Tải bản đầy đủ (.doc) (41 trang)

Nghiên cứu thực trạng nhiễm giun kim ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo và các yếu tố liên quan tại Thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 41 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới với khí hậu nóng ẩm là điều kiện rất
thuận lợi cho các bệnh giun sán phát triển quanh năm. Đặc biệt là các bệnh nhiễm
giun truyền qua đất đã và đang gây nhiều tác hại trong cộng đồng dân cư một
cách thầm lặng và lâu dài, bệnh xảy ra ở tất cả mọi lứa tuổi. Tuy nhiên thường
gặp ở trẻ em lứa tuổi từ 03 – 14 tuổi, đặc biệt là lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo.
Ở nước ta tỉ lệ nhiễm bệnh giun tròn truyền qua đất rất cao, bệnh phổ biến
thường gặp 3 loài giun. Một đặc điểm của bệnh nhiễm giun truyền qua đất ở Việt
Nam là thường nhiễm phối hợp 2-3 loại là rất cao, ở Miền Bắc tỉ lệ có thể lên tới
60-70%. Tuy nhiên tỉ lệ nhiễm tùy thuộc theo vùng, do phụ thuộc vào địa lý, khí
hậu, thổ nhưỡng, nghề nghiệp và các tập quán, thói quen sinh hoạt của từng vùng,
từng địa phương, từng dân tộc. Đặc biệt là thói quen sinh hoạt, thói quen, thiếu vệ
sinh, thiếu nước sạch của cộng đồng dân cư.
Bệnh NGĐR gây ảnh hưởng rất nhiều đến sức khỏe cộng đồng, trẻ em đặc
biệt là lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo do kiến thức về phòng chống bệnh chưa cao nên
ảnh hưởng đến sức khỏe mà trực tiếp là ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
Theo tổ chức Y Tế Thế giới( TCYTTG) đánh giá thì Ký sinh trùng đường ruột
(KSTĐR) được xem là nguyên nhân hàng đầu gây các bệnh nặng cho trẻ em và là
một trong những nguyên nhân gây tử vong cho trẻ, các bệnh ký sinh trùng đường
ruột gây ra thiếu máu, thiếu sắt, chậm phát triển thể chất và trí tuệ, giảm khả năng
học tập, tăng thời gian nghỉ học, bệnh có thể gây suy dinh dưỡng, tắc ruột, giun
chui ống mật …Ngoài các yếu tố về môi trường tự nhiên, ở các nước chậm phát
triển đặc biệt là vùng nông thôn, các yếu tố dịch tễ khác có liên quan đến nhiễm
KSTĐR là do hành vi, thói quen ăn uống, thói quen sinh hoạt, phong tục tập quán
chưa tốt. Hơn nữa, tác hại trên con người còn phụ thuộc vào cách tác động của
KSTĐR trên vật chủ, phụ thuộc vào số lượng KST cư trú tại đường tiêu hóa hoặc
mức độ tác hại còn có thể phụ thuộc vào sự đa nhiễm, điều này chưa được xác
định vì có ít công trình nghiên cứu theo hướng này.


Thành phố Phan Thiết là Trung tâm kinh tế, văn hóa, xã hội của tỉnh Bình


Thuận với diện tích 206,45 km 2 dân số 218,567, có 14 phường, 4 xã ngoại thành
và nơi đang diễn ra nhanh quá trình đô thị hóa, cho đến nay tại tỉnh Bình Thuận
chưa có một nghiên cứu nào về tình hình nhiễm giun kim ở nhà trẻ, mẫu
giáo . Trước tình hình trên, để góp phần nhỏ vào việc phát hiện đánh giá tỉ lệ
nhiễm giun kim ở lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo và các yếu tố liên quan. Đồng thời,
đề ra biện pháp phòng chống bệnh nhiễm giun tròn truyền qua đất tại 3 trường
mẫu giáo TP. Phan thiết. Được sự hỗ trợ của Ban Giám Đốc Trung tâm Y tế
TP.Phan thiết, Ban giám hiệu nhà trường, đội ngũ giáo viên và học sinh, với sự
cộng tác của một số Y Bác sĩ, kỹ thuật viên xét nghiệm. Chúng tôi tiến hành
nghiên cứu, xác định tỉ lệ nhiễm giun kim ở nhà trẻ mẫu giáo, đồng thời xác định
có sự liên quan với các hành vi, thói quen xấu của các cháu với tình trạng nhiễm
giun tròn truyền qua đất của các cháu hay không? Từ đó sẽ đề ra biện pháp giáo
dục sức khoẻ cho người dân tại TP. Phan thiết nói chung và các cháu nhà trẻ mẫu
giáo nói riêng. Nghiên cứu này cũng là cơ sở để đóng góp kiến nghị cho ngành y
tế có biện pháp can thiệp cộng đồng có hiệu quả.
Với những lý do nêu trên, Tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: “Nghiên cứu
thực trạng nhiễm giun kim ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo và các yếu tố liên quan
tại Thành phố Phan Thiết tỉnh Bình Thuận năm 2011”, với các mục tiêu sau:
1. Xác định tỷ lệ nhiễm giun kim ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu giáo tại 3 trường
tp. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận năm 2011
2. Tìm hiểu các yếu tố có liên quan đến nhiễm kim ở lứa tuổi nhà trẻ mẫu
giáo tại 3 trường TP. Phan thiết, tỉnh Bình thuận năm 2011


Chương 1
TỔNG QUAN

1.1. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA MỘT SỐ LOẠI GIUN THƯỜNG GẶP
1.1.1. Giun đũa (Ascaris lumbricoides)
Giun đũa (cả giun đực và giun cái) đều sống ký sinh và ăn dưỡng chấp ở

ruột non của người. Giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoại cảnh. Sau một
thời gian ở ngoại cảnh, nhờ tác dụng của nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng…phôi
phát triển thành ấu trùng, trứng có ấu trùng từ ngoại cảnh lại nhiễm vào người
qua đường tiêu hoá. Vào đến ruột non ấu trùng thoát vỏ, chui qua thành ruột vào
hệ thống tuần hoàn theo tĩnh mạch cửa lên gan, lên tim, lên phổi, chui vào phế
nang, lên khí quản, lên hầu, rồi xuống thực quản, ruột non phát triển thành
giun trưởng thành. Giun trưởng thành sống trong cơ thể người khoảng 12 - 18
tháng [1]
Trên thế giới có khoảng 1471 triệu người nhiễm giun đũa, đây là nguồn
mầm bệnh khổng lồ, thường xuyên được thải ra môi trường. Tiềm năng sinh sản
của giun cái rất cao khoảng 240000 trứng mỗi ngày, người ta ước tính hàng
ngày môi trường bị ô nhiễm khoảng 10

14

trứng giun đũa. Tuỳ thuộc vào các

yếu tố nhiệt độ, độ ẩm, áp suất không khí và các tia tử ngoại của ánh sáng mà
trứng giun đũa có thể tồn tại nhiều năm (6 -9 năm) ở điều kiện thích hợp hoặc
vài giờ ở điều kiện bất lợi. Trứng giun đũa có thể phát triển được từ 120C 0
0
0
36 C nhưng thích hợp nhất là 24 C - 25 C và độ ẩm trên 80%. Ở điều kiện
này sau 12 - 15 ngày trứng đã phát triển thành trứng có ấu trùng và có khả
0
năng gây nhiễm. Nhiệt độ 45 C ở các hố ủ phân sau 1 - 2 tháng mới diệt được
0
trứng giun đũa, ở 60 C trong vài giờ mới diệt được trứng giun.
Như vậy, Việt Nam có điều kiện khí hậu, môi trường rất thuận lợi cho sự
phát triển của trứng giun (miền Bắc từ tháng 2 đến tháng 11, miền Nam thì



quanh năm). Môi trường ngoại cảnh luôn bị ô nhiễm bởi trứng giun đũa. Điều
tra của bộ môn Ký sinh trùng trường Đại học Y khoa Hà Nội cho thấy, xét
nghiệm 60 mẫu đất ở nội thành Hà Nội thì 15 mẫu có nhiễm trứng giun đũa,
chiếm 25%, với mật độ 10 - 20 trứng/100g đất; kết quả xét nghiệm 60 mẫu đất
ở một số vùng ngoại thành thấy 26 mẫu có trứng giun đũa, chiếm 43,3%, với
mật độ 25 - 35 trứng/100g đất [1].
Số lượng trứng giun trong các mẫu xét nghiệm phụ thuộc vào tình trạng
vệ sinh, môi trường của từng vùng. Kết quả nghiên cứu của Viện sốt rét KSTCT trong những năm gần đây ở nhiều khu vực trên miền Bắc thấy số lượng dao
động từ 14 - 127 trứng/100g đất [8].
1.1.2. Giun tóc (Trichuris trichiura)
Giun tóc có vòng đời đơn giản, giun đực và cái ký sinh ở manh tràng, đại
tràng và đôi khi ở ruột thừa. Khi ký sinh giun cắm đầu vào thành ruột để hút
máu, phần đuôi ở ngoài lòng ruột. Giun cái đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoại
cảnh, khi gặp điều kiện thuận lợi trứng sẽ phát triển đến giai đoạn trứng có ấu
trùng lúc đó mới có khả năng lây nhiễm vào người theo đường tiêu hoá. Thời
gian phát triển ở ngoại cảnh trung bình khoảng 2 tuần. Khi người nuốt phải
trứng có ấu trùng vào ruột, ấu trùng thoát vỏ ở ruột non rồi đi dần xuống đại
tràng, manh tràng phát triển thành giun trưởng thành và ký sinh ở đó. Thời gian
từ khi nhiễm phải trứng tới khi giun tóc bắt đầu đẻ trứng khoảng 1 tháng. Giun
sống trong người 5 - 6 năm. Như vậy, giun tóc chỉ có một vật chủ và cần giai
đoạn phát triển trứng ở ngoại cảnh.
Nhiệt độ thích hợp để trứng phát triển thành trứng có ấu trùng gây nhiễm
0
0
0
là 25 C - 30 C, thời gian phát triển là 17 - 30 ngày. Nếu nhiệt độ quá 50 C phần
0
lớn trứng sẽ bị hỏng, nhiệt độ trên 30 C kéo dài thì trứng sẽ chết sau 1 tháng [1].



1.1.3. Giun móc ( Ancylostoma duoenalae)
Giun móc trưởng thành sống ký sinh ở tá tràng và có thể ở phần đầu
của ruột non. Chúng dùng mỏ ngoạm vào niêm mạc ruột để chiếm thức ăn. Một
ngày giun cái đẻ khoảng 3000 trứng, trứng theo phân ra ngoại cảnh, gặp điều
kiện thuận lợi sau 24 giờ trứng nở ra ấu trùng sinh sống và tồn tại trong đất. Ấu
trùng có khả năng di chuyển và xâm nhập qua da vào cơ thể người. Sau khi chui
qua da ấu trùng vào hệ thống tuần hoàn về tim, lên phổi và chui vào phế nang
theo khí quản lên họng, đến thực quản xuống tá tràng, ruột non phát triển thành
giun trưởng thành. Từ khi ấu trùng chui qua da đến giun trưởng thành mất
khoảng từ 5 - 7 tuần. Đặc biệt, trong quá trình chu du trong cơ thể người ấu trùng
giun móc có thể tạm dừng ở tổ chức (giai đoạn ngủ), giai đoạn này có thể kéo dài
tới 8 tháng, thời gian này ấu trùng có khả năng kháng lại thuốc điều trị giun. Hiện
tượng ngủ của ấu trùng cũng có thể xảy ra ở động vật có vú, cho nên có thể nhiễm
ấu trùng giun móc khi ăn thịt động vật ở dạng chưa nấu chín. Giun trưởng thành
có thể sống trong cơ thể người từ 5 - 7 năm.
- Giai đoạn phát triển ở ngoại cảnh rất quan trọng đối với vòng đời của
giun móc, điều kiện thích hợp để trứng phát triển thành ấu trùng là nhiệt độ từ
0
0
25 C - 30 C, có đủ oxy, độ ẩm.
Do đặc điểm vòng đời sinh học của các loại giun có khác nhau, nên bệnh lý
do chúng gây nên cũng rất đa dạng và phức tạp, ở nhiều cơ quan, tổ chức khác
nhau mà ấu trùng chu du đi qua hoặc tại nơi giun cư trú [4].
1.1.4. Giun kim (Enterobius vermicularis)
1.1.4.1. Sinh lý bệnh học và chu kỳ sinh bệnh
E. vermicularis là một ký sinh trùng bắt buộc; người là vật chủ tự nhiên duy
nhất, đường lây truyền là phân-miêng, thông qua các vật dụng quần áo, đồ chơi và



đó cũng chính là các phương thức lây truyền thông thường nhất. Sau khi nuốt phải,
trứng thường đẻ trứng trong tá tràng trong vòng 6 giờ. Giun trưởng thành sau đó
khoảng chừng 2 tuần và có tuổi thọ khoảng 2 tháng. Giun trưởng thành thường ký
sinh ở đoạn cuối của hổng tràng, hồi tràng, túi ruột thừa và đoạn đầu của đại tràng
lên. Những con giun sống tự do trong thành ruột non và hiện nay có rất ít bằng
chứng chứng minh có sự xâm nhập của của giun này vào các mô bình thường hoặc
mô lành của cơ thể dưới nhữung điều kiện bình thường [1], [.
Phôi trứng theo
thức ăn vào người

ấutrùng nở trong
ruột non

Trứng trên nếp gấp quanh hậu môn
ấu trùng bên trong trứng phát triển
trong vòng 4 đến 6 giờ

Giai đoạn lây nhiễm
Giai đoạnchẩn đoán

Giun kim đực
Giun kim cái

Giun kim cái đến khu
vực quanh hậu môn
vào ban đêm để đẻ
trứng

Hình 1.1. Chu kỳ vòng đời sinh học của giun kim (Enterobius vermicularis)



Giun cái di chuyển đến trực tràng, sau khi giao phối và nếu không bị tống ra
theo phân thì sẽ tiếp tục di chuyển đến vùng đáy chậu (thường vào ban đêm), nơi
đó chúng có thể đào thải ra khoảng 11.000 trứng. Trứng trưởng thành có khả năng
gây nhiễm trong vòng 6-8 giờ và dưới điều kiện thuận lợi, tối ưu, khả năng gây
nhiễm vẫn duy trì trong môi trường kéo dài đến 3 tuần.Vì thời gian ủ bệnh ngắn
cho đến khi trứng gây nhiễm, các trứng này đào thải và nếu vô ý bằng cách nào đó
chúng di chuyển và nằm dưới kẻ móng tay, từ đó dễ dàng đưa vào miệng hình
thành phương thức lan truyền bệnh.
Giun cái có kích thước trung bình 10mm x 0.7mm, ngược lại giun đực thì nhỏ
hơn. Giun kim đẻ trứng ở nếp kẻ hậu môn, ấu trùng bên trong trứng sẽ phát triển
sau 4-6 giờ; người nuốt phải trứng giai đoạn nhiễm; sau đó ấu trùng thoát vỏ trong
ruột non; giun kim trưởng thành sống trong ruột già, thời gian từ khi nuốt phải
trứng (giai đoạn nhiễm) đến khi phát triển thành con trưởng thành và đẻ trứng mất
khoảng 1-2 tháng, ban đêm giun cái có trứng di chuyển đến hậu môn và đẻ trứng ở
các nếp nhăn quanh hậu môn (đồng thời lúc phát sinh triệu chứng của trẻ nhiễm và
ngứa).
Sự tự nhiễm hoặc bò ngược của ấu trùng mới nở từ quanh vùng da hậu môn
lên trực tràng có thể gây bệnh nhưng cơ chế chưa được biết rõ.
1.1.4.2. Tác hại của bệnh
Khi ở trong ruột, giun kim có thể gây những
tổn thương kích thích niêm mạc ruột, làm rối loạn
tiêu hóa hoặc gây tình trạng viêm ruột mạn tính, có
thể gây nổi mẩn dị ứng, nếu giun kim chùi vào ruột
thừa có thể gây viêm ruột thừa, đôi khi giun kim
H.1.2. Tác hại của giun kim
ở đường ruột



chui sang bộ phận sinh dục (nhất là trẻ em nữ) gây viêm sinh dục, âm hộ, âm đạo,
rối loạn tiểu tiện và thậm chí rối loạn kinh nguyệt;
Nhiễm trùng thứ phát do vi khuẩn ở vùng da
quanh hậu môn do trẻ ngứa, khó chịu đưa tay vào
gãi gây trầy, xướt, loét;
Sự tái nhiễm thường xuyên là tất yếu, vì quá
trình nhiễm có thể kéo dài khi con giun cái tiếp
tục đẻ trứng trong nếp kẻ hậu môn;
Rối loạn giấc ngủ ban đêm do ngứa quanh

H.1.3. Giun kim ở hậu môn trẻ

vùng hậu môn; trẻ em mắc bệnh giun kim kéo dài nhiều năm, tái đi tái lại sẽ ảnh
hưởng đến giấc ngủ, phát triển cơ thể trí tuệ, trẻ gầy, xanh, bụng ỏng và kém ăn,
cuối cùng suy dinh dưỡng.
1.1.4.3. Triệu chứng và chẩn đoán bệnh
Khai thác bệnh sử
Những bệnh nhân thường nhiễm bệnh không triệu chứng, giun có thể được
phát hiện một cách tình cờ khi tìm thấy da vùng rìa quanh hậu môn;
Nếu bệnh nhân có triệu chứng thì ngứa hậu môn (pruritus ani) và vùng âm hộ
thường là triệu chứng hay gặp nhất. Tuy nhiên, cũng có trường hợp bệnh nhân có
nhiều giun kim nhưng lại không hề ngứa qua sàng lọc bệnh nhi với cỡ mẫu lớn;
Cha mẹ để ý thấy con cái mình thường không ngủ ngon giấc, điều này gặp ở
nhiều bệnh nhân, nhất là trong lứa tuổi đi nhà trẻ;
Khám thực thể và xét nghiệm
Các bệnh nhân thường có sự trầy xướt hoặc vệt đỏ quanh hậu môn, âm hộ
hoặc cả hai nhưng nhiễm đôi khi nhiễm khá nhiều giun chúng ta lại không phát
hiện dấu hiệu ngứa này;



Quan sát bằng mắt thường thấy giun là một trong những bằng chứng đáng tin
cậy và cũng là cơ sở để tiến hành điều trị;
Giun có thể phát hiện trong phân hoặc
vùng quanh hậu môn trước khi tắm buổi
sáng;
Ngoại lệ, nếu con giun cái đẻ trứng có
thể di chuyển lạc chỗ đến cơ quan sinh dục
nữ và gây viêm âm đạo, âm hộ (do hậu môn
H1.4. Kích thước giun kim

và bộ phận sinh dục ở nữ gần nhau). Hoặc
đôi khi tình cờ phát hiện tổn thương dạng u

hạt hoại tử hoặc qua phẩu tích thấy giun nằm bên trong, đôi lúc gặp cả trứng, ấu
trùng trong vòi trứng và khoang phúc mac, điều này cho thấy giun có hướng di
chuyển lên bộ phận sinh dục;
Phát hiện giun kim ở các nếp nhăn quanh hậu môn, xem đại thể phân có thể
gặp giun kim bám toàn màu trắng ở rìa khuôn phân;
Thu thập trứng giun bằng phương pháp dán giấy bóng kính vào hậu môn vào
buổi sáng sớm trước khi tắm hoặc rửa hậu môn, sau đó soi dưới kính hiển vi sẽ
thấy trứng giun kim khá điển hình; giấy bóng kinh này thường dán vào ban đêm
hoặc sáng sớm trước khi cho bệnh nhân rửa hậu môn, thông thường chúng ta lấy 3
mẫu 3 ngày liếp tiếp mới phát hiện được hoặc loại trừ. Trong quá trình chuẩn bị
bệnh phẩm nên pha loãng dung dịch sodium hydroxide hoặc toluene vào slide.
Hiếm khi việc chẩn đoán bệnh giun kim lại đòi hỏi can thiệp các kỹ thuật chẩn
đoán hình ảnh.
Chẩn đoán phân biệt
Bệnh giun kim biểu hiện triệu chứng tương đối điển hình nên cũng dễ phát
hiện, song có một số trường hợp (dù không nhiều) đã biểu hiện triệu chứng như



một số bệnh lý nội, ngọi khoa khác như viêm ruột thừa, nhiễm giun đũa, viêm cổ
tử cung, viêm da tiếp xúc và đặc biệt nhiễm đơn bào giardia, viêm hố chậu, viêm
da ở những cá nhân làm việc trong môi trường kém vệ sinh, hoặc nhiễm sán dải
chó Dipylidium caninum.
1.1.4.4. Điều trị
Chăm sóc y tế
Nhiều gia đình có bệnh nhân gặp phải các lời khuyên đôi khi chưa hợp lý từ
thấy thuốcnhi khoa và cấp cứu hồi sức về vấn đề giun kim. Trong quá trình kê đơn
thuốc, đưa ra lời khuyên và hướng dẫn
điều trị là khâu rất quan trọng. Ngoài ra,
hướng dẫn chăm sóc, rửa tay thường xuyên
cho tất cả mọi người là biện pháp hiệu uqả
ngăn ngừa lan truyền bệnh;
Vì nhiễm ký sinh trùng không triệu
chứng của một số thành viên khác trong
gia đình thường xảy ra, nên chúng ta phải
điều trị đồng thời tất cả thành viên đó là
một cách phòng và điều trị hợp lý nhất.
Gia đình cũng nên thông báo cho các thành viên đó điều trị lặp lại vì khả năng tái
nhiễm là có thể.
Xử lý giảm triệu chứng ngứa có thể dùng một số kem thoa chống ngứa tại
vùng nhiễm.
Danh mục thuốc điều trị giun kim
Con đường tác động về mặt sinh hóa học khác nhau trong cơ thể con người,
do đó độc tính trực tiếp lên ký sinh trùng, giai đoạn trứng, ấu trùng cũng khác nhau
tùy mức độ. Cơ chế tác động khác nhau theo loại thuốc [1], [15]


Mebendazole hoặc albendazole được xem là thuốc lựa chọn khuyên dùng điều

trị cho bệnh giun kim. Liều thứ 2 được chỉ định sau liều đầu khoảng 2 tuần giúp
ngăn ngừa tái nhiễm giun kim.
Các thuốc điều trị:
Tên thuốc
Mô tả
Liều người lớn

Mebendazole (biệt dược Vermox)
Thuốc gây chết giun nhờ vào cơ chế block đảo ngược khâu
tiêu thụ glucose và vi chất khác.
100 mg đường uống, liều suy nhất, liều lặp lại trong vòng 2

Liều trẻ em
Chống chỉ định

tuần
Chỉ định như liều ngưới lớn
Mẩn cảm với thuốc, bệnh gan
Thuốc carbamazepine và phenytoin có thể giảm hiệu lực

Tương tác thuốc

thuốc mebendazole; cimetidine có thể làm tăng nồng độ
mebendazole.
Nguy cơ phôi thai được đánh giá trong vài nghiên cứu động

Phụ nữ có thai

vật, chưa thấy biểu hiện trên người, có thể dùng nếu xét


Thận trọng

hiệu quả cao hơn nguy cơ.
Điều chỉnh liều khi bệnh nhân suy gan

Tên thuốc
Mô tả

Pyrantel (biệt dược Antiminth, Pin-Rid, Pin-X)
Qua cơ chế khử cực thần kinh cơ và ức chế men
cholinesterases, dẫn đến liệt hoạt động cơ giun, dùng thuốc


Liều người lớn
Liều trẻ em
Chống chỉ định
Tương tác thuốc

Phụ nữ có thai

kèm với sữa hoặc nước trái cây.
11 mg/kg đường uống, một lần duy nhất, không được vượt
liều 1 g; điều trị lặp lại trong vòng 2 tuần.
Chỉ định như liều ngưới lớn
Mẩn cảm với thuốc, bệnh gan
Nồng độ theophylline trong máu có thể tăng trên những
bệnh nhi, theo dõi chỉ định pyrantel pamoate thêm.
Nguy cơ thai nhi được đánh giá trong vài nghiên cứu ở
động vật, chưa thấy biểu hiện trên người, có thể dùng nếu
xét hiệu quả cao hơn nguy cơ.


Nguyên tắc điều trị
Điều trị phải kết hợp chặt chẽ với phòng bệnh để tránh tái nhiễm;
Với các tập thể nhiễm giun kim cao cần điều trị hàng loạt và điều trị lại để
tránh tái nhiễm;
Một số tác giả có ý kiến cho rằng vì giun kim có tuổi thọ ngắn so với một số
giun khác (1,5 - 2 tháng trong ruột) nên nếu chống bệnh tự nhiễm tốt, một cách tích
cực thì có thể không cần dùng thuốc, bệnh cũng tự khỏi.
1.1.4.5. Biện pháp phòng bệnh
Phát hiện bệnh và điều trị kịp thời;
Rửa hậu môn cho trẻ vào buổi tối trước khi đi ngủ và sáng sớm;
Không nên để trẻ mặc quần thủng đáy hoặc không mặc quần, không để trẻ
chơi lê la ở nền đất bẩn; giữ tay sạch, cắt ngắn móng tay, rửa tay sạch trước khi ăn
và sau khi đi đại tiện
Tất cả các vật dụng như giường, chiếu, áo gối thường xuyên đưa đi phơi nắng
(nếu có thể);
Cải tạo tập quán vệ sinh tốt tại nhà, vườn trẻ, trường mẫu giáo, mầm non, và
nơi sống tập thể (công nông lâm trường, xí nghiệp có khu nội trú).


1.2. TÌNH HÌNH NHIỄM GIUN CỦA TRẺ EM TRÊN THẾ GIỚI VÀ Ở
VIỆT NAM
1.2.1. Tình hình nhiễm giun của trẻ em trên thế giới
Nhiễm giun là bệnh thường gặp nhất ở người, hay gặp ở các nước nhiệt đới,
phần lớn các nước đang phát triển là vùng nhiễm kí sinh trùng. Theo thống
kê của WHO 2002, có đến 230 triệu trẻ em từ 0-4 tuổi bị nhiễm giun, vùng bị
nhiễm nhiều nhất là vùng châu Á, Trung quốc, Ấn độ và sa mạc Sahara [17].
Năm 1997 tại Ấn Độ, Awashi. S và cộng sự nghiên cứu 1061 trẻ em từ
18-42 tháng tuổi thấy tỷ lệ nhiễm kí sinh trùng đường ruột là 17,5%, trong đó
nhiễm giun đũa chiếm 68,1% [21]. Tại Kenya, Olsen A và cộng sự cho thấy

16% trẻ nhiễm giun đũa, 63% nhiễm giun móc và 24% nhiễm giun tóc [20].
Bệnh giun đũa rất phổ biến trên thế giới, có mặt hầu hết các châu lục,
Châu Á có tỷ lệ nhiễm giun đũa cao nhất, khoảng 70%; Châu Phi là 32,32%; các
nước Châu Mỹ có tỷ lệ nhiễm khoảng 8%. Tình trạng nhiễm giun đũa ở trẻ em
tại một số nước Đông Nam Á: Thủ đô Kuala Lumpur có tỷ lệ nhiễm giun
15,5%, ở Sulawesi có tỷ lệ nhiễm 59,8%, Sukaraja có tỷ lệ nhiễm 44%, Philippin
có tỷ lệ nhiễm 70,6%
Do tính chất sinh thái giống nhau giữa giun tóc và giun đũa nên các vùng có
bệnh giun đũa đều có bệnh giun tóc. Bệnh giun tóc phổ biến ở các vùng nhiệt
đới Châu Phi và vùng Đông Nam Á [1]. Ở Jamaicar, tỷ lệ trẻ em nhiễm giun tóc
là 38,3%, Guatemala tỷ lệ trẻ em nhiễm giun tóc là 82%. Ở Indonesia có tỷ lệ
nhiễm từ 54,9%-76,0%. Tỷ lệ nhiễm ở trẻ em Philippin là 85,0%.
Bệnh giun móc cũng gặp ở hầu hết các nước trên thế giới, nhưng chủ yếu ở
các nước nhiệt đới như Nam Mỹ, Châu Phi, Nam Á, Đông Nam Á và một số
nước Châu Âu. Các nước khu vực Đông Nam Á, tỷ lệ nhiễm phục thuộc vào


từng nước, từng khu vực: Thái Lan là 40.56%, Indonesia năm 1980 là 52%80%, Malaysia 43-51%, Singapore tỷ lệ nhiễm thấp: 0,3%-6,1%; Lào 2%31%, Campuchia 35-56% [8].
Cazorla D., (2002), điều tra nghiên cứu lâm sàng và dịch tễ học về
nhiễm giun

kim trong số 427

học của các cộng đồng nông

thôn

trẻ
từ các khu


em tuổi mầm
vực khô

non
hạn



và tiểu
Falcon, Tây

Bắc Venezuela, cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim khá cao (63,23%). Tỷ lệ nhiễm giun
kim đã không khác biệt đáng kể giữa các giới tính hay tuổi tác (p>0,05) [22]
Norhayati M, Hayati MI, nghiên cứu khu vực nông thôn ở Malaysia trong
số178 đối

tượng với 40,4% bị nhiễm Enterobius vermiculari, tỷ lệ nhiễm giun

kim cao hơn đáng kể ở trẻ em 5-7 tuổi [26].
Park J.H.,(2000), nghiên cứu nhiễm giun kim Enterobius ở trẻ em (3-10 tuổi)
sống đảo ven biển của nước Cộng hòa Hàn Quốc ở 39 trường mẫu giáo và trường
tiểu học năm 2000. Trong số 1.661 trẻ em được kiểm tra, 307 (18,5%) đã được tìm
thấy dương tính với trứng E. vermicularis. Tỷ lệ nhiễm cao nhất (59,3%) đã được
tìm thấy trường mẫu giáo Chujado [27]
Kang S, Jeon HK, (2004), xác định tỷ lệ nhiễm giun kim, tỷ lệ trứng
Enterobiusvermicularis trong 1.512 trẻ em mầm non được lấy mẫu từ tổng cộng
20 trường mẫu giáo ở thành phố Cheongju, 2004 và năm 2005 từ 7 trường mầm
non. Tỷ lệ tìm thấy trứng giun kim là 7,9% (119 / 1512); 9,3% (73/784)cho trẻ em
trai và 6,3% (46/728) cho trẻ em gái, tương ứng. Nhóm 5 tuổi được có tỷ lệ trứng
dương tính cao nhất (10,9%, 47/430) trong số các nhóm tuổi được kiểm tra [28]

1.2.2. Tình hình nhiễm giun của trẻ em ở Việt Nam:
Việt Nam nằm ở vùng Đông Nam Á, có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm. Vì
vậy có đầy đủ các yếu tố về: khí hậu, thổ nhưỡng cho các bệnh giun truyền qua
đất phát triển. Mặt khác nền kinh tế chưa phát triển, văn hóa xã hội còn nhiều


phong tục tập quán như ăn rau sống, dùng phân tươi trong canh tác... Tất cả các
yếu tố trên đã tạo điều kiện cho mầm bệnh giun sán tồn tại và phát triển, vì vậy tỷ
lệ nhiễm giun truyền qua đất ở Việt Nam rất cao.
WHO đề nghị cộng đồng được xếp loại có tỷ lệ nhiễm giun cao khi 50% số
người thuộc cộng đồng có kết quả xét nghiệm dương tính. Những vùng có tỷ lệ
giun móc lưu hành là những vùng có tỷ lệ nhiễm giun móc trên 20-30%
Ở Việt Nam, nhiễm giun là vấn đề sức khỏe cộng đồng. Ở trẻ em tỷ lệ
nhiễm giun từ 36,1-99,8%; trong đó, nhiễm giun Đũa 30,4-93,9%, giun Móc
6,4-70,2%, giun Tóc 0,7-86,6 %.
Theo nghiên cứu của Đỗ Dương Thái và cộng sự, tỷ lệ nhiễm giun đũa ở trẻ
từ 2 - 5 tuổi là 42,8% - 66% [15]. Hoàng Thị Kim và cộng sự nghiên cứu ở trẻ 1 4 tuổi vùng đồng bằng tỷ lệ nhiễm giun móc là 1,4% [10]
Nhữ Thị Hoa , Hồ Quốc Cường nghiên cứu tỷ lệ nhiễm giun kim trên trẻ mẫu
giáo huyện Củ Chi, thành phố Hồ Chí Minh từ 9/2008 đến 5/2009 cho thấy 30,7% trẻ
nhiễm giun kim [6]
Nguyễn Văn Dũng & Nguyễn Xuân Tuế (1996) nghiên cứu tình hình nhiễm
giun kim ở trẻ em thành phố Buôn Ma Thuột lứa tuổi từ 1 – 10 cho thấy tỷ lệ
nhiễm giun kim chiếm 73,45% [3]
Trần Thị Thanh Tâm (1994), nghiên cứu dịch tễ học tỷ lệ nhiễm giun kim tại
hai trường mầm non 15A Q. Phú Nhuận (nội thành TP.HCM), mầm non Linh
Xuân - Thủ Đức cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim là 47,86% [17].
Thân Trọng Quang (1997), đánh giá tình hình nhiễm giun kim ở một số nhà
trẻ và trường mẫu giáo của TP.Buôn Ma Thuột cho thấy tỷ lệ nhiêm giun kim
80,24% [13].



Phan Thị Hương Liên, (1997) nghiên cứu tình hình nhiễm giun đường ruột ở
trẻ em trường mầm non Việt - Bun, Hà Nội cho thấy tỷ lệ nhiêm giun kim
11,34%[12].
Phạm Thị Hiển và cs (2002) điều tra tỷ lệ nhiễm giun kim trên trẻ em và
ở ngoại cảnh tại 3 trường mầm non ở Thái Nguyên cho thấy tỷ lệ nhiễm giun
kim là 45,6% [4].
Vũ Văn Thái (2004), nghiên cứu một số đặc điểm dịch tễ học giun kim ở trẻ
em 1-6 tuổi tại trường mầm non Hải Phòng cho thấy tỷ lệ nhiêm giun kim ở nhóm
12-36 tháng tuổi chiếm 29,0% và nhóm 37-72 tháng tuổi chiếm 37,5% [16].
Lại Quang Sáng, Hoàng Thị Hòa (2004) đánh giá tình hình nhiễm giun kim
của trẻ em lứa tuổi nhà trẻ, mẫu giáo tại trường mầm non số 2 thành phố Nam Định
cho thấy tỷ lệ nhiễm giun kim có khuynh hướng tăng dần theo nhóm tuổi
(p>0,0%) [14].
1.3. SƠ LƯỢC VỀ 3 TRƯỜNG MẦM NON, MẪU GIÁO PHAN THIẾT
( Tài liệu em xem để ghi vào)

Chương 2
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU NGHIÊN CỨU

2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU


Trẻ em có độ tuổi từ 3 đến 5 tuổi không phân biệt giới tính, thành phần dân
tộc, tôn giáo tại 03 trường mầm non mẫu giáo của 03 phương TP Phan thiết
Các bà mẹ có con trong nhóm được chọn nghiên cứu
2.1. ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được tiến hành tại 2 trường mầm non và 1 mẫu giáo thành phố
Phan Thiết.
- Trường mầm non Tuổi Thơ

- Trường mầm non Đức Thắng
- Trường Mẫu giáo Đức Nghĩa
2.3. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
Từ tháng 03/2011 đến tháng 11/2011
2.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế điều tra cắt ngang, mô tả được tiến hành tại 03 trường mầm non,
mẫu giáo
2.4.1. Phương pháp chọn mẫu
- Cỡ mẫu
Sử dụng công thức tính cỡ mẫu cho điều tra ngang mô tả
n = Z2p

(1 − p )
c

2

Với độ tin cậy 95%, Z= 1,96
p: tỷ lệ nhiễm giun kim trường mẫu giáo Củ Chi là 30,7% (p = 30%)
c: độ chính xác mong muốn c= 0,05
Như vậy ta có
1,96 2 × 0,3(1 − 0,3)
2
n=
= 164
0,05

Trong thực tế, nghiên cứu được tiến hành > 164 học sinh (998 em)



Sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên 3 trường mầm non, mẫu giáo
tại TP. Phan thiết, chọn tất cả các em 998 em đang học tại 3 trường
2.4.2. Các kỹ thuật, vật liệu được sử dụng nghiên cứu:
Sử dụng phương pháp xét nghiệm tìm trứng giun kim bằng kỷ thuật Graham:
Để đánh giá tỉ lệ nhiễm giun.
Băng dán bằng giấy bóng kính trong, lam kính, kính hiển vi, que, găng tay…
-Tìm hiểu các yếu tố nguy cơ: Học vấn , thái độ, nhận thức, hành vi về
phòng chống giun kim của cha mẹ, cô nuôi dạy trẻ, thói quen xâu của trẻ như: Cắn
móng tay, mút ngón tay, gãi hậu môn…qua bộ (KAP) bằng mẫu câu hỏi thiết kế
sẵn.
2.4.3. Phương pháp tiến hành thu thập số liệu
- Đánh giá tỷ lệ nhiễm giun với phương pháp Graham
- Điều tra, khảo sát phỏng vấn trực tiếp với các bà mẹ của 998 em học sinh
mẫu giáo Tp Phan Thiết
2.2.5. Các biến số nghiên cứu
- Tuổi của trẻ và mẹ
- Giới trẻ
- Trình độ học vấn của mẹ
- Tìm hiểu mối liên quan giữa đặc điểm chung của bà mẹ và tỷ lệ nhiễm giun
kim.
- Đánh giá kiến thức và thực hành của bà mẹ qua bộ câu hỏi về phòng chống
bệnh giun sán theo mẫu của Sở Y tế Bình Thuận.
2.2.6. Xử lý số liệu
Số liệu được làm tròn đến 2 chữ số sau dấu phẩy
Xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê y học qua máy vi tính theo chương
trình Excel, SPSS 19.0
- Tính tỷ lệ %. Hai tỷ lệ % khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05


Phép kiểm định χ2 theo bảng 2 x 2

2x2
Biến số
Biến số
Tổng

Đúng
a
c
a+c
χ 2u =

Chưa đúng
b
d
b+b

Tổng
a+b
c+d
a+b+c+d

(ad − bc) 2 (a + b + c + d )
(a + b)(c + d )(a + c)b + d )

- Tính OR (OR có ý nghĩa khi OR > 1, p < 0,05)
-

OR =

Sau khi có kết quả xét nghiệm 100% trẻ em đều được cho uống 1 liều

Albendazol 500 mg.

Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

3.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG MẪU NGHIÊN CỨU
3.1.1. Phân bố trẻ theo các trường mầm non và mẫu giáo
Bảng 3.1. Tỷ lệ trẻ theo các trường mầm non và mẫu giáo
Trường
Trường mầm non Tuổi Thơ

Số trẻ
413

Tỷ lệ %
41,38

Ý nghĩa thống kê
χ2 =44,30


Trường mầm non Đức Thắng

284

28,46

Mẫu giáo Đức Nghĩa

301


30,16

Tổng cộng

998

100

p < 0,05

Biểu đồ 3.1. Tỷ lệ trẻ theo các trường mầm non và mẫu giáo
Trong 998 trẻ của 3 lớp mẫu giáo và mầm non, trường mầm non Tuổi Thơ
có tỷ lệ trẻ cao nhất chiếm 41,38%; tiếp đến trường mẫu giáo Đức nghĩa (30,16%)
và thấp nhất là Đức Thắng (28,46%).
3.1.2. Phân bố theo tuổi các cháu mẫu giáo
Bảng 3.2. Phân bố theo tuổi các cháu mẫu giáo
Lứa tuổi
3
4
5

Số trẻ
285
391
322

Tổng cộng

998


Tỷ lệ %
28,56
39,18
32,26
100,00

Ý nghĩa thống kê
χ2 =26,10
p < 0,05


Biểu đồ 3.2. Phân bố theo tuổi các cháu mẫu giáo
Nhóm trẻ lứa 4 tuổi có tỷ lệ cao nhất 39,18%, tiếp đến nhóm 5 tuổi (32,26%)
và thấp nhất là nhóm 1 tuổi (28,56%). Sự khác biệt giữa các nhóm tuổi có ý nghĩa
thống kê (p>0,05).
3.1.3. Phân bố theo giới các cháu mẫu giáo
Bảng 3.3. Phân bố theo giới các cháu mẫu giáo
Giới

Số trẻ

Tỷ lệ %

Nam

500

50,10


Ý nghĩa thống kê
χ2 =0,01

p > 0,05
49,90
Tổng cộng
998
100
Không có sự khác biệt về giới của các cháu mẫu giáo ( p>0,05)
Nữ

498

3.1.4. Phân bố theo tuổi mẹ các cháu
Bảng 3.4. Phân bố theo tuổi mẹ các cháu
Nhóm tuổi
< 30
≥ 30
Tổng

Số bà mẹ
420

Tỷ lệ %
42,08

578

57,92


998

100,00

Ý nghĩa thống kê
χ2 =50,03
p < 0,05


Biểu đồ 3.3. Phân bố theo tuổi bà mẹ các cháu
Các bà mẹ nuôi dưỡng các cháu ở nhóm ≥ 30 tuổi có tỷ lệ cao (57,92%), hơn
nhóm < 30 tuổi (42,48%). Sự khác biệt giữa 2 nhóm tuổi có ý nghĩa thống kê
(p>0,05).
3.1.5. Phân bố theo trình độ học vấn mẹ các cháu
Bảng 3.5. Phân bố theo trình độ học vấn mẹ các cháu
Trình độ học vấn
< THPT

Số bà mẹ

≥ THPT

404

40,48

998

100,00


594

Tổng

Tỷ lệ %
59,52

Ý nghĩa thống kê
χ2 =72,34
p < 0,05

Số bà mẹ có trình độ học vấn < THPT chiếm tỷ lệ (59,52%) cao hơn nhóm
≥ THPT (40,48%).
3.2. TỶ LỆ NHIỄM GIUN KIM
3.2.1. Tỷ lệ nhiễm giun kim chung 3 trường
Bảng 3.6. Tỷ lệ nhiễm giun kim chung 3 trường
Nhiễm giun kim
Có nhiễm giun kim
Không nhiễm giun kim
Tổng

Số trẻ
247
751
998

Tỷ lệ %
24,75
75,25
100,00


Ý nghĩa thống kê
p < 0,01


Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ nhiễm giun kim của trẻ chung 3 trường
Qua 998 trẻ có 247 đối tượng là nhà trẻ, mẫu giáo nhiễm giun kim chiếm tỷ
lệ 24,75%.
3.2.2. Phân bố nhiễm giun kim theo trường
Bảng 3.7. Tỷ lệ nhiễm kim theo trường

Trường mầm non Tuổi Thơ

Số mẫu xét
nghiệm
413

Trường mầm non Đức Thắng

284

83

29,22

χ2= 10,20

Mẫu giáo Đức Nghĩa

301


83

27,57

p < 0,05

Tổng cộng

998

247

24,75

Trường

Số (+)

Tỷ lệ %

81

19,61

p

Trường mầm non Đức Thắng có tỷ lệ nhiễm giun cao nhất 29,22%
3.2.3. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo lứa tuổi
Bảng 3.8. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo lứa tuổi

Lứa tuổi

Số mẫu xét

Số (+)

Tỷ lệ %

P

3
4
5
Tổng cộng

nghiệm
285
391
322
998

74
106
67
247

25,96
27,11
20,81
24,75


χ2= 10,20
p < 0,05


Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo lứa tuổi
Đối tượng trẻ em 4 tuổi có tỷ lệ nhiễm giun kim cao nhất chiếm 27,11%,
nhóm 5 tuổi chiếm 20,81%.

3.2.4. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo giới
Bảng 3.9. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo giới
Giới

Số mẫu xét

Nam
Nữ

nghiệm
500
498

Tổng cộng

998

Số (+)

Tỷ lệ %


P

124
123

24,80
24,70

χ2= 0,98

247

24,75

Tỷ lệ nhiễm giun theo giới không có sự khác biệt ( p>0,05)

p > 0,05


3.2.5. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo giới và trường
Bảng 3.10. Tỷ lệ nhiễm giun kim theo giới và trường

Giới

Trường mầm non

Trường mầm non

Mẫu giáo


Tuổi Thơ

Đức Thắng

Đức nghĩa

Số
mẫu

Nam
Nữ
Tổng
p

XN
206
207
413

Số
(+)

Tỷ lệ Số mẫu Số
%

40 19,42
41 19,81
81 19,61
> 0,05


XN
151
133
284

Tỷ lệ Số mẫu

(+)

%

45 29,80
38 28,57
83 29,22
> 0,05

XN
143
158
301

Số (+)

p

Tỷ lệ
%

39 27,27 < 0,05
44 27,85 < 0,05

83 27,57 < 0,05
> 0,05

Không có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giun kim theo giới ở mỗi trường
(p>0,05). Ngược lại có sự khác biệt về tỷ lệ nhiễm giun giữa các trường theo giới
(p< 0,05), trong đó tỷ lệ nhiễm giun kim cao nhất là Trường mầm non Đức Thắng:
ở nam (29,80%), nữ (28,57%).
3.3. KIẾN THỨC, VỆ SINH PHÒNG CHỐNG BỆNH NHIỄM GIUN VÀ
MỐI LIÊN QUAN
3.3.1. Giáo dục, vệ sinh của nhà trường về phòng chống bệnh giun sán
Bảng 3.11. Giáo dục, vệ sinh của nhà trường về phòng chống bệnh giun sán

Cô giáo thường xuyên hướng dẫn
rửa tay cho trẻ trước khi ăn
Nhà trường có bồn rữa riêng biệt

Không

n

%

n

%

990

99,20


8

0,80

540

54,11

458

45,89

Đa số các cô giáo thường xuyên hướng dẫn rửa tay cho trẻ trước khi ăn
chiếm tỷ lệ 99,20%.
3.3.2. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về phòng chống bệnh giun sán
Bảng 3.12. Kiến thức và thực hành của bà mẹ về phòng chống bệnh giun


Không


×