Tải bản đầy đủ (.doc) (35 trang)

Chuyên đề rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (747.87 KB, 35 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang

PHẦN MỞ ĐẦU

01

I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

01

II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

02
PHẦN NỘI DUNG

03

I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

03

1. Cơ sở lý luận

03

1.1. Văn nghị luận

03



1.2. Kiểu bài Nghị luận xã hội

03

1.3. Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong TPVH

04

2. Cơ sở thực tiễn

07

II. RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA
TRONG TPVH

10

1. Rèn kĩ năng tìm hiểu đề

10

2. Rèn kĩ năng lập dàn ý

11

3. Rèn kĩ năng diễn đạt, trình bày bài văn

14


3.1. Rèn kĩ năng viết mở bài

14

3.2. Rèn kĩ năng viết thân bài

16

3.3. Rèn kĩ năng viết kết bài

19

III. PHẦN VẬN DỤNG

19

1. Giới thiệu một số đề bài và hướng dẫn làm bài

19

1.1. Đề 1

19

1.2. Đề 2

21

1.3. Đề 3


23

1.4. Đề 4

24

1.5. Đề 5

26

1.6. Đề 6

28

2. Giới thiệu hệ thống đề tham khảo
PHẦN KẾT LUẬN

30
33

I. KẾT LUẬN

33

II. ĐỀ XUẤT

33
Tài liệu tham khảo

34



Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

1. Rèn luyện kĩ năng làm văn cho học sinh là một yêu cầu cần thiết, quan trọng trong
hoạt động dạy học Ngữ văn. Nếu chỉ trang bị kiến thức mà bỏ qua hoạt động rèn kĩ năng thì
cũng giống như việc đã vất vả cày xới, gieo trồng nhưng rồi lại không quan tâm đến khâu
hoàn thiện sản phẩm và thu hoạch. Cho dù học sinh có kiến thức sâu rộng, mới mẻ đến đâu
cũng là không đủ để tạo nên những bài làm tốt. Các em sẽ lúng túng khi làm bài, nhất là
trong bối cảnh Bộ GD&ĐT chủ trương đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới kiểm tra đánh
giá các môn khoa học xã hội (trong đó có Ngữ văn) theo tinh thần “... nâng cao yêu cầu vận
dụng kiến thức vào thực tiễn, tăng cường ra các câu hỏi mở, gắn với thời sự quê hương đất
nước để học sinh được bày tỏ chính kiến của mình về các vấn đề kinh tế, chính trị, xã hội”.
[Theo công văn Hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ GDTrH, năm 2013].
2. Ở môn Ngữ văn THPT, thì phần làm văn trong tất cả các kì thi đều yêu cầu học
sinh thực hiện kiểu bài nghị luận. Do đó, rèn kĩ năng làm văn nghị luận với đặc trưng riêng
của kiểu bài này hẳn là yêu cầu có ý nghĩa quan trọng. Đặc biệt là việc rèn cho học sinh kĩ
năng làm những dạng đề có tính chất tích hợp, đòi hỏi khả năng lập luận sắc bén, biết kết
hợp giữa vốn sống trực tiếp và vốn sống gián tiếp một cách uyển chuyển, nhuần nhị như
dạng bài: Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Đây là một trong
những dạng bài rất phù hợp với tính chất của các kì thi học sinh giỏi môn Ngữ văn, vì nó có
khả năng kích thích sự sáng tạo, khơi gợi những cách nhìn nhận đa chiều về các vấn đề văn
học và đời sống; dễ dàng đánh giá năng lực tư duy, năng lực diễn đạt của người viết. Việc
rèn kĩ năng làm bài văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, do đó là
yêu cầu xuất phát từ thực tiễn dạy học Ngữ văn nói chung và công tác bồi dưỡng học sinh
giỏi Ngữ văn nói riêng.
3. Để đáp ứng được mục tiêu dạy học Ngữ văn, nhất là tính hiệu quả khi ôn tập cho

học sinh trước mỗi kì thi; chúng ta cần tập trung hình thành cho các em hai năng lực cơ bản
là: đọc hiểu văn bản và tạo lập văn bản. Tuy nhiên, việc rèn hai kĩ năng đọc hiểu và làm văn
cho học sinh trong thực tế còn thiếu tính hệ thống, gắn kết. Trong suy nghĩ của nhiều người,
đọc văn và làm văn là hai chuyện hoàn toàn khác nhau: Đọc văn chủ yếu là hoạt động tiếp
nhận các văn bản văn học trong sách giáo khoa. Còn làm văn là việc học sinh trả bài trên
giấy những hiểu biết đã được học về các tác phẩm văn học. Chính điều này đã dẫn đến tình
trạng:
- Các tác phẩm được giảng dạy có một khoảng cách lớn với người học, trở thành
“những tinh cầu xa lạ” với hiện thực cuộc sống.
- Việc đọc hiểu tác phẩm văn học chỉ để thực hiện một yêu cầu học tập mà không
mang lại bất cứ liên hệ hữu ích nào với cuộc sống hàng ngày của học sinh.
2


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Đa phần học sinh thấy khó khăn khi gặp một tác phẩm ngoài chương trình, càng
lúng túng khi gặp một đề bài ra theo lối mở - đòi hỏi các em phải tự xác định vấn đề, soi
chiếu vấn đề ở các góc độ khác nhau…
Để khắc phục những bất cập trên, bên cạnh các giải pháp như đổi mới đồng bộ
chương trình, sách giáo khoa, phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá…; chúng tôi cho rằng
việc rèn luyện cho học sinh kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học là một việc làm cần thiết. Việc làm này mặc dù chỉ là giải pháp để nâng cao chất lượng
dạy học một dạng bài cụ thể nhưng lại có tác dụng không nhỏ trong việc liên kết chặt chẽ hai
phân môn đọc văn và làm văn; đưa văn học về gần hơn với đời sống; giúp cho học sinh có
cái nhìn bao quát, toàn diện về những vấn đề văn học và đời sống.
Xuất phát từ yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học, đặc biệt là đổi mới kiểm tra đánh
giá; xuất phát từ những đòi hỏi của thực tiễn dạy học… chúng tôi xây dựng chuyên đề: Rèn
luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học với mong muốn
nghiên cứu và chia sẻ một số vấn đề có tính chất gợi mở, phần nhiều là kinh nghiệm dạy học
kiểu bài này để cùng các đồng nghiệp hướng tới mục tiêu nâng cao chất lượng dạy học Ngữ

văn.
II. MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI

Với mục tiêu mở ra một cái nhìn có ý nghĩa tổng quát về kiểu bài nghị luận về vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học, đồng thời rút ra những kinh nghiệm rèn kĩ năng làm
dạng bài này cho học sinh và chia sẻ một số tư liệu hữu ích phục vụ công tác dạy học; chúng
tôi chủ trương trình bày những vấn đề sau trong chuyên đề:
- Giới thiệu kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học trên các
cơ sở lí luận và thực tiễn.
- Đưa ra những biện pháp cụ thể để rèn kĩ năng thực hiện kiểu bài nghị luận về vấn đề
xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
- Giới thiệu một số đề bài và đáp án để phục vụ việc ôn tập và thực hành làm kiểu bài
nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.

3


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

B. PHẦN NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1. Cơ sở lý luận
1.1. Văn nghị luận
a. Khái niệm:
Theo Từ điển Tiếng Việt: “Nghị luận: Bàn và đánh giá cho rõ về một vấn đề nào đó.
Văn nghị luận là thể văn dùng lí lẽ và dẫn chứng để phân tích giải quyết một vấn đề”.
Từ điển thuật ngữ văn học cũng nêu rõ: “Văn nghị luận: Thể văn nghị luận viết về
những vấn đề nóng bỏng thuộc nhiều lĩnh vực đời sống khác nhau: chính trị, xã hội, triết
học, văn hoá. Mục đích của văn chính luận là bàn bạc, thảo luận, phê bình hay truyền bá

tức thời một tư tưởng, một quan điểm nào đó. Đặc trưng cơ bản nhất của văn chính luận là
tính chất luận thuyết. Văn chính luận trình bày tư tưởng và thuyết phục người đọc chủ yếu
bằng lập luận, lí lẽ”.
Như vậy, có thể hiểu: Văn nghị luận là một loại văn bản nhằm phát biểu tư tưởng,
tình cảm, thái độ, quan điểm của người viết một cách trực tiếp về các vấn đề văn học, chính
trị, đạo đức, lối sống... và được trình bày bằng một thứ ngôn ngữ trong sáng, hùng hồn với
những lập luận chặt chẽ, mạch lạc, giàu sức thuyết phục. Đây là loại văn phổ biến trong nhà
trường, thường được lấy làm yêu cầu của phần làm văn trong các đề thi hiện nay. Vì văn
nghị luận thể hiện năng lực tư duy, lo-gic của người viết; vừa cho thấy khả năng diễn đạt,
trình bày quan điểm riêng một cách thuyết phục. Nội dung và cấu trúc của một văn bản nghị
luận được hình thành từ các yếu tố cơ bản là: Vấn đề cần nghị luận (luận đề), luận điểm,
luận cứ và lập luận (luận chứng).
b. Phân loại:
Căn cứ vào nội dung nghị luận, có thể chia văn nghị luận thành hai loại: nghị luận văn
học và nghị luận xã hội. Theo đó: Nghị luận văn học có nội dung bàn luận về một vấn đề văn
học, còn Nghị luận xã hội lại hướng tới bàn luận về một vấn đề nảy sinh trong xã hội.
1.2. Kiểu bài Nghị luận xã hội
- Dựa theo cách hiểu của Từ điển từ và ngữ Hán Việt về xã hội (“xã hội là một tập
thể người cùng sống, gắn bó với nhau trong quan hệ sản xuất và các quan hệ khác”); chúng
ta có thể hiểu Nghị luận xã hội là kiểu bài hướng tới phân tích, bàn bạc về các vấn đề liên
quan đến các mối quan hệ của con người trong đời sống xã hội. Phạm vi của nghị luận xã hội
rất rộng, có thể kể tới những nội dung quan trọng như: mối quan hệ của con người với môi
trường sống, mối quan hệ của cá nhân với cộng đồng, các vấn đề về lối sống, lý tưởng sống,
những hiện tượng tích cực hoặc tiêu cực của đời sống xã hội… Việc bàn luận về những vấn
đề trên sẽ góp phần làm cho nhận thức và tâm hồn của con người thêm phong phú, tạo cho mỗi
người ý thức chăm sóc cuộc sống tinh thần của mình và xây dựng các mối quan hệ trong xã hội,
trong cộng đồng ngày càng văn minh, tốt đẹp hơn. Không chỉ vậy, nó còn có khả năng rèn năng
4



Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
lực tư duy, giúp con người có thể đối diện với các vấn đề xã hội và biết cách giải quyết những vấn
đề ấy.
- Nghị luận xã hội thường được chia thành ba dạng:
+ Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí
+ Nghị luận về một hiện tượng đời sống
+ Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Ba dạng đề này có những nét tương đồng và khác biệt:
Dạng đề
Nghị luận về một
hiện tượng đời sống

Bàn luận về một vấn
đề tư tưởng, đạo đức,
lối sống… của con
người.

Bàn luận về một hiện
tượng, một vấn đề có
tính thời sự, được dư
luận xã hội quan tâm.

Bàn luận về một vấn đề
xã hội (một tư tưởng, đạo
đức, lối sống hoặc một
hiện tượng đời sống)
được rút ra từ một câu/
một đoạn trích hoặc rút
ra từ nội dung của một
tác phẩm văn học nào đó.


Mang tính khái quát
cao về những chân lí,
những bài học đạo
đức; góp phần định
hướng cho con người
có lẽ sống tốt đẹp.

Thường đi vào những
vấn đề cụ thể (như
những biểu hiện tích
cực hoặc tiêu cực)
trong cuộc sống. Từ
đó, gợi ý cho con
người những hành vi
và cách ứng xử đúng
đắn.

Xuất phát từ nội dung xã
hội cụ thể trong một tác
phẩm văn học, đề bài
hướng đến mục tiêu:
Hình thành cho học sinh
năng lực khái quát vấn
đề, thể hiện quan điểm
của mình trước những
vấn đề đời sống.

So sánh


Khác nhau

Nghị luận về một vấn
đề xã hội đặt ra trong
TPVH

Nghị luận về một tư
tưởng, đạo lí

* Về nội dung: Cùng đề cập đến những vấn đề xã hội, góp phần nâng cao
nhận thức và định hướng về lối sống, cách ứng xử cho con người.
Giống nhau

* Về phương pháp nghị luận: Để thực hiện các dạng bài trên, người viết
đều cần vận dụng kết hợp các thao tác lập luận như: giải thích, bình luận,
phân tích, chứng minh, bác bỏ để bàn luận, trình bày quan điểm của mình
xoay quanh vấn đề xã hội được đề cập.

1.3. Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
a. Cơ sở hình thành kiểu bài
5


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Xuất phát từ chức năng phản ánh của văn học mà hiện thực trở thành thuộc tính tất
yếu của mỗi tác phẩm văn học. Trong bất kì tác phẩm văn học nào, chúng ta cũng thấy hơi
thở, bóng dáng của hiện thực đời sống khách quan được nhà văn phản ánh. Cho nên, dù các
tác phẩm văn học ra đời ở giai đoạn, thời kì nào thì những vấn đề xã hội mà nó đề cập vẫn có
ý nghĩa với cuộc sống hiện tại. Tiếp nhận một tác phẩm văn học, người đọc không chỉ suy tư,
chiêm nghiệm về những vấn đề xã hội ở thời đại mà tác phẩm ra đời ; mà họ còn có cơ hội

nhìn nhận, đánh giá một cách thấu đáo về những vấn đề của đời sống nhân sinh trên cơ sở so
sánh xã hội hôm qua và hôm nay ; xã hội được nhà văn phản ánh và xã hội hiện tại mà mình
đang sống... Ngoài ra, do đặc trưng của hoạt động tiếp nhận văn học nên người đọc có thể
bộc lộ quan điểm của bản thân về một nội dung nào đó, không lệ thuộc vào cách nhìn của
người khác. Chính điều này trở thành cơ sở cho sự ra đời của những đề bài yêu cầu nghị luận
về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học.
- Đề văn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học,
phương pháp kiểm tra đánh giá ở môn học này. Trong những năm học gần đây, Bộ GD&ĐT
đã chỉ đạo thực hiện có hiệu quả việc đổi mới cách ra đề văn: từ nội dung kiểm tra đến hình
thức, cấu trúc của một đề bài. Trong đó, cách hỏi ở câu Nghị luận xã hội càng lúc càng
phong phú, đa dạng. Không dừng lại ở những câu hỏi có tính chất khuôn mẫu như dựa vào
một ý kiến hay nêu ra một hiện tượng để yêu cầu học sinh bàn luận; mà có nhiều đề bài mở
đầy sáng tạo đã ra đời và được dư luận đánh giá cao. Trong đó, kiểu bài nghị luận về một
vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học được xem là cách hỏi “vừa quen, vừa lạ”; vừa
mô phạm, vừa kích thích sáng tạo; vừa kiểm tra được năng lực cảm thụ văn học; vừa đánh
giá được tư duy lo-gic và kiến thức xã hội của học sinh… Đó là lí do sự xuất hiện của kiểu
bài này càng lúc càng nhiều, nhất là trong xu hướng đổi mới kiểm tra môn Ngữ văn theo
định hướng năng lực hiện nay.
b. Đặc điểm của kiểu bài:
Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là kiểu bài nghị luận xã
hội chứ không phải nghị luận văn học. Vì đối tượng trực tiếp đề bài yêu cầu bàn luận là một
vấn đề xã hội chứ không phải một nội dung văn học; tác phẩm văn học chỉ đóng vai trò là
phạm vi, xuất xứ của vấn đề xã hội được yêu cầu bàn luận trong đề bài. Về điều này, sách
giáo viên Ngữ văn 12 (Nâng cao) đã lưu ý như sau: “Nhiều người nhầm dạng đề này là nghị
luận văn học, vì đề có liên quan đến tác phẩm văn học. Đúng là dạng đề này liên quan và
xuất phát từ tác phẩm văn học, những tác phẩm văn học chỉ là “cái cớ” khởi đầu. Mục đích
chính của dạng đề này vẫn là yêu cầu người viết bàn bạc, nghị luận về một vấn đề xã hội,
đạo lí, tư tưởng, nhân sinh… Nghĩa là nhân vấn đề đặt ra trong tác phẩm văn học mà luận
bàn, kiến giải. Trong trường hợp này, tác phẩm văn học chỉ được khai thác về giá trị nội
dung, tư tưởng, rút ra ý nghĩa xã hội khái quát của tác phẩm ấy”. [16]. Như vậy, có thể xem

Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một kiểu bài đặc biệt, có
tính chất giao thoa giữa nghị luận văn học và nghị luận xã hội, để thực hiện nó người viết

6


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
cùng lúc cần huy động cả kiến thức văn học và kiến thức xã hội, kĩ năng đọc hiểu và kĩ năng
làm văn.
Để nhận diện được các dạng đề ra cụ thể chúng tôi cho rằng: có ba căn cứ để phân
biệt các đề thuộc kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Đó là:
Nội dung nghị luận; Hình thức/cách hỏi của đề bài và Đặc điểm của tác phẩm văn học được
lấy làm cơ sở để ra đề. Cụ thể:
- Về nội dung nghị luận: Vấn đề xã hội được yêu cầu bàn luận có thể là một tư tưởng
đạo lí hoặc một hiện tượng đời sống.
- Về hình thức đề ra: Đề bài có thể trực tiếp đưa ra một vấn đề xã hội nào từ tác
phẩm văn học cho học sinh bàn luận hoặc yêu cầu học sinh tự rút ra vấn đề có ý nghĩa xã hội
từ tác phẩm để luận bàn.
- Về đặc điểm của tác phẩm văn học được lấy làm cơ sở để ra đề: Tác phẩm văn
học chứa đựng vấn đề xã hội (là nội dung nghị luận) có thể là một đoạn trích/ một tác phẩm
hoặc một nhóm tác phẩm được học trong chương trình hoặc một đoạn trích/ một tác phẩm
ngoài chương trình.
Dưới đây là một số ví dụ về các dạng đề cụ thể thuộc kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã
hội đặt ra trong tác phẩm văn học:
Yêu cầu nghị luận về một Qua bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu, hãy trình bày suy nghĩ
tư tưởng đạo lí được rút ra của mình về ý nghĩa của lý tưởng sống với thanh niên.
từ tác phẩm văn học.
Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, nhà văn Nguyễn Minh
Yêu cầu nghị luận về một Châu đã đề cập đến một vấn đề có tính chất nhức nhối trong xã
hiện tượng đời sống được hội hiện nay, đó là: Nạn bạo hành gia đình.

được đặt ra trong tác
Hãy viết một bài văn ngắn để trình bày suy nghĩ, quan điểm của
phẩm văn học.
mình xoay quanh vấn đề trên.
Từ đoạn trích trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của
Yêu cầu nghị luận về một
nhà văn Lưu Quang Vũ, nghĩ về niềm hạnh phúc của con người
vấn đề xã hội xác định
khi được sống thực với mình và mọi người.
Yêu cầu học sinh tự rút ra Trong đoạn trích Đất Nước (trường ca Mặt đường khát vọng)
vấn đề xã hội từ tác phẩm có những câu thơ:
văn học để bàn luận
Em ơi em đất nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên đất nước muôn đời …
Theo anh/chị nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm muốn gửi tới thế hệ
trẻ thông điệp gì qua đoạn thơ trên ? Hãy viết một bài văn để
7


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
trình bày suy nghĩ của mình về ý nghĩa của thông điệp đó.
Yêu cầu nghị luận về một
vấn đề xã hội đặt ra trong
một đoạn trích/một tác
phẩm hoặc một nhóm tác
phẩm trong chương trình.

Từ những câu chuyện gia đình trong các tác phẩm Những đứa

con trong gia đình (Nguyễn Thi) và Chiếc thuyền ngoài xa
(Nguyễn Minh Châu); anh/chị hãy viết một bài văn trình bày suy
nghĩ của mình về vai trò của gia đình với cuộc sống của mỗi con
người.
Mùa đông đang đến rất gần
Các loài chim bắt đầu thấy lạnh
Rủ nhau bay về nam lẩn tránh,
Dù suốt mùa hè ca ngợi quê hương

Yêu cầu nghị luận về một
vấn đề xã hội đặt ra trong Chỉ đại bàng vẫn ngồi im
một đoạn trích/một tác Lặng lẽ nhìn những hàng cây trút lá
phẩm ngắn ngoài chương
Khi đất nước gặp những ngày băng giá
trình.
Đại bàng không bỏ bay đi
(Thơ Rasul Gamzatov, Thái Bá Tân dịch)
Từ hình tượng của chú chim đại bàng trong bài thơ trên, anh/chị
hãy viết một bài văn ngắn để trình bày suy nghĩ của mình về
tình yêu quê hương, tổ quốc của mỗi con người.
2. Cơ sở thực tiễn
Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy rằng: Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học là một thử thách với số đông học sinh. Dưới đây là một số đề thuộc
kiểu bài này hoặc ít nhiều có mối liên quan đến nó mà chúng tôi tập hợp lại từ các đề thi
trong một số năm gần đây:
- Đề thi HSG các trường chuyên vùng duyên hải Bắc Bộ, năm 2009
Từ hình ảnh đồng tiền trong Truyện Kiều (Nguyễn Du), anh/chị hãy bàn về đồng tiền trong
cuộc sống hôm nay.
- Đề thi HSG Tỉnh Bắc Giang, môn Ngữ văn 12, năm 2010
Đối thủ đáng sợ nhất

Khi Abraham Lincoln ra tranh cử tổng thống, một người bạn đã hỏi ông:
- Anh thấy mình có hy vọng gì không? Ai là đối thủ đáng sợ nhất của anh?
Và Abraham Lincoln đã đưa ra một câu trả lời tuy hài hước nhưng rất thật:
8


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Tôi không ngại Breckingridge vì ông ta là người miền Nam nên người dân
miền Bắc sẽ không ủng hộ ông ta. Tôi cũng không ngại Douglas vì ông ta là người miền Bắc
nên người dân ở miền Nam sẽ không nhiệt tình bỏ phiếu cho ông ta. Nhưng có một đối thủ
mà tôi rất sợ, ông ta là người duy nhất có thể khiến tôi thất cử…
Người bạn liền vội ngắt lời:
- Ai vậy?
Nhìn thẳng vào mắt bạn mình, Abraham Lincoln nói:
- Nếu lần này tôi không được bầu làm tổng thống thì anh hãy biết rằng đó
chính là lỗi của ông ta. Ông ta chính là Abraham Lincoln!
(Những tấm lòng cao cả, NXB Trẻ, 2004, trang 76)
Câu chuyện trên gợi cho anh/chị suy nghĩ gì?
- Đề thi HSG Tỉnh Bắc Giang, môn Ngữ văn 12, năm 2012
Hai biển hồ
Người ta bảo ở bên Pa-le-xtin có hai biển hồ… Biển hồ thứ nhất gọi là biển Chết.
Đúng như tên gọi, không có sự sống nào bên trong cũng như xung quanh biển hồ này. Nước
trong hồ không có một loại cá nào có thể sống nổi. Ai ai cũng đều không muốn sống gần đó.
Biển hồ thứ hai là Ga-li-lê. Đây là biển hồ thu hút khách du lịch nhiều nhất. Nước ở biển hồ
lúc nào cũng trong xanh mát rượi, con người có thể uống được mà cá cũng có thể sống
được. Nhà cửa được xây cất rất nhiều ở nơi đây. Vườn cây xung quanh tốt tươi nhờ nguồn
nước này.
Nhưng điều kỳ lạ là cả hai biển hồ này đều được đón nhận nguồn nước từ sông
Gioóc-đăng. Nước sông Gioóc-đăng chảy vào biển Chết. Biển Chết đón nhận và giữ lại
riêng cho mình mà không chia sẻ nên nước trong biển Chết trở nên mặn chát. Biển hồ Ga-lilê cũng đón nhận nguồn nước từ sông Gioóc-đăng rồi từ đó tràn qua các hồ nhỏ và sông

lạch, nhờ vậy nước trong hồ này luôn sạch và mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và
con người.
(Theo Quà tặng cuộc sống)
Theo anh (chị), bài học cuộc sống rút ra từ câu chuyện trên là gì?
- Đề thi Tốt nghiệp, môn Ngữ văn 12, năm 2014
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu Quang Vũ có đoạn:
Hồn Trương Ba : Ông Đế Thích ạ, tôi không thể tiếp tục mang thân anh hàng thịt
được nữa, không thể được!
Đế Thích: Sao thế? Có gì không ổn đâu!
Hồn Trương Ba : Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn
được là tôi toàn vẹn.
9


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Đế Thích : Thế ông ngỡ tất cả mọi người đều được là mình toàn vẹn cả ư? Ngay cả
tôi đây. Ở bên ngoài, tôi đâu có được sống theo những điều tôi nghĩ bên trong. Mà cả Ngọc
Hoàng nữa, chính người lắm khi cũng phải khuôn ép mình cho xứng với danh vị Ngọc
Hoàng. Dưới đất, trên trời đều thế cả, nữa là ông. Ông đã bị gạch tên khỏi sổ Nam Tào.
Thân thể thật của ông đã tan rữa trong bùn đất, còn chút hình thù gì của ông đâu!
Hồn Trương Ba : Sống nhờ vào đồ đạc, của cải người khác, đã là chuyện không nên,
đằng này đến cái thân tôi cũng phải sống nhờ anh hàng thịt. Ông chỉ nghĩ đơn giản là cho
tôi sống, nhưng sống như thế nào thì ông chẳng cần biết!
(Ngữ văn 12, NXB Giáo dục Việt Nam, 2013, tr. 149)
Phân tích khát vọng của nhân vật Hồn Trương Ba trong đoạn trích trên. Từ đó, trình
bày suy nghĩ của anh/chị về vấn đề : con người cần được sống là chính mình.
* * *
Như vậy: Kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học xuất
hiện chủ yếu trong các đề thi dành cho học sinh giỏi. Bên cạnh đó, vào năm 2014 trong đề
thi tốt nghiệp đã xuất hiện đề văn tích hợp cả hai câu: nghị luận văn học và nghị luận xã hội.

Đây là đề văn đòi hỏi học sinh thực hiện cả hai yêu cầu nghị luận văn học và nghị luận xã
hội, trong đó phân tích văn học làm cơ sở để trình bày quan điểm suy nghĩ về vấn đề xã hội.
Tuy không đơn thuần là bài văn Nghị luận về một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn
học những chúng tôi cho rằng câu hỏi trong đề thi tốt nghiệp THPT năm 2014 khá gần gũi
với dạng đề này; có thể mở ra nhiều đề bài yêu cầu tích hợp tương tự.
Mặc dù đã xuất hiện nhiều trong các đề thi, nhưng dạng bài này về cơ bản còn mới và
khó với các em học sinh. Bởi lẽ: Chương trình SGK chưa chú trọng đến việc rèn kĩ năng làm
văn nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học cho học sinh. Khảo sát hai bộ
SGK Chuẩn và Nâng cao chúng tôi thấy: Ở chương trình Chuẩn chỉ đề cập đến hai kiểu bài
là: Nghị luận về một tư tưởng đạo lí và Nghị luận về một hiện tượng đời sống, mà không
nhắc đến kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học. Còn ở chương
trình Nâng cao chỉ có một tiết: Luyện tập nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học.
Đó là lí do, kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội trong tác phẩm văn học thực tế còn nhiều xa
lạ với cả giáo viên và học sinh. Đối với việc dạy của giáo viên, vấn đề đặt ra là không biết
căn cứ vào đâu để hình thành một phương pháp rèn kĩ năng làm kiểu bài này thật hiệu quả,
khoa học cho học sinh và làm sao để tránh được khuynh hướng xã hội hóa dung tục khi phân
tích một tác phẩm văn học. Còn đối với học sinh, hiện nay còn nhiều em chưa phân biệt
được đây là đề nghị luận văn học hay nghị luận xã hội; nhiều em không biết cách triển khai
vấn đề khi làm bài, chủ yếu thực hiện đề bài một cách bản năng, không đáp ứng được yêu
cầu chặt chẽ, thuyết phục, lo-gic của một bài văn nghị luận.
Vì lẽ đó, chúng tôi cho rằng rất cần thiết tìm hiểu kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội
đặt ra trong tác phẩm văn học một cách có hệ thống để tháo gỡ những lúng túng của giáo
viên và học sinh khi cần xử lí một đề văn thuộc kiểu này.
10


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
II. RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI NGHỊ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ XÃ HỘI ĐẶT RA TRONG TÁC
PHẨM VĂN HỌC


1. Rèn kĩ năng tìm hiểu đề
Tìm hiểu đề là bước đầu tiên nhưng đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình
làm văn; chính thao tác đầu tiên này sẽ quyết định bài viết của học sinh có được triển khai
hợp lí, hiệu quả hay không. Do đặc điểm của kiểu bài Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học thường hướng tới kiểm tra năng lực phát hiện vấn đề xã hội trong tác
phẩm văn học, phân tích và luận bàn về vấn đề đó; nên trong khâu tìm hiểu đề học sinh cần
thiết trả lời được các câu hỏi: Đề bài yêu cầu nghị luận về vấn đề gì ? Đâu là nội dung nghị
luận quan trọng nhất ? Vấn đề nghị luận thuộc phạm vi nào ? Có bao nhiêu ý cần triển
khai ? Mối quan hệ giữa các ý như thế nào ? Cần sử dụng những thao tác lập luận nào để
thực hiện yêu cầu của đề bài … Để học sinh thực hiện tốt bước tìm hiểu đề, giáo viên cần
chú ý rèn luyện cho các em kinh nghiệm đọc đề, phân tích và xác định yêu cầu của đề theo
trình tự hợp lí.
Việc Đọc là cơ sở để Hiểu yêu cầu của đề bài nhưng thực tế các em học sinh thường
rất qua loa khi đọc đề, dẫn đến tình trạng xác định sai vấn đề nghị luận hoặc không xác định
được yêu cầu cơ bản. Giáo viên cần lưu ý học sinh đọc kĩ đề, chú ý từ hình thức đến nội
dung của đề (thể hiện qua câu chữ, cách diễn đạt, những yêu cầu cụ thể…). Trong đó, cần
hướng dẫn học sinh tìm hiểu những từ ngữ quan trọng trong đề bài, những cách diễn đạt
nhằm nhấn mạnh ý, những cách nói bóng bẩy, nhiều nghĩa... Với một đề bài có nhiều thông
tin được diễn đạt bằng nhiều câu, nhiều vế; học sinh cần biết chia tách đối tượng để tìm hiểu
từng nội dung cụ thể, nhìn nhận mối tương quan giữa các nội dung và khái quát để thấy được
yêu cầu chung của đề.
Xét các đề bài ví dụ dưới đây:
Đề 1. Phải chăng hiện tượng người trong bao không chỉ có trong truyện ngắn của Sêkhốp mà đã trở thành một hiện tượng khá phổ biến trong xã hội ngày nay ?
Đề 2. Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, anh (chị)
có cảm nghĩ và suy tư gì về mối quan hệ giữa cuộc sống nghèo khó và tình trạng bạo lực gia
đình trong xã hội hôm nay ?
Tiếp xúc với các đề bài trên, giáo viên có thể hướng dẫn học sinh đọc kĩ từng câu chữ,
cách diễn đạt trong đề rồi rút ra nhận xét về hình thức và nội dung của từng đề. Cụ thể:
Ở đề 1, cấu trúc “Phải chăng…” là một câu hỏi tu từ, mục tiêu nhấn mạnh và khơi gợi
suy ngẫm của học sinh về sự xuất hiện ngày càng nhiều hiện tượng người trong bao trong xã

hội. Do đó, dù đề không trực tiếp đưa ra yêu cầu nghị luận thì học sinh vẫn cần xác định để
làm bài cần phân tích, bình luận, thể hiện những đánh giá, kiến giải của bản thân về hiện
tượng xã hội trên. Để luận bàn, học sinh lấy tác phẩm Người trong bao của Sê-khốp làm cơ
sở để lí giải thế nào là người trong bao; từ đó soi chiếu vào hiện thực cuộc sống để đưa ra
những đánh giá, luận bàn về lối sống trong bao.
11


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Ở đề 2, cần chú ý đến cấu trúc “Từ… anh (chị) có cảm nghị và suy tư gì về …” để
thấy đề bài đã cụ thể hóa yêu cầu: Từ tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa để luận bàn về những
vấn đề xã hội cụ thể. Học sinh cũng quan tâm đến những từ ngữ quan trọng, thể hiện yêu cầu
nghị luận, trong đó cần đặc biệt chú ý đến cụm từ “mối quan hệ giữa cuộc sống nghèo khó
và tình trạng bạo lực gia đình trong xã hội”. Vì đề bài không chỉ yêu cầu nhìn nhận, đánh
giá về hai nội dung xã hội là “cuộc sống nghèo khó” và “tình trạng bạo lực gia đình” trong
xã hội hiện nay; mà đòi hỏi học sinh nêu quan điểm về mối quan hệ tác động qua lại giữa hai
hiện tượng xã hội đó.
Tùy thuộc vào đặc điểm và cấu tạo của đề bài mà học sinh sẽ xác định được mức độ
nghị luận và phạm vi tư liệu sử dụng trong bài viết.
2. Rèn kĩ năng lập dàn ý
Muốn có một bài nghị luận chặt chẽ, thuyết phục, lo-gic, nổi bật được yêu cầu nghị
luận thì kĩ năng lập dàn ý đóng một vai trò quan trọng. Lập dàn ý là lựa chọn các ý đã tìm
được ở bước phân tích đề và sắp xếp chúng theo một trật tự hợp lí, dự kiến được mức độ
trình bày mỗi ý sao cho phù hợp, hiệu quả. Dàn ý sẽ giúp người viết có thể bao quát được
những nội dung của bài, cân đối các nội dung trình bày, tránh bỏ ý hoặc nêu vấn đề một cách
vòng vo, lộn xộn; chủ động về thời gian làm bài. Dàn ý cũng giúp cho người đọc/ người
chấm dễ dàng theo dõi tiến trình nghị luận và đánh giá được năng lực làm văn của người
viết; giúp bài văn dễ gây thiện cảm với đối tượng tiếp nhận.
Để đáp ứng được bố cục của một bài văn nghị luận và trình bày về vấn đề xã hội đặt
ra trong tác phẩm văn học một cách khoa học; chúng ta có thể sơ đồ hóa cấu trúc thực hiện

một bài văn Nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học như sau:

12


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học

Cũng giống như kết cấu chung của một bài văn nghị luận, ở kiểu bài Nghị luận về vấn
đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học chúng ta cũng phải tuân thủ việc thực hiện bài văn
theo kết cấu 3 phần: Mở bài, Thân bài và Kết bài. Trong đó, mỗi phần có một nhiệm vụ
riêng.
Cụ thể:
a. Mở bài
- Dẫn dắt, giới thiệu tác phẩm, tác giả có liên quan.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận trong tác phẩm.
b. Thân bài
b.1. Làm rõ vấn đề xã hội được đề cập trong tác phẩm văn học
- Nếu đề bài đã chỉ rõ yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội cụ thể đặt ra trong
tác phẩm văn học thì cần sơ lược giới thiệu, phân tích về biểu hiện của vấn đề xã hội đó
trong tác phẩm văn học. Có thể dựa vào những câu hỏi dưới đây để tư duy, sắp xếp ý :
+ Vấn đề xã hội được nhắc đến trong tác phẩm như thế nào ?
+ Tác giả đã nhìn nhận, đánh giá về vấn đề xã hội đó ra sao ?
+ Cắt nghĩa, lý giải : cơ sở nào hình thành vấn đề xã hội đó trong tác phẩm (do bối
cảnh lịch sử, do thực tế đời sống, do quan niệm của con người... ?)
13


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Nếu đề bài yêu cầu nghị luận về một vấn đề xã hội được đặt ra trong một tác
phẩm chưa được học hoặc chưa nêu cụ thể đó là vấn đề xã hội nào; thì cần thực hiện

thao tác đọc hiểu văn bản tác phẩm văn học mà đề cho, để rút ra vấn đề xã hội cần nghị luận.
Đây là một thao tác không đơn giản vì một tác phẩm văn học thường mở ra nhiều hướng tiếp
nhận, có thể mỗi học sinh lại phát hiện, nhìn nhận, đánh giá về tác phẩm một cách khác
nhau. Làm sao để việc rút ra vấn đề xã hội từ tác phẩm đó không rơi vào tình trạng phỏng
đoán thiếu căn cứ hoặc sa vào khuynh hướng xã hội hóa, dung tục ; giáo viên cần hướng dẫn
cụ thể cho học sinh cách thức thực hiện khâu đọc hiểu và rút ra vấn đề xã hội trong tác phẩm.
Có thể dựa vào những câu hỏi dưới đây để tư duy, sắp xếp ý :
+ Tác phẩm (câu chuyện mi-ni/ bài thơ ngắn/ đoạn trích...) nói về nội dung gì ?
Để trả lời câu hỏi này, học sinh có thể dựa vào nhan đề của tác phẩm, các yếu tố nghệ thuật
có tác dụng làm nổi bật nội dung như từ ngữ, hình ảnh, các biện pháp tu từ, các hình thức
liên kết câu – liên kết đoạn văn ...
+ Tác phẩm/ đoạn trích đề cập đến những vấn đề xã hội nào ? Đâu là vấn đề xã hội cơ
bản, liên quan đến yêu cầu của đề bài ? Vấn đề xã hội đó là một tư tưởng, đạo lí hay một
hiện tượng đời sống ?
+ Tác giả có ngầm thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình về vấn đề xã hội được
nhắc đến trong tác phẩm/đoạn trích đó hay không ?
b.2. Nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học (Làm rõ vấn đề
trong thực tế xã hội)
Đây là phần trọng tâm của bài viết. Trên cơ sở xác định được nội dung xã hội đặt ra
trong tác phẩm văn học là gì, thuộc phạm trù tư tưởng, đạo lí hay hiện tượng đời sống mà
người viết sẽ tiến hành bàn luận về vấn đề đó theo trình tự nghị luận phù hợp với từng dạng
bài Nghị luận về một tư tưởng, đạo lí hoặc Nghị luận về một hiện tượng đời sống.
- Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là một tư tưởng, đạo lí; học
sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình tự:
+ Giải thích (nếu cần). Với những vấn đề xã hội được diễn đạt bằng những từ ngữ,
hình ảnh ít nhiều mang nghĩa ẩn dụ, biểu tượng hoặc có nhiều cách hiểu thì người viết cần
giải thích nội dung của những từ ngữ đó trước khi tiến hành bàn luận vấn đề.
+ Bàn luận vấn đề: Soi chiếu vấn đề tư tưởng, đạo lí đó trên các phương diện khác
nhau để nhìn nhận cả mặt đúng đắn (chính đề) hoặc chỗ chưa đầy đủ, thuyết phục của nó
(phản đề).

- Nếu vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học là hiện tượng đời sống, học
sinh có thể bàn luận về vấn đề đó theo trình tự:
+ Giải thích (nếu cần)

14


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
+ Bàn luận: Làm rõ về hiện tượng thông qua biểu hiện của hiện tượng, ý nghĩa của
hiện tượng (tích cực hay tiêu cực), cắt nghĩa nguyên nhân của hiện tượng và rút ra những bài
học có ý nghĩa giải pháp để khắc phục hiện tượng tiêu cực hoặc nhân rộng hiện tượng tích
cực ...
b.3. Đánh giá, nhìn nhận nét ổn định hoặc chuyển biến của vấn đề xã hội từ tác phẩm
văn học đến cuộc sống.
Để bài viết được sâu sắc, toàn diện; sau khi bàn luận về vấn đề xã hội thì người viết
nên có cái nhìn đối sánh về nội dung xã hội được đề cập trong tác phẩm văn học và hiện thực
cuộc sống hiện nay. Chỉ ra nét ổn định và biến đổi của vấn đề; lý giải nguyên nhân của nét
ổn định và biến đổi đó (do hoàn cảnh, điều kiện xã hội, cái nhìn riêng của tác giả ...)
c. Kết bài: Khái quát lại vấn đề cần bàn luận.
Rút ra bài học nhận thức và hành động.
3. Rèn kĩ năng diễn đạt, trình bày bài văn
Diễn đạt, trình bày, hoàn thiện bài văn là bước thực thi kế hoạch làm bài đã được vạch
ra từ dàn ý; cũng là chỗ thể hiện rõ nhất năng lực ngôn ngữ của học sinh, quyết định chất
lượng của bài viết. Với bất kì dạng đề văn nào, giáo viên cũng cần chú ý đến khâu rèn kĩ
năng diễn đạt, trình bày cho học sinh. Từ việc rèn kĩ năng thực hiện bài văn theo bố cục ba
phần: Mở, Thân, Kết với yêu cầu về nội dung, hình thức của từng phần; đến việc rèn những
thao tác, kĩ năng cụ thể như viết câu, dựng đoạn, liên kết – chuyển ý giữa các câu, các đoạn;
cách mở rộng, nâng cao vấn đề…
Trong phạm vi của chuyên đề này, chúng tôi không có điều kiện cụ thể hóa phương
pháp rèn luyện từng kĩ năng để diễn đạt và hoàn thiện một bài văn; mà chỉ nêu lên một số

kinh nghiệm rèn diễn đạt có ý nghĩa thiết thực trong việc thực hiện kiểu bài Nghị luận về vấn
đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học.
Với dạng bài nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học, cái khó
không chỉ nằm ở chỗ cần xác định được vấn đề xã hội và lập ý sao cho chặt chẽ, khoa học;
mà còn ở khâu diễn đạt. Để có một bài nghị luận thuyết phục, học sinh cần biết cách sử dụng
câu chữ, hành văn để kết nối các nội dung về văn học và đời sống một cách uyển chuyển,
nhuần nhuyễn. Cần tránh tình trạng chia bài viết thành hai phần độc lập (phần thứ nhất là
nghị luận văn học, phần thứ hai là nghị luận xã hội); hoặc lan man, sa đà phân tích tác phẩm
văn học, hời hợt khi bàn luận về vấn đề xã hội. Với học sinh giỏi, càng cần có khả năng nhấn
- lướt phù hợp, chọn lọc ý khi trình bày; biết cách để thể hiện quan điểm, chủ kiến của mình
về vấn đề bàn luận một cách tinh tường, sắc sảo. Do đó, khi thực hiện rèn kĩ năng làm văn
cho học sinh; chúng tôi đặc biệt quan tâm đến kĩ năng diễn đạt mở bài, thân bài, kết bài và kĩ
năng chuyển ý, chuyển đoạn.
3.1. Rèn kĩ năng viết mở bài
15


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Giống như các dạng đề nghị luận khác, phần mở bài của bài văn nghị luận về vấn đề
xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học có thể thực hiện trực tiếp hoặc gián tiếp; và dù
làm theo cách nào cũng cần đảm bảo hai yêu cầu: vừa dẫn dắt, khơi gợi ấn tượng cho người
đọc; vừa giới thiệu khái quát về vấn đề nghị luận sẽ được triển khai trong bài văn (nội dung
nghị luận, phạm vi tư liệu, tầm quan trọng của vấn đề…).
Tuy nhiên, nếu những kiểu bài nghị luận khác như nghị luận xã hội về một hiện tượng
đời sống, nghị luận về một tư tưởng đạo lí, nghị luận về vấn đề văn học… rất dễ để giới thiệu
vấn đề nghị luận (thông thường học sinh chỉ cần trích xuất thông tin trong đề là đã hoàn
thành khâu giới thiệu khái quát vấn đề nghị luận) thì ở kiểu bài nghị luận về vấn đề xã hội
được đặt ra trong tác phẩm văn học việc giới thiệu vấn đề nghị luận gặp nhiều khó khăn
hơn. Vì: Học sinh vừa cần dẫn dắt, giới thiệu về tác phẩm văn học có liên quan; vừa phải nêu
được vấn đề có ý nghĩa xã hội rút ra từ tác phẩm đó làm cơ sở để bàn luận. Làm sao để việc

dẫn dắt và nêu hai loại thông tin cần thiết này không khiến cho phần mở bài dài dòng, cứng
nhắc là một thử thách với học sinh.
Trong quá trình rèn kĩ năng mở bài cho một bài văn nghị luận về vấn đề xã hội được
đặt ra trong tác phẩm văn học, chúng tôi thường hướng dẫn học sinh thực hiện một trong hai
cách:
- Cách 1. Giới thiệu vấn đề cần bàn luận rồi khẳng định vấn đề đó không chỉ là câu
chuyện/ tình tiết được đề cập trong một tác phẩm văn học cụ thể mà còn là một vấn đề có ý
nghĩa với xã hội hiện nay.
- Cách 2. Giới thiệu về tác phẩm văn học có liên quan, khẳng định một phương diện
quan trọng làm nên giá trị nội dung của tác phẩm chính là vấn đề có ý nghĩa xã hội được tác
giả đề cập. Sau đó nêu rõ vấn đề xã hội đó là gì.
Ví dụ xét đề bài dưới đây:
Trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt (Lưu Quang Vũ), nhân vật Trương Ba
đã nói: Không thể bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn
vẹn. Câu nói của Trương Ba, gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về tình trạng con người không
được sống là mình ?
Mở bài theo cách 1
Trong cuộc sống, nhiều khi vì hoàn cảnh mà con người không được sống là chính
mình. Hiện tượng con người phải sống “bên trong một đằng, bên ngoài một nẻo” không chỉ
là bi kịch của nhân vật Trương Ba trong vở kịch Hồn Trương Ba, da hàng thịt của Lưu
Quang Vũ, mà còn là một thực trạng đau lòng trong xã hội hiện nay.
(Trích: Bài làm của học sinh)
Mở bài theo cách 2
Nhờ có Hồn Trương Ba, da hàng thịt mà Lưu Quang Vũ đã trở thành cây bút xuất
sắc nhất của sân khấu kịch Việt Nam (không chỉ trong những năm 80 của thế kỉ trước). Tuy
16


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
nhà văn đã đi về thế giới của Hồn Trương Ba, ẩn mình trong từng vòm cây, khóm lá…

nhưng tấm lòng và những suy tư, trăn trở về cuộc đời của ông trong vở kịch ấy vẫn còn mãi
trong lòng bạn đọc. Một trong số những phương diện làm nên thành công của vở kịch chính
là nội dung xã hội sâu sắc của nó; nhất là khát vọng về một cuộc sống thực sự đã được nhà
văn gửi gắm qua lời của nhân vật Trương Ba: “Không thể bên trong một đằng, bên ngoài
một nẻo được. Tôi muốn được là tôi toàn vẹn”. Phải chăng chuyện con người không được
sống là chính mình không chỉ là hoàn cảnh riêng của Trương Ba, mà đã thành bi kịch đau
đớn của bao người trong xã hội hiện đại ?
(Trích: Bài làm của học sinh)
Ngoài yêu cầu về một mở bài đúng, đáp ứng được yêu cầu về nội dung; giáo viên còn
cần khuyến khích học sinh sáng tạo khi thực hiện mở bài với những cách diễn đạt giàu hình
ảnh, nhịp điệu, cảm xúc... Tất nhiên, đây là chuyện lâu dài, cần có cả một quá trình rèn
luyện, bồi dưỡng và có khi còn phụ thuộc cả vào năng khiếu của từng học sinh. Vì vậy trong
chuyên đề này, chúng tôi chỉ dừng lại ở kinh nghiệm rèn kĩ năng viết mở bài nhằm giúp học
sinh thực hiện một cách có hiệu quả nhất.
3.2. Rèn kĩ năng viết thân bài
Thân bài là phần trọng tâm của bài văn. Nhiệm vụ của phần thân bài là triển khai đầy
đủ và chi tiết hệ thống luận điểm, luận cứ, luận chứng để làm sáng tỏ luận đề. Khi thực hiện
thân bài, học sinh cần biết cách chia tách thành nhiều đoạn văn và sắp xếp chúng theo trình
tự hợp lí. Trong đó, mỗi đoạn văn là sự triển khai hoàn chỉnh một nội dung đã được xác định
từ khi lập dàn ý. Bám sát dàn ý để viết thân bài là kĩ năng học sinh đã được rèn luyện khá
nhiều, do đó chúng tôi chỉ tập trung trình bày về cách cách liên kết (chuyển ý, chuyển đoạn)
trong khi học sinh thực hiện viết phần thân bài và việc tổ chức điểm nhìn phù hợp trong quá
trình viết bài.
a. Cách chuyển ý, chuyển đoạn:
Bài văn là một thể thống nhất, hoàn chỉnh được tạo nên bởi các phần, các đoạn, các
câu. Do đó giữa các phần, các đoạn, các câu cần có sự kết dính với nhau vì nếu không có sự
kết dính ấy bài văn sẽ trở nên rời rạc, thiếu thống nhất. Sự kết dính ấy được gọi là liên kết.
Trong đó liên kết các câu văn/ đoạn văn là một thao tác quan trọng. Trong khi rèn kĩ năng
làm văn nghị luận nói chung và dạng bài nghị luận về vấn đề văn học đặt ra trong tác phẩm
văn học, chúng tôi thường dành khá nhiều thời gian để hướng dẫn học sinh cách thức liên kết

câu văn/ đoạn văn.
Để rèn khả năng liên kết các câu trong đoạn văn của bài văn nghị luận về vấn đề văn
học đặt ra trong tác phẩm văn học, trên cơ sở bồi dưỡng kiến thức về các phép liên kết câu
(phép thế, phép nối, phép lặp, phép liên tưởng…) chúng tôi thường ra các đề bài luyện tập để
học sinh thực hành, nhất là yêu cầu chữa lỗi về liên kết câu.
Bên cạnh đó, liên kết các đoạn trong bài nghị luận về vấn đề văn học đặt ra trong tác
phẩm văn học cũng là kĩ năng đòi hỏi học sinh rèn luyện nhiều. Trong bài văn, vị trí quan
17


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
trọng cần liên kết thường tập trung ở vị trí: giữa 3 phần bố cục của bài là Mở - Thân - Kết và
giữa các đoạn (các luận điểm) trong phần thân bài.
Chúng tôi thường hướng dẫn học sinh các cách liên kết đoạn văn như:
- Dùng từ ngữ để liên kết:
Tùy theo mối quan hệ giữa các đoạn, các phần mà học sinh có thể dùng các từ nối
thích hợp.
+ Nếu muốn nối các đoạn có quan hệ thứ tự để làm rõ tính hệ thống của việc sắp xếp
ý trong bài, ta có các từ ngữ liên kết như: trước tiên, trước hết, thoạt nhiên, tiếp theo, sau đó,
cuối cùng, một là, hai là, bắt đầu là…
+ Nếu cần nối các đoạn văn được triển khai theo quan hệ song song (có điểm tương
đồng về vai trò trong bài văn) ta có thể dùng các từ liên kết như: một mặt, mặt khác, ngoài
ra, bên cạnh đó, cũng vậy,…
+ Nếu cần nối các đoạn văn có quan hệ tăng tiến (đoạn sau nhấn mạnh, phát triển nội
dung của đoạn trước) ta có thể sử dụng các từ liên kết như: hơn nữa, thậm chí, không chỉ/ mà
còn…
+ Nếu cần nối các đoạn văn có quan hệ tương phản (để làm rõ những luận điểm có nội
dung khác nhau, nhất là việc chuyển ý từ chính đề sang phản đề trong bài nghị luận xã hội)
ta có thể sử dụng những từ nối kết như: nhưng, tuy nhiên, tuy vậy, thế nhưng, trái lại, ngược
lại, …

+ Nếu cần nối các đoạn văn có quan hệ nhân quả, ta có thể sử dụng các từ liên kết
như: bởi vậy, do đó, vì thế cho nên…
+ Nếu cần chuyển ý sang một đoạn văn có ý nghĩa tổng kết ý nghĩa của các đoạn
trước đó; ta có thể dùng các từ liên kết như: tóm lạị, chung quy, tổng kết lại, tựu trung lại, có
thể khẳng định…
- Dùng câu để liên kết:
Trong một số trường hợp, học sinh có thể sử dụng các câu văn có chức năng liên kết
hai đoạn văn với nhau. Các câu văn nối thường đứng ở đầu đoạn văn hoặc cuối đoạn văn
nhằm mục đích liên kết đoạn có chứa nó với đoạn khác. Nội dung thông tin chứa trong câu
nối này hoặc đã được đề cập đến ở đoạn trước hoặc sẽ được trình bày kĩ ở đoạn văn sau.
Giáo viên có thể hướng dẫn cho học sinh viết các dạng câu nối khác nhau, đựa ra những ví
dụ cụ thể để học sinh dễ hình dung về việc sử dụng câu nối. Dưới đây là một vài ví dụ về câu
nối các đoạn trong bài văn nghị luận (những câu gạch chân đóng vai trò phần nối kết với
đoạn văn trước hoặc sau đó):
+ … Như trên đã nói, tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thực sự là một bài ca
của lòng nhân ái. Điều đó sẽ khơi lên bao suy tư trong lòng bạn đọc về cuộc đời. Phải
chăng: Chỉ có tình người mới cứu vớt được con người trong những hoàn cảnh khó khăn và
18


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
cũng chỉ có tình người mới đủ khả năng để che chở, bảo vệ cho những hạt ngọc thiện tính
lấp lánh trong tâm hồn mỗi con người ?...
(Trích bài viết của HS - Đề bài: Từ tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân hãy
trình bày suy nghĩ của mình về vẻ đẹp của tình người trong cuộc sống)
+ Nếu tình bạn trong bài thơ Khóc Dương Khuê (Nguyễn Khuyến) được khẳng định
qua hành trình dài gắn bó, song hành của hai người bạn; thì tình bạn trong cuộc sống hôm
nay có biết bao biểu hiện phong phú. Ta có thể nhận ra vẻ đẹp của tình bạn trong một cái
nắm tay động viên, một ánh mắt tin tưởng, một khoảnh khắc bên nhau để cùng chia sẻ niềm
vui hay những nỗi buồn…

(Trích bài viết của HS - Đề bài: Từ bài thơ Khóc Dương Khuê của
Nguyễn Khuyến nghĩ về tình bạn trong cuộc sống hôm nay)
Nhìn chung có nhiều cách chuyển ý/ chuyển đoạn khác nhau; sự đa dạng này tạo cơ
hội chọn lọc cách diễn đạt phù hợp với văn phong của từng người.
b. Tổ chức điểm nhìn cho bài văn:
Điểm nhìn trong bài văn nghị luận tất nhiên không thể phong phú đa dạng như điểm
nhìn trong tác phẩm văn chương. Việc lựa chọn điểm nhìn có liên quan tới việc thể hiện thái
độ, bày tỏ cảm xúc làm nên sức hấp dẫn cho bài văn. Trong văn nghị luận, thường thì người
viết luôn kết hợp điểm nhìn bên ngoài (để tạo tính chất khách quan, khoa học) với điểm nhìn
bên trong (để thể hiện sự đồng cảm và sự tâm huyết, say mê) đối với vấn đề cần bàn luận.
Điểm nhìn bên ngoài thường được lựa chọn khi lí giải, phát biểu cảm xúc, suy nghĩ về vấn
đề. Khi thể hiện điểm nhìn bên ngoài, người viết là người đi tìm hiểu, khi thể hiện điểm nhìn
bên trong, người viết là người cảm nhận như một người trong cuộc.
Chẳng hạn, trong bài viết về đề bài: Từ một số câu hát ru hãy trình bày cảm nhận của
mình về tình mẫu tử, người viết có thể lựa chọn điểm nhìn bên trong hoặc bên ngoài để trình
bày vấn đề:
- Điểm nhìn bên trong: Viết bằng cảm xúc, ấn tượng của bản thân – người đang chiêm
nghiệm về lời ru và tình mẫu tử thiêng liêng.
Ở tuổi 17, có lẽ điều ý nghĩa nhất mà tôi chiêm nghiệm được là: Chỉ có những mái
nhà tồi tàn chứ không có những gia đình rách rưới. Bởi lẽ, mái nhà có thể chỉ là những
vách lá liêu xiêu, những đồ dùng sứt mẻ; còn hai chữ gia đình thì bao giờ cũng được vun
đắp bằng tình yêu, kiên cố bằng tình thương của từng thành viên một. Với tôi, gia đình trở
thành mái ấm vì có ngọn lửa hồng trong trái tim của mẹ và những tiếng hát mẹ ru tự thuở
nào đã ken đầy trong kí ức của tôi.
(Trích: Bài làm của học sinh)
- Điểm nhìn bên ngoài: Người viết đóng vai một người đang tìm hiểu để phân tích,
đánh giá về vấn đề cần nghị luận một cách khách quan.
19



Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
Lời ru mang tình cảm mẹ dành cho con. Đó là tình yêu thương, niềm hy vọng, sự tự
hào của mẹ gửi gắm qua giai điệu êm đềm. Tuy nhiên, không đơn thuần chỉ là tình yêu mà
ẩn sâu trong tình yêu ấy là những bài học về cuộc đời. Lời hát ru cũng là lời mẹ răn dặy con
về cách sống, cách yêu thương. Đó là lí do khiến những câu hát ru có sức lay động lâu dài
trong tâm trí mỗi con người.
(Trích: Bài làm của học sinh)
Một bài văn nghị luận, nếu chỉ toàn cảm xúc, suy nghĩ cá nhân sẽ trở nên cảm tính,
thiếu sức thuyết phục; ngược lại nếu chỉ thiên về phân tích, đánh giá thì bài làm dễ khô khan,
thiếu chất văn. Sự kết hợp chủ quan và khách quan, cảm xúc và tư duy luôn là điều cần thiết
trong bài văn nghị luận. Khi tổ chức được một cách hợp lí điểm nhìn, lời văn sẽ có được
“giọng điệu riêng”, gây được ấn tượng tốt với người đọc.
Tóm lại:
Phần thân bài là phần phải cần đầu tư, dành nhiều thời gian thực hiện nhất trong ba
phần. Vì vậy, ngoài những kĩ năng như viết câu, dựng đoạn, liên kết, sử dụng hành văn hợp
lí; giáo viên còn cần lưu ý học sinh chú ý phân phối thời gian hợp lí khi làm bài.
3.3. Rèn kĩ năng viết kết bài
Phần kết bài có nhiệm vụ tổng kết, đánh giá vấn đề đặt ra ở mở bài và đã giải quyết ở
thân bài. Phần này góp phần tạo tính hoàn chỉnh, trọn vẹn cho bài văn. Về cơ bản kết bài
trong bài văn nghị luận về vấn đề văn học đặt ra trong tác phẩm văn học cũng giống như
cách kết bài trong các bài nghị luận khác. Tùy mục đích nghị luận, người viết có thể sử dụng
một trong các cách kết bài sau đây:
- Kết bài bằng cách tóm lược: Là kiểu kết bài mà ở đó người viết tóm tắt quan điểm,
tổng hợp những ý chính đã nêu ở thân bài. Cách kết bài này dễ viết hơn và thường được sử
dụng nhiều hơn.
- Kết bài bằng cách bình luận mở rộng và nâng cao: Là kiểu kết bài trên cơ sở quan
điểm chính của bài viết, bằng liên tưởng, vận dụng, người viết phát triển, mở rộng nâng cao
vấn đề.
III. PHẦN VẬN DỤNG
Từ những vấn đề lý luận cùng kinh nghiệm thực tiễn khi rèn cho học sinh kĩ năng làm

bài văn Nghị luận về vấn đề xã hội được đặt ra trong tác phẩm văn học, trong phần tiếp theo
của chuyên đề chúng tôi giới thiệu một số đề và định hướng làm bài cụ thể. Trong phạm vi
một chuyên đề nhỏ, chúng tôi chỉ có điều kiện trình bày số lượng đề nhất định.
1. Giới thiệu một số đề bài và hướng dẫn làm bài

1.1. Đề 1
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
20


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
(Truyện Kiều, Nguyễn Du)
Chuyện Quạt nồng, ấp lạnh của Thuý Kiều gợi cho anh (chị) suy nghĩ gì về cách cư
xử của con cái với cha mẹ trong xã hội ngày nay.
Hướng dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
- Yêu cầu về nội dung: Đối tượng nghị luận là một vấn đề đạo lí đặt ra trong tác
phẩm văn học: Cách ứng xử của con cái với cha mẹ.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: Sử dụng các thao tác: giải thích, bình luận, phân tích,
chứng minh, kết hợp với phương thức biểu cảm...
* Gợi ý lập dàn bài.
a. Mở bài
- Giới thiệu, trích dẫn hai câu thơ trong Truyện Kiều của Nguyễn Du.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: cách cư xử của con cái đối với cha mẹ trong xã hội
hiện nay.
b. Thân bài
b.1. Tấm lòng hiếu nghĩa của Thuý Kiều với cha mẹ trong Truyện Kiều (Nguyễn Du)
* Giải thích: Quạt nồng, ấp lạnh (Tức: Hạ Sảnh, Đông Ôn). Sách Hiếu kinh nói: “Hiếu
tử đông ôn, hạ sảnh” nghĩa là người con hiếu thờ cha mẹ, mùa lạnh ấp chăn cho nóng để cha

mẹ vào nằm khỏi giá rét, mùa hạ quạt màn cho mát để cha mẹ vào nghỉ khỏi nóng bức. Nghĩa
bóng: nói sự thờ phụng, báo hiếu cha mẹ.
* Khái quát nội dung hai câu thơ: nói về tâm trạng nhớ thương cha mẹ của Thuý
Kiều. Việc bán mình chuộc cha của Thuý Kiều cũng đã nói lên đầy đủ tấm lòng hiếu thảo
của Kiều: Nàng quyết hi sinh chữ tình để làm tròn chữ hiếu. Trong suốt thời gian lưu lạc,
“Hết nạn nọ đến nạn kia, thanh lâu hai lượt, thanh y hai lần”, bản thân luôn sống trong
đau khổ, buồn rầu nhưng Thuý Kiều vẫn luôn nhớ thương cha mẹ. Kiều tưởng tượng đến
cảnh cha mẹ già đau buồn tựa cửa mong ngóng mình. Nàng lo lắng liệu có ai thay mình
phụng dưỡng mẹ cha?
=> Thuý Kiều là một người con hiếu thảo, đúng như lời nhận xét của Nguyễn Du: Người sao
hiếu nghĩa đủ đường.
b.2. Bàn luận về cách cư xử của con cái đối với cha mẹ trong xã hội hiện nay.
* Hành động hiếu nghĩa của Thuý Kiều có còn phù hợp với xã hội ngày nay ?
Cần khẳng định rằng đạo hiếu không thay đổi nhưng cách bày tỏ tấm lòng hiếu nghĩa thì
có thể không còn như xưa nữa (HS có thể nêu những biểu hiện cụ thể…).
* Thực trạng về cách cư xử của con cái với cha mẹ:
21


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Có nhiều tấm gương tốt về tấm lòng hiếu nghĩa của con cái với cha mẹ (lấy dẫn
chứng trong văn chương và trong đời sống. Chẳng hạn câu chuyện về đứa con của hai bà mẹ
ung thư - Nguyễn Hữu Ân...).
- Tuy nhiên, có một bộ phận không nhỏ những người con chưa giữ trọn đạo làm con,
chưa làm tròn chữ hiếu trong cách cư xử với cha mẹ:
+ Chỉ biết hưởng thụ: quen được bố mẹ quan tâm chăm sóc, chiều chuộng từ những
điều nhỏ nhất, trái lại họ lại rất “vô tâm” với cha mẹ, nhất là về đời sống tinh thần.
+ Có những hành động, lời nói, cử chỉ “vô lễ”, xúc phạm, thậm chí bạc đãi với cha
mẹ, làm cha mẹ phải đau lòng (nêu dẫn chứng).
* Nguyên nhân:

- Khách quan: do cuộc sống, xã hội thay đổi (đời sống vật chất và tinh thần đã khá
hơn rất nhiều so với trước kia); Cha mẹ quá nuông chiều, chưa chú tâm dạy con…
- Chủ quan: do nhận thức của một số người chưa đầy đủ về vị trí, vai trò, trách nhiệm
của người con đối với cha mẹ, chỉ biết “nhận” mà không biết “cho”…
* Giải pháp khắc phục:
- Về phía gia đình: Cần có quan điểm giáo duc đúng đắn đối với con cái.
- Nhà trường: không chỉ dạy chữ mà còn phải chú trọng dạy người.
- Xã hội: cần có biện pháp giáo dục và can thiệp khi cần thiết.
- Bản thân mỗi con người: cần có ý thức tu dưỡng bản thân (Đạo hiếu là đạo lớn nhất
của đạo làm người).
c. Kết bài
- Khẳng định cách cư xử của con cái đối với cha mẹ cũng là một vấn đề thuộc văn
hoá ứng xử. Nó thể hiện đạo đức, nhân cách của con người.
- Mỗi người cần có cách cư xử đúng mực, giữ trọn đạo làm người, đạo làm con.
--------------------------------------------------------------1.2. Đề 2
Bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng của Lí Bạch gợi cho
anh (chị) suy nghĩ gì về vai trò của tình bạn trong cuộc sống?
Hướng dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
-Yêu cầu về nội dung: đối tượng nghị luận là một vấn đề đạo lý được đặt ra trong tác
phẩm văn học: vấn đề tình bạn trong cuộc sống của con người.

22


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
- Yêu cầu về thao tác lập luận: sử dụng thao tác giải thích, bình luận kết hợp với phân
tích, chứng minh và nêu những trải nghiệm của bản thân.
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài

- Giới thiệu về nhà thơ Lí Bạch và bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn Mạnh Hạ Nhiên đi
Quảng Lăng.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: vai trò của tình bạn trong cuộc sống.
b. Thân bài
b.1 Tình bạn của Lí Bạch và Mạnh Hạo Nhiên trong bài thơ Tại lầu Hoàng Hạc tiễn
Mạnh Hạo Nhiên đi Quảng Lăng.
Bài thơ miêu tả cảnh đưa tiễn: Lí Bạch đưa tiễn bạn đi Quảng Lăng. Nơi chia tay là tại bến
sông. Sau đó, Lí Bạch lên lầu Hoàng Hạc để dõi theo bạn được lâu hơn, xa hơn. Cần tập
trung phân tích các từ cố nhân, cô phàm, duy kiến để thấy được tình bạn thân thiết gắn bó,
tình tri kỉ của hai nhà thơ đời Đường. Đó là một tình bạn cao đẹp, trong sáng -> mẫu mực
muôn đời.
b.2. Bài thơ của Lí Bạch gợi cho ta suy ngẫm về vai trò của tình bạn trong cuộc sống
* Giải thích:
- Khái niệm Tình bạn: là sự gắn bó, thân thiết giữa những người quen biết do hợp
tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng làm một nghề.
- Thế nào là một tình bạn đẹp? Tình bạn đẹp là tình bạn dựa trên nền tảng của sự thấu
hiểu (hiểu nhau) chia sẻ, cảm thông. Nghĩa là cùng chung vui, sẻ buồn. Niềm vui có bạn sẽ
vui gấp đôi, nỗi buồn có bạn sẽ vợi đi một nửa.
* Bình luận về vai trò của tình bạn: tình bạn là rất quan trọng và cần thiết với mỗi con
người.
- Người bạn tốt, thẳng thắn, trung thực sẽ chỉ cho ta thấy những sai lầm, giúp ta hiểu
đúng, tránh xa những điều xấu, ác để ta “gần mực thì sáng”.
- Người bạn thân thiết, gần gũi: bên ta mọi lúc khi vui cũng như khi buồn, sẵn sàng
giúp đỡ ta nếu có thể.
- Người bạn tri âm tri kỉ: hiểu những điều ta nghĩ, chú ý những điều ta thích.
* Cần phải làm gì để có được một tình bạn đẹp, tình bạn tốt, nhiều bạn tốt?
- Phải biết lắng nghe, thấu hiểu, biết cảm thông, chia sẻ với bạn.
- Phải biết trân trọng, nâng niu và gìn giữ tình bạn.
- Cần xây dựng nhiều tình bạn đẹp (thêm bạn, bớt thù) bởi không ai sống mà không
có bạn.

23


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
c. Kết bài
- Bài thơ viết về một tình bạn đẹp đẽ và cảm động của hai thi nhân đời Đường.
- Bài thơ còn nguyên giá trị và giáo dục cho thế hệ học sinh hôm nay về vai trò của
tình bạn trong cuộc sống…
--------------------------------------------------------------1.3. Đề 3
Từ truyện ngắn Đời thừa của Nam Cao, anh (chị) hãy trình bày quan điểm của
mình về tình trạng sống thừa của con người trong xã hội.
Hướng dẫn làm bài
* Xác định yêu cầu của đề
- Yêu cầu về nội dung: đối tượng nghị luận là một vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm
văn học: hiện tượng sống thừa của con người.
- Yêu cầu về thao tác lập luận: sử dụng kết hợp các thao tác giải thích, bình luận, phân
tích, chứng minh, bác bỏ…
* Gợi ý lập dàn bài
a. Mở bài
- Giới thiệu tác phẩm Đời thừa của nhà văn Nam Cao.
- Giới thiệu vấn đề cần bàn luận: tình trạng sống thừa của con người trong xã hội.
b. Thân bài
b.1. Khái quát bi kịch tinh thần của nhân vật Hộ trong Đời thừa (Nam Cao).
- Bi kịch ở đây hiểu theo nghĩa những mâu thuẫn giằng xé trong nội tâm con người,
nó căng thẳng, không có cách nào giải quyết.
- Bi kịch của Hộ được xây dựng trên mâu thuẫn: giữa một bên là khát vọng được sống
có ích, có ý nghĩa, muốn xác định sự tồn tại cá nhân bằng một sự nghiệp lao động sáng tạo
có ích cho xã hội với một bên là sự ngăn cản của xã hội. Nêu khái quát hai bi kịch tinh thần
của nhân vật Hộ trong tác phẩm (bi kịch vỡ mộng văn chương và bi kịch tình thương).
b.2. Tình trạng sống thừa của con người trong xã hội.

* Giải thích: Thế nào là sống thừa ?
(Sống thừa: sống vô ích, vô nghĩa, không có tác dụng, có cũng như không)
* Bình luận:
- Thực trạng: trong xã hội, có một bộ phận những người (bình thường cả về trí tuệ vã
thể chất) đang sống thừa, sống một cuộc sống vô nghĩa, vô ích, sống không có ước mơ, lý
tưởng. Đó là những kẻ dù còn khoẻ mạnh, dư thừa sức lao động nhưng lười biếng ngồi mát
24


Chuyên đề: Rèn luyện kĩ năng nghị luận về vấn đề xã hội đặt ra trong tác phẩm văn học
ăn bát vàng, là những kẻ đủ sức tự lập nhưng vẫn sống dựa dẫm, ỷ lại vào người khác, là
những kẻ sa đà vào lối sống buông thả, mắc vào các tệ nạn xã hội (hút trích ma tuý, buôn bán
ma tuý, mại dâm, trộm cắp...).
- Hậu quả: Đó là những kẻ không chỉ sống một cuộc sống vô nghĩa, vô ích mà còn
làm ảnh hưởng đến những người xung quanh, trở thành gánh nặng cho gia đình, bạn bè và xã
hội; là nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước.
- Nguyên nhân:
+ Chủ quan: Bản thân chưa có mục đích sống cao đẹp, sống không có lý tưởng,
không có ước mơ, bị cám dỗ bởi những dục vọng tầm thường; thiếu bản lĩnh, ý chí và
nghị lực.
+ Khách quan: Gia đình, xã hội thiếu sự quan tâm, giáo dục sát sao, không định
hướng đúng đắn cho họ…
- Biện pháp khắc phục:
+ Bản thân: cần xác định mục đích, lí tưởng sống đúng đắn, cao đẹp. Phải có ý chí,
nghị lực vươn lên trong cuộc sống; cần có lập trường, bản lĩnh vững vàng trước những cám
dỗ tầm thường của cuộc sống.
+ Gia đình, xã hội: quan tâm sát sao, uốn nắn những lệch lạc trong suy nghĩ, hành động
của con cái.
+ Nhà trường, xã hội: giáo dục lí tưởng sống, tạo công ăn việc làm cho người thất
nghiệp, kiên quyết bài trừ các tệ nạn xã hội, giúp những kẻ sống thừa trở thành những người

sống có ích, có ý nghĩa…
c. Kết bài
- Nhấn mạnh, khẳng định: sự sống là quý giá nhất đối với mỗi con người.
- Song, mỗi người cần phải làm cho cuộc sống ấy có ý nghĩa, có ích không chỉ đối với
bản thân mà còn đối với gia đình, nhà trường và xã hội.
- Liên hệ bản thân.
--------------------------------------------------------------1.4. Đề 4
Nhà thơ Vũ Quần Phương từng viết:
Có bao giờ sông chảy thẳng đâu em
Sông lượn khúc, lượn dòng mà tới bể.
Hai câu thơ trên gợi cho em suy nghĩ gì về dòng sông và những bài học cuộc đời rút
ra từ đó?
25


×