Tải bản đầy đủ (.doc) (11 trang)

Phân tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (140.65 KB, 11 trang )

MỤC LỤC
PHẦN A: LỜI MỞ ĐẦU
PHẦN B: NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Khái niệm pháp chế
2. Khái niệm bảo đảm pháp chế
3. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước
II. PHÂN TÍCH VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ QUAN
QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM PHÁP CHẾ
TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
1. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước-một trong
những biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý hành
chính nhà nước có vai trò quan trọng
1.1.
1.2.

Hoạt động giám sát của Quốc hội
Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân

2. Tổng kết, đánh giá vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền
lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành
chính nhà nước
2.1.
2.2.

Vai trò về phương diện ban hành văn bản pháp luật
Vai trò về phương diện tổ chức thực hiện pháp luật
PHẦN C: LỜI KẾT
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1




PHẦN A: LỜI MỞ ĐẦU
Nguyên tắc pháp chế là một trong những nguyên tắc cơ bản và quan
trọng nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước nói chung và
của hoạt động quản lý hành chính nhà nước nói riêng. Việc bảo đảm pháp
chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước mà trước hết là trong
hoạt động quản lý hành chính nhà nước là một điều không hề đơn giản, nhất
là đối với nước ta - một nước đang phát triển với những hạn chế nhất định
trong ý thức pháp luật và trình độ văn hóa pháp lý của nhân dân. Để làm
được công việc khó khăn đó (bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính
nhà nước) cần phải phối hợp nhiều biện pháp - đặc biệt là những biện pháp
được quy phạm pháp luật hóa (các biện pháp pháp lý) trong đó có một biện
pháp khá hiệu quả đó là hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước.
Vậy biện pháp đó được quy phạm pháp luật hóa như thế nào, biểu hiện và
vai trò của nó ra sao đối với việc bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính
nhà nước? Những thắc mắc đó là động lực để em thực hiện chủ đề: “Phân
tích vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước đối với
việc đảm bảo pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước”. Rất mong
nhận được sự ủng hộ và đóng góp của quý thầy cô. Em xin trân trọng cảm
ơn!
PHẦN B: NỘI DUNG
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CƠ BẢN
1. Khái niệm pháp chế
Pháp chế là sự đòi hỏi mọi tổ chức và cá nhân trong xã hội đều phải
tôn trọng và thực hiện pháp luật hiện hành một cách nghiêm chỉnh và
triệt để nhằm tạo ra trong xã hội một trật tự, kỷ cương cần thiết. (PGS.
TS. Nguyễn Thị Hồi: hướng dẫn ôn tập môn học lý luận nhà nước và
pháp luật. Nxb, Tư pháp, Hà Nội, 2010, tr 308).
Nếu hiểu về pháp chế như trên thì có thể thấy, tùy theo mức độ tôn

trọng và thực hiện pháp luật hiện hành trong thực tế của các chủ thể trong
xã hội mà nền pháp chế có các trình độ khác nhau. Nếu pháp luật còn bị
vi phạm nhiều thì có nghĩa là nền pháp chế có trình độ thấp, còn nếu đa
số các chủ thể trong xã hội đều tự giác tôn trọng và thực hiện pháp luật
trong xử sự của mình thì pháp luật ít bị vi phạm và pháp chế có trình độ
cao.

2


Pháp chế là một phạm trù rộng lớn không chỉ chứa đựng nội dung
pháp luật mà còn chứa đựng những nội dung chính trị, xã hội và con
người.
Với cách hiểu này, khái niệm pháp chế được thể hiện ở những nội
dung sau:
- Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các cơ quan
trong bộ máy nhà nước
- Pháp chế là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của các tổ chức phi
nhà nước
- Pháp chế là nguyên tắc xử sự của cá nhân
2. Khái niệm bảo đảm pháp chế
Bảo đảm pháp chế là tổng thể các biện pháp, phương tiện tổ chức quản lý do các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và công dân áp dụng
nhằm thực hiện chức năng, quyền hạn, nhiệm vụ của các cơ quan nhà
nước và các tổ chức ấy cũng như việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
công dân. (Ths. Lê Quang Thành: Luật hành chính. Nxb, Lao động, Hà
Nội, 2011, tr 355).
Từ khái niệm trên, bảo đảm pháp chế cũng được hiểu như là những
điều kiện, những phương tiện và những khả năng thực hiện trên thực tế
đối với pháp luật hiện hành nhằm xây dựng và củng cố chính quyền của
dân, do dân, vì dân, bảo vệ các quyền và nghĩa vụ của công dân trên tất

cả các mặt của đời sống xã hội. Việc bảo đảm pháp chế có ý nghĩa to lớn
trong quản lý nhà nước nói chung, trong quản lý hành chính nhà nước nói
riêng.
3. Khái niệm bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà
nước
Bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính nhà nước có nghĩa là
bằng những cơ chế và hoạt động quản lý làm cho pháp luật được thực
hiện có hiệu quả trong thực tế và hoạt động của bộ máy mà trước hết là
hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước phải thực sự vì dân, khơi
dậy trí tuệ và tinh thần, ý chí tự lực tự cường của nhân dân, đem lại
những tiện ích và thủ tục thực hiện thực sự dễ hiểu, dễ làm và việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công dân theo một trật tự nhất định. (Trường
Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật hành chính Việt Nam. Nxb, Công
an nhân dân, Hà Nội, 2010, tr 362).

3


III. PHÂN TÍCH VAI TRÒ HOẠT ĐỘNG GIÁM SÁT CỦA CƠ
QUAN QUYỀN LỰC NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI VIỆC BẢO ĐẢM PHÁP
CHẾ TRONG QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH NHÁ NƯỚC
1. Hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực nhà nước-một
trong những biện pháp pháp lý bảo đảm pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước có vai trò quan trọng
Giám sát tức là theo dõi, xem xét, kiểm tra và nhận định về một việc
làm nào đó đúng hay sai với những điều đã quy định. Giám sát luôn gắn
với một chủ thể nhất định. Giám sát luôn gắn với đối tượng cụ thể (giám
sát ai, giám sát cái gì). Giám sát thể hiện mối quan hệ giữa chủ thể tiến
hành hoạt động giám sát và đội tượng chịu sự giám sát. Giám sát được
tiến hành trên cơ sở những quy định cụ thể. Chính vì vậy, giám sát là

hoạt động có mục đích của một hay nhiều chủ thể nhất định – là một nội
dung của chủ thể quản lý nhà nước và cũng là một hình thức kiềm chế,
đối trọng trong việc thực thi quyền lực nhà nước hiện nay. Thực hiện tốt
công tác giám sát là đòi hỏi cấp thiết của nhà nước pháp quyền ở nước ta.
Ở nước ta, khái niệm giám sát được dùng chỉ quyền của nhân dân lao
động thông qua hoạt động của cơ quan quyền lực nhà nước. Điều 2 Luật
hoạt động giám sát của Quốc hội đã quy định: “Giám sát là việc Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quộc hội, Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc
hội, đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội theo dõi, xem xét, đánh
giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
thi hành hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết
của Ủy ban thường vụ Quốc hội.” Các cơ quan quyền lực nhà nước là
những cơ quan có vị trí đặc biệt trong bộ máy nhà nước. Vị trí pháp lý
cũng như chức năng nhiệm vụ và quyền hạn của nó do Hiến pháp quy
định. Đó là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân
dân lao động. Chính vì vậy hoạt động của những cơ quan này tác động
tích cực và chi phối rất lớn hoạt động của các cơ quan nhà nước khác –
trong đó có cơ quan hành chính nhà nước.
1.1 Hoạt động giám sát của Quốc hội
Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa là chức năng vừa là nhiệm vụ
và quyền hạn của Quốc hội. quyền đó đã được khẳng định cụ thể tại
Khoản 2 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) và
Khoản 2 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001:” Quốc hội… thực hiện
quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”. Quy
định này vừa khẳng định Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân
4


dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam, vừa khẳng định nguyên tắc quyền lực Nhà nước thống

nhất tập trung trong tay nhân dân lao động. Quy định trên cũng đồng thời
khẳng định – chủ thể thực hiện quyền giám sát tối cao là Quốc hội.
Hoạt động giám sát của Quốc hội được thực hiện dưới nhiều hình thức
khác nhau, có thể định kỳ tại các kỳ họp của Quốc hội nhưng cũng có thể
được thực hiện thường xuyên thông qua Ủy ban thường vụ Quốc hội, các
Ủy ban của Quốc hội, Hội đồng dân tộc cũng như các đại biểu của Quốc
hội.
Đối tượng giám sát tối cao của Quốc hội chỉ có thể là các cơ quan và
cá nhân do Quốc hội thành lập, bầu hoặc phê chuẩn như Chủ tịch nước,
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao, những người đứng đầu các cơ quan này và các
thành viên của Chính phủ.
Nội dung quyền giám sát của Quốc hội bao gồm hai nội dung cơ bản
sau:
-Hoạt động theo dõi và kiểm tra tính hợp hiến và hợp pháp đối với nội
dung các văn bản vi phạm pháp luật do các cơ quan Nhà nước chịu sự
giám sát trực tiếp của Quốc hội ban hành (như Chủ tịch nước, Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng chính phủ, Chánh án
Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
-Kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp đối với hoạt động tổ chức và thực
hiện pháp luật trong thực tiễn của các cơ quan Nhà nước chịu sự giám sát
trực tiếp của Quốc hội – trong đó có cơ quan hành chính Nhà nước – chủ
thể quan trọng nhất của quản lý hành chính Nhà nước.
Hai nội dung giám sát này có ý nghĩa rất to lớn và sâu sắc trong việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân nói
chung và bảo đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước nói
riêng.
Hoạt động giám sát của Quốc hội đối với các cơ quan Nhà nước được
thục hiện dưới nhiều hình thức khác nhau: nghe, xem xét và đánh giá
công khai các báo cáo của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội,

Chính phủ và các bộ về hoạt động của mình, thông qua việc chất vấn của
các đại biểu Quốc hội đối với Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng và các
thành viên khác của Chính phủ; nghe báo cáo, đồng thời chất vấn với
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
5


tối cao về các vấn đề liên quan (Điều 7 Luật hoạt động giám sát của Quốc
hội).
Ngoài ra, hoạt động giám sát của Quốc hội còn được thực hiện thông
qua hoạt động của các tổ đại biểu và các đại biểu Quốc hội ở các địa
phương và cơ sở, đặc biệt thông qua việc tiếp xúc của họ với các cử tri,
nghe đề nghị cũng như các yêu cầu và khiếu nại của cử tri về việc thực
hiện nhiệm vụ của cơ quan hành chính Nhà nước và các cán bộ có thẩm ở
những cơ quan đó.
Trong việc thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của các cơ
quan Nhà nước, Quốc hội tập trung thực hiện quyền này trước hết đối với
hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước. Quốc hội thực hiện quyền
giám sát đối với các hoạt động của cơ quan hành chính Nhà nước tức là
thực hiện quyền lực Nhà nước về mặt tổ chức đối với bộ máy hành chính
Nhà nước. chỉ có Quốc hội mới có quyền bãi bỏ các văn bản của Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ trái với Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội.(Khoản 9 Điều 84 Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm
2001), Khoản 9 Điều 2 Luật tổ chức Quốc hội năm 2001)).
1.2 Hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân
Hội đồng nhân dân các cấp là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa
phương thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của Ủy ban nhân
dân, các cơ quan chuyên môn của Ủy ban nhân dân cũng như các đơn vị
trực thuộc. Hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân địa phương là
chức năng chủ yếu của cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương được

thực hiện trước hết ở các kỳ họp của hội đồng nhân dân. Hoạt động giám
sát này cũng được thực hiện thông qua việc nghe và thảo luận báo cáo
của Ủy ban nhân dân, thông qua việc chất vấn các đại biểu là lãnh đạo
của Ủy ban nhân dân cũng như các đại biểu là lãnh đạo cơ quan kiểm sát
và cơ quan xét xử ở địa phương.
Mặc dù hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện ở địa phương nhưng
hoạt động của nó không chỉ bó hẹp ở phạm vi hoạt động của “cơ quan
quyền lực Nhà nước ở địa phương” mà mang tính chất toàn diện của cơ
quan chính quyền địa phương. Chính vì vậy hoạt động của hội đồng nhân
dân đặt dưới sự chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra của các cơ quan Nhà
nước cấp trên, trong đó có Chính phủ (Khoản 1 Điều 112 Hiến pháp năm
1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)). Nhiệm vụ của hội đồng nhân dân do
Hiến pháp và Luật tổ chức của hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
quy định. Vì thế hoạt động của Hội đồng nhân dân không chỉ là nghĩa vụ
6


chấp hành Hiến pháp, luật, pháp lệnh và các văn bản pháp luật của cấp
trên mà còn phải chủ động cụ thể hóa những quy định cho phù hợp với
đặc điểm cụ thể ở địa phương mình. Vì lẽ đó mà luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật của hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ra đời
năm 2004. Đây không chỉ là cơ sở pháp lý quan trọng góp phần khẳng
định quyền hạn của chính quyền địa phương mà văn bản pháp luật này
một lần nữa nhấn mạnh tính chủ động và yêu cầu của hội đồng nhân dân
phải chủ động tăng cường quyền giám sát đối với mọi hoạt động thực thi
pháp luật ở địa phương mình. Có như vậy những quy định đó mới được
thực sự thúc đẩy sự năng động và sáng tạo của quần chúng nhân dân lao
động, mới đánh giá xác thực khả năng thực thi pháp luật của địa phương.
Ngoài ra, một biểu hiện cụ thể của hình thức giám sát quan trọng của
Hội đồng nhân dân là việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cử tri kịp thời,

nhanh chong, đúng pháp luật là nghĩa vụ của toàn thể đại biểu hội đồng
nhân dân chứ không phải của riêng bộ phận nào. Làm tốt nhiệm vụ này là
một biểu hiện thiết thực nhất của việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Hoạt động này cũng chính là dịp và điều
kiện để hội đồng nhân dân hoàn thành nhiệm vụ của người đại biểu của
dân mà cử tri và nhân dân địa phương đã tín nhiệm giao cho họ.
Tóm lại, hoạt động giám sát của hội đồng nhân dân góp phần tích cực
vào việc phát hiện những sai trái của cơ quan, tổ chức cơ sở trong việc
chấp hành pháp luật, trên cơ sở đó kiến nghị cấp có thẩm quyền giải
quyết, xử lý kịp thời những sai phạm đó; đôn đốc các cơ quan, tổ chức
hữu quan thực hiện nghị quyết của hội đồng nhân dân và của cấp trên
cũng như giải quyết các vấn đề bức xúc ở địa phương, bảo đảm thi hành
có hiệu quả các quy định của pháp luật và nghị quyết của hội đồng nhân
dân địa phương. Điều đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng đố với việc bảo
đảm pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước.
2. Tổng kết, đánh giá vai trò hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực nhà nước đối với việc đảm bảo pháp chế trong quản lý
hành chính nhà nước
Cơ quan quyền lực Nhà nước giám sát hoạt động của các cơ quan
hành chính Nhà nước cùng cấp. Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội
và hội đồng nhân dân các cấp thực hiện quyền lực Nhà nước một cách
thường xuyên và trực tiếp chỉ đạo cũng như kiểm tra mọi mặt công tác
của các cơ quan hành chính Nhà nước cùng cấp. Cũng thông qua hoạt
động giám sát, các cơ quan quyền lực Nhà nước có thể phát hiện những
7


yếu kém, những khuyết điểm trong công tác và hoạt động cũng như
những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện pháp luật và thực
hiện nhiệm vụ mà pháp luật đã quy định đối với các cơ quan hành chính

Nhà nước. Trên cơ sở đó cơ quan quyền lực Nhà nước kịp thời đề ra
những thời gian cụ thể và biện pháp thích hợp khắc phục những khó khăn
và tồn tại ấy. Đồng thời, cũng thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và
hội đồng nhân dân các cấp có dịp kiểm nghiệm tính hợp lý và hợp pháp
của các văn bản pháp luật do chính mình ban hành. Nếu pháp hiện thấy
khiếm khuyết về hình thức hay nội dung thì các cơ quan quyền lực Nhà
nước nói trên phải đưa ra những biện pháp giải pháp khắc phục. Thông
qua đó, những cơ quan này đưa ra những yêu cầu và những biện pháp cải
tiến chế độ, quy trình lập pháp, lập quy nâng cao hiệu lực quản lý Nhà
nước, Thông qua hoạt động giám sát, Quốc hội và hội đồng nhân dân các
cấp phát hiện ra những vi phạm pháp luật xâm phạm tới trật tự và lợi ích
Nhà nước, xã hội và công dân của cán bộ Nhà nước từ đó mà kịp thời xử
lý nghiêm minh những vi phạm đó để củng cố pháp chế. Các hình thức
phương pháp giám sát được triển khai đã đem lại kết quả khá tốt, góp
phần vào việc thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu của công cuộc đổi mới, tăng
cường hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, phát huy dân chủ, bảo
vệ quyền và lợi ích của Quốc hội.
2.1 Vai trò về phương diện ban hành văn bản pháp luật
Trong quản lý hành chính Nhà nước, thì hoạt động ban hành các văn
bản pháp luật (các văn bản quy phạm pháp luật, các văn bản áp dụng quy
phạm pháp luật…) là một công việc có ý nghĩa quyết định đối với sự hiệu
quả của hoạt động quản lý hành chính Nhà nước. Chính vì ý nghĩa đó nên
hoạt động ban hành văn bản pháp luật của cơ quan hành chính Nhà nước
rất cần đến sự công khai, minh bạch, đầy đủ, kịp thời – nhu cầu bảo đảm
pháp chế được đặt ra. Bởi lẽ đó mà hoạt động giám sát của cơ quan
quyền lực Nhà nước có vai trò to lớn đối với việc bảo đảm pháp chế
trong lĩnh vực ban hành văn bản pháp luật. Vai trò đó được thể hiện ở
chỗ nó giúp ta trả lời cho những câu hỏi sau:
-Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính Nhà nước có được
ban hành đúng thẩm quyền hay không?

- Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính Nhà nước có tinh
thần và nội dung hợp pháp và thống nhất hay không?
- Các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính Nhà nước có được
ban hành đúng tên gọi và hình thức do pháp luật quy định hay không?

8


- Cuối cùng là các văn bản pháp luật trong quản lý hành chính Nhà
nước có được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục do pháp luật quy định
hay không?
Nếu kết quả kiểm tra, giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước đối
với việc ban hành văn bản pháp luật của cơ quan hành chính Nhà nước
phát hiện có những vi phạm thuộc một trong bốn nội dung trên mà gây
ảnh hưởng hoặc đe dọa gây ảnh hưởng đối với việc tổ chức thực hiện
pháp luật trong thực tiễn, trái với ý chí và nguyện vọng của nhân dân thì
sẽ bị cơ quan quyền lực Nhà nước đình chỉ, bãi bỏ hoặc hủy bỏ các văn
bản có dấu hiệu vi phạm, có biện pháp xử lý thích đáng đối với cơ quan,
người có thẩm quyền vi phạm để bảo đảm tính pháp chế trong quản lý
hành chính Nhà nước.
2.2 Vai trò về phương diện tổ chức thực hiện pháp luật
Tổ chức thực hiện pháp luật trong quản lý hành chính Nhà nước thực
chất là hoạt động tổ chức thực hiện nội dung các văn bản pháp luật do
các chủ thể quản lý hành chính Nhà nước ban hành cũng như thực hiện
các hành vi quản lý hành chính Nhà nước khác thông qua những hình
thức và phương pháp nhất định. Thông qua hàng loạt các công việc cụ
thể, hoạt động này bảo đảm cho pháp luật trở thành hiện thực trong thực
tiễn quản lý hành chính Nhà nước, làm sao cho quảm lý hành chính Nhà
nước thực sự phát huy được hiệu lực. Cũng như trong lĩnh vực ban hành
văn bản pháp luật thì vai trò hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực

Nhà nước trong lĩnh vực tổ chức thực hiện pháp luật cũng là vô cùng
quan trọng. Hoạt động kiểm tra giám sát đó sẽ giải quyết những thắc mắc
sau:
-Cả hai bên chủ thể quản lý hành chính Nhà nước và đối tượng quản
lý khi thực hiện các hoạt động của mình có triệt để tôn trọng các văn bản
pháp luật về thẩm quyền và nội dung ban hành hay không? Tình trạng
lạm quyền, không tuân thủ các nghĩa vụ do pháp luật quy định có tồn tại
hay không? Các quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức và cá nhân
trong quản lý hành chính Nhà nước có được tôn trọng và bảo đảm thực
hiện hay không?
-Hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thi hành pháp luật trong
quản lý hành chính Nhà nước, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo có
được thực hiện một cách nghiêm ngặt đúng pháp luật hay không? Việc
ngăn chặn, phát hiện vi phạm, bảo đảm pháp luật được thi hành một cách

9


nghiêm chỉnh và thống nhất có được tiến hành một cách hợp pháp, hiệu
quả hay không?
-Các cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật như cơ quan có
thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, cơ quan làm công tác xét xử…
đã xử lý nghiêm minh, kịp thời, đúng pháp luật các hành vi phạm pháp
luật trong quản lý hành chính Nhà nước hay chưa?
Thông qua hoạt động giám sát, các cơ quan quyền lực Nhà nước sẽ
thấy được cái đúng, cái sai, cái được và cái chưa được, cái tích cực và cái
hạn chế trong lĩnh vực tổ chức thực hiện pháp luật của hoạt động quản lý
hành chính Nhà nước qua đó xây dựng những biện pháp và giải pháp hữu
hiệu để giải quyết những vấn đề được phát hiện từ việc thực hiện quyền
giám sát của mình từ đi nâng cao hiệu quả, bảo đảm pháp chế trong quản

lý hành chính Nhà nước.

PHẦN C: LỜI KẾT
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của dân, do dân, vì dân thì việc làm tiên quyết và xuyên suốt quá
trình đó là phải bảo đảm pháp chế trong tổ chức và hoạt động của bộ máy
Nhà nước nói chung và trong lĩnh vực quản lý hành chính nói riêng. Việc
làm khó khăn và phức tạp đó là nhiệm vụ chung của tất cả các cấp, các
ngành và của mỗi cá nhân công dân; phải có sự phối kết hợp của nhiều
biện pháp khác nhau và một trong các biện pháp được đánh gia cao, đã
được kiểm nghiệm hiệu quả trong thực tế và theo đánh giá thì khả năng
đạt hiệu quả cao hơn là vô cùng lớn – đó là hoạt động giám sát của cơ
quan quyền lực Nhà nước. Với vai trò to lớn của biện pháp này trong việc
giám sát hoạt động ban hành văn bản pháp luật và tổ chức thực hiện pháp
luật trong quản lý hành chính Nhà nước thì nó đã được quy phạm pháp
luật hóa trở thành một biện pháp pháp lý. Mặc dù trong quản lý hành
chính Nhà nước vẫn còn rất nhiều bất cập xoay quanh sự lạm quyền,
quan liêu, ý thức pháp luật và trình độ văn hóa thấp – pháp chế ở trình độ
thấp một phần do hoạt động giám sát của cơ quan quyền lực Nhà nước
còn hình thức, chưa phát huy được hiệu quả. Tuy nhiên, đâu vẫn là biện
pháp rất có triển vọng là ngọn cờ đầu trong việc xóa bỏ tiêu cực, bảo đảm
pháp chế trong quản lý hành chính Nhà nước bởi lẽ các cơ quan quyền
lực Nhà nước là đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, là
những người con ưu tú nhất của nhân dân gửi gắm vào trong Nhà nước.
10


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật hành chính Việt Nam.
Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 2010.

2. ThS. Lê Quang Thành: Luật hành chính. Nxb, Lao động, Hà Nội,
2011
3. PGS. TS. Nguyễn Thị Hồi: Hướng dẫn ôn tập môn học lý luận Nhà
nước và pháp luật. Nxb, Tư pháp, Hà Nội, 2010
4. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình lý luận Nhà nước và pháp
luật. Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 2011
5. Trường Đại học Luật Hà Nội: Giáo trình luật Hiến pháp Việt Nam.
Nxb, Công an nhân dân, Hà Nội, 2011
6.

Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001)

7. Luật tổ chức Quốc hội năm 2001
8.

9.

11



×