư khác nhau, có những gia đình thì có sự bình đẳng hay giống nhau trong việc đầu tư
cho học tập của con cái. Nhưng cũng co những gia đình lại có sự khác biệt trong đầu tư
cho việc học tập của con cái. Mà điều này được thể hiện rõ ở các vùng nông thôn, vùng
sâu, vùng xa khi mà điều kiện kinh tế còn khó khăn, nhận thức của người dân còn thấp,
vẫn giữ những hủ tục phong kiến. Nhận thức của người dân về vai trò của con trai và
con gái trong gia đình và xã hội còn nhiều cổ hủ, lạc hậu… Chính vì tính cấp bách hiện
nay đã có khá nhiều đề tài nghiên cứu về vấn đề này. Tại mỗi khu vực ta lại thấy được
4


những sự đầu tư của cha mẹ cho con cái. Nhưng ở đâu đó vẫn còn những định kiến
nhất định về vấn đề học hành của con trai và con gái. Đặc điểm này càng được thể hiện
rõ tại các vùng nông thôn, nơi mà các hủ tục phong kiến vẫn còn nhiều tàn dư, nơi mà
các quan niệm truyền thống vẫn còn in đậm trong tâm trí người dân. Chính vì vậy nó
cũng ảnh hưởng nhiều tới việc đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con trai và con
gái.
Tham khảo một số tài liệu của các nghiên cứu trước đây như: Khóa luận tốt
nghiệp của sinh viên Lê Nguyên Long - Trường Đại học Công Đoàn Hà Nội với đề tài
“Thái độ của cha mẹ với việc học của con và định hướng nghề nghiệp cho con ở vùng
ngoại thành Hà Nội”, bài viết “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc
học của con cái” của Lê Thuý Hằng (Tạp chí Xã hội học số 2 (94), 2006), cũng đã nêu
rất rõ sự khác biệt giới trong dự định đầu tư cho con tới bậc học nào, cũng như các yếu
tố tác động và ảnh hưởng tới thực trạng đó.
Ngoài những nghiên cứu trước đó ra thì hiện tại vấn đề này cũng đang trở thành
mối quan tâm tới toàn xã hội, có rất nhiều phương tiện truyền thông đại chúng đã nói
về vấn đề này, đồng thời cũng có nhiều nghiên cứu sẽ và đang tiến hành nghiên cứu
liên quan tới vấn đề này.
Trên cơ sở có chọn lọc, chúng tôi đã kế thừa và phát huy những kết quả nghiên
cứu của các đề tài đã từng nghiên cứu, để làm luận cứ khoa học cho đề tài mà chúng tôi

đang tiến hành nghiên cứu là: “Sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập
của con trai và con gái”.
3. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn.
3.1 Ý nghĩa khoa học.
Nghiên cứu đề tài “Sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con
trai và con gái” đã áp dụng một số lý thuyết chuyên ngành của bộ môn Xã hội học giáo
dục, Xã hội học gia đình, Xã hội học giới và các lĩnh vực về mối liên hệ giữa gia đình
và giáo dục, sự khác biệt giới ảnh hưởng như thế nào tới giáo dục. Từ kết quả nghiên
cứu của đề tài này sẽ góp phần nhỏ làm phong phú thêm cho mảng nghiên cứu Xã hội
học về gia đình – giáo dục – giới tính.
5


3.2 Ý nghĩa thực tiễn.
Thông qua việc vận dụng lý thuyết vào nghiên cứu, đề tài có được kết quả
nghiên cứu mới về sự khác biệt giới có hay không ảnh hưởng và nó ảnh hưởng như thế
nào đối với việc đầu tư cho việc học tập của con cái hiện nay. Qua đó, đề tài giúp các
bậc cha mẹ hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc đầu tư học tập cho con trai và con
gái, giúp các bậc phụ huynh, đặc biệt là ở khu vực nông thôn và miền núi có một cách
nhìn mới tiến bộ hơn về việc đầu tư học tập cho con cái. Để từ đó các bậc phụ huynh
có thể tạo ra cơ hội được học tập ngang bằng nhau cho chính con em mình và góp phần
hạn chế tình trạng bất bình đẳng trong giáo dục và bất bình đẳng trong xã hội.
4. Câu hỏi nghiên cứu.
- Sự khác biệt giới trong đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con cái được
thể hiện như thế nào?
- Những yếu tố ảnh hưởng đến việc đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con
cái ?
5. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu.
5.1 Đối tượng nghiên cứu.
“Sự khác biệt giới trong đầu tư của cha mẹ đối với việc học tập của con trai và

con gái”
5.2 Khách thể nghiên cứu.
Khách thể nghiên cứu là: các bậc phụ huynh đang có con là học sinh, sinh viên.
5.3 Phạm vi nghiên cứu.
- Phạm vi không gian:
- Phạm vi thời gian: Từ ngày 30/01/2015 đến ngày 17/02/2015.
6. Mục tiêu nghiên cứu.
- Tìm hiểu sự khác biệt giới trong đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con
trai và con gái.
- Tìm hiểu những yếu tố ảnh hưởng tới sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho
việc học tập của con trai và con gái.
7. Nhiệm vụ nghiên cứu.
6


Tìm hiểu sự khác biệt giới trong đầu tư của cha mẹ cho việc học hành của con
cái, thể hiện ở các khía cạnh như:
Mức độ quan tâm của cha mẹ đến việc học tập của con trai và con gái.
Mức đầu tư tài chính cho việc học của con trai và con gái.
Lượng thời gian cha mẹ đầu tư cho việc học của con trai và con gái.
Dự định đầu tư của cha mẹ cho con học tới bậc học nào.
8. Phương pháp nghiên cứu.
8.1 Phương pháp phân tích tài liệu.





Tham khảo một số tài liệu của các nghiên cứu đi trước như:
Khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Lê Nguyên Long - Trường Đại học Công

Đoàn Hà Nội với đề tài “Thái độ của cha mẹ với việc học của con và định hướng nghề
nghiệp cho con ở vùng ngoại thành Hà Nội”,2006.
Bài viết “Khác biệt giới trong dự định đầu tư của bố mẹ cho việc học của con
cái” của Lê Thuý Hằng (Tạp chí Xã hội học số 2 (94), 2006).
8.2 Phương pháp quan sát.
Thông qua việc quan sát hoạt động học tập, cơ hội được đến trường của con trai
và con gái. Ở đây, chúng tôi sử dụng phương pháp quan sát để xem xét có hay không
sự tồn tại của sự khác biêt giới trong đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con cái,
và quan sát xem việc đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con cái thông qua hình
thức nào.
8.3 Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi.
Chúng tôi tiến hành đi phát bảng hỏi để hỏi ý kiến của người dân ở địa bàn
nghiên cứu để biết được ý kiến của người dân về vấn đề nghiên cứu. Chúng tôi tiến
hành phát 35 bảng hỏi cho 35 phụ huynh học sinh, sinh viên có con đang đi học. Trong
đó: 1 người là bác sĩ thú y, 1 người là cán bộ xã, 2 người là bộ đội, 4 người là giáo viên
và 27 người làm ruộng. Để có thể biết được ý kiến và cái nhìn của các bậc phụ huynh
về sự khác biệt giới ảnh hưởng như thế nào tới đầu tư cho việc học tập của con trai và
con gái. Để thấy được các gia đình ở đây có quan niệm hay có bị sự khác biệt giới làm
ảnh hưởng đến đầu tư cho việc học tập của con trai và con gái hay không.
8.4 Phương pháp phỏng vấn sâu.
7


Chúng tôi tiến hành phỏng vấn sâu với 5 mẫu. Với 5 phụ huynh đang có con đi
học, có 3 nam và 2 nữ (trong đó: 3 người làm ruộng, 1 giáo viên, 1 bộ đội). Chúng tôi
phỏng vấn những cha mẹ có học vấn từ THCS trở lên để đảm bảo sự nhận thức về việc
học tập của con cái được tốt hơn. Nghề nghiệp của các gia đình khá đa dang nên việc
việc thu được thông tin từ những người có nghề nghiệp khác nhau là khả quan.
9. Giả thuyết nghiên cứu.
- Có sự khác biệt giới trong đầu tư của cha mẹ cho việc học tập của con trai và

con gái. Tuy nhiên, sự khác biệt này chỉ được thể hiện ở một số khía cạnh và sự khác
biệt này không lớn.
- Nhận thức của cha mẹ, nghề nghiệp và trình độ học vấn của cha mẹ và những
yếu tố khác là nhân tố tác động tới sự khác biệt trong đầu tư cho việc học tập của con
trai và con gái.

10. Khung lý thuyết.
Điều kiện kinh tế - văn hóa – xã hội.
Kinh tế và nghề nghiệp của cha mẹ.
Sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và con gái.
Quan niệm của cha mẹ về con trai và con gái theo truyền thống.
Trình độ học vấn của cha mẹ.
Nhận thức của cha mẹ.
8


NỘI DUNG CHÍNH.
Chương 1. Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn.
1.1. Cơ sở triết học
Đề tài vận dụng quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác – Lênin để giải thích và làm cơ sở phương pháp luận chung cho toàn bộ bài
nghiên cứu.
Quan điểm duy vật biện chứng đòi hỏi việc xem xét sự việc, hiện tượng trong sự
vận động và phát triển của nó, đồng thời xem xét nó trong mối quan hệ giữa sự vật
hiện tượng. không có sự vật hiện tượng nào nằm ngoài mối liện hệ. Vận dụng vào
nghiên cứu này để xem xét sự tác động của cha mẹ với con cái thông qua việc đầu tư
của cha mẹ cho việc học tập của con cái. Trong đó, đầu tư của cha mẹ cho việc học tập
của con cái thì có yếu tố khách quan và chủ quan. Đó là các yếu tố như: điều kiện kinh
tế xã hội và điều kiện kinh tế gia đình và các yếu tố của cha mẹ như yếu tố giới tính,
tuổi tác, trình độ học vấn, nghề nghiệp của cha mẹ. Khi đầu tư cho việc học tập của các

con vai trò đó tác động ra sao, có liên quan với yếu tố khác.
Quan điểm duy vật lịch sử yêu cầu nhà nghiên cứu xem xét sư vật hiện tượng
phải đặt trong bối cảnh điều kiện cụ thể. Vận dụng vào nghiên cứu, sự vật hiện tượng
phải đặt trong bối cảnh và điều kiện cụ thể, nghề nghiệp vận dụng vào nghiên cứu,
việc xem xét khi đầu tư cho việc học tập của con cái cũng như những yếu tố tác động
đến việc đầu tư cho giáo dục đặt trong bối cảnh cụ thể của đất nước, đặc biệt là điều
9


kiện kinh tế gia đình, bối cảnh địa bàn nghiên cứu khi bước vào giai đoạn hội nhập
quốc tế và tác động của quá trình đô thi hóa.
1.2. Những khái niệm công cụ cơ bản.
1.2.1. Khái niệm gia đình.
Gia đình là một nhóm người có quan hệ hôn nhân hoặc huyết thống với nhau,
thường chung sống và hợp tác kinh tế với nhau để thỏa mãn những nhu cầu cơ bản
trong cuộc sống của họ về: sinh đẻ và nuôi dạy con cái, chăm sóc người già và người
ốm…
(Nguồn: Mai Huy Bích, Giáo trình Xã hội học gia đình, Nxb ĐHQGHN, 2009, tr 14).

1.2.2. Khái niệm giới.
Giới là những khác biệt giữa nữ giới và nam giới trong cùng hộ gia đình, trong
và giữa các nền văn hóa, là cấu trúc xã hội – văn hóa có thể biến đổi theo thời gian.
Những khác biệt này được phản ánh trong các vai trò, trách nhiệm, khả năng tiếp cận
các nguồn lực, những sức ép, những ưu tiên, các nhu cầu, nhận thức và quan điểm…
được thấy trong cả hai giới. Do vậy, giới không đồng nhất với phụ nữ mà được xem là
cả nữ giới và nam giới cùng những mối quan hệ tương tác của họ (World Food
Programe: Gender Glossary, 1996, tr:26-27).
Luật bình đẳng giới định nghĩa: “Giới chỉ đặc điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ
trong tất cả các mối quan hệ xã hội” (2007:6).
1.2.3. Khái niệm khác biệt giới.

Khác biệt giới là sự không ngang bằng nhau giữa các nhóm phụ nữ và nam giới
trong các cơ hội. Sự tiếp cận giữa các nguồn lực và sự sử dụng, hưởng thụ những thành
quả của xã hội.
(Nguồn: Hoàng Bá Thịnh, Xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2008, tr 46).

1.2.4. Khái niệm giáo dục.
Giáo dục là mọi sự giao tiếp có tổ chức để theo đuổi mục đích học tập của con
người.
(Nguồn: Nguyễn Tiến Đạt, Giáo dục so sánh, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2004, tr 204).

1.2.5. Khái niệm đầu tư.
10


Đầu tư là sự bỏ ra, sự chi phí, sự hy sinh và hoạt động đầu tư là sự bỏ ra, sự hy
sinh sự chi phí các nguồn lực (tiền, của cải vật chất, sức lao động,...) để tiến hành các
hoạt động nào đó nhằm đạt được những kết quả lớn hơn (các chi phí đã bỏ ra) trong
tương lai (như thu về được số tiền lớn hơn số tiền đã bỏ ra, có thêm nhà máy, trường
học, bệnh viện, máy móc thiết bị, sản phẩm được sản xuất ra,... tăng thêm sức lao động
bao gồm cả số lượng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ và sức khoẻ).
(Nguồn: Nguyễn Ngọc Mai, bài viết: Đầu tư phát triển và các loại đầu tư khác trong nền kinh
tế, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội, 2009).

Từ khái niệm đầu tư nêu trên, liên hệ với việc đầu tư của cha mẹ cho học tập
của con trai và con cái trong đề tài này, có thể thấy các bậc cha mẹ đã bỏ ra tiền bạc,
thời gian, hy sinh nhiều điều trong cuộc sống của mình để toàn lực đầu tư cho việc học
của con cái mình với mong muốn và sự kỳ vọng là con cái mình sẽ đạt được những
thành công trong cuộc sống, sự thành đạt sự nghiệp trong tương lai. Đó chính là sự
nghiệp trồng người của mỗi gia đình, họ bỏ ra chi phí để cho con cái họ học tập để thu
về những thành quả trong tương lai của chính con cái mình.

1.3. Lý thuyết xã hội học.
1.3.1. Lý thuyết hành vi của George Homans(1910- 1989).
George Homans đã đưa ra mô hình lựa chọn duy lý của hành vi cá nhân trên cơ
sở những nguyên tắc cơ bản đã được khái quát thành định đề Ông đưa ra một số định
đề cơ bản trong lý thuyết của mình: Phần thưởng, kích thích, giá trị, duy lý, giá trị suy
giảm, mong đợi. Dựa vào những định đề đã nêu, Homan đã đưa ra quy tắc liên quan
đến phần thưởng của họ tương xứng với việc đầu tư của họ.
Định đề phần thưởng: đối với tất cả các hành động của con người, hành động
nào càng thường xuyên được khen thưởng thì càng có khả năng lặp lại.
Định đề kích thích: nếu một nhóm kích thích nào trước đây đã từng khiến cho
hành động nào đấy được khen thưởng thì một nhóm mới càng giống kích thích đó bao
nhiêu thì càng có khả năng làm cho hành động tương tự trước đây được lặp lại bấy
nhiêu.

11


Định đề giá trị: kết quả của hành động có giá trị cao đối thủ với chủ thể bao
nhiêu thì chủ thể đó càng có xu hướng thực hiện hành động đó bấy nhiêu. Và khi mối
lợi đủ lớn thì cá nhân sẽ sẵn sàng bỏ nhiều “chi phí” vật chất và tinh thần để đạt được
nó.
Định đề duy lý: Cá nhân sẽ lựa chọn hành động nào mà giá trị của kết quả hành
động đó và khả năng đạt được kết quả đó là lớn nhất.
Định đề giá trị suy giảm: càng thường xuyên nhận được một phần thưởng nào
đó bao nhiêu thì giá trị của nó càng giảm đi bấy nhiêu đối với chủ thể hành động.
Định đề mong đợi: nếu sự mong đợi của con người được thực hiện thì người ta
sẽ hài lòng, còn nếu không được thực hiện thì cá nhân sẽ bực tức, không hài lòng.
Áp dụng đề tài nghiên cứu cho thấy, việc đầu tư học tập cho con cái cũng được
coi là một hành vi lựa chọn nhằm đạt được phần thưởng theo mong muốn. Mỗi gia
đình đầu tư học tập cho con với mong muốn đạt được một phần thưởng nào đó, như là

con cái mình sẽ có một công việc ổn định, có một tương lai tươi sáng. Đấy không chỉ
là mong muốn nói riêng của các bậc cha mẹ tại địa bàn nghiên cứu mà đó cũng là
mong muốn chung của mỗi cha mẹ, họ luôn là những người mong điều tốt đẹp nhất sẽ
đến với con.
Qua các định đề trên chúng ta thấy rằng cha mẹ khi đầu tư học tập cho con trai
và con gái đều nhằm tới vấn đề lợi ích và phần thưởng, và họ thường xuyên tìm cách
cân đối vấn đề này sao cho kết quả cuối cùng đem lại cho họ là một phần thưởng và có
giá trị cao nhất, ở đây chính là sự thành đạt của con cái trong học tập và tương lai, cũng
như cuộc sống của con cái sau này sẽ tốt đẹp hơn. Mỗi bậc cha mẹ sẽ chọn những hình
thức đầu tư thích hợp nhất để đạt được cái mong muốn hay phần thưởng.
1.3.2. Lý thuyết cơ cấu chức năng của Talcott Parsons (1902 – 1979).
Theo Talcott Parsons thì hệ thống bất kỳ nào cũng phải đáp ứng bằng hệ thống
chức năng (AGIL), đây là sơ đồ chức năng nhằm giải thích mọi cấp độ hoạt động của
các hệ thống.
Sự thích nghi (Adaptation: A) : Chính là những đòi hỏi về mặt thích nghi, thích
ứng của một hệ thống đối với những yêu cầu cấp bách của ngoại cảnh. Hệ thống phù
12


hợp với môi trường, đồng thời nó cũng làm môi trường phải phù hợp với những đòi hỏi
của hệ thống đó.
Sự hướng đích (Goal Attainment : G): Một hệ thống xác định phải đạt tới mục
tiêu xác định vì bản chất của sự tồn tại là hành động, mà hành động thì luôn phải có
mục tiêu. Mục tiêu là đòi hỏi tất yếu để duy trì hành động.
Sự liên kết (Integration : I): Đó là sự hội nhập liên kết, điều phối mối quan hệ
giữa các thành viên của nó với nhau. Với nội bộ trong hệ thống, nó đảm bảo sự liên kết
tạo ra quan hệ chỉnh thể của hệ thống và đồng thời nó kiểm tra và điều khiển cả ba
chức năng còn lại A, G, L.
Sự duy trì khuôn mẫu (Latency pattern maintenance : L): Là sự cung cấp và duy
trì động cơ hành động của chủ thể cũng như những khuôn mẫu văn hóa đã được xã hội

tạo ra, chống lại những áp lực từ bên ngoài. Duy trì khuôn mẫu là hoạt động không thể
thiếu để đảm bảo được vị trí, vai trò, chức năng của các hệ thống và tiểu hệ thống xã
hội nên cũng là duy trì tính ổn định xã hội.
Đưa mô hình lý thuyết này vào phân tích giới , Parsons cho rằng xã hội hóa giới
cần phải tuân thủ các nguyên tắc để hướng phụ nữ và nam giới thực hiện các chức
năng đã được quy định sẵn của họ trong cơ cấu ổn định của xã hội.
Thuyết chức năng đem tới cho chúng ta sự giải thích tương đối có lý về nguồn
gốc của sự khác biệt vai trò giới và cũng thể hiện sự hữu dụng của chức năng về những
nhiệm vụ được quy định và phân công trên cơ sở giới. Trong gia đình, người chồng –
người cha sẽ thực hiện vai trò công cụ giúp duy trì cơ sở xã hội , hoàn thiện cơ sở vật
chất gia đình, là cầu nối giữa gia đình và thế giới bên ngoài còn người vợ – người mẹ
sẽ thực hiện vai trò tình cảm tức là người tạo các mối quan hệ gắn bó, tình cảm và nuôi
dưỡng gia đình, đảm bảo cho gia đình luôn êm ấm. Tuy nhiên trong xã hội hiện đại
cũng sẽ xuất hiện những sai lệch về vai trò, những sai lệch này có thể được điều chỉnh
hoặc sẽ tạo ra một trạng thái cân bằng mới về vai trò trong gia đình.
Cụ thể, trong đề tài nghiên cứu này của chúng tôi, chức năng của người cha,
người mẹ sẽ được thể hiện cụ thể trong việc đầu tư cho việc học tập của con cái trong
gia đình.
13


14


Chương 2. Thực trạng đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và con
gái.
2.1. Nhận thức của cha mẹ đối với việc học tập của con trai và con gái.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã phát ra 35 bảng hỏi, thu về 35 bảng hỏi hợp lệ và
thu được kết quả về nhận thức của cha mẹ về việc học tập của con trai và con gái như
sau:

Bảng 1: Nhận thức của cha mẹ về việc học tập của con trai và con gái.
Số người

Tỷ lệ (%)

Rất quan trọng

25

71,4

Quan trọng

9

25,7

Bình thường

1

2,9

Tổng

35

100,0

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và

con gái.

Từ bảng 1 ta thấy, trong số 35 bảng hỏi phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Trong đó,
số người cho rằng việc học tập của các con mình là “rất quan trọng” là 25 người, chiếm
71,4%. Có 15 người cho rằng việc học tập của các con mình là “quan trọng”, chiếm
25,7%. Chỉ có 1 người cho rằng việc học tập là “bình thường”, chiếm 2,9% và không
có ai cho rằng việc học tập là không quan trọng.
Như vậy, đa số các phụ huynh học sinh đều cho rằng công việc học tập là quan
trọng đối với con cái họ. Việc học tập của con cái họ luôn được coi trọng và được đặt
lên hàng đầu.
Hộp 1: Nhận thức của cha mẹ đối với việc học tập của con trai và con gái.
PVS 5, D.T.N, 44 tuổi: “Việc học tập luôn luôn phải đặt lên hàng đầu. Đối với gia
đình cô, các con có học tập tốt mới có thể trở thành công dân tốt cho xã hội. Học không
chỉ để lấy kiến thức, mà học để các con có sự giao tiếp trong xã hội”.

15


Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

2.2. Đầu tư tài chính của cha mẹ cho việc học của các con.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 2: Mức đầu tư tài chính cho việc học tập của con cái. (Đơn vị: VNĐ/tháng)
Mức

Từ

500.000


(%)

Con Trai

7

20

10

28,5

3

8,6

15

42,9

Con gái

9

25,7

7

20


1

2,9

18

51,4

Giới

- 700.000

(%)

700.0001000.000

Tỷ lệ

Trên

Tỷ lệ

500.000

Tỷ lệ

Từ

Dưới


(%)

1000.00
0

Tỷ lệ
(%)

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

Trong số 35 bảng hỏi phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Từ số liệu bảng 2, có thể thấy
rằng ở địa bàn mà chúng tôi tiến hành điều tra thì mức đầu tư tài chính của phụ huynh
học sinh cho con trai và con gái trong việc học tập là không có sự phân biệt giới tính.
Với con trai thì mức đầu tư dưới 500.000đ/ tháng thì có 7 người, chiếm 20%; mức từ
500.000đ – 700.000đ/ tháng có 10 người, chiếm 28,5%; mức từ 700.000đ –
1.000.000đ/ tháng có 3 người, chiếm 8,6% và mức trên 1.000.000/ tháng có 15 người,
chiếm 42,9%. Trong khi đó, với con gái thì mức đầu tư dưới 500.000đ/ tháng có 9
người, chiếm 25,7%; mức từ 500.000đ – 700.000đ/ tháng có 7 người, chiếm 20%; mức
từ 700.000đ – 1.000.000/ tháng có 1 người, chiếm 2,9% và mức trên 1.000.000/ tháng
có 18 người, chiếm 51,4%.
Như vậy, rõ ràng là các bậc cha mẹ học sinh đã không có sự phân biệt trong
cách đầu tư tài chính cho việc học tập của con trai và con gái, như mức đầu tư là trên
1.000.000đ/ tháng thì con trai có tỷ lệ là 42,9%, trong khi con gái có 51,4%. Qua đó có
thể thấy, hiện nay các bậc phụ huynh đã không còn phân biệt trong việc đầu tư cho việc
học tập của con trai và con gái, thậm chí việc đầu tư còn có xu hướng cho con gái
16


nhiều hơn. Đây là một tín hiệu tích cực cho sự phát triển của xã hội và hệ thống giáo

dục.
Hộp 2: Đầu tư vật chất cho việc học tập của con cái.
PVS 3, B.T.L, 43 tuổi: “Thường thì cô đầu tư cho con trong sách vở, đồ dùng học
tập. Cô hạn chế cho con đi học thêm vì sợ chúng sẽ ỉ lại vào học thêm mà lơi là việc
học trên lớp. Quan niệm của cô là thưởng phạt rõ ràng. Nếu con được điểm tốt cô sẽ có
thưởng, và ngược lại. Cô cũng cho các con đi học thêm để có thêm kiến thức. Về tài
chính thì cô cũng luôn đáp ứng đầy đủ cho việc học của các con”.

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

2.3. Lượng thời gian cha mẹ đầu tư cho việc học của các con.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 3: Số lượng thời gian cha mẹ đầu tư cho việc học của các con.
Thời gian

Dưới 1 tiếng

Từ 1 - 2 tiếng

Từ 2 - 3 tiếng

Từ 3 - 4 tiếng

Trên 4 tiếng

Giới tính

Số
lượng


Tỷ lệ
(%)

Số
lượng

Tỷ lệ
(%)

Số
lượng

Tỷ lệ
(%)

Số
lượng

Tỷ lệ
(%)

Số
lượng

Tỷ lệ
(%)

Con trai


0

0

6

17,1

2

5,7

5

14,3

22

62,9

Con gái

2

5,7

3

8,6


3

8,6

6

17,1

21

60

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

Trong số 35 bảng hỏi phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Từ bảng 3 có thể thấy, ở mức
dưới 1 tiếng thì con trai không có ai, còn con gái thì có 2 người, chiếm 5,7%. Ở mức từ
1 – 2 tiếng thì cũng có sự chênh lệch khi con trai có 6 người, chiếm 17,1%, con gái có
3 người, chiếm 8,6%. Ở mức từ 2 – 3 tiếng thì sự chênh lệch là không đánh kể khi con
trai là 2 người, chiếm 5,7%, con gái là 3 người chiếm 8,6%. Ở mức từ 3 – 4 tiếng thì
con gái lại nhiều hơn với 6 người, chiếm 17,1% và con trai là 5 người, chiếm 14,3%.
Còn ở mức trên 4 tiếng thì con trai lại nhiều hơn với 22 người, chiếm 62,9% còn con
gái có 21 người, chiếm 60%.
17


Hộp 3: Lượng thời gian cha mẹ đầu tư cho việc học của các con.
PVS 2, B.B.P, 45 tuổi: “Việc trao đổi với giáo viên là thường xuyên đối với gia
đình chú. Tất cả các cháu khi đi học, gia đình chú đều có đầu mối quan tâm là giáo
viên chủ nhiệm. Các thầy bộ môn và chủ nhiệm chú đều có số điện thoại để trao đổi

thường xuyên. Ngay cả ông bảo vệ gia đình chú cũng biết hết. Buổi sáng các cháu đi
học nên thời gian đó các cháu chịu sự quản lý của nhà trường. Chỉ có thời gian buổi tối
khi ăn cơm thì chú cũng trao đổi với các cháu về vấn đề học hành. Để biết được các
con có vướng mắc gì không, có cần hỗ trợ gì không. Hằng ngày ngoài những việc vặt
trong gia đình thì hầu hết thời gian của các cháu đều dành cho học tập”.
Qua đó có thể thấy, dù sự chênh lệch là không nhiều nhưng ở một mức độ nào
đó thì con trai vẫn được đầu tư nhiều hơn con gái, nhưng tỉ lệ đó cũng là khá nhỏ nên
có thể thấy ở thời điểm hiện tại thì quan niệm của các bậc phu huynh đã không còn quá
nhiều sự phân biệt giữa nam và nữ trong việc đầu tư về thời gian học tập cho con.

18


Biểu đồ 3: Số thời gian cha mẹ đầu tư cho việc học của con trai và con gái (Tỷ lệ:
%)
Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

2.4. Sự quan tâm của cha mẹ đến việc học tập của các con.
2.4.1. Mức độ quan tâm của cha mẹ đến việc học tập của con trai và con gái.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 4: Mức độ quan tâm của cha mẹ đến việc học tập của con trai và con gái.
Số người

Tỉ lệ

Con trai

3


8,6

Con gái

4

11,4

Cả hai

28

80,0

Tổng

35

100,0

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con.

Từ bảng 4 ta thấy, trong số 35 bảng hỏi phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Trong đó,
số gia đình thường xuyên quan tâm đến việc học của con trai là 3, chiếm 8,6%. Số gia
đình thường xuyên quan tâm đến việc học của con gái là 4, chiếm 11,4%. Số gia đình
thường xuyên quan tâm đến việc học của cả 2 giới như nhau là 28, chiếm 80%. Qua đó
có thể thấy, các gia đình được hỏi hầu hết là thường xuyên quan tâm đến việc học tập
của con trai và con gái là như nhau (80%), tuy nhiên vẫn có những gia đình có sự phân
biệt trong việc quan tâm đến việc học tập của con trai và con gái nhưng tỷ lệ này chiếm

rất ít (20%).
Hộp 4: Sự quan tâm của cha mẹ đến việc học tập của các con.
PVS 4, Đ.V.D, 38 tuổi: “Với chú, con trai hay con gái đều phải có những lợi ích
và sự quan tâm từ gia đình như nhau. Gia đình chú thường hỏi han về học tập của các
con vào buổi tối khi các con đi học về. Thực sự cũng rất bận nhưng cô chú vẫn luôn
ghi nhớ rằng việc học của các con phải đặt lên hàng đầu”.

19


Như vậy, trong việc quan tâm đến việc học tập của các con mình thì các bậc phụ
huynh hầu như không có sự phân biệt giữa con trai và con gái.
2.4.2. Hình thức cha mẹ quan tâm đến việc học tập của con trai và con gái.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 5: Hình thức cha mẹ quan tâm đến việc học tập của con trai và con gái.
Giới tính
Hình thức

Con trai

Con gái

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Số lượng

Tỷ lệ (%)


Dạy con học

9/35

25,7

8/35

22,9

Kiểm tra bài vở

21/35

60

21/35

60

30/35

85,7

31/35

88,6

31/35


88,6

31/35

88,6

35/35

100

34/35

97,1

32/35

91,4

32/35

91,4

26/35

74,3

27/35

77,1


29/35

82,9

29/35

82,9

1/35

2,9

0/35

0

Trao đổi với giáo
viên
Dành nhiều thời
gian cho con học
Nhắc nhở, khuyên
bảo
Động

viên,

khuyến khích
Mua tài liệu
Cho con đi học
thêm

Thuê gia sư

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

Trong số 35 bảng hỏi phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Từ số liệu ở bảng 5, ta thấy
các bậc cha mẹ học sinh đều có những cách khác nhau để quan tâm đến việc học tập
của con cái họ. Nhưng gần như không có sự phân biệt giới tính trong cách quan tâm
đến việc học của con cái họ. Trong số 35 người được hỏi thì: với hình thức là dạy con
học thì việc quan tâm đến con trai có 9 người, con gái là 8 người; hình thức kiểm tra
bài vở thì cả con trai và con gái đều là 21 người; hình thức trao đổi với giáo viên thì
với con trai là 30 người và con gái là 31 người; hình thức dành nhiều thời gian cho con
20


học đều là 31 người; hình thức nhắc nhở, khuyên bảo với con trai là 35 người và con
gái là 34 người; hình thức động viên, khuyến khích thì cả con trai và con gái đều là 32
người; hình thức mua tài liệu với con trai là 26 người và con gái là 27 người; hình thức
cho con đi học thêm thì cả con trai và con gái đều là 29 người; hình thức thuê gia sư thì
chỉ có 1 người thuê gia sư cho con trai họ.
Hộp 5: Hình thức cha mẹ quan tâm đến việc học tập của con cái.
PVS 2, B.B.P, 45 tuổi: “Hàng tuần gia đình chú vẫn kiểm tra sách vở các cháu để
nắm được tình hình học tập. Xem điểm học tập của các cháu thông qua cuốn sổ liên
lạc. Còn về kiến thức học thì chú không có khả năng để học theo các con. Nên chỉ biết
đôn đốc, nhắc nhở và quan tâm đến các cháu thông qua bài vở kiểm tra và sổ liên lạc”.
Qua đó có thể kết luận là không có sự phân biệt giới tính của cha mẹ học sinh
trong việc quan tâm đến việc học tập của con cái họ và với sự quan tâm như vậy của
các bậc phụ huynh học sinh thì sẽ góp phần vào việc giúp con cái họ có thể học tập tốt
hơn và đạt kết quả cao trong học tập.
2.5. Dự định bậc học của cha mẹ cho các con.

Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 6: Dự định bậc học của cha mẹ cho các con.
Giới tính
Con trai
Bậc học

Con gái

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Tiểu học

0/35

0

0/35

0

THCS

0/35


0

0/35

0

THPT

0/35

0

2/35

5,7

Trung cấp nghề

2/35

5,7

0/35

0

CĐ - ĐH

19/35


54,3

21/35

60

Tùy các con chọn

14/35

40

12/35

34,3

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

21


Trong số 35 bảng hỏi phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Từ số liệu bảng 6, thì đa số
các phụ huynh học sinh đều có dự định đầu tư cho các con mình được học cao. Ở bậc
THPT thì không gia đình nào có dự đinh đầu tư cho con trai dừng lại ở mức THPT, còn
con gái thì có 2 người, chiếm 5,7%. Ngược lại, ở Trung cấp nghề thì con gái không có
ai, còn con trai có 2 người, chiếm 5,7%. Trong khi đó, ở cấp CĐ – ĐH thì phần lớn phụ
huynh đều mong muốn con mình học đến bậc học này, có 19 phụ huynh đồng ý đầu tư
cho con mình học đến CĐ – ĐH, chiếm 54,3% , còn con gái thì có 21 người, chiếm
60%. Với tùy các con chọn thì số phụ huynh đồng ý cho con trai là 14, chiếm 40% và

con gái là 12, chiếm 34,3%.

Hộp 6: Dự định bậc học của cha mẹ cho các con.
PVS 5, D.T.N, 44 tuổi: “Cô luôn tôn trọng quyết định của con. Các con có khả
năng đến đâu thì cô sẽ đầu tư đến đó. Cô cũng sẽ không ép con phải học cái này hay
cái kia. Vì như thế vô hình chung đã ép các con vào những áp lực và gây phản tác
dụng. Con trai hay con gái thì đều cần phải đầu tư đúng mức”.
Qua số liệu trên thì việc dự định đầu tư của cha mẹ cho con học tới các bậc học
là không có sự phân biệt nhiều giữa con trai và con gái, nhưng vẫn có một số ít gia
đình chỉ cho con gái học hết THPT. Như vậy, dù không nhiều nhưng trong việc dự định
đầu tư của cha mẹ cho con học tới các bậc học là vẫn có sự phân biệt giữa con trai và
con gái.
2.6. Những nguồn thông tin cha mẹ học sinh tham khảo để đầu tư cho việc học
của các con.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Trong số 35 phiếu phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Trong đó, có 33 người nói là có
tham khảo thông tin để đầu tư cho việc học tập của con cái, chiếm 94,3%; chỉ có 2
người chọn họ không tham khảo thông tin để đầu tư cho việc học của con cái, chiếm
5,7%.
Bảng 7: Nguồn thông tin cha mẹ tham khảo để đầu tư cho việc học của con.

22


Nguồn thông tin

Số lượng

Tỷ lệ (%)


Tivi

33

100

Báo

27

81,8

Đài

6

18,2

Internet

14

42,4

Người thân, bạn bè

27

81,8


Khác

1

3

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

Trong 33 người trả lời thì họ có tham khảo qua nhiều nguồn thông tin khác
nhau. Trong đó, tham khảo thông tin qua tivi thì cả 33 người đều chọn, chiếm 100% ;
tham khảo thông tin qua báo chí có 27 người, chiếm 27% ; qua đài thì có 6 người,
chiếm 18,2% ; qua Internet có 14 người, chiếm 42,4% ; qua người thân, bạn bè có 27
người, chiếm 81,8% ; qua nguồn khác chỉ có 1 người, chiếm 3%.
Từ số liệu trên cho thấy những nguồn thông tin phổ biến và người dân dễ tiếp
cận vẫn được người dân thông qua để tham khảo chiếm tỉ lệ đa số như tivi (100%), báo
(81,8%), người thân - bạn bè (81,8%). Có thể thấy, các bậc phụ huynh học sinh đã
không chỉ đầu tư tiền bạc và thời gian cho việc học của các con mà còn thông qua các
phương tiện thông tin đại chúng để tìm hiểu về việc học tập để giúp cho việc đầu tư
cho việc học của các con họ thêm chất lượng và đạt hiệu quả cao.
Hộp 7: Nguồn thông tin cha mẹ học sinh tham khảo để đầu tư cho việc học của
các con.
PVS 3, B.T.L, 43 tuổi: “Có chứ. Cô cũng là giáo viên, chính vì vậy cô thường
hay xem các trang báo mạng về giáo dục để áp dụng vào việc dạy dỗ con học tập. Điều
đó rất bổ ích và có lợi”.

23


24



Chương 3. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc đầu tư của cha mẹ cho học
tập của con trai và con gái.
Trong những nhân tố ảnh hưởng đến việc đầu tư của cha mẹ cho học tập của con
trai và con gái, thì có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến điều này. Tuy nhiên, chúng tôi
xin đưa ra hai nhân tố mà trong cuộc điều tra chúng tôi nhận thấy là hai nhân tố chính
ảnh hưởng tới việc đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và con gái là nhân tố :
Nghề nghiệp và trình độ học vấn của cha mẹ.
3.1. Nghề nghiệp của cha mẹ ảnh hưởng tới việc đầu tư cho việc học của con trai
và con gái.
Qua cuộc điều tra chúng tôi đã thu được kết quả như sau:
Bảng 8: Nghề nghiệp của người trả lời.
Nghề nghiệp

Số lượng

Tỷ lệ (%)

Bác sĩ thú y

1

2,9

Bộ đội

2

5,7


Cán bộ xã

1

2,9

Giáo viên

4

11,4

Làm ruộng

27

77,1

Nguồn: Điều tra xã hội học về sự khác biệt trong đầu tư của cha mẹ cho học tập của con trai và
con gái.

Trong số 35 phiếu phát ra thì tất cả đều hợp lệ. Từ số liệu ở bảng 8 thì đa số phụ
huynh học sinh được hỏi là làm ruộng với 27 người, chiếm 77,1%, giáo viên có 4
người, chiếm 11,4%, bộ đội có 2 người, chiếm 5,7%, cán bộ xã và bác sĩ thú y cùng có
1 người, chiếm cùng là 2,9%. Với địa bàn là một vùng nông thôn ở trung du miền núi
thì số người có nghề nghiệp là làm nông chiếm đa số không có gì là lạ. Với nhiều
ngành nghề như vậy thì chắc chắn sẽ có sự khác biệt trong cách đầu tư cho việc học tập
của con cái họ.


25


×