Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TẠI CHỨC Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC THUỘC TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

PHAN SƠN TRƯỜNG

THỰC TRẠNG QUẢN LÝ ĐÀO TẠO ĐẠI
HỌC TẠI CHỨC Ở CÁC CƠ SỞ GIÁO DỤC
THUỘC TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. HỒ VĂN LIÊN

TP. HỒ CHÍ MINH - 2007




MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luật Giáo dục năm 2005 đã khẳng định: “Giáo dục và đào tạo là quốc sách
hàng đầu, là sự nghiệp của Nhà nước và của toàn dân”. Mục tiêu của nền giáo dục
là “đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe,
thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội, hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp
ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.7].
Để thực hiện mục tiêu trên, hệ thống giáo dục của nước ta có nhiều ngành
học, bậc học, trong đó giáo dục đại học và sau đại học có nhiệm vụ: “Đáp ứng nhu


cầu nguồn nhân lực trình độ cao phù hợp với cơ cấu kinh tế- xã hội của thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao năng lực cạnh tranh và hợp tác bình đẳng trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế” [11, tr.104].
Về cách tổ chức đào tạo, ngành giáo dục đại học có hai phương thức đào tạo
là đào tạo chính qui và đào tạo không chính quy. Trong phương thức đào tạo không
chính quy có đào tạo tại chức (vừa làm vừa học ).
Trong mấy năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu hình thức đào
tạo đại học tại chức phát triển mạnh, qui mô đào tạo tăng nhiều lần, đã góp phần
quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ công
chức và nhu cầu học tập của nhân dân lao động trong tỉnh. Tuy nhiên, công tác quản
lý các lớp đại học tại chức đã có những bất cập, đó là: “nhiều trường đã tăng quy
mô tuyển sinh vượt quá khả năng đào tạo, mở quá nhiều lớp tại chức ở các địa
phương mà không thực hiện đúng quy chế, đúng chương trình, không đảm bảo chất
lượng đào tạo”. [1, tr.26]
Công tác quản lý đào tạo là một trong những vấn đề góp phần quyết định kết
quả đào tạo. Bản thân là một cán bộ công tác ở Phòng Giáo dục chuyên nghiệp
thuộc sở Giáo dục và Đào tạo đã nhiều năm, có một số kinh nghiệm trong quản lý
lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp. Vì vậy sau khi hoàn thành chương trình cao học
quản lý giáo dục, tôi chọn đề tài “Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức ở các
cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu” để nghiên cứu. Đề tài nghiên cứu


nhằm góp phần tạo cơ sở để quản lý tốt hình thức đào tạo đại học tại chức tại các
cơ sở giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu nhằm nâng cao kết quả đào tạo đáp
ứng tốt hơn nhu cầu nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên
địa bàn tỉnh.
Quản lý công tác đào tạo ở các trường đại học là một nhiệm vụ chủ yếu
nhưng nhiều khó khăn phức tạp đối với người Hiệu trưởng. Tuy nhiên việc quản lý
các lớp đào tạo tại chức lại càng khó khăn hơn, nhất là đối với các lớp mở tại các
địa phương. Mục tiêu của công tác quản lý này là làm sao nâng cao chất lượng và

hiệu quả đào tạo.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực trạng đề xuất các giải pháp nhằm tăng
cường công tác quản lý đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng
Tàu.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Công tác quản lý đào tạo đại học tại chức trên địa
bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại các
cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

4. Giả thuyết khoa học
- Công tác quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục thuộc tỉnh
Bà Rịa- Vũng Tàu bên cạnh những ưu điểm như đã mở được nhiều lớp học, đáp ứng
nhu cầu học tập nâng cao trình độ của cán bộ công chức còn có những hạn chế như
ngành nghề đào tạo chưa cân đối, thiếu cơ sở vật chất phục vụ đào tạo.


- Nếu đánh giá đúng thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại cơ sở
giáo dục thuộc tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, thì có thể đề xuất các giải pháp phù hợp
nhằm tăng cường công tác quản lý từ đó góp phần nâng cao kết quả đào tạo.
5. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Đề tài chỉ nghiên cứu thực trạng thuộc trách nhiệm quản lý của các cơ sở có
liên kết đào tạo đại học tại chức, không nghiên cứu phần thuộc về trách nhiệm của
các trường đại học.
6. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý đào tạo đại học tại chức.
- Khảo sát thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở giáo dục
có liên kết đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
- Đề xuất các giải pháp tăng cường công tác quản lý đào tạo đại học tại chức

trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.
7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp luận
- Tiếp cận hệ thống-cấu trúc: là cách thức nghiên cứu đối tượng như một hệ
thống tòan vẹn, phát triển động, tự hình thành và phát triển thông qua việc giải
quyết mâu thuẫn nội tại do sự tương tác hợp quy luật của các thành tố tạo ra. Qua đó
phát hiện các yếu tố sinh thành, yếu tố bản chất và lôgic phát triển của đối tượng.
- Quan điểm lịch sử: khi xem xét một sự vật, hiện tượng chúng ta phải xem
xét quá trình lịch sử của nó. Từ đó thấy được mối liên hệ giữa quá khứ, hiện tại và
tương lai của đối tượng nghiên cứu.
- Quan điểm thực tiễn: Từ việc khảo sát thực trạng quản lý ở các cơ sở liên
kết đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu thấy được những
điểm mạnh, điểm yếu từ đó đề ra được các giải pháp khả thi nhằm tăng cường công
tác quản lý.


7.2. Phương pháp cụ thể
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Dùng phương pháp này để nghiên cứu tài liệu làm cơ sở lý luận cho đề tài
nghiên cứu. Phương pháp này bao gồm các phương pháp như phân tích, tổng hợp,
hệ thống hóa tài liệu.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp trao đổi- phỏng vấn: Qua việc trao đổi trực tiếp với một số cán
bộ quản lý và giảng viên nhằm thu thập thông tin để làm rõ thực trạng quản lý đào
tạo tại cơ sở.
Phương pháp điều tra bằng phiếu: nhằm thu thập thông tin qua phiếu hỏi ý
kiến cán bộ quản lý, giảng viên và học viên.
Xây dụng bộ công cụ nghiên cứu: bộ công cụ điều tra gồm 2 mẫu:
- Mẫu 1: Phiếu hỏi 80 cán bộ quản lý và giảng viên tham gia giảng dạy các
lớp đại học tại chức tại các cơ sở liên kết đào tạo.

- Mẫu 2: Phiếu hỏi dành cho 337 học viên. Thăm dò ý kiến học viên 2 ngành
Kinh tế và tiếng Anh tại Trung tâm giáo dục thường xuyên tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu
là Trung tâm có quá trình liên kết đào tạo đại học tại chức lâu nhất và có số học
viên đông nhất (Trung tâm có chức năng chủ yếu là liên kết đào tạo đại học tại
chức).
Các phiếu hỏi nhằm nghiên cứu thực trạng quản lý đào tạo tại chức ở các cơ
sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, đồng thời thu thập thêm ý kiến về
các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo.
7.2.3. Các phương pháp bổ trợ
7.2.3.1. Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia
Tác giả đã gặp gỡ, trao đổi ý kiến với cán bộ quản lý ở các cơ sở giáo dục
trên địa bàn.
7.2.3.2. Phương pháp quan sát
Quan sát phòng học, thiết bị phục vụ giảng dạy và học tập, xưởng trường,
thư viện, ký túc xá.


Quan sát việc tổ chức lớp học, tình hình sĩ số học viên, tình hình tổ chức
kiểm tra và thi hết học phần, thi tuyển sinh, thi tốt nghiệp.
7.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Dùng phương pháp thống kê tóan học để xử lý kết quả điều tra khảo sát
nhằm đánh giá đúng thực trạng và đề ra phương hướng nâng cao hiệu quả công tác
quản lý.
Xử lý số liệu theo phương pháp thống kê tóan học: sau khi thu thập các phiếu
thăm dò ý kiến của học viên và của cán bộ giảng dạy, cán bộ quản lý tại địa
phương, tác giả sử dụng phầm mềm SPSS for Windows xử lý số liệu, tính giá trị
trung bình ( X ) và độ lệch chuẩn  (Standard deviation) nhằm đánh giá thực trạng
quản lý đào tạo đại học tại chức ở các cơ sở giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà RịaVũng Tàu.

8. Cấu trúc luận văn

Luận văn gồm các phần sau:
- Phần mở đầu: Giới thiệu khái quát về đề tài, mục đích nghiên cứu,
nhiệm vụ nghiên cứu, phạm vi nghiên cứu…
- Phần kết quả nghiên cứu: Gồm 2 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý đào tạo đại học tại chức
Chương 2: Thực trạng quản lý đào tạo đại học tại chức tại các cơ sở
giáo dục trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu
- Kết luận và kiến nghị
- Tài liệu tham khảo
- Phụ lục


Chương I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ
ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC TẠI CHỨC

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trên thế giới, các trường đại học đã có từ lâu , đối với nước ta có thể nói
Quốc Tử Giám được mở năm 1076 là trường đại học đầu tiên. Trường đại học đó
tồn tại suốt thời kỳ phong kiến ở nước ta. Đến năm 1902, trường Y dược là trường
Cao đẳng đầu tiên được thành lập ở Hà Nội. Một số trường cao đẳng và đại học
khác được thành lập vào những năm 20 của Thế kỷ XX và đến năm 1939 được tập
hợp lại thành trường ĐH Đông Dương đặt tại Hà Nội, chung cho cả Việt Nam, Lào,
Cămpuchia. Đến năm 1945 cả Đông Dương có 5 trường đại học, cao đẳng.
Trong những năm kháng chiến chống Pháp (1946- 1954) một số trường ĐH,
CĐ đã sơ tán từ Thủ đô Hà Nội lên Việt Bắc để tiếp tục đào tạo, gồm có ĐH Y
khoa, CĐ Công chính, CĐ Mỹ thuật. Từ năm 1951- 1954 đã hình thành 3 trung tâm
ĐH: một trung tâm ở Việt Bắc với trường ĐH Y khoa, một ở Thanh Hoá với trường
dự bị Đại học, một gọi là Khu học xá Trung ương với Khoa khoa học cơ bản và
trường Sư phạm cao cấp đặt tại Nam Ninh (Trung Quốc). Năm 1954, ba trung tâm

đại học từ vùng kháng chiến và từ nước ngoài được chuyển về Hà Nội.


Đến năm 1956, ở miền Bắc có các các trường đại học sau: ĐH Tổng hợp Hà
Nội, ĐH Sư phạm Hà Nội, ĐH Bách khoa Hà Nội, ĐH Y khoa Hà Nội, ĐH Kinh tế
Hà Nội, CĐ Mỹ thuật.
Đến năm học 1974- 1975, ở miền Bắc đã có 30 trường Đại học với 8400 cán
bộ giảng dạy, trong đó có 8,9 % cán bộ có học vị Phó tiến sĩ và 56000 sinh viên.
Ở miền Nam, đến năm 1974- 1975 có 4 Viện Đại học công lập (Sài Gòn,
Bách khoa Thủ Đức, Huế, Cần Thơ), 3 Viện ĐH Cộng đồng công lập đào tạo 2 năm
(Mỹ Tho, Nha Trang, Đà Nẵng) và 11 Viện ĐH tư với tổng số 166000 sinh viên.
Sau khi thống nhất đất nước, các trường ĐH ở 2 miền Nam Bắc đã được sắp
xếp lại để trở thành một hệ thống ĐH thống nhất trong cả nước.
Trong đào tạo đại học bên cạnh phương thức chính quy có phương thức
không chính quy như tại chức (vừa học vừa làm), chuyên tu, từ xa… để đào tạo
nâng cao trình độ cho cán bộ công chức, viên chức và những người đang làm việc
trong các doanh nghiệp.
Hiện nay, theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong năm học 20022003, hệ thống giáo dục ĐH nước ta gồm 111 trường ĐH và 119 trường CĐ, trong
đó có 15 trường ĐH dân lập, 2 trường ĐH bán công, 2 trường CĐ dân lập, 4 trường
CĐ bán công, 9 trường CĐ Cộng đồng. Tổng số sinh viên là 1.020.670 trong đó
64% chính qui, 36 % không chính qui; đạt tỷ lệ 124,7 SV/ 1 vạn dân. Như vậy, tính
từ năm 1945 đến nay sau 60 năm số lượng các trường ĐH, CĐ của nước ta đã tăng
trên 40 lần (230 trường so với 5 trường vào năm 1945), số sinh viên tăng hàng ngàn
lần.
Vấn đề liên kết đào tạo xuất hiện trong khỏang 20 năm gần đây (Báo tuổi trẻ
ngày 24/2/2007). Trên địa bàn tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu, lớp đại học tại chức đầu tiên
do Sở Tài chính liên kết với trường ĐH Tài chính kế tóan TP Hồ Chí Minh mở vào
năm 1986. Sau đó có một số lớp khác, quy mô nhỏ. Trong 5 năm qua, hình thức liên
kết đào tạo đại học tại chức trên địa bàn tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu phát triển mạnh. Từ
đó vấn đề quản lý các lớp đào tạo tại chức nhất là các lớp mở tại địa phương trở nên

cấp thiết.


Trong những năm gần đây, đã có nhiều nhà nghiên cứu lý luận và thực tiễn
quan tâm đến vấn đề chất lượng đào tạo đại học, có nhiều bài báo viết về vấn đề
này. Tác giả Phạm Thành Nghị đã đề cập đến vấn đề quản lý chất lượng đại học.
Tác giả Nguyễn Cảnh Toàn đã có bài viết về vấn đề quản lý đào tạo từ xa. Các nhà
nghiên cứu đã nêu lên nhiều phương hướng cải tiến nội dung và phương pháp dạy
học và không ngừng cải tiến công tác quản lý để từ đó nâng cao chất lượng đào tạo.
Tuy nhiên, các tác giả chỉ nêu các biện pháp chung chưa nêu các biện pháp quản lý
đối với các lớp đại học tại chức liên kết mở tại các địa phương.
Tác giả Lâm Quang Thiệp (nguyên Vụ trưởng vụ Đại học- Bộ GD & ĐT) có
bài: “Một số giải pháp nhằm đảm bảo chất lượng cho hệ thống giáo dục đại học” [9,
tr.79] trong đó đề cập đến một số giải pháp về tổ chức, quản lý chất lượng giáo dục
đại học chính quy và không chính quy.
Tác giả Mai Lan (Báo Sài Gòn giải phóng, ngày 16/12/2006) có bài: “Học tại
chức- Mục đích gì?” đề cập đến vấn đề chương trình đào tạo, cách thức tổ chức đào
tạo đại học tại chức và đề nghị phải thiết kế lại tòan bộ hệ thống “vừa học vừa làm”.
Tác giả Trần Duy Hiệp ở trường Đại học Sư phạm Kỹ thuật Nam Định có bài
“Vừa học vừa làm” (Báo Giáo dục và thời đại, số Xuân Đinh Hợi), nêu một số ý
kiến về chủ trương, cách nhìn nhận, đánh giá đối với hình thức đào tạo đại học vừa
học vừa làm.
Tuy vậy, đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào về vấn đề quản lý
các lớp liên kết đào tạo đại học tại chức tại tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

1.2. Đào tạo đại học tại chức
1.2.1 Khái niệm
1.2.1.1. Đào tạo
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học- Nhà xuất bản Đà Nẵng
năm 2003: Đào tạo là làm cho trở thành người có năng lực theo những tiêu chuẩn

nhất định.


Theo Từ điển Giáo dục học- Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa- Hà Nội năm
2001 thì đào tạo có hai nghĩa:
1) Là quá trình chuyển giao có hệ thống, có phương pháp những tri thức,
những kỹ năng, kỹ xảo nghề nghiệp chuyên môn, đồng thời bồi dưỡng những phẩm
chất đạo đức cần thiết và chuẩn bị tâm thế cho người học đi vào cuộc sống lao động
tự lập và góp phần xây dựng và bảo vệ đất nước. Hình thức tổ chức đào tạo cơ bản
là các cơ sở giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân, ngòai ra còn có các hình
thức đào tạo thường xuyên ngày càng được mở rộng như đào tạo tại chức, đào tạo
từ xa, tự học có hướng dẫn… nhằm đáp ứng như cầu đa dạng của xã hội. Ngày nay
đào tạo không còn là quá trình chuyển giao một chiều, mà còn bằng các phương tiện
dạy học hiện đại, các cơ đào tạo đang dần dần tiến tới hợp tác song phương với
người học để giúp họ chủ động, tích cực, tự giác chiếm lĩnh tri thức, trang bị kiến
thức nghề nghiệp chuyên môn. Đó là quá trình đào tạo được chuyển thành quá trình
tự đào tạo của người học. Chỉ khi nào đạt được sự chuyển biến như vậy thì hiệu quả
đào tạo mới cao và mới có lợi ích thiết thực cho bản thân và cho xã hội.
Ở nước ta trình độ đào tạo được chia thành các bậc: Công nhân từ bậc 1 đến
bậc 7) , Trung cấp (Trung cấp chuyên nghiệp, Trung cấp nghề), Cao đẳng, Đại học
và sau Đại học (Thạc sỹ, Tiến sỹ).
2) Cách tiến hành hỗ trợ, bồi dưỡng nhằm nâng cao năng lực phẩm chất phù
hợp với nhu cầu đòi hỏi của cơ quan, tổ chức.

1.2.1.2. Đào tạo đại học
Đào tạo đại học là hình thức đào tạo được thực hiện từ 4 đến 6 năm học tùy
theo ngành nghề đào tạo đối với những người đã có bằng tốt nghiệp Trung học phổ
thông hoặc bằng tốt nghiệp Trung cấp; từ 2,5 năm đến 4 năm đối với người có bằng
Trung cấp cùng chuyên ngành; từ 1,5 năm đến 2 năm đối với người có bằng Cao
đẳng cùng chuyên ngành.

Theo Luật Giáo dục năm 2005, mục tiêu của giáo dục đại học là: “Đào tạo
người lao động có phẩm chất chính trị, đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có


kiến thức và năng lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có
sức khỏe đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [4, tr.29-30].

1.2.1.3. Đào tạo đại học tại chức
Theo Từ điển Giáo dục học- Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa- Hà Nội năm
2001, đào tạo tại chức là phương thức đào tạo dành cho những người đang làm việc
tại cơ quan, xí nghiệp … có nhu cầu học tập để đạt tới trình độ học vấn, chuyên
môn, nghề nghiệp nhất định dưới các hình thức không tập trung, ngòai giờ hành
chính là chủ yếu. Mỗi khóa học thường kéo dài gấp rưỡi thời gian so với khóa học
chính quy và do người học nhận tài liệu về tự học là chính, chỉ khi nào cần thiết mới
tập trung đến nghe giáo viên giải đáp thắc mắc và phụ đạo. Học viên tại chức phải
thi và được cấp bằng tốt nghiệp có giá trị tương đương với cấp học chính quy.
Đối tượng tuyển sinh khác với tuyển sinh chính quy: tuyển người đã làm việc
hai năm trở lên. Hình thức tổ chức học tập khác với chính quy.
1.2.2. Mục tiêu của đào tạo tại chức
Trong đào tạo nói chung và đào tạo đại học tại chức nói riêng, mục tiêu đào
tạo có hai lọai là mục tiêu hệ thống và mục tiêu nhân cách.
Mục tiêu của hệ thống đào tạo đại học tại chức là góp phần mở rộng quy mô
đào tạo đại học tạo điều kiện cho cán bộ công chức và người lao động học tập nâng
cao trình độ đáp ứng yêu cầu của công việc hoặc nguyện vọng chuyển đổi nghề
nghiệp; góp phần thực hiện phương châm học liên tục, học suốt đời, xây dựng “xã
hội học tập”.
Mục tiêu nhân cách của đào tạo đại học tại chức cũng như mục tiêu của đào
tạo Đại học chính quy tập trung, đó là: “Đào tạo người học có phẩm chất chính trị,
đạo đức, có ý thức phục vụ nhân dân, có kiến thức và năng lực thực hành nghề
nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, đáp ứng yêu cầu xây dựng và

bảo vệ Tổ quốc.” [4, tr.29-30].
Từ mục tiêu chung nói trên, hệ thống đào tạo tại chức phải đào tạo ra những
con người năng động, sáng tạo, tự chủ, có óc phê phán, có năng lực giải quyết vấn


đề mới nảy sinh, có năng lực tự học, tự nghiên cứu suốt đời, có năng lực tạo nghiệp,
tiến thân, lập nghiệp trong thị trường sức lao động.

1.2.3. Chương trình đào tạo đại học tại chức
Có thể nói chương trình đào tạo là công cụ để hiện thực hóa mục tiêu đào
tạo. Chương trình đào tạo đại học tại chức được xây dựng để thực hiện mục tiêu đào
tạo đại học tại chức. Do mục tiêu đào tạo tại chức cũng như đào tạo chính quy nên
chương trình đào tạo đại học tại chức cũng giống như chương trình đào tạo chính
quy, chương trình này do các trường đại học biên sọan dựa trên chương trình khung
do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định. Chương trình được cấu trúc từ các học phần
thuộc hai khối kiến thức: giáo dục đại cương và giáo dục chuyên nghiệp. Tuy nhiên
do đối tượng đào tạo của đại học tại chức là những người đang làm việc nên trong
chương trình đào tạo thường được miễn môn Giáo dục quốc phòng và môn Giáo
dục thể chất.
Theo ý kiến của tác giả, do đặc điểm đối tượng học viên tại chức và mục tiêu
đào tạo, nên chương trình đào tạo tại chức cần có tính thực hành cao, tránh tình
trạng nặng về lý thuyết mang tính hàn lâm. Ngòai ra đối với các lớp mở ở địa
phương chương trình cần gắn với thực tế của tỉnh. Đối với tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu là
tỉnh có thế mạnh về công nghiệp dầu khí, dịch vụ du lịch và thủy sản. Do đó chương
trình đào tạo cần gắn với các đặc điểm này để gắn đào tạo với sử dụng, sớm phát
huy hiệu quả đào tạo.
1.2.4. Hình thức đào tạo tại chức
Hiện nay, có hai lọai hình thức đào tạo đại học tại chức là đào tạo tại trường
đại học và liên kết đào tạo tại các địa phương, thường là cách xa nơi trường đóng.
Ngành đào tạo tại chức giống như đào tạo đại học chính quy, nhưng các lớp

mở ở địa phương chủ yếu là các ngành Kinh tế, Luật, Ngọai ngữ, Sư phạm (những
ngành ít sử dụng thiết bị). Khác với đào tạo chính quy tập trung học liên tục, đại học
tại chức là hình thức vừa làm vừa học. Có nhiều cách thức tổ chức học tập khác
nhau như mỗi quý học một tháng, mỗi tháng học một tuần hoặc học vào thứ bảy,
chủ nhật.


1.2.5. Liên kết đào tạo đại học tại chức
Là phương thức phối hợp giữa một trường đại học với một cơ sở giáo dục ở
địa phương thông qua hợp đồng đào tạo nhằm phát huy năng lực cơ sở vật chất,
thiết bị và khả năng quản lý của cơ sở, đưa lớp học gần với học viên, tạo điều kiện
thuận lợi cho người học, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ, công chức của địa
phương, phù hợp với hòan cảnh và điều kiện của học viên.

1.2.6. Các cơ sở giáo dục
1.2.6.1. Khái niệm
Theo Luật Giáo dục năm 2005 (có hiệu lực từ 01/01/2006), hệ thống giáo
dục quốc dân nước ta gồm có:
- Giáo dục mầm non
- Giáo dục phổ thông (gồm Tiểu học, Trung học cơ sở và Trung học phổ
thông).
- Giáo dục nghề nghiệp (gồm Trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề).
- Giáo dục đại học (bao gồm Cao đẳng, Đại học và sau Đại học). Trong đó
giáo dục đại học được thực hiện tại các cơ sở giáo dục như sau:
+ Trường cao đẳng: đào tạo từ trình độ Cao đẳng trở xuống.
+ Trường đại học: đào tạo trình độ Cao đẳng, Đại học, Thạc sỹ, Tiến sỹ.
+ Viện nghiên cứu khoa học: đào tạo trình độ Tiến Sỹ, phối hợp với trường
đại học đào tạo trình độ Thạc sỹ (khi được Chính phủ giao).
Trong hệ thống giáo dục quốc dân, bên cạnh hệ thống giáo dục chính quy
còn có giáo dục thường xuyên. Theo điều 46 Luật Giáo dục năm 2005, cơ sở giáo

dục thường xuyên gồm có:
+ Trung tâm Giáo dục thường xuyên được tổ chức tại cấp tỉnh và cấp huyện.
+ Trung tâm Học tập cộng đồng được tổ chức tại cấp xã, phường, thị trấn.
Theo điểm 3, điều 16 trong Nghị định số 75/2006/NĐ-CP ngày 02 tháng 8
năm 2006 của Chính phủ về: “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều


của Luật Giáo dục” thì “nhà trường và cơ sở giáo dục khác trong hệ thống giáo dục
quốc dân được gọi chung là cơ sở giáo dục” [7, tr.10].

1.2.6.2. Chức năng của các cơ sở giáo dục
Theo Từ điển tiếng Việt- Viện ngôn ngữ học- Nhà xuất bản Đà Nẵng 2003,
thì chức năng có hai nghĩa:
-

Họat động, tác dụng bình thường hoặc đặc trưng của một cơ quan, một hệ cơ

quan nào đó trong cơ thể.
-

Tác dụng, vai trò bình thường hoặc đặc trưng của một người nào đó, một cái

gì đó.
Chức năng của các cơ sở giáo dục ở đây cũng giống như chức năng của
trường học đó là tổ chức, quản lý quá trình đào tạo, nhằm thực hiện mục tiêu đào
tạo của từng cấp học, ngành học.

1.2.6.3. Nhiệm vụ của các cơ sở giáo dục
Theo Điều lệ, trường đại học có mười nhiệm vụ như sau:
- Đào tạo nhân lực có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có kiến thức và năng

lực thực hành nghề nghiệp tương xứng với trình độ đào tạo, có sức khỏe, có năng
lực thích ứng với việc làm trong xã hội, tự tạo việc làm cho mình và cho những
người khác, có khả năng hợp tác bình đẳng trong quan hệ quốc tế, đáp ứng yêu cầu
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Tiến hành nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; kết hợp đào tạo
với nghiên cứu khoa học và sản xuất, dịch vụ khoa học và công nghệ theo quy định
của Luật Khoa học và Công nghệ, Luật Giáo dục và các quy định khác của pháp
luật.
- Giữ gìn và phát triển những di sản và bản sắc văn hóa dân tộc.
- Phát hiện và bồi dưỡng những nhân tài trong người học và trong đội ngũ
giảng viên của trường.


- Quản lý giảng viên, cán bộ, nhân viên; xây dựng đội ngũ giảng viên của
trường đủ về số lượng, cân đối về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành nghề, cơ cấu tuổi
và giới.
- Tuyển sinh và quản lý người học.
- Phối hợp với gia đình người học, các tổ chức, cá nhân trong họat động giáo
dục.
- Tổ chức cho giảng viên, cán bộ, nhân viên và người học tham gia các họat
động phù hợp với ngành nghề đào tạo và nhu cầu của xã hội.
- Quản lý, sử dụng đất đai, trường sở, trang thiết bị và tài chính theo quy định
của pháp luật.
- Thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật.[5, tr 3-4]

1.3. Quản lý đào tạo đại học tại chức
1.3.1. Khái niệm quản lý, quản lý giáo dục, quản lý đào tạo
Khái niệm quản lý là khái niệm chung, khái niệm này được dùng trong cả
quản lý xã hội, quản lý giới vô sinh cũng như quản lý giới hữu sinh. Riêng quản lý
xã hội lại có thể chia làm ba loại hình hoạt động chủ yếu là quản lý sản xuất, quản

lý xã hội- chính trị và quản lý đời sống tinh thần. Trong phạm vi đề tài nghiên cứu
này chỉ bàn đến lĩnh vực quản lý giáo dục.
Trước khi đi sâu tìm hiểu khái niệm quản lý giáo dục, chúng ta hãy tìm hiểu
một số định nghĩa về quản lý:
-Theo F Taylor (1856-1915) người Mỹ, người đề ra học thuyết quản lý theo
khoa học thì “quản lý là biết được chính xác điều bạn muốn người khác làm và sau
đó hiểu được rằng họ đã hoàn thành công việc một cách tốt nhất và rẻ nhất” [17,
tr.89].
- Theo Henry Fayol (1841-1925) người Pháp, người đưa ra thuyết quản lý
hành chính, ông định nghĩa “quản lý hành chính là dự đoán và lập kế hoạch, tổ
chức, điều khiển, phối hợp và kiểm tra “ [17, tr.108]
 Quản lý giáo dục: Là một loại quản lý xã hội chuyên quản lý tổ chức hoạt
động của ngành giáo dục trên phạm vi cả nước hoặc từng địa phương, từng trường


học, nhằm mục đích nâng cao chất lượng và hiệu quả của việc phát triển nền giáo
dục và của việc giáo dục học viên trong các trường học.
Như vậy, quản lý giáo dục có thể được xem xét ở hai cấp độ khác nhau là
quản lý vĩ mô (quản lý hệ thống giáo dục) và cấp độ vi mô (quản lý nhà trường),
trong phạm vi đề tài này chỉ tìm hiểu quản lý giáo dục ở cấp độ vi mô.
Theo tác giả Trần Kiểm thì ở cấp độ vi mô “quản lý giáo dục được hiểu là hệ
thống những tác động tự giác (có ý thức, có mục đích, có kế họach, có hệ thống,
hợp quy luật) của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, nhân viên, tập thể học sinh,
cha mẹ học sinh và các lực lượng xã hội trong và ngòai nhà trường nhằm thực hiện
có chất lượng và hiệu quả mục tiêu giáo dục của nhà trường” [21, tr.36].
 Quản lý cơ sở giáo dục
Như ở phần 1.2.6 đã đề cập, hệ thống giáo dục nước ta gồm nhiều cơ sở giáo
dục khác nhau. Mỗi cơ sở giáo dục có chức năng nhiệm vụ khác nhau. Riêng về đào
tạo đại học tại chức là một phương thức đào tạo của trường đại học. Quản lý cơ sở
giáo dục ở đây là vấn đề quản lý của trường đại học. Để hiểu rõ vấn đề quản lý

trường đại học trước hết ta cần tìm hiểu vấn đề quản lý trường học nói chung.
Quản lý trường học về cơ bản khác với quản lý các lĩnh vực khác của đời
sống xã hội và sản xuất. Nó không chỉ đơn giản ở việc phân công phối hợp các lực
lượng các mối quan hệ mà vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu là những tác động sư
phạm đến toàn bộ quá trình giáo dục. Vì vậy quản lý trường học vừa có bản chất sư
phạm vừa có bản chất xã hội.
Quản lý trường học có thể hiểu là một hệ thống tác động sư phạm hợp lý và
có hướng đích của chủ thể quản lý đến tập thể giáo viên, học sinh và các lực lượng
xã hội trong và ngoài nhà trường, nhằm huy động và phối hợp sức lực, trí tuệ của họ
vào mọi mặt hoạt động của nhà trường, hướng vào việc hoàn thành có chất lượng và
hiệu quả mục tiêu dự kiến. Tuy nhiên xuất phát từ vai trò chủ đạo của giáo viên,
quản lý trường học chủ yếu là tác động đến tập thể giáo viên, để tổ chức và phối
hợp hoạt động của họ trong quá trình giáo dục học sinh theo mục tiêu đào tạo.
Theo GS VS Phạm Minh Hạc: quản lý trường học là thực hiện đường lối
giáo dục của Đảng trong phạm vi trách nhiệm của mình, tức là đưa nhà trường vận


hành theo nguyên lý giáo dục, tiến tới mục tiêu giáo dục, mục tiêu đào tạo đối với
ngành giáo dục, với thế hệ trẻ và với từng học sinh.
Từ các định nghĩa về quản lý đã nêu ở trên, ta thấy quản lý bao giờ cũng là
tác động hướng đích, có mục tiêu xác định. Quản lý thể hiện mối quan hệ giữa hai
bộ phận đó là chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là cá nhân hoặc
tổ chức làm nhiệm vụ quản lý, còn đối tượng quản lý là bộ phận chịu sự quản lý,
đây là quan hệ ra lệnh, phục tùng, không đồng cấp và có tính chất bắt buộc.
Đào tạo tại chức là một phương thức đào tạo của trường đại học. Do vậy, chủ
thể quản lý đào tạo đại học tại chức là Hiệu trưởng trường đại học. Theo Điều lệ
trường đại học, Hiệu trưởng là người chịu trách nhiệm tòan bộ quá trình đào tạo của
nhà trường. Tuy nhiên đối với các lớp liên kết ở địa phương, theo quy định của Bộ
GD & ĐT thì: “Các cơ sở đặt lớp cần tham gia giám sát việc tổ chức quản lý giảng
dạy, học tập, kịp thời đề xuất và phản ánh với nhà trường, vơi Bộ GD & ĐT, Bộ chủ

quản trường những thiếu sót cần bổ khuyết, điều chỉnh” [8, tr.4]. Như vậy đối với
các lớp đại học tại chức do các trường đại học liên kết mở tại địa phương có hai
chủ thể đó là Hiệu trưởng và người đứng đầu cơ sở giáo dục tại địa phương mở lớp.
Trách nhiệm quản lý của hai chủ thể này được quy định trong hợp đồng đào tạo do
hai bên thỏa thuận ký kết.
Trong quản lý đào tạo đại học tại chức, khách thể quản lý là quá trình dạy
học, gồm hai họat động chủ yếu là họat động dạy và họat động học, ngòai ra còn có
các dịch vụ phục vụ đào tạo.
Đối tượng quản lý là giảng viên, học viên ở các lớp tại chức và các điều kiện
vật chất đảm bảo cho họat động đào tạo.
Như vậy quản lý đào tạo khác với quản lý dạy học, nó bao hàm cả quản lý
dạy học bởi vì dạy học là quá trình gồm hai họat động chủ yếu là họat động dạy của
thầy và họat động học của trò. Quản lý dạy học là quản lý hai họat động này. Còn
quản lý đào tạo là quản lý tất cả các khâu của quá trình đào tạo từ công tác tuyển
sinh, tổ chức họat động dạy học, quản lý nội dung chương trình giảng dạy, quản lý
học sinh, quản lý cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy…


1.3.2. Các chức năng quản lý đào tạo
Trong phần 1.2.6.2 đã đề cập đến khái niệm chức năng. Nói chung chức
năng quản lý là hình thức tồn tại của quản lý. Chức năng quản lý nảy sinh và là kết
quả của quá trình phân công lao động, là bộ phận tạo thành của họat động quản lý
tổng thể, được tách riêng, có tính chất chuyên môn hóa.
Về số lượng các chức năng quản lý, nói chung các tác giả nghiên cứu về
quản lý hầu hết đều đề cập đến bốn chức năng sau:
-

Chức năng họach định.

-


Chức năng tổ chức.

-

Chức năng điều khiển.

-

Chức năng kiểm tra.
Sau đây chúng ta sẽ xem xét lần lượt các chức năng đó trong quản lý đào tạo.

1.3.2.1. Chức năng họach định
Trong một tập thể lao động, mọi người liên kết với nhau họat động thực hiện
nhiệm vụ của tập thể và của bản thân. Nhiệm vụ chủ yếu của người quản lý là phải
làm cho mọi người biết nhiệm vụ của mình, biết phương pháp họat động nhằm thực
hiện có hiệu quả mục tiêu của tổ chức. Đó chính là chức năng họach định của nhà
quản lý, nó bao gồm xác định mục tiêu, chương trình hành động, xác định từng
bước đi, điều kiện, phương tiện cần thiết trong một thời gian nhất định của cả hệ
thống quản lý và bị quản lý.
Họach định là chức năng đầu tiên của quá trình quản lý. Nó có vai trò quan
trọng là xác định phương hướng họat động và phát triển của tổ chức, xác định các
kết quả cần đạt được trong tương lai. Họach định là một quá trình gồm các bước: dự
báo, xác định mục tiêu, xây dựng kế họach thực hiện mục tiêu.
Dự báo là công việc đầu tiên của chức năng họach định. Nó có nhiệm vụ tìm
ra hướng phát triển của nhà trường trên cơ sở nắm vững đường lối phát triển kinh
tế- xã hội, giáo dục- đào tạo của Đảng và Nhà nước. Đối với lĩnh vực đào tạo,
nhất là đào tạo tại chức ở địa phương cần nắm vững chủ trương phát triển kinhtế-



xã hội của tỉnh, hiểu rõ thị trường lao động, nhu cầu đào tạo, sự cạnh tranh, đặc
biệt phải phân tích được những điểm mạnh, yếu của nhà trường về cơ sở vật chất,
đội ngũ giảng viên, cán bộ quản lý, các nguồn kinh phí…
Chỉ có trên cơ sở phân tích kỹ nhu cầu đào tạo và khả năng của nhà trường
mới có thể dự báo đúng xu hướng họat động của nhà trường. Trên cơ sở dự báo
chiều hướng phát triển, nhà quản lý tiến hành xây dựng các mục tiêu họat động
của nhà trường.
Theo tác giả Hòang Lê Minh: họach định là một quá trình ấn định những
mục tiêu và định biện pháp tốt nhất để thực hiện mục tiêu đó [25, tr.68]. Như vậy
thực chất của họach định là xác định mục tiêu và biện pháp để đạt được mục tiêu.
Trong đào tạo đại học tại chức vấn đề xác định mục tiêu quản lý bao gồm các nội
dung sau:
1.Xác định ngành nghề cần tổ chức đào tạo tại chức, nhất là với các lớp mở ở
địa phương cần gắn với nhu cầu nhân lực của địa phương đó.
2. Xác định quy mô tuyển sinh.
3. Phát triển số lượng và nâng cao chất lượng đào tạo.
4. Xây dựng đội ngũ giảng viên và cán bộ quản lý.
5. Xây dựng, bảo quản cơ sở vật chất.
6. Xây dựng, hòan thiện bộ máy quản lý bao gồm các tổ chức Đảng, cơ quan
Nhà nước và các đòan thể quần chúng trong nhà trường, để xây dựng trường vững
mạnh.
Sau khi xác định được mục tiêu, nhà quản lý phải đề ra được các biện pháp
có tính khả thi cao để thực hiện những mục tiêu đã đề ra. Đó là những nội dung
chủ yếu của chức năng hoạch định trong quản lý nói chung và trong quản lý đào
tạo nói riêng.

1.3.2.2. Chức năng tổ chức trong quản lý đào tạo
Tổ chức là chức năng chung của quản lý, liên quan đến các họat động thành
lập nên các bộ phận trong tổ chức để đảm nhận những họat động cần thiết, xác



định các mối quan hệ về nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của bộ phận đó. Tổ
chức nói chung là quá trình sắp xếp và phân bổ công việc, quyền hành và các
nguồn lực cho các bộ phận và thành viên trong hệ thống nhằm đạt tới các mục
tiêu của tổ chức. Những mục tiêu khác nhau đòi hỏi những cấu trúc tổ chức khác
nhau.
Trong đào tạo tại chức, chức năng tổ chức được thể hiện ở chỗ sắp xếp, bố trí
kế họach giảng dạy, phân công nhiệm vụ cho giảng viên sao cho hợp lý, tổ chức
các họat động như kiểm tra, thi, công nhận tốt nghiệp, tổ chức các điều kiện cơ sở
vật chất, trang thiết bị đảm bảo cho họat động dạy và học có kết quả.

1.3.2.3. Chức năng điều khiển trong quản lý đào tạo
Lãnh đạo, chỉ đạo là điều khiển, điều hành, giúp đỡ các thành viên, các bộ
phận trong tổ chức thực hiện tốt các nhiệm vụ đã được phân công.
Sau khi họach định và lập kế hoạch, người cán bộ quản lý phải điều khiển
họat động của hệ thống để đạt mục tiêu đã đề ra. Đây là quá trình sử dụng quyền lực
quản lý để tác động đến các đối tượng bị quản lý một cách có chủ đích, nhằm phát
huy hết tiềm năng của họ hướng vào việc đạt được mục tiêu của hệ thống.
Nhà quản lý là người điều khiển hệ thống, phải có khả năng ra quyết định và
điều điều khiển việc thực hiện quyết định. Muốn vậy, nhà quản lý phải có đủ các
phẩm chất và năng lực trong đó quan trọng nhất là năng lực chuyên môn và năng
lực quản lý.
Ra quyết định quản lý chính là công cụ để điều khiển hệ thống, là quá trình
xác định vấn đề và lựa chọn phương án hành dộng trong số các phương án khác
nhau.
Trong quản lý đào tạo tại chức nhà quản lý phải ra các quyết định như quyết
định về mở mã ngành đào tạo, tuyển sinh, quyết định về tổ chức quá trình giảng
dạy, phân công giảng viên, kiểm tra hết học phần, thi và xét công nhận tốt nghiệp.
Để quyết định có tính khả thi và hiệu quả cao, nhà quản lý trước khi ra quyết
định cần tính tóan cân nhắc các điều kiện như con người, cơ sở vật chất, kinh phí,

thời gian… đảm bảo thực hiện quyết định.


1.3.2.4. Chức năng kiểm tra trong quản lý đào tạo
Kiểm tra trong quản lý trường học là phương thức thu nhận thông tin về tình
hình chất lượng, nội dung, về tổ chức, về phương pháp các hoạt động đào tạo. Đó là
một hệ thống thao tác quan sát và so sánh, đánh giá xem lao động sư phạm thực tế
có phù hợp với kế hoạch, tính chất, qui tắc đã dự kiến trước hay không? Đó là sự
vạch rõ kết quả tác động của chủ thể đến khách thể, vạch rõ những lệch lạc đã phạm
phải so với các yêu cầu sư phạm và nguyên tắc tổ chức.
Kiểm tra trong họat động đào tạo tại chức có các chức năng sau:
1. Chức năng thông tin:
- Thông tin xuôi: sự truyền đạt các chuẩn mực, phổ biến các sáng kiến, kinh
nghiệm của chủ thể quản lý, đoàn kiểm tra, cho đối tượng quản lý, đối tượng kiểm
tra. Thông tin xuôi có ý nghĩa hướng dẫn hoạt động cho đối tượng quản lý nên cần
truyền đạt trước khi kiểm tra.
- Thông tin phản hồi (ngược) là những tin tức phản hồi về thực trạng của đối
tượng quản lý, môi trường hoạt động của cơ quan quản lý. Đây là chức năng thông
tin quan trọng nhất của kiểm tra đòi hỏi phải chính xác, kịp thời, chức năng này
được thực hiện qua lãnh đạo và trách nhiệm của lực lượng kiểm tra đối với đối
tượng kiểm tra.
- Yêu cầu của thông tin:
+ Thông tin phải đảm bảo tính chính xác, trung thực, phải phản ánh đúng
bản chất của sự việc hoặc diễn biến của đối tượng.
+ Đảm bảo tính đầy đủ và toàn diện.
+ Đảm bảo tính kịp thời, nhanh nhạy.
+ Thông tin từ nhiều nguồn, nhiều kênh và được chọn lọc.
+ Thông tin phải đảm bảo tính kinh tế.
+ Thông tin phải cô đọng, dễ hiểu không mập mờ hai mặt.
2. Chức năng đánh giá:

Đánh giá là đưa ra nhận định tổng hợp về các dữ kiện đã đo lường được
qua sự theo dõi thường xuyên, qua các cuộc kiểm tra và kết thúc bằng cách đối


chiếu so sánh với những tiêu chuẩn đã được xác định rõ ràng trong mục tiêu quản
lý.
Đánh giá là một khoa học và là nghệ thuật quản lý. Đánh giá trong giáo
dục là hoạt động mang tính pháp chế, được qui định trong các văn bản pháp qui
của nhà nước như Luật Giáo dục, Điều lệ nhà trường, các Qui chế của Bộ Giáo
dục và Đào tạo.
Chức năng đánh giá trong giáo dục gồm có:
a. Chức năng thông tin phản hồi: đánh giá có chức năng tạo lập thông tin
phản hồi một cách tổng hợp, toàn diện, cung cấp cho chủ thể quản lý một bức
tranh toàn cảnh, những thông tin đáng tin cậy về thực trạng tình hình đào tạo và
kết quả hoạt động của khách thể quản lý để chủ thể quản lý hoạt động có hiệu quả.
b. Chức năng lượng định giá trị: Xác định cho đối tượng quản lý một giá trị
nào đó so với mục tiêu.
c. Chức năng hướng dẫn, điều chỉnh:
Dự báo giá trị của các hoạt động đào tạo, chỉ ra mức độ đúng, độ sai lệch,
chỉ dẫn, điều chỉnh cho người quản lý cũng như người hoạt động giáo dục thực
hiện đúng mục tiêu đề ra.
d. Chức năng kích thích: đánh giá đúng sẽ kích thích tinh thần trách nhiệm,
hoàn thành nhiệm vụ, nghĩa vụ phải khắc phục khó khăn, hình thành tâm lý hứng
thú, phẩm chất tích cực, tinh thần tập thể, lòng tự trọng…
e. Chức năng giáo dục: Đánh giá tác động mạnh mẽ đến tâm lý của đối
tượng, tạo điều kiện để đối tượng phát triển phẩm chất, nhân cách, thói quen tự
phê bình, tự đánh giá đúng mình, tinh thần trách nhiệm, ý chí nỗ lực kiên trì, lòng
tự tin, trọng danh dự…
f. Chức năng xã hội: Xác định đúng giá trị chất lượng và số lượng của sản
phẩm được xem như là được sự công nhận của xã hội đối với đơn vị đào tạo. Nó

tạo ra uy tín xã hội của sản phẩm và của đơn vị đối tượng trong cộng đồng.
g. Chức năng dự báo, củng cố và phát triển: Xác định đúng giá trị, thực
trạng của hoạt động đào tạo, kết quả chất lượng sẽ cho phép dự đoán đúng hướng
phát triển trong tương lai.


3. Chức năng điều chỉnh:
Đánh giá phải dẫn đến hành động điều chỉnh. Điều chỉnh có ý nghĩa đảm bảo
thực hiện mục đích, có ý nghĩa quyết định đối với công tác kiểm tra. Hoạt động
kiểm tra nhất thiết phải đi đến hành vi điều chỉnh thì kiểm tra mới có ý nghĩa, có
giá trị. Kết quả và hiệu quả điều chỉnh chính là kết quả và hiệu quả của mục tiêu
kiểm tra.
Trong đào tạo tại chức có nhiều lọai kiểm tra, song kiểm tra chuyên môn là
chủ yếu và quan trọng nhất. Kiểm tra chuyên môn thường gồm các nội dung sau:
+ Kiểm tra việc triển khai thực hiện chương trình giảng dạy.
+ Kiểm tra hồ sơ giảng dạy.
+ Kiểm tra việc học tập của học viên.
+ Kiểm tra việc sử dụng trang thiết bị.

1.3.3. Nội dung quản lý đào tạo đại học tại chức
1.3.3.1. Quản lý chương trình đào tạo tại chức
Theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Chương trình vừa học vừa làm
trình độ đại học và cao đẳng được các trường xây dựng trên cơ sở chương trình
chính quy” [13, tr.1]. Chương trình đó quy định chuẩn kiến thức, kỹ năng, phạm vi
và cấu trúc nội dung đào tạo, phương pháp và hình thức đào tạo, cách thức đánh giá
kết quả đào tạo đối với mỗi môn học, ngành học, trình độ đào tạo. Chương trình đào
tạo được các nhà khoa học, nhà giáo giàu kinh nghiệm sọan thảo và được Bộ Giáo
dục và Đào tạo phê duyệt làm chương trình khung cho mỗi ngành học hoặc nhóm
ngành học. Khi chương trình đã được duyệt thì nó trở thành pháp lệnh mà các nhà
giáo và cán bộ quản lý có trách nhiệm phải thực hiện đúng.

Quản lý chương trình đào tạo tại chức có những nhiệm vụ chủ yếu như sau:
- Xây dựng kế họach giảng dạy: Trên cơ sở chương trình khung của Bộ Giáo
dục và Đào tạo, căn cứ vào điều kiện cụ thể của trường đại học và của địa phương,
nhà trường phải xây dựng được kế họach giảng dạy tòan khóa học. Nhà quản lý dựa
trên kế họach này tổ chức thực hiện và kiểm tra, đánh giá đồng thời có thể điều


×