Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ngày càng phổ biến hãy nêu quan điểm cá nhân về hiện tượng này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.25 KB, 12 trang )

Hoàng Thúy Hòa_362218

LỜI NÓI ĐẦU:
Tình trạng “nam nữ chung sống như vợ chồng” không đăng ký kết hôn là một
hiện tượng đã và đang tồn tại trong xã hội ta như một hiện tượng khách quan và có xu
hướng ngày càng phổ biến. Theo quy định của pháp luật, nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng. Trên thực tế,
việc “kết hôn” không đăng ký sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp như sau một thời
gian chung sống, các bên có con chung, tài sản chung thì giữa họ nảy sinh mâu thuẫn
và yêu cầu ly hôn; lại có trường hợp sau khi chung sống, một trong hai bên lại đăng ký
kết hôn với người khác. Để tìm hiểu về vấn đề này, em xin chọn đề tài: “Tình trạng
nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ngày càng phổ biến.Hãy
nêu quan điểm cá nhân về hiện tượng này” cho bài tập học kì.

NỘI DUNG:
I. Khái quát chung về tình nam nữ chung sống như vợ chồng.
1. Khái niệm
Kết hôn: là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng theo quy định của pháp
luật về điều kiện kết hôn và đăng kí kết hôn.
Điều kiện kết hôn được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
“ Nam nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
1.

Nam từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ mười tám tuổi trở lên;
2. Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không được bên nào ép buộc,
3.

lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cả trở;
Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn quy định tại Điều
10 của luật này.”
Đăng kí kết hôn: quy đinh tại điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.


1


Hoàng Thúy Hòa_362218

Nam nữ chung sống như vợ chồng có các đặc điểm:
Thứ nhất: nam nữ có điều kiện kết hôn nhưng chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn. Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đã có quy định về
các điều kiện để kết hôn. Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, hai bên
nam nữ có đủ điều kiện kết hôn nhưng xuất phát từ một vài lý do mà các bên không
tiến hành đăng ký kết hôn. Ví dụ như ở các tỉnh miền núi, do phong tục tập quán, kết
hôn chỉ cần sự chứng kiến của già làng nên việc đăng ký kết hôn khi lấy vợ, lấy chồng
vẫn chưa được người dân biết đến và quan tâm. Hoặc ở thành phố với lối sống “nhà
nào biết nhà đấy” và do sự ảnh hưởng mạnh mẽ của tư tưởng tự do cá nhân đã tạo điều
kiện cho việc nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn diễn ra phổ
biến. Đây chính là một đặc điểm cơ bản để phân biệt với trường hợp nam nữ không đủ
điều kiện kết hôn hay trường hợp kết hôn trái pháp luật. Đối với các trường hợp nam
nữ không đủ điều kiện kết hôn hoặc kết hôn trái pháp luật, các bên nam nữ đều không
đủ điều kiện kết hôn có thể là về độ tuổi, về ý chí tự nguyện hoặc vi phạm điều cấm
của xã hội không thể đăng ký kết hôn hoặc mặc dù có đăng ký kết hôn nhưng cũng
không được công nhận là vợ chồng. Còn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng, hai bên không hề vi phạm những điều kiện về kết hôn theo quy định của pháp
luật. Về nội dung giữa hôn nhân hợp pháp và nam nữ chung sống như vợ chồng không
có sự khác biệt. Chính vì vậy, hành vi chung sống như vợ chồng của hai bên hoàn toàn
không vi phạm pháp luật. Về mặt hình thức, nam nữ chung sống như vợ chồng là
trường hợp nam nữ chung sống nhưng giữa họ không có Giấy chứng nhận đăng ký kết
hôn do cơ quan có thẩm quyền đăng ký kết hôn cấp. Điều đó có nghĩa là giữa họ trong
quan hệ hôn nhân không có chứng cứ về mặt pháp lý để khẳng định họ là vợ chồng.
Theo quy định của pháp luật, nam nữ chung sống như vợ chồng không được công nhận
là vợ chồng. Đây là điểm khác biệt cơ bản giữa hôn nhân có đăng ký và trường hợp

nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.
2


Hoàng Thúy Hòa_362218

Thứ hai: trong thời gian chung sống như vợ chồng, hai người thực sự coi nhau là
vợ chồng. Đây là điểm có thể giúp ta phân biệt với trường hợp nam nữ sống chung tạm
bợ. Việc đánh giá việc hai người có coi nhau là vợ chồng thực sự là vấn đề phức tạp.
Bởi lẽ đây thuộc về ý thức chủ quan của con người, tùy thuộc vào từng hoàn cảnh và
thời điểm khác nhau.
Thứ ba: khi bắt đầu chung sống, hai người muốn chung sống lâu dài và ổn định.
Đây là đặc điểm để phân biệt với khái niệm “hôn nhân thử nghiệm”. Đối với “hôn
nhân thử nghiệm”, trước khi chung sống, các bên thỏa thuận sẽ “thử” chung sống với
nhau như vợ chồng, “thử” thực hiện các quyền và nghĩa vụ cơ bản của vợ chồng. Nếu
sau một thời gian chung sống, các bên thấy phù hợp thì sẽ lúc này sẽ tiến hành đăng ký
kết hôn, còn trường hợp không thấy phù hợp với nhau nữa thì các bên sẽ “đường ai nấy
đi”. Còn trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng, hai bên mong muốn xây
dựng một gia đình hạnh phúc nên từ khi bắt đầu chung sống, họ đã có ý định gắn bó
lâu dài với nhau.
2. Các quy định của pháp luật hiện hành về vấn đề nam nữ sống chung như vợ
chồng.
Khoản 1 Điều 11 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy định: “Việc kết
hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền (sau đây gọi là cơ quan
đăng ký kết hôn) thực hiện theo nghi thức quy định tại Điều 14 của Luật này. Mọi nghi
thức kết hôn không theo quy định tại Điều 14 của Luật này đều không có giá trị pháp
lý. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không
được pháp luật công nhận là vợ chồng. Vợ chồng đã ly hôn muốn kết hôn lại với nhau
cũng phải đăng ký kết hôn”. Tuy nhiên, cũng phải nhận thấy rằng có những trường hợp
quan hệ hôn nhân được xác lập từ trước ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có

hiệu lực pháp luật bởi vậy vấn đề tồn tại trước đó là một điểm hết sức cần thiết. Với
tinh thần này, Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội về việc thi
3


Hoàng Thúy Hòa_362218

hành Luật hôn nhân và gia đình, Nghị quyết số 77/2001/NĐ – CP ngày 22/10/2001 của
Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10
ngày 09/06/2000 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình và Thông tư
liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ tư pháp số
01/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03/01/2001 đã có hướng dẫn cụ
thể về việc giải quyết về mặt pháp luật đối với những trường hợp vi phạm việc đăng ký
kết hôn trước ngày 01/01/2001. Theo đó:
- Trong trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987 vi phạm
thủ tục đăng ký kết hôn sẽ không bị buộc phải đăng ký kết hôn thì trường hợp này
được trường hợp này được Nhà nước khuyến khích và tạo điều kiện cho việc việc đăng
ký kết hôn. Điều đó cũng có thể hiểu là chúng ta chấp nhận quan hệ “hôn nhân thực tế”
đối với những trường hợp quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987.
- Kể từ ngày 03/01/1987, các bên nam nữ chung sống như vợ chồng mà vi phạm thủ
tục đăng ký kết hôn thì buộc phải “đăng ký kết hôn” và đăng ký “trong thời hạn hai
năm kể từ ngày 01/01/2001 đến ngày 01/01/2003”. Trong thời hạn các bên có nghĩa vụ
đăng ký kết hôn, chúng ta vẫn thừa nhận quan hệ “hôn nhân thực tế” cho các trường
hợp chưa đăng ký kết hôn. Hết thời hạn quy định trên mà họ không đăng ký kết hôn thì
pháp luật không công nhận họ là vợ chồng
- Đối với những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng kể từ ngày
01/01/2001 trở đi mà không đăng ký kết hôn đều không được pháp luật công nhận là
vợ chồng.
Như vậy, từ ngày 01/01/2001 nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký
kết hôn hoặc những trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng sau ngày

01/01/1987 đến ngày Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực mà không đăng
ký kết hôn thì quan hệ hôn nhân của họ không có giá trị pháp lý. Nếu có yêu cầu giải
quyết vấn đề ly hôn tòa án sẽ áp dụng các quy định của pháp luật hiện hành và giải
4


Hoàng Thúy Hòa_362218

quyết. Cụ thể: theo quy định của khoản c mục 3 Nghị quyết 35 của Quốc hội, nếu trong
trường hợp các bên xảy ra mâu thuẫn, “có yêu cầu ly hôn thì tòa án thị lý và tuyên bố
không công nhận quan hệ vợ chồng; nếu có yêu cầu về con và tài sản thì Tòa án áp
dụng khoản 2 và khoản 3 Điều 17 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải
quyết”. Như vậy, về vấn đề tài sản và con cái thì giải quyết:
Về chia tài sản: Nếu các bên yêu cầu chia tài sản, Tòa án áp dụng khoản 3 Điều
17 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết: “Tài sản được giải quyết theo
nguyên tắc tài sản riêng của ai thì vẫn thuộc quyền sở hữu của người đó; tài sản
chung được chia theo thoả thuận của các bên; nếu không thoả thuận được thì yêu cầu
Toà án giải quyết, có tính đến công sức đóng góp của mỗi bên; ưu tiên bảo vệ quyền
lợi chính đáng của phụ nữ và con”. Về nguyên tắc, khi Tòa án không công nhận là vợ
chồng, tài sản riêng của ai thuộc về người đó. Tuy nhiên, người có tài sản riêng phải
chứng minh tài sản đó là của riêng. Nếu không chứng minh được thì tài sản đó sẽ được
coi là tài sản chung và đem chia. Đối với tài sản chung, do họ không được công nhận là
vợ chồng nên trong thời gian sống chung nếu họ tạo ra tài sản thì tài sản đó không
được coi là tài sản chung hợp nhất của vợ chồng mà tài sản chung theo phần. Vì vậy,
khi Tòa án không công nhận là họ là vợ chồng, tài sản chung được chia theo căn cứ
công sức đóng góp của mỗi bên. Đồng thời trên cơ sở bảo vệ quyền người phụ nữ, khi
chia tài sản sẽ “ưu tiên bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ và con”. Tuy nhiên, ưu
tiên và bảo vệ như thế nào thì vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể.
Đối với con chung, Tòa án sẽ áp dụng khoản 2 Điều 17 Luật hôn nhân và gia
đình năm 2000 để giải quyết. Cụ thể: “Quyền lợi của con được giải quyết như trường

hợp cha mẹ ly hôn”.
II. Tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn - một
hiện tượng nổi trội hiện nay cần được quan tâm.

5


Hoàng Thúy Hòa_362218

Hiện nay, tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn
đang diễn ra ngày càng phổ biến. Theo điều tra quy mô lớn đầu tiên về gia đình Việt
Nam thực hiện tại 64 tỉnh thành, vừa được công bố ngày 26/6, tỷ lệ các cặp vợ chồng
không đăng ký kết hôn chiếm đến 28%. Ở những cặp có đăng ký kết hôn, gần 14%
đăng ký sau khi cưới. Kết quả này cho thấy, đối với nhiều người, việc được công nhận
quan hệ vợ chồng về mặt luật pháp không quan trọng bằng được công nhận về mặt xã
hội.
Trên thực tế, hiện tượng này thường được diễn ra ở các đối tượng như sinh viên,
học sinh thuộc các trường Đại học, Trung học chuyên nghiệp và các trường dạy nghề;
cũng có thể xảy ra trong các trường một trong hai bên đã qua một lần kết hôn, sau đó
hôn nhân của họ chấm dứt do ly hôn hoặc do vợ chồng chết, khi tuổi đã cao mới “kết
bạn” để nương tựa nhau. Cũng có thể là một trong hai bên là người “quá lứa lỡ thì”
chung sống với người khác trong hoàn cảnh “rổ rá cạp lại” nên họ ngại không muốn
thực hiện thủ tục của việc kết hôn. Tại các vùng nông thôn, quan niệm về hôn nhân còn
rất hà khắc và dư luận xã hội dẫn đến việc họ e dè không dám sống như vợ chồng. Còn
ở thành phố lớn “nhà nào biết nhà đấy” nên đây là cơ hội cho hiện tượng này xảy ra
phổ biến.
Mặt khác trong điều kiện phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường và sự đề
cao chủ nghĩa tự do cá nhân trong các quan hệ xã hội thì quyền kết hôn còn được hiểu
dưới góc độ tiêu cực là quyền không kết hôn. Quyền không kết hôn đươc thể hiện dưới
hai hình thức: sống độc thân và chỉ nam nữ chung sống như vợ chồng với người có

điều kiện phù hợp kết hôn nhưng lại không đăng ký kết hôn.
Với suy nghĩ: Tờ giấy đăng ký kết hôn chỉ là một tờ giấy. Nếu một trong hai người
không thật tâm muốn vĩnh viễn chung sống, thì có hay không đăng ký kết hôn cũng
chẳng ăn nhằm gì. Họ cho rằng, nền tảng của hôn nhân là tình yêu thực sự giữa hai cá
nhân. Nếu có tình yêu bền vững, họ sẽ chung sống lâu dài và thương yêu nhau, còn
6


Hoàng Thúy Hòa_362218

hơn những cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn được công nhận là cặp vợ chồng hợp
pháp, nhưng chỉ sau một thời gian, họ lại mang nhau ra tòa ly dị vì lý do nào đó, lại
phải tốn tiền cho án phí, luật sư... Hơn nữa nếu họ cảm thấy không thể hòa hợp được
nữa thì cũng dễ dàng chia tay, không bị nhức đầu vì những thủ tục cũng như chi phí
pháp lý,… các bên đã không tiến hành việc đăng ký kết hôn.
Hiện nay có thể thấy hiện tượng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không tiến
hành các thủ tục pháp lý cần thiết nhằm xác định quan hệ vợ chồng trước pháp luật đã
trở thành một hiện tượng xã hội phổ biến trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng. Thực trạng đó đã và đang gây ra những hậu quả khác nhau trên cả khía cạnh
pháp luật và xã hội.
III. Quan điểm cá nhân về hiện tượng nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng
mà không đăng kí kết hôn.
Đây là hiện tượng mới xuất hiện trong đời sống hôn nhân gia đình những năm
gần đây, hiện nay lại có xu hướng phát triển hơn và được xã hội chấp nhận ở mức độ
nhất định, tùy từng trường hợp, ví dụ đối với những cặp nam nữ đứng tuổi đã ly hôn,
nay lại tìm được đối tượng phù hợp, họ sống với nhau 1 vài tháng, 1 vài năm. Vì vậy
đã có ý kiến đánh giá khác nhau về hiện tượng này, có 13,5% người được hỏi chấp
nhận và 86.5% không chấp nhận chung sống không kết hôn (trong 424 người trả lời
khi hỏi về lý do chấp nhận hay không chấp nhận chung sống không kết hôn). Cuộc
sống càng phát triển thì suy nghĩ của con người càng thoáng. Họ đồng ý chung sống

với nhau khi chưa làm phép cưới hay không muốn chính thức kết hôn.

1.Nguyên nhân.

7


Hoàng Thúy Hòa_362218

Sự nhận thức của cá nhân: Đôi khi do sống xa nhà, thói đua đòi, hoặc một số bạn
không thích kết hôn khi sự nghiệp chưa vững mạnh và càng không thể để “Cha mẹ đặt,
đâu con ngồi đấy”. Tư tưởng mạnh mẽ giúp họ cởi mở trong quan niệm tình dục và
không còn e dè dư luận xã hội trước kia. Họ cho rằng, nền tảng của hôn nhân là tình
yêu thực sự giữa hai cá nhân. Nếu có tình yêu bền vững, họ sẽ chung sống lâu dài và
thương yêu nhau, còn hơn những cặp vợ chồng đã làm nghi lễ kết hôn theo tôn giáo, đã
ra trước tòa tuyên thệ để được công nhận là cặp vợ chồng hợp pháp, nhưng chỉ sau một
thời gian, họ lại mang nhau ra tòa ly dị vì lý do nào đó, lại phải tốn tiền cho án phí, luật
sư... Hơn nữa nếu họ cảm thấy không thể hòa hợp được nữa thì cũng dễ dàng chia tay,
không bị nhức đầu vì những thủ tục cũng như chi phí pháp lý.
Tác động từ gia đình: Do cha mẹ sống không hạnh phúc, những cảnh xào xáo, chửi
bới và cãi vã thường ngày trong gia đình chính là yếu tố làm cho giới trẻ không muốn
nghĩ đến hôn nhân; ngược lại, coi hôn nhân là một sự ràng buộc, cùm kẹp, hoặc chỉ
như cơ hội để người ta hành hạ, lợi dung nhau. Hơn nữa, cha mẹ không quan tâm đến
đời sống và tình cảm của con cái, không động viên con cái sống lành mạnh, chỉ biết
phó mặc cho nhà trường cũng khiến con cái có nhu cầu, tư tưởng tìm sự bù đắp tình
cảm từ các mối quan hệ khác.
Do ảnh hưởng văn hóa Phương Tây tràn vào, nên tình trạng quan hệ tình dục và sống
chung trước hôn nhân ở giới trẻ đang ở mức báo động. Nhiều bạn trẻ coi dễ dãi, coi
chuyện đó là bình thường. Với lối sống “tây hóa” một số bạn trẻ quan niệm về tình yêu
“rất hiện đại” hay còn gọi là tình yêu tốc độ,.. làm cho giới trẻ không còn coi trọng

những gì gọi là thuần phong mỹ tục.

2. Những vấn đề có thể nảy sinh trong những cặp nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn.
8


Hoàng Thúy Hòa_362218

Đối với vấn đề hưởng di sản thừa kế. Việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn thì không được công nhận là vợ chồng, những người này không
được xác định là “chồng”, “vợ” thuộc hàng thừa kế thứ nhất được quy định tại điểm a
khoản 1 Điều 676 Bộ luật dân sự năm 2005. Do đó, họ không được quyền thừa kế tài
sản của nhau trừ trường hợp người chết có để lại di chúc và đồng thời họ không được
pháp luật bảo vệ tại Điều 669 Bộ luật dân sự năm 2005 như trong trường hợp vợ chồng
hợp pháp.
Hiện tượng đa thê: Khoản 2 Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 có quy
định: “Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, không bên nào được ép buộc,
lừa dối bên nào; không ai được cưỡng ép hoặc cản trở”. Điều đó cũng có nghĩa là theo
quy định của pháp luật, việc nam nữ có đủ điều kiện kết hôn mà chung sống với nhau
như vợ chồng không đăng ký kết hôn không phải là hành vi trái pháp luật. Tuy nhiên,
trong thực tế lại xảy ra trường hợp không ít người đàn ông lợi dụng để chung sống như
vợ chồng với nhiều người phụ nữ khác nhau. Đây phải chăng là hình thức biến tướng
của hiện tượng đa thê. Tình trạng này không thể coi là vi phạm hôn nhân một vợ một
chồng theo nghĩa vụ được quy định tại khoản 2 Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình năm
2000 và Điều 147 Bộ luật hình sự năm 1999. Bởi trong cả hai điều luật này, người bị
coi là vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng phải là người đang có quan hệ hôn
nhân hợp pháp với người khác lại chung sống như vợ chồng với người khác hoặc
người có quan hệ chung sống như vợ chồng với một người đang có quan hệ hôn nhân
hợp pháp với người khác. Chung sống như vợ chồng với nhiều người rõ ràng là hành vi

trái với đạo đức một cách nghiêm trọng. Theo quy định của pháp luật hiện hành phải
chăng đây chính là kẽ hở để tình trạng “đa thê” diễn ra.
Về vấn đề bạo lực gia đình. Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ
chồng mà không đăng ký kết hôn thì có được coi là gia đình hay không? Nếu có trường

9


Hoàng Thúy Hòa_362218

hợp bạo lực gia đình xảy ra thì nạn nhân có được bảo vệ theo như quy định tại Luật
phòng chống bạo lực gia đình năm 2007 hay không?
Đối với trẻ em. Trong trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà có con
chung thì các con được hưởng đầy đủ quyền như những đứa trẻ sinh ra từ hôn nhân
hợp pháp. Tuy nhiên, nếu nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn
thì khi hai người có con chung, đứa con này sẽ bị xác định là con ngoài giá thú và thủ
tục đăng ký khai sinh gặp khó khăn. Cụ thể: theo quy định tại khoản 3 Điều 15 Nghị
định 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch
thì: “Trong trường hợp khai sinh cho con ngoài giá thú, nếu không xác định được
người cha, thì phần ghi về người cha trong sổ đăng ký khai sinh và Giấy khai sinh để
trống. Nếu vào thời điểm đăng ký khai sinh có người nhận con, thì Ủy ban nhân dân
cấp xã kết hợp giải quyết việc nhận con và đăng ký khai sinh”. Như vậy, trong trường
hợp này muốn ghi tên người cha vào Giấy khai sinh thì phải làm thủ tục đăng ký nhận
cha con. Hoặc giả như khi người mẹ đang mang thai mà người cha gặp tai nạn qua đời,
thì sau khi sinh ra, việc xác định cha cho con để hưởng thừa kế và đảm bảo các quyền
lợi khác gặp nhiều khó khăn.
3.Một số giải pháp.
Tình trạng nam nữ sống chung như vợ chồng mà chưa đăng kí kết hôn, rất khó để
có thể đưa ra một giải pháp cụ thể cho vấn đề này, vì nó là một vấn đề của toàn xã hội,
vì với một số bộ phận giới trẻ thì nó lại là “mốt”,là xu hướng. Vì vậy em cũng chỉ đưa

ra một số ý kiến, giải pháp chung cho vấn đề này:
Về phía mỗi cá nhân, chúng ta nên cố gắng học hỏi, trau dồi kiến thức về tình yêu,
về hôn nhân gia đình, không nên vì chạy theo sự đua đòi, ối sống buông thả, dễ dãi mà
bỏ qua những chuẩn mực, giá trị đạo đức của người Việt Nam. Chúng ta phải biết tự
bảo vệ mình, tham gia các đoàn đội, tạo sân chơi lành mạnh, giao lưu học hỏi để có
10


Hoàng Thúy Hòa_362218

được hiểu biết cần thiết nhất về hôn nhân và tác hại của việc sống chung như vợ chồng
mà không đăng kí kết hôn.
Về phía gia đình, do con cái là do bố mẹ sinh ra nên chính họ là những nhà giáo
dục đầu tiên và trên tất cả đối với con cái. Việc cha mẹ có lối sống như thế nào cũng là
ảnh hưởng rất lớn đến lối sống, sự nhìn nhận về tình yêu, hôn nhân gia đình đối với
con cái. Các bậc phụ huynh cần phải nhận trách nhiệm tạo bầu không khí gia đình linh
hoạt trong tình yêu mọi người, sự cởi mở,..để tạo cho con cái có được môi trường phát
triển lành mạnh nhất. Đồng thời cũng cần có sự vân động quy mô với sự hợp tác chặt
chẽ của gia đình, nhà trường để có thể giáo dục, giúp đỡ con cái trong việc hiểu biết về
tình yêu, giới tính, về tình dục.
Còn về xã hội, nên có những buổi tuyên truyền, hội thảo, diễn đàn và những bài
viết liên quan đến vấn đề này, nên tổ chức và phát triển dưới nhiều khía cạnh khác
nhau để giới trẻ dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu và giao lưu để có được các kiến thức cần
thiết. Mọi người cần nghiêm khắc, quyết liệt hơn với việc đẩy lùi tình trạng nam nữ
chung sống như vợ chồng mà không đăng kí kết hôn.

KẾT LUẬN
Việc nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn ngày càng trở
nên phổ biến - một vấn đề nổi trội hiện nay cần được quan tâm và được pháp luật điều
chỉnh cụ thể hơn. Về góc độ luật pháp thì, không có bất cứ một quy định nào của nhà

nước cấm những người trong độ tuổi thành niên, chưa vợ, chưa chồng có quan hệ và
sống với nhau như vợ chồng. Tuy nhiên về góc độ đạo đức, thuần phong mỹ tục của
người Việt thì rõ ràng đây là một hồi chuông cảnh báo, khiến mỗi người, mỗi gia đình
và nhà nước phải quan tâm hơn nữa tới con em, tới thế hệ trẻ, tới việc gìn giữ, phát huy
truyền thống, bản sắc văn tốt đẹp của dân tộc mình.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
11


Hoàng Thúy Hòa_362218

1. Luật hôn nhân và gia đình năm 2000.
2. Bộ luật dân sự năm 2005.
3. Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội về việc thi hành
Luật hôn nhân và gia đình.
4. Nghị quyết số 77/2001/NĐ – CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi
tiết về đăng ký kết hôn theo Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của
Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình
5. Thông tư liên tịch của Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao,
Bộ tư pháp số 01/2001/TTLT – TANDTC – VKSNDTC – BTP ngày 03/01/2001
hướng dẫn thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 của Quốc hội về
việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình.
6. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật hôn nhân và gia đình Việt Nam,
Nxb. CAND, Hà Nội, 2009.

12




×