Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 117 trang )

LUẬN VĂN:

Chất lượng công chức Uỷ ban nhân
dân tỉnh Ninh Bình


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngay từ khi ra đời, Đảng cộng sản Việt Nam luôn quan tâm chú ý và coi trọng đến
công tác cán bộ, vì đây chính là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng. Nghị
quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc qua các nhiệm kỳ đã thể hiện rõ quan điểm, đường lối
của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ. Những quan điểm đó được cụ thể hóa trong các
Nghị quyết hội nghị của Ban chấp hành trung ương Đảng. Đặc biệt, Hội nghị trung ương
lần thứ 8 (khóa VII), Hội nghị trung ương lần thứ 6 (khóa IX) của Đảng đã khẳng định
cải cách hành chính nhà nước và chiến lược cán bộ, trong đó có nội dung xây dựng và
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là vấn đề thuộc đường lối chiến lược của
Đảng ta.
Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức là một trong những nội
dung cải cách hành chính và là một trong 7 chương trình hành động của Chương trình
tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010.
Những năm gần đây, đội ngũ cán bộ, công chức đã được rèn luyện, thử thách qua
quá trình đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước có bản lĩnh chính trị vững
vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng. Kiến thức, trình độ chuyên môn nghiệp vụ và
năng lực hoạt động thực tiễn của đội ngũ cán bộ, công chức từng bước được nâng cao về
mọi mặt, góp phần tích cực vào thành công của sự nghiệp đổi mới đất nước trong giai
đoạn vừa qua. Tuy nhiên, thực trạng đội ngũ công chức hiện nay vẫn bộc lộ những yếu
kém, bất cập như Đảng ta đã nhận định: “đội ngũ cán bộ hiện nay xét về chất lượng, số
lượng, cơ cấu nhiều mặt chưa ngang tầm với thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại
hoá”[23] “Năng lực và phẩm chất của nhiều cán bộ công chức còn yếu, một bộ phận
không nhỏ thoái hoá, biến chất”[22]. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công
chức chưa tương xứng, chưa đáp ứng yêu cầu công việc; tính chủ động, ý thức trách


nhiệm với công việc được giao còn thấp; khả năng quản lý, điều hành còn nhiều hạn chế.
Một bộ phận công chức thoái hoá, biến chất, tham ô, buôn lậu, nhũng nhiễu phiền hà,
thiếu công tâm, khách quan khi giải quyết công việc ; kỷ luật hành chính lỏng lẻo, bản
lĩnh thiếu vững vàng, lãng phí...bị kỷ luật. Tất cả những điều đó đã làm ảnh hưởng không


nhỏ đến uy tín và hiệu quả lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, làm giảm sút lòng tin của
nhân dân đối với Đảng; đồng thời đặt ra đòi hỏi bức thiết phải nâng cao chất lượng công
chức trong đó có đội ngũ công chức uỷ ban nhân dân cấp tỉnh.
Ninh Bình là tỉnh được tái lập từ năm 1992 nhưng đến nay vẫn còn không ít khó
khăn nhất là công tác cán bộ. Đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh đã được xây dựng
chuẩn hoá nhiều mặt nhưng vẫn còn những hạn chế nhất định về trình độ, chuyên môn,
nghiệp vụ, năng lực... Điều đó đòi hỏi cần có những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
của công tác cán bộ nói chung, đội ngũ công chức cấp tỉnh nói riêng để đáp ứng yêu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của tỉnh.
Xuất phát từ lí do trên, tôi đã chọn đề tài: “Chất lượng công chức Uỷ ban nhân
dân tỉnh Ninh Bình” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp thạc sỹ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Chất lượng công chức là một trong những nội dung quan trọng của công tác quản
lý và sử dụng cán bộ; đã nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học trong nước. Một
số đề tài nghiên cứu, sách, tạp chí có liên quan đã được công bố như:
- Nguyễn Duy Gia (1990), Cải cách hệ thống tổ chức, hoạt động của bộ máy quản
lý hành chính nhà nước, xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ công chức hành chính
nhà nước, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội.
- Ban Tổ chức cán bộ Chính phủ, Viện Khoa học tổ chức nhà nước (1998), Đạo
đức, phong cách lề lối làm việc của cán bộ công chức theo tư tưởng Hồ chí Minh, Nxb.
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Nguyễn Phú Trọng, Trần Xuân Sầm (2003), Luận cứ khoa học cho việc nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất

nước, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
- Bùi Đình Phong (2002), Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ và công tác cán bộ,
Nxb Lao động, Hà Nội.
- Tô Tử Hạ (2003), Công chức và vấn đề xây dựng đội ngũ công chức hiện nay,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.


- Bộ Khoa học và Công nghệ (2003): Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng
đòi hỏi của nhà nước pháp quyền XHCN do dân, vì dân.
- Phạm Hồng Thái (2004), Công vụ, công chức nhà nước, Nxb. Tư pháp, Hà Nội.
- Ngô Hải Phan (2004), Trách nhiệm của công chức trong điều kiện xây dựng
nhà nước pháp quyền Việt Nam hiện nay, Luận án tiến sỹ luật học, Học viện chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh.
- Thang Văn Phúc – Nguyễn Minh Phương (2005): Cơ sở lý luận và thực tiễn xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Nxb. Chính trị quốc gia.
- Võ Thị Thuý Hà (2007), Lịch sử phát triển và phương hướng hoàn thiện pháp
luật cán bộ công chức ở Việt Nam, Luận văn thạc sỹ luật học, Học viện chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
Tuy có nhiều công trình khoa học nghiên cứu nhưng mỗi công trình đề cập đến
vấn đề ở những khía cạnh khác nhau. Cho đến hiện nay chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu về chất lượng công chức của Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh ở Ninh Bình. Những
quan điểm, nhận định, đánh giá của những công trình khoa học liên quan đến đề tài đều
được tác giả nghiên cứu, tham khảo có chọn lọc.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận văn là đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng
công chức của UBND tỉnh Ninh Bình hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ
Để thực hiện được mục đích trên, luận văn có các nhiệm vụ sau:
- Hệ thống hoá, phân tích, khái quát các vấn đề lý luận về chất lượng công chức

UBND cấp tỉnh.
- Phân tích thực trạng chất lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình, chỉ ra ưu,
nhược điểm và các vấn đề đặt ra cần giải quyết.
- Đưa ra các quan điểm và giải pháp nâng cao chất lượng công chức của UBND
tỉnh Ninh Bình.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn


Công chức theo quy định hiện hành có phạm vi rất rộng, không chỉ trong bộ máy
hành chính nhà nước mà cả trong bộ máy giúp việc thuộc tổ chức chính trị, tổ chức chính
trị xã hội, trong các tổ chức Đảng, đoàn thể nhưng luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu
như sau:
- Về thời gian: Nghiên cứu chất lượng công chức UBND tỉnh Ninh Bình từ năm
2004 đến 30/6/2009.
-Về đối tượng: Công chức làm việc trong tập thể UBND và các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh Ninh Bình.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật, về cán bộ; các quan điểm của Đảng và
Nhà nước về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, về xây
dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong sạch, vững mạnh, nâng cao chất
lượng hoạt động công vụ, phục vụ nhân dân.
Các phương pháp cụ thể sẽ được sử dụng trong luận văn là: Kết hợp giữa lý luận
và thực tiễn, phân tích, tổng hợp, thống kê, lịch sử, phương pháp chuyên gia, phương
pháp dự báo, phương pháp so sánh...
6. Đóng góp mới của luận văn
- Chất lượng cán bộ là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định trong việc nâng
cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước. Qua việc nghiên cứu chế độ công chức của
Việt Nam và một số nước trên thế giới; thực trạng chất lượng công chức của UBND tỉnh
Ninh Bình, luận văn bước đầu làm sáng tỏ những hạn chế của chất lượng công chức nói

chung, những yếu tố ảnh hưởng, tác động đến chất lượng công chức, từ đó đề xuất các
giải pháp nâng cao chất lượng công chức đáp ứng yêu cầu đổi mới hiện nay
- Luận văn đề xuất những giải pháp chủ yếu, thiết thực góp phần nâng cao chất
lượng công chức của UBND tỉnh Ninh Bình.
- Luận văn dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp lãnh đạo trong việc hoạch
định chính sách, sắp xếp công chức phù hợp chuyên môn, đồng thời bổ sung tài liệu cho
cán bộ, sinh viên trong công tác nghiên cứu và học tập.


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. Nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 9 tiết.


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ
BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.1. Khái niệm về chất lượng công chức UBND cấp tỉnh

6
6

1.2. Các tiêu chí đánh giá và các yếu tố bảo đảm chất lượng công chức Uỷ
ban nhân dân cấp tỉnh

20


1.3. Bảo đảm chất lượng công chức qua kinh nghiệm của nhà nước phong
kiến Việt Nam và một số nước trên thế giới
Tiểu kết chương 1

39
48

Chương 2: THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ CÔNG CHỨC VÀ CHẤT
LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH
49

NINH BÌNH
2.1. Đặc điểm tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Ninh Bình

49

2.2. Thực trạng đội ngũ công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình

55

2.3. Thực trạng chất lượng công chức UBND tỉnh Ninh Bình

57

Tiểu kết chương 2

78

Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM CHẤT

LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN TỈNH
NINH BÌNH HIỆN NAY

79

3.1. Nâng cao chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân tỉnh Ninh Bình là
yêu cầu cấp thiết

79

3.2. Mục tiêu và quan điểm chỉ đạo bảo đảm chất lượng công chức Uỷ ban
nhân dân tỉnh Ninh Bình

82

3.3. Những giải pháp chủ yếu bảo đảm chất lượng công chức UBND tỉnh
Ninh Bình hiện nay

87
Tiểu kết chương 3

111


KẾT LUẬN

112

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


114

PHỤ LỤC

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

HĐND

:

Hội đồng nhân dân

Nxb

:

Nhà xuất bản

UBND

:

Uỷ ban nhân dân



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC
ỦY BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH

1.1. KHÁI NIỆM CHẤT LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP
TỈNH
1.1.1. Khái niệm công chức
Công chức là khái niệm được dùng phổ biến ở nhiều quốc gia trên thế giới
nhưng được hiểu không giống nhau, thậm chí ngay trong phạm vi một quốc gia
quan niệm về công chức qua các thời kỳ cũng khác nhau.
Theo kinh nghiệm của các quốc gia đã thực hiện chế độ công chức thì công
chức được hiểu là những công dân được tuyển dụng, bổ nhiệm giữ một công vụ
thường xuyên trong một công sở của Nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở
trong nước hay ngoài nước, được xếp vào một ngạch và hưởng lương từ ngân sách
Nhà nước. Với quan niệm như thế để trở thành người công chức cần phải thỏa mãn
sáu điều kiện sau:
- Là công dân của nước đó
- Được tuyển dụng bằng hình thức thi tuyển
- Giữ một công vụ thường xuyên
- Làm việc trong một công sở
- Lĩnh lương từ ngân sách Nhà nước [35].
Những người làm việc trong các cơ quan Nhà nước nhưng không đủ các điều
kiện nói trên thì là viên chức Nhà nước.
Ở một số nước, công chức chỉ giới hạn trong phạm vi hoạt động quản lý nhà
nước. Có những nước, ngoài những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý
nhà nước, công chức còn được áp dụng cho những người làm trong các cơ quan
dịch vụ công. Từ năm 1859 ở vương quốc Anh, người ta đã xác định hai bộ phận
của công chức như sau:



- Những người do nhà Vua trực tiếp bổ nhiệm hoặc được ủy ban dân sự cấp
giấy chứng nhận cho phép tham gia công tác ở cơ quan dân sự.
- Những người mà toàn bộ tiền lương được cấp trực tiếp từ ngân sách thống nhất
của Vương quốc liên hợp hoặc từ các khoản được Quốc hội thông qua.
Nước Mỹ, người ta gọi chung những nhân viên trong ngành hành chính của
Chính phủ là công chức. Công chức ở Nhật Bản gồm có công chức Nhà nước và
công chức ở địa phương. Công chức nhà nước là những người được nhậm chức
trong bộ máy của Chính phủ Trung ương, ngành tư pháp, quốc hội, quân đội, trường
học công, xí nghiệp và đơn vị sự nghiệp quốc doanh, được lĩnh lương từ ngân sách
Nhà nước. Công chức địa phương là những người làm việc và lĩnh lương từ nguồn
ngân sách của địa phương. Inđônêxia xác định công chức là những người được
tuyển dụng và bổ nhiệm làm việc thường xuyên ở các công sở trung ương và địa
phương, một số sĩ quan cao cấp trong quân đội, những nhà quản trị các doanh
nghiệp nhà nước.
Ở Việt Nam, khái niệm công chức lần đầu tiên được nêu ra trong Sắc lệnh
76/ SL ngày 20/5/1950 của chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ban hành quy
chế công chức. Theo quy chế này, công chức được hiểu là những công dân Việt
Nam được chính quyền tuyển để giữ một chức vụ thường xuyên trong các cơ quan
của Chính Phủ, ở trong hay ngoài nước, trừ những trường hợp riêng biệt do Chính
Phủ quy định. Như vậy, công chức chủ yếu là những người làm việc trong bộ máy
nhà nước ở trung ương. Đội ngũ cán bộ đoàn thể, những người làm việc trong bộ
máy chính quyền địa phương không phải tất cả đều là công chức, thuộc phạm vi
điều chỉnh của sắc lệnh. Tuy nhiên, do hoàn cảnh chiến tranh nên Quy chế công
chức theo sắc lệnh này không được thực hiện đầy đủ và trong thực tế thời gian này
người ta thường dùng khái niệm cán bộ để chỉ những người làm việc trong biên chế
nhà nước nói chung.
Những năm đầu thập kỷ 80, khái niệm công chức được xác định lại theo
Nghị định số 169/HĐBT ngày 25/5/1985. Điều 1 Nghị định này quy định, công
chức là: "Công dân Việt Nam được tuyển dụng và bổ nhiệm giữ một công vụ

thường xuyên trong một công sở của nhà nước ở trung ương hay địa phương, ở


trong nước hay ngoài nước đã được xếp vào một ngạch, hưởng lương do ngân sách
nhà nước cấp" [31].
Ngày 26/2/1998, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành pháp lệnh cán bộ,
công chức và được sửa đổi bổ sung năm 2003. Cán bộ, công chức quy định tại pháp
lệnh này là công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà
nước, bao gồm:
- Những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ trong các cơ
quan nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội.
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên; được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn; được xếp
vào một ngạch hành chính, sự nghiệp trong các cơ quan nhà nước ; mỗi ngạch thể
hiện chức và cấp về chuyên môn, nghiệp vụ, có chức danh tiêu chuẩn riêng.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân, Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân.
- Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc được giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải
là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ
quan Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp [41].
Tuy nhiên, Pháp lệnh nói trên không đưa ra giới hạn để phân biệt thế nào là
cán bộ, thế nào là công chức, vì vậy trong năm nhóm trên không thể xác định nhóm
nào là cán bộ, nhóm nào là công chức hoặc trong từng nhóm thì ai là cán bộ, ai là
công chức.
Để hướng dẫn thi hành pháp lệnh cán bộ, công chức, Nghị định
95/1998/NĐ-CP ngày 17/11/1998 của Chính Phủ quy định công chức là:
+ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm, hoặc giao giữ một công vụ
thường xuyên; được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành chuyên môn; được xếp

vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách
nhà nước, làm việc trong các cơ quan Nhà nước sau: Văn phòng Chủ tịch nước;
Văn phòng Quốc hội; cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương và địa phương;


Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân các cấp; cơ quan đại diện nhà nước ở
nước ngoài; cơ quan báo chí, phát thanh, truyền hình của Nhà nước; các tổ chức sự
nghiệp khác của Nhà nước.
+ Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao nhiệm vụ thường
xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là
sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ
quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp [8].
Công chức được phân loại theo trình độ đào tạo và theo vị trí công tác.
Theo trình độ đào tạo gồm các loại công chức sau:
+ Công chức loại A: Có trình độ đào tạo chuyên môn từ bậc Đại học trở lên.
+ Công chức loại B: Có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc trung học chuyên
nghiệp, cao đẳng.
+ Công chức loại C: Có trình độ đào tạo chuyên môn ở bậc sơ cấp.
Theo vị trí công tác gồm có: Công chức lãnh đạo (chỉ huy điều hành), và
công chức chuyên môn nghiệp vụ [8].
Quan niệm về công chức như trên cũng được nhắc lại một cách tương tự
trong Nghị định 117/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính Phủ về tuyển dụng,
sử dụng và quản lý cán bộ trong các cơ quan nhà nước.
Qua nhiều lần chỉnh sửa, bổ sung ngày 9/12/2008 Quốc hội ban hành Luật
cán bộ, công chức năm 2008 sẽ có hiệu lực 1/1/2010 quy định cụ thể hơn về công
chức, phân biệt và giải thích rõ cán bộ và công chức.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước
tổ chức chính trị-xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan,

đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và
trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng
Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội( sau đây gọi


chung là đơn vị sự nghiệp công lập), trong biên chế và hưởng lương từ
ngân sách nhà nước; đối với công chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý
của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương được đảm bảo từ quỹ lương của
đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của pháp luật [43].
Như vậy, những văn bản trước Luật cán bộ, công chức năm 2008 không định
nghĩa công chức bằng việc nêu lên những đặc điểm mô tả thế nào là công chức. Để
xác định ai là công chức phải căn cứ vào sự liệt kê các đối tượng công chức. Luật
Cán bộ, công chức sẽ có hiệu lực trong thời gian tới đã đưa ra khái niệm mô tả để
xác định cụ thể ai là công chức. Theo quy định này công chức là:
+ Công dân Việt Nam.
+ Được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch chức danh.
+ Trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
Mặc dù có nhiều nỗ lực trong xây dựng luật nhưng khái niệm công chức
theo Luật cán bộ, công chức năm 2008 vẫn có phạm vi, đối tượng rộng bao gồm
cả công chức trong cơ quan của Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức
chính trị-xã hội, cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân, cơ quan, đơn vị thuộc
Công an nhân dân. Cách quy định của pháp luật như vậy vẫn chưa hợp lý vì hoạt
động của công chức luôn gắn với quyền lực Nhà nước và pháp luật. Còn hoạt
động của những người làm việc trong tổ chức chính trị-xã hội về nguyên tắc
chung đều phải chấp hành pháp luật của nhà nước nhưng hoạt động của họ lại
chủ yếu dựa vào điều lệ , thể chế của các tổ chức đó, tuy rằng hoạt động của các
tổ chức đó cũng đều phải tuân thủ pháp luật.
Công chức là bộ phận quan trọng trong nền hành chính của một quốc gia.

Nền hành chính nước ta không chỉ nằm trong hệ thống chính quyền hành pháp như
cách hiểu của một số nước trên thế giới. Do vậy công chức vẫn được hiểu ở phạm vi
rộng.
1.1.2. Công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh
1.1.2.1. Khái niệm công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (gọi chung là cấp tỉnh), là cấp thứ 2
trong 4 cấp quản lý hành chính của bộ máy hành chính nhà nước,được xác định là


cấp chiến lược, là cầu nối đầu tiên chuyển tải các chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước đến với người dân đồng thời cũng là cấp có vai trò quan
trọng trong việc thực hiện các quyết định trên địa bàn. Cấp tỉnh có vị trí trung tâm
chi phối mọi hoạt động của các cấp chính quyền địa phương (huyện, xã), chỉ đạo
phát triển toàn diện các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an
ninh trên địa bàn. Vì vậy, UBND tỉnh có những chức năng chủ yếu sau:
- Quản lý hành chính theo ranh giới, lãnh thổ về các hoạt động của Đảng,
nhà nước và các ngành chức năng trực thuộc và các huyện, thị xã, thành phố theo
nhiệm vụ phân cấp của Chính phủ.
- Vận dụng và cụ thể hóa đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp
luật của nhà nước vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của địa phương. Lãnh đạo, chỉ
đạo các ngành, các cấp, các đoàn thể và toàn dân thực hiện các mục tiêu kinh tế-xã
hội, quốc phòng-an ninh trên địa bàn tỉnh góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chiến
lược là xây dựng đất nước và bảo vệ vững chắc nhà nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
- Quản lý trực tiếp và toàn diện các huyện, thị xã, thành phố trên địa bàn và
chịu sự lãnh đạo, chỉ đạo mọi mặt của Trung ương.
Để thực hiện chức năng trên, UBND tỉnh có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Xây dựng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội, phát triển ngành,
phát triển đô thị và nông thôn trong phạm vi quản lý; xây dựng kế hoạch dài hạn và
hàng năm về phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh trình Hội đồng nhân dân thông qua

để trình Chính phủ phê duyệt;
- Chỉ đạo và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển nông
nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, thủy lợi; các chương trình khuyến nông, khuyến
lâm, khuyến ngư; phát triển sản xuất và bảo vệ cây trồng, vật nuôi trên địa bàn tỉnh;
-Xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
của tỉnh; tổ chức quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp công nghiệp, tiểu thủ
công nghiệp trên địa bàn tỉnh theo thẩm quyền;
-Tổ chức việc lập, trình duyệt hoặc xét duyệt theo thẩm quyền các quy hoạch
xây dựng vùng, xây dựng đô thị trên địa bàn tỉnh; quản lý kiến trúc, xây dựng, đất


xây dựng theo quy hoạch đã được duyệt; phê duyệt kế hoạch, dự án đầu tư các công
trình xây dựng thuộc thẩm quyền; quản lý công tác xây dựng và cấp phép xây dựng
trên địa bàn tỉnh;
- Chỉ đạo, kiểm tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về quản lý hộ
khẩu; quản lý việc cư trú, đi lại của người nước ngoài ở địa phương;
- Tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra việc thi hành hiến pháp, luật, các văn bản
pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên và nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng
cấp; tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục pháp luật ở địa phương;
- Tổ chức đăng ký, quản lý hộ tịch có yếu tố nước ngoài [42].
Để thực hiện những nhiệm vụ, quyền hạn trên UBND cấp tỉnh phải thông
qua đội ngũ công chức thuộc thẩm quyền quản lý, sử dụng của mình (gọi chung là
công chức UBND cấp tỉnh). Công chức UBND cấp tỉnh là một bộ phận của công
chức nhà nước nói chung, làm việc trong các cơ quan chuyên môn thuộc UBND
tỉnh, được giao những chức trách và thẩm quyền cụ thể để giúp UBND tỉnh thực
hiện những chức năng, nhiệm vụ trên. Là bộ phận quan trọng cấu thành nên các cơ
quan quản lý nhà nước ở cấp tỉnh, công chức UBND tỉnh đóng vai trò chủ yếu và
quyết định hiệu quả công việc trong việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của cơ
quan này, mà cao hơn chính là công tác của UBND tỉnh. Do vậy có thể hiểu:
Công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh là một bộ phận của công chức hành

chính nhà nước, làm việc trong tập thể ủy ban và các cơ quan chuyên môn của ủy
ban nhân dân tỉnh, được ủy ban nhân dân tỉnh giao thực hiện những nhiệm vụ cụ
thể và có những quyền hạn nhất định để giúp ủy ban nhân dân tỉnh thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ của công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Nghị định 13/NĐ-CP ngày 4/2/2008 của Chính Phủ đã quy định thống nhất
nhiệm vụ của các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh trên toàn
quốc để thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Các sở và cơ
quan tương đương sở (gọi chung là sở) thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh là cơ quan
tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về
ngành, lĩnh vực ở địa phương và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn theo sự ủy


quyền của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và theo quy định của pháp luật. Các cơ quan
chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu sự chỉ đạo, quản lý về tổ chức,
biên chế và công tác của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đồng thời chịu sự chỉ đạo, kiểm
tra, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ của cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh
vực cấp trên.
Cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh làm việc theo chế độ
thủ trưởng Người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
(sau đây gọi chung là Giám đốc sở) chịu trách nhiệm trước Ủy ban nhân dân, Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và trước pháp luật về thực hiện chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của cơ quan chuyên môn do mình phụ trách. Căn cứ các quy định của
pháp luật và phân công của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Giám đốc sở ban hành Quy
chế làm việc, chế độ thông tin báo cáo của cơ quan và chỉ đạo, kiểm tra việc thực
hiện quy định đó.
Giám đốc sở chịu trách nhiệm về việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình và các công việc được Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh phân công hoặc ủy quyền; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách
nhiệm khi để xảy ra tham nhũng, gây thiệt hại trong tổ chức, đơn vị thuộc quyền

quản lý của mình.
Giám đốc sở có trách nhiệm báo cáo với Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh, Bộ, cơ quan ngang Bộ về tổ chức, hoạt động của cơ quan mình;
xin ý kiến về những vấn đề vượt quá thẩm quyền và báo cáo công tác trước Hội
đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh khi có yêu cầu; phối hợp với Giám đốc
cơ quan chuyên môn khác và người đứng đầu tổ chức chính trị - xã hội cùng cấp để
giải quyết các vấn đề liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình.
Cấp phó của người đứng đầu cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh (sau đây gọi chung là Phó Giám đốc sở) là người giúp Giám đốc sở chỉ đạo
một số mặt công tác và chịu trách nhiệm trước Giám đốc sở và trước pháp luật về
nhiệm vụ được phân công. Khi Giám đốc vắng mặt, một Phó Giám đốc sở được
Giám đốc uỷ nhiệm điều hành các hoạt động của cơ quan chuyên môn cấp tỉnh.


Số lượng Phó Giám đốc sở không quá 03 người; riêng số lượng Phó Giám
đốc các sở thuộc Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội và Ủy ban nhân dân thành phố
Hồ Chí Minh không quá 04 người [13].
Công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh là những người làm việc trong các cơ
quan chuyên môn này, với những chức trách và thẩm quyền cụ thể để giúp ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy, căn cứ vào
nhiệm vụ của từng cơ quan chuyên môn mà mình đang làm việc, công chức UBND
cấp tỉnh có những chức năng, nhiệm vụ sau:
Công chức thuộc Sở Nội vụ tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về nội vụ, gồm: tổ chức bộ máy; biên chế các cơ
quan hành chính, sự nghiệp; cải cách hành chính; chính quyền địa phương; địa giới
hành chính; cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, cán bộ, công chức xã, phường,
thị trấn; tổ chức hội, tổ chức phi chính phủ; văn thư, lưu trữ nhà nước; tôn giáo; thi
đua - khen thưởng.
Công chức thuộc Sở Tư pháp tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực
hiện chức năng quản lý nhà nước về: công tác xây dựng văn bản quy phạm pháp

luật; kiểm tra, xử lý văn bản quy phạm pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; thi
hành án dân sự; công chứng; chứng thực; nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài; trọng
tài thương mại; hộ tịch; quốc tịch; lý lịch tư pháp; luật sư; tư vấn pháp luật; trợ giúp
pháp lý; giám định tư pháp; hoà giải ở cơ sở; bán đấu giá tài sản liên quan đến thi
hành án và công tác tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Công chức thuộc Sở Kế hoạch và Đầu tư tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về kế hoạch và đầu tư, bao gồm các
lĩnh vực: tổng hợp về quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội; tổ chức thực
hiện và đề xuất về cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh; đầu
tư trong nước, đầu tư nước ngoài ở địa phương; đăng ký kinh doanh; tổng hợp và
thống nhất quản lý các vấn đề về doanh nghiệp, hợp tác xã, kinh tế tư nhân.
Công chức thuộc Sở Tài chính tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: tài chính; ngân sách nhà nước; thuế, phí,
lệ phí và thu khác của ngân sách nhà nước; các quỹ tài chính nhà nước; đầu tư tài


chính; tài chính doanh nghiệp; kế toán; kiểm toán độc lập; giá cả và hoạt động dịch
vụ tài chính tại địa phương theo quy định của pháp luật.
Công chức thuộc Sở Công Thương tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp
tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và
thương mại, bao gồm các ngành và lĩnh vực: cơ khí; luyện kim; điện; năng lượng
mới; năng lượng tái tạo; dầu khí (nếu có); hoá chất; vật liệu nổ công nghiệp; công
nghiệp khai thác mỏ và chế biến khoáng sản; công nghiệp tiêu dùng; công nghiệp thực
phẩm; công nghiệp chế biến khác; lưu thông hàng hoá trên địa bàn; xuất khẩu, nhập
khẩu; quản lý thị trường; xúc tiến thương mại; thương mại điện tử; dịch vụ thương mại;
hội nhập kinh tế; thương mại quốc tế; quản lý cụm công nghiệp và điểm công
nghiệp trên địa bàn.
Công chức thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu, giúp
Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: nông nghiệp;
lâm nghiệp; diêm nghiệp; thuỷ sản; thuỷ lợi và phát triển nông thôn; phòng, chống

lụt, bão; an toàn nông sản, lâm sản, thuỷ sản và muối trong quá trình sản xuất đến
khi đưa ra thị trường.
Công chức thuộc Sở Giao thông vận tải tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giao thông vận tải, gồm: đường
bộ; đường thuỷ; vận tải; an toàn giao thông.
Công chức thuộc Sở Xây dựng tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: xây dựng; vật liệu xây dựng; nhà ở và công
sở; kiến trúc, quy hoạch xây dựng; hạ tầng kỹ thuật đô thị, khu công nghiệp, khu chế
xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao (bao gồm: kết cấu hạ tầng đô thị; cấp nước,
thoát nước, xử lý nước thải, chiếu sáng, công viên cây xanh, nghĩa trang, rác thải đô
thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, khu kinh tế, khu công nghệ cao); phát triển đô thị;
kinh doanh bất động sản.
Riêng tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, Sở Quy hoạch -Kiến
trúc tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân thành phố thực hiện chức năng quản lý nhà
nước về quy hoạch, kiến trúc xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông


thôn thuộc phạm vi quản lý của thành phố theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Nghị
định 13.
Công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường tham mưu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: tài nguyên đất; tài nguyên
nước; tài nguyên khoáng sản; địa chất; môi trường; khí tượng thuỷ văn; đo đạc và
bản đồ; tổng hợp và thống nhất quản lý các vấn đề về biển, đảo (đối với các tỉnh có
biển, đảo).
Công chức thuộc Sở Thông tin và Truyền thông tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: báo chí; xuất bản; bưu
chính và chuyển phát; viễn thông và internet; truyền dẫn phát sóng; tần số vô tuyến
điện, công nghệ thông tin, điện tử; phát thanh và truyền hình; cơ sở hạ tầng thông
tin truyền thông; quảng cáo trên các phương tiện báo chí, mạng thông tin máy tính
và xuất bản phẩm.

Công chức thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tham mưu, giúp Ủy
ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về các lĩnh vực: lao động;
việc làm; dạy nghề; tiền lương; tiền công; bảo hiểm xã hội; bảo hiểm thất nghiệp; an
toàn lao động; người có công; bảo trợ xã hội; bảo vệ và chăm sóc trẻ em; phòng, chống
tệ nạn xã hội (gọi chung là lĩnh vực lao động, người có công và xã hội); bình đẳng giới;
tiếp nhận chức năng và tổ chức về bảo vệ và chăm sóc trẻ em từ Ủy ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em.
Công chức thuộc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch tham mưu, giúp Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: văn hóa; thể dục, thể
thao và du lịch; gia đình; quảng cáo (trừ quảng cáo trên các phương tiện báo chí,
mạng thông tin máy tính và xuất bản phẩm); tiếp nhận chức năng và tổ chức về gia
đình từ Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em.
Công chức thuộc Sở Khoa học và Công nghệ tham mưu, giúp Ủy ban nhân
dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: hoạt động khoa học và công
nghệ; phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ; tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng;
sở hữu trí tuệ; ứng dụng bức xạ và đồng vị phóng xạ; an toàn bức xạ và hạt nhân.


Công chức thuộc Sở Giáo dục và Đào tạo tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo, bao gồm: mục
tiêu, chương trình, nội dung giáo dục và đào tạo; tiêu chuẩn nhà giáo và tiêu chuẩn cán
bộ quản lý giáo dục; tiêu chuẩn cơ sở vật chất, thiết bị trường học và đồ chơi trẻ em;
quy chế thi cử và cấp văn bằng, chứng chỉ; bảo đảm chất lượng giáo dục và đào tạo.
Công chức thuộc Sở Y tế tham mưu, giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện
chức năng quản lý nhà nước về: chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân, gồm: y tế dự
phòng; khám, chữa bệnh; phục hồi chức năng; y dược cổ truyền; thuốc phòng bệnh,
chữa bệnh cho người; mỹ phẩm; vệ sinh an toàn thực phẩm; trang thiết bị y tế; dân số;
bảo hiểm y tế; tiếp nhận chức năng và tổ chức về dân số từ Ủy ban Dân số, Gia đình và
Trẻ em.
Công chức Thanh tra tỉnh (là cơ quan ngang sở), tham mưu, giúp Ủy ban

nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về công tác thanh tra, giải
quyết khiếu nại, tố cáo; thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn thanh tra và phòng, chống
tham nhũng.
Công chức Văn phòng Ủy ban nhân dân tỉnh có chức năng tham mưu tổng
hợp, giúp Ủy ban nhân dân tổ chức các hoạt động chung của Ủy ban nhân dân; tham
mưu, giúp Chủ tịch Ủy ban nhân dân và các Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân về chỉ
đạo điều hành các hoạt động chung của bộ máy hành chính ở địa phương; bảo đảm
cung cấp thông tin phục vụ chỉ đạo, điều hành của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy
ban nhân dân và thông tin cho công chúng theo quy định của pháp luật; bảo đảm các
điều kiện vật chất kỹ thuật cho hoạt động của Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban
nhân dân.
Như vậy, tất cả các chức năng, nhiệm vụ thuộc thẩm quyền của ủy ban nhân
dân cấp tỉnh đều do các công chức thuộc các cơ quan đó tham mưu hoặc trực tiếp
thực hiện. Có thể khẳng định không có đội ngũ công chức thì ủy ban nhân dân cấp
tỉnh không thể hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì vậy, đội ngũ công
chức của ủy ban nhân dân cấp tỉnh có vai trò hết sức quan trọng, quyết định đến kết
quả công việc của ủy ban nhân dân. Hiệu quả công việc của UBND cao hay thấp phụ
thuộc phần lớn vào chất lượng công chức. Do đó, nghiên cứu và làm rõ chất lượng


công chức UBND cấp tỉnh là việc làm rất cần thiết để từ đó nâng cao hiệu quả công
việc của UBND cấp tỉnh.
1.1.3. Khái niệm chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh
Theo từ điển bách khoa Việt Nam "Chất lượng là một phạm trù triết học biểu
thị những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương đối
của sự vật và phân biệt nó với sự vật khác. Chất lượng là đặc tính khách quan của
sự vật, biểu thị ra bên ngoài qua các thuộc tính. Chất lượng của sự vật, hiện tượng
biểu thị trình độ phát triển của nó, chất lượng càng cao thì mức độ phát triển của sự
vật càng lớn" [68].
Theo Từ điển tiếng Việt, chất lượng được xem là "Cái tạo nên phẩm chất, giá

trị của mỗi con người, một sự vật, sự việc" [78]. Đây là cách đánh giá một con
người, một sự việc, một sự vật trong cái đơn nhất, trong tính độc lập của nó.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ được tạo nên bởi nhiều nhân tố, bao gồm số
lượng cán bộ, cơ cấu cán bộ, cấu trúc bộ máy, cơ chế tổ chức, điều hành, phương
thức quản lý và lãnh đạo, vv.. Chất lượng của đội ngũ cán bộ được cấu thành từ chất
lượng của mỗi người cán bộ. Đó là trình độ được đào tạo về chuyên môn bậc cao,
có phẩm chất chính trị tư tưởng vững vàng, đạo đức cách mạng trong sáng, có kinh
nghiệm hoạt động thực tiễn dày dạn, có năng lực lãnh đạo, quản lý, năng lực tổ
chức và điều hành, vv..
Chất lượng của mỗi người cán bộ nói chung, công chức nói riêng trước hết
được biểu hiện ở bản lĩnh chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống, ở trình độ được đào
tạo về chuyên môn, kiến thức văn hóa và giao tiếp, thể hiện ở kinh nghiệm và năng
lực lãnh đạo, quản lý, tổ chức, điều hành bộ máy và năng lực tổ chức thực tiễn,
đồng thời được biểu hiện ở hiệu quả hoạt động lãnh đạo, quản lý, ở uy tín của họ
trước tập thể và nhân dân..
Tuy nhiên, mỗi chức danh, mỗi cương vị và mỗi loại công chức khác nhau có
yêu cầu chất lượng ở mức độ chuyên sâu khác nhau. Nhưng nhìn chung ở bất cứ
cương vị và lĩnh vực nào thì yêu cầu về tố chất chính trị của công chức phải được
đặt lên hàng đầu. Tố chất đạo đức là cái gốc và trình độ, kiến thức năng lực là nhân
tố quyết định đến hiệu quả công tác. Chất lượng hoạt động quản lý hành chính nhà


nước của UBND suy cho cùng chính là chất lượng của đội ngũ công chức làm việc
trong UBND. Do vậy, khi nói đến chất lượng công chức UBND cấp tỉnh là nói đến
tổng thể những phẩm chất, năng lực của người công chức đang làm việc tại UBND
cấp tỉnh, những phẩm chất và năng lực này thể hiện khả năng và kết quả thực hiện
công việc của họ, cụ thể hơn là thực hiện những nhiệm vụ của UBND cấp tỉnh mà
họ được cấp có thẩm quyền phân công.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu Chất lượng công chức UBND cấp tỉnh
là tổng hợp những phẩm chất giá trị về chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực và kết

quả hoàn thành nhiệm vụ được phân công của mỗi công chức trong việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của UBND cấp tỉnh.
1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ VÀ CÁC YẾU TỐ BẢO ĐẢM CHẤT
LƯỢNG CÔNG CHỨC UỶ BAN NHÂN DÂN CẤP TỈNH
1.2.1. Các tiêu chí đánh giá chất lượng công chức Uỷ ban nhân dân cấp
tỉnh
Sinh thời, chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định hai quan điểm lớn bao trùm,
xuyên suốt có tính nguyên tắc là:
Thứ nhất: “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người
xã hội chủ nghĩa"
Thứ hai: “Cán bộ là gốc của mọi công việc”. “Muôn việc thành công hay thất
bại đều do cán bộ tốt hay kém” [44, tr.29].
Như vậy, con người nói chung và người cán bộ luôn luôn là nhân tố quan trọng
và có vị trí then chốt quyết định, có mối quan hệ biện chứng thống nhất, có sự tác động
qua lại và là nguyên nhân của mọi nguyên nhân [18, tr.29]. Trong đó đội ngũ công
chức UBND đóng vai trò quan trọng, họ là công bộc của nhân dân,vì vậy họ phải có
đạo đức cách mạng, giác ngộ lý tưởng xã hội chủ nghĩa, suốt đời sống, chiến đấu vì
độc lập tự do của tổ quốc, của dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân. Họ phải ra sức
trau dồi đạo đức cách mạng, thực hành cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư mới
đủ sức đánh bại chủ nghĩa cá nhân, mới là con người hoàn toàn. Từ quan niệm
chung về con người, Hồ Chí Minh nói tới người cách mạng và bồi dưỡng thế hệ


cách mạng cho đời sau với đạo đức cách mạng là nền tảng, là “gốc” của nhân cách
làm người. Người đã dạy cán bộ, đảng viên có tài phải có cả đức, đức quyết định.
Người nói: "Cũng như sông có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn.
Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức,
không có đạo đức thì tài giỏi đến mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân” [67,
tr.210]. “Mọi việc thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách
mạng hay là không ”, “Tuy năng lực và công việc mỗi người khác nhau, người làm

việc to, người làm việc nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”
[67, tr.568]. Theo Người, đạo đức cách mạng được thể hiện ở nhân, trí, dũng, liêm,
được quy tụ ở những chuẩn mực giá trị và nguyên tắc đạo đức là cần, kiệm, liêm,
chính, chí công vô tư, là chiến thắng chủ nghĩa cá nhân, để xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội, để nhân dân muôn đời con cháu mai sau sống ấm no, hạnh phúc.
Hồ Chí Minh cũng đề cao vai trò của đạo đức trong mối liên hệ không tách rời với
năng lực, bởi theo Người không có năng lực thì mọi điều tốt đẹp của con người chỉ
dừng lại ở mong muốn. Chính vì vậy, trong di chúc để lại, Người căn dặn: Bồi
dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc làm rất quan trọng và cần thiết.
Phải giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ nước ta thành nhữngchiến sỹ cách mạng, đào tạo
họ thành những người thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa
“chuyên”.
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa, đặc biệt là xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên”.
Đảng và Nhà nước ta đã và đang quyết tâm xây dựng đôi ngũ công chức nói chung,
công chức UBND tỉnh nói riêng vừa có đức, vừa có tài và phải lấy đức làm gốc.
Công chức UBND tỉnh phải là công bộc của nhân dân, phải có đủ cả đức lẫn tài hay
phẩm chất và năng lực trong hoạt động xã hội cũng như trong khi thi hành công vụ.
Đó cũng chính là hai yếu tố nền tảng trong tiêu chí đánh giá cán bộ ở các giai đoạn
lịch sử khác nhau của mọi thời đại. Tuy nhiên, ở mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau thì
những yêu cầu về phẩm chất năng lực đòi hỏi khác nhau. Trong phạm vi đề tài này,
chúng tôi xem xét phẩm chất và năng lực của công chức UBND trong giai đoạn đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.


Tiêu chí thứ nhất, là phẩm chất chính trị, đạo đức của công chức UBND.
Phẩm chất ở đây trước hết là "Đức" trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Cụ thể hơn ở
người công chức chính là "đạo đức cách mạng". Đạo đức nói chung và đạo đức
cách mạng như Bác dạy đó là "Trung với Đảng, hiếu với dân, sẵn sàng chiến đấu,
hy sinh vì độc lập, tự do của tổ quốc và chủ nghĩa xã hội, nhiệm vụ nào cũng hoàn

thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng" [67, tr.121]. Theo
Hồ Chủ Tịch, người cách mạng mưu sự nghiệp lớn phải có đạo đức cách mạng làm
nền tảng. Coi đạo đức là gốc Người đã sớm nhận rõ vai trò, động lực của đạo đức
đối với sự phát triển xã hội. Đây là đạo đức để hành động, đấu tranh cho lợi ích
chung của xã hội và để tu dưỡng bản thân trong đời sống hàng ngày chứ không phải
đạo đức trừu tượng, thoát ly thực tiễn. Đạo đức ấy là đạo đức cần thiết cho con
người trong tu dưỡng và trong đấu tranh cách mạng vì hạnh phúc của nhân dân. Bởi
lẽ, với những công chức đặt quyền lợi cá nhân lên trên quyền lợi tập thể, lười biếng,
tham nhũng, ức hiếp nhân dân; những người bàng quan đứng ngoài thời cuộc thì
không thể là nhân tố tích cực trong việc góp phần xây dựng một xã hội mới. Phải có
những con người một lòng trung thành với mục tiêu lý tưởng của dân tộc, những
người có kiến thức, biết vì nhân dân quên mình, vì chủ nghĩa xã hội thì sự nghiệp
cách mạng mới thành công. Đề cập đến tư cách của người cách mạng, người nêu ra
ba mối quan hệ chủ yếu:
Đối với mình chớ tự kiêu, tự đại (tự kiêu, tự đại là khờ dại, là thoái
bộ); luôn cầu tiến bộ; luôn tự kiểm điểm, tự phê bình. Đối với người, trừ
bọn việt gian bán nước, phát xít thực dân ác quỷ , phải kiên quyết đánh
đổ, còn đối với người khác phải yêu quý, kính trọng, giúp đỡ. Phải học
người và giúp người tiến tới, chân thành, khiêm tốn, thật thà, đoàn kết. Đối
với việc, phải để công việc nước lên trên, trước việc tư, việc nhà. Đã phụ
trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi, cho đến chốn, không
sợ khó nhọc, không sợ nguy hiểm. Bất kỳ việc to, việc nhỏ phải có sáng kiến,
phải có kế hoạch, phải quyết làm cho thành công [67, tr.263-264].
Phẩm chất chính là giá trị và tính chất tốt đẹp của con người [78]. Phẩm chất
đó được biểu hiện ở mục tiêu, lý tưởng, đạo đức, lối sống, tinh thần, thái độ đối với


xã hội, đối với con người. Là công chức UBND (công chức hành chính nhà nước) những con người "đặc biệt" trong xã hội thì đòi hỏi về phẩm chất đối với họ khắt
khe hơn nhiều. Bởi lẽ, họ được sử dụng quyền lực nhà nước để phục vụ nhân dân,
phụng sự tổ quốc. Đối với họ, phẩm chất không chỉ được xã hội đánh giá trên cơ sở

những tiêu chuẩn đạo đức địa phương vùng miền họ sinh sống đặt ra mà những tiêu
chuẩn ấy đã được pháp luật quy định cụ thể và bản thân họ bắt buộc phải thực hiện.
Trong thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phẩm chất của công chức
UBND cấp tỉnh được thể hiện ở phẩm chất chính trị và phẩm chất đạo đức.
Phẩm chất chính trị của công chức UBND cấp tỉnh được thể hiện ở mức độ
nhận thức, ý thức chấp hành và kỹ năng vận dụng được những tư tưởng, đường lối
chủ trương của Đảng; chính sách pháp luật của Nhà nước vào trong công việc cũng
như trong đời sống xã hội. Cụ thể là nhận thức đúng đắn về đường lối xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội dựa trên nền tảng chủ nghĩa MacLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Từ đó, biết vận dụng và phát huy những giá trị tư
tưởng trên vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Tuyệt đối trung thành với tổ quốc, với
Đảng, với nhân dân; sẵn sàng chiến đấu hi sinh bảo vệ độc lập, tự do, chủ quyền và
toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, tin tưởng và ra sức bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa và công cuộc đổi mới hiện nay. Luôn vững vàng, kiên định trên cơ sở
lập trường của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Nắm vững các quan
điểm lý luận, am hiểu đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước sẽ giúp mỗi công
chức UBND vững vàng trước những thách thức của cuộc sống.
Phẩm chất đạo đức của công chức UBND cấp tỉnh được thể hiện thông qua:
đạo đức cá nhân và đạo đức công vụ. Nếu như đạo đức cá nhân là điều kiện không
thể thiếu đối với một công dân tốt thì đạo đức công vụ còn là điều kiện không thể
thiếu của một quốc gia phát triển, gắn liền với đạo đức phục vụ nhân dân. Hai mặt
đạo đức này luôn gắn liền với một con người đó là "công chức ". Nói đến đạo đức
cá nhân là nói đến nguyên tắc sống và phẩm chất đạo đức tốt, tấm gương về lòng
trung thực, nói đúng sự thật, lời nói đi đôi với việc làm. Đạo đức công vụ là đạo đức
cá nhân thực hiện nhiệm vụ một cách trung thực không vụ lợi, luôn đặt lợi ích của
Đảng, Nhà nước và nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, hết lòng phục vụ nhân dân,


×